Lời nói đầu
Sản xuất xã hội phát triển không ngừng theo sự phát triển của xã hội loài người. Sản xuất càng phát triển thì sự phân công lao động xã hội càng cao, sự hợp tác và liên kết trong sản xuất càng mở rộng… Sự hợp tác và liên kết trong sản xuất không chỉ diễn ra giữa các đơn vị kinh tế, các ngành, các địa phương trong nước mà còn mở rộng ra cả phạm vi cả thế giới theo các phương thức hết sức khác nhau. Trong bối cảnh đó thì phát triển sản xuất sản phẩm công nghiệp cũng tạo ra ngày càng nh
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Xác định các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm trong ngành xây dựng tại Công ty lắp máy điện nước và xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều giá trị sử dụng. Đó là trung tâm của ngành công nghiệp nói chung; của các xí nghiệp, doanh nghiệp xây dựng nói riêng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội một cách có kế hoạch, tạo ra thu nhập quốc dân, góp phần tích luỹ để tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa. Với tốc độ tăng trưởng đó thì để đo, phản ánh và so sánh thì cần một hệ thống chỉ tiêu đúng đắn và đầy đủ. Đó là Hệ thống tài khoản quốc gia, trong nội dung của nó đặc biệt quan trọng là 3 chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm. Nền nước ta là nền kinh tế thị trường theo định hướng CNXH và có sự quản lý của Nhà nước. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế( doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình ) đều tham gia hoạt động xây dựng. Các loại hình doanh nghiệp này có trình độ về quản lý hạch toán và năng lực thi công xây lắp khác nhau do vậy việc xác định các chỉ tiêu kinh tế nói chung và giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm nói riêng cũng khác nhau, điều này quy định đến việc tính toán và phương pháp xác định giá trị sản xuất khác nhau.Với vai trò to lớn của các chỉ tiêu đó thì việc tính toán cho đúng và cho đủ thì cần phải có một phương pháp tính cần chính xác.
Trong thời gian thực tập tại Vụ Xây dựng, Giao thông và Bưu điện tôi thấy vấn đề về phương pháp tính các chỉ tiêu trong Hệ thống tài khoản quốc gia cần phải thống nhất trong cả nước. Hiện nay, vấn đề này đang được nghiên cứu của các cơ quan nhà nước. Nên tôi xin được mạnh dạn đi vào nghiên cứu thông qua chuyên nêu lên ý kiến cá nhân với đề tài “Xác định các chỉ tiêu giá tri sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay”. Đây là một vấn đề khoa học đang được nghiên cứu, gồm nhiều vấn đề lý luận phức tạp và với lượng kiến thức; thời gian và khuôn khổ chuyên đề có hạn, do đó trong nội dung này chỉ trình bày các vấn đề cơ bản nhất, gắn liền với chủ đề nghiên cứu. Nên còn nhiều vấn đề lý luận và phương pháp luận.
Trong nội dung chúng tôi gới thiệu gồm 3 chương:
Chương I : Những vấn đề chung về xây dựng.
Chương II : Nội dung giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm ngành Xây dựng.
Chương III: Minh hoạ việc tính toán chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm.
Chương I
Những vấn đề chung về Xây dựng
I. Khái niệm, tính đặc thù, ý nghĩa và vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm của xây dựng trong nền KTQD.
Trước hết, chúng ta cần hiểu nền kinh tế quốc dân là toàn bộ các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế có chức năng hoạt động khác nhau, tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với nhau được hình thành trong một giai đoạn lích sử nhất định.
Cần phân biệt nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế toàn quốc. Có nền kinh tế toàn quốc, kinh tế vùng và địa phương. Theo khái niệm đã được trình bày, nền KTQD cần được hiểu rằng không chỉ theo phạm vi toàn quốc mà còn có thể được hiểu theo phạm vi địa phương. Nền kinh tế là khái niệm có tính lịch sử: có nền kinh tế tự nhiên, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường.
Xây dựng là những hoạt động có chức năng tái sản xuất các tài sản cố định, nhằm duy trì và tăng thêm năng lực phục vụ mới cho nền kinh tế thông qua các hình thức xây dựng mới, thông qua xây dựng, khôi phục các tài sản cố định trong các lĩnh vực có tính chất sản xuất và phi sản xuất cho các ngành thuộc nền KTQD.
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp lại thường xuyên và phụ hồi không ngừng.
Xét về quy mô của tái sản xuất thì người ta chia thành hai loại: Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản sản xuất giãn đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô cũ. Tức duy trì tiềm lực sẵn có của nền kinh tế thông qua các hình thức khôi phục và sữa chữa các TSCĐ.
Tái sản xuất mở rộng là một quá trình sản xuất mà quy mô sản xuất năm sau lớn hơn năm trước. Tức là tăng thêm tiềm lực mới cho doanh nghiệp, ngành và toàn bộ nền kinh tế thông qua các hình thức xây dựng, mở rộng, hiện đại hoá các TSCĐ.
Xây dựng mới là xây dựng một công trình, hạng mục công trình hoàn toàn mới.
Mở rộng là xây dựng thêm một hoặc nhiều bộ phận gắn liền với hệ thống sản xuất hoặc phục vụ của các cơ sở đang sẵn có và hoạt động.
Khôi phục là tiến hành xây dựng lại những công trình, hạng mục công trình đang ngừng hoạt động vì lý do nào đó( chiến tranh, thiên tai…) nhằm khôi phục lại năng lực phục vụ ban đầu của công trinh hoặc hạng mục công trình đó.
Hiện đại hoá (sử dụng cho máy móc thiết bị) là việc đổi mới thiết bị công nghệ thay thế từng phần hoặc toàn bộ máy móc thiết bị trong dây truyền sản xuất đang hoạt động nhằm tăng thêm và nâng cao chất lượng năng lực sản xuất của các thiết bị đó.
Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ xây lắp gắn liền với đất( bao gồm cả mặt nước, mặt biển và thềm lục địa) được tao thành bằng vật liệu xây dựng, thiết bị và lao động.
Hạng mục công trình là một bộ phận của công trình, là một hoặc một số đối tượng xây dựng nằm trong thiết kế và dự toán tổng hợp của công trình(bao gồm cả thiết bị và hệ thống truyền dẫn… ) nhằm đảm bảo việc huy động năng lực độc lập đã được xác định trong thiết kế hoặc phục vụ việc huy động năng lực tổng hợp chung của công trình.
Công trình xây dựng bao gồm một hoặc nhiều hạng mục công trình, nằm trong dây truyền công nghệ đồng bộ, hoàn chỉnh( có tính đến hợp tác sản xuất) để làm ra sản phẩm cuối cùng nêu trong dự án.
2. Tính đặc thù của hoạt động xây dựng.
2.1 Xuất phát từ tính chất của sản phẩm xây dựng.
Nếu xuất phát từ tính chất và đặc điểm của sản phẩm xây dựng thì ta có thể rút ra một số đặc điểm chủ yếu của sản xuất xây dựng như sau:
Sản xuất xây dựng thiếu tính ổn định, có tính lưu động cao theo lãnh thổ. Vì trong xây dựng, khác với nhiều ngành khác, con người và công cụ lao động luôn phải di chuyển từ công trường này đến công trường khác, còn các sản phẩm xây dựng( tức là các công trình xây dựng) thì hình thành và đứng yên tại chỗ. Đặc điểm này kéo theo một loạt các tác động ví dụ như:
- Các phương án công nghệ và tổ chức xây dựng luôn luôn biến đổi phù hợp với thời gian và địa điểm xây dựng, do đó làm khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, cho việc cải thiện điều kiện lao động và làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất cũng như cho các công trình tạm phục vụ thi công xây dựng.
Tính lưu động của sản xuất đòi hỏi phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ của phương án tổ chức xây dựng, tăng cường điều hành tác nghiệp, lựa chọn vùng hoạt động hợp lý, lợi dụng tối đa các lực lượng và tiềm năng sản xuất tại chỗ, chú ý đến nhân tố độ xa di chuyễn lực lượng sản xuất đến công trường khi lập phương án tranh thâù...
Đòi hỏi cần phải phát triển rộng khắp và điều hoà trên lãnh thổ và các loại hình dịch vụ sản xuất về cung cấp vật tư và thiết bị cho xây dựng, về cho thuê máy móc xây dựng v.v...
b) Vì sản xuất xây dựng có tính đa dạng cao, có chi phí lớn, nên sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu cho từng công trình một. Đặc điểm này gây nên một số tác động đến quá trình sản xuất xây dựng như :
Trong xây dựng nói chung hình thức sản xuất sẵn hàng loạt sản phẩm để bán không được phát triển, trừ một số trường hợp có thể xây dựng sẵn các căn nhà để bán hoặc cho thuê.
Sản xuất xây dựng của các tổ chức xây dựng có tính bị động hoặc rủi ro cao vì nó phụ thuộc vào kết quả đấu thầu.
Việc thống nhất hoá, điển hình hoá các mẫu mã sản phẩm và các công nghệ chế tạo sản phẩm xây dựng gặp nhiều khó khăn, vì cùng một loại công trình xây dựng, nhưng nếu được xây dựng ở các địa điểm khác nhau và các thời điểm khác nhau, chúng sẽ có cách cấu tạo và công nghệ chế tạo khác nhau.
Việc xác định, thống nhất giá cả cho một đơn vị sản phẩm toàn vẹn cuối cùng( tức là các công trình nhà cửa) không thể thực hiện được. Gía cả sản phẩm( công trình xây dựng) phải được xác định trước khi sản phẩm ra đời ngay khi đấu thầu xây dựng.
c) Chu kỳ sản xuất( thời gian xây dựng công trình) thường là dài. Đặc điểm này gây nên tác động như sau:
Làm cho vốn đầu tư xây dựng của chủ đầu tư và vốn sản xuất của tổ chức xây dựng thường bị ứ đọng lâu dài tại các công trình xây dựng.
Các tổ chức xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian và thời tiết, chịu ảnh hưởng của sự biến động của giá cả.
Công trình xây dựng xong dễ bị hao mòn vô hình ngay, do tiến bộ nhanh của khoa học và công nghệ, nếu thời gian thiết kế và xây dựng công trình kéo dài.
Đòi hỏi phải có các chế độ tạm ứng vốn, thanh toán trung gian và kiểm tra chất lượng trung gian hợp lý, tổ chức dự trữ hợp lý.
Đòi hỏi phải tính đến hiệu quả của rút ngắn thời gian xây dựng và chú ý đến nhân tố thời gian khi so sánh lựa chọn phương án.
d) Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp đòi hỏi có nhiều lực lượng hợp tác tham gia thực hiện. Khác với nhiều ngành khác, trong xây dựng , các đơn vị tham gia xây dựng công trình phải cùng nhau đến công trường xây dựng với một diện tích làm việc thường là bị hạn chế để thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian. Đặc điểm này đòi hỏi:
Phải coi trọng công việc thiết kế tổ chức xây dựng , đặc biệt là phải bảo đảm sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia xây dựng ăn khớp với nhau theo trình tự thời gian và không gian.
Phải coi trọng công tác điều độ thi công, có tinh thần và trình độ tổ chức phối hợp cao giữa các đơn vị tham gia xây dựng công trình .
e) Sản phẩm xây dựng phải tiến hành ngoài trời và chịu ảnh hưởng của thời tiết. Đặc điểm này đòi hỏi:
Khi lập kế hoạch xây dựng phải đặc biệt chú ý đến yếu tố thời tiết và mùa màng trong năm, có các biện pháp tranh thủ mùa khô và tránh mùa gió bão.
Phải có các biện pháp để khắc phục ảnh hưởng của thời tiết tối đa, giảm bớt thời gian ngừng việc do thời tiết, cố gắng bảo đảm sử dụng năng lực sản xuất điều hoà theo bốn quí, áp dụng các loại kết cấu lắp ghép được chế tạo sẵn một cách hợp lý để giảm bớt thời gian thi công ở hiên trường, nâng cao trình độ cơ giới hoá xây dựng ...
Phải chú ý cải thiện điều kiện lao động cho người làm công việc xây dựng .
Phải bảo đảm độ bền chắc và độ tin cậy của các thiết bị, máy móc xây dựng .
Phải chú ý đến nhân tố rủi ro do thời tiết gây ra.
Phải quan tâm phát triển phương pháp xây dựng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới.
g) Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do địa điểm của xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình xây dựng đem nhưng nếu được tiến hành xây dựng ở những nơi có sẵn nguồn vật liệu xây dựng , nhân công và các cơ sở cho thuê máy xây dựng , thì nhà thầu xây dựng trong trường hợp này có nhiều cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn so với các địa điểm xây dựng khác.
h) Công nghệ xây lắp chủ yếu là quá trình áp dụng các quá trình cơ học để giải quyết các vấn đề vận chuyển ngang và vận chuyển lên cao, hoặc để xâm nhập lòng đất. Việc áp dụng tự động hoá quá trình xây lắp phát triển chậm, tỉ lệ lao động thủ công chiếm cao.
2.2. Xuất phát từ các điều kiện tự nhiên và kinh tế của Việt Nam.
Về điều kiện tự nhiên: Sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, điều kiện địa chất công trình và địa chất thuỷ văn phức tạp, đất nước dài, hẹp và còn nhiều nơi chưa được khai phá, có một số nguồn vật liệu xây dựng phong phú. Do đó, các giải pháp xây dựng ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của các nhân tố này.
Về điều kiện kinh tế: Sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong điều kiện của một nền kinh tế đang phát triển và còn nhiều mặt yếu kém so vơí các nước trên thế giới. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế hiện nay ngành Xây dựng của Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có nhiều nguy cơ và thách thức.
Đường lối chung phất triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN đang quyết định phương hướng và tốc độ phát triển của ngành Xây dựng Việt Nam.
3. Từ khái niệm của Xây dựng đã nêu trên chúng ta rút ra ý nghĩa của ngành Xây dựng trong nền KTQD:
Xây dựng đóng vai trò quan trọng quyết định đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế đến quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá do Đảng và Nhà nước đề ra.
Tạo cơ sở vật chất cho nền kinh tế.
Tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
4. Vai trò xây dựng trong nền KTQD:
Với chức năng của tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng Xây dựng đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế và quyết định đến quá trình CNH, HĐH do Đảng đề ra. Xây dựng là một dạng đặc thù của sản xuất công nghiệp vì vậy nó có vai rất quan trọng không chỉ trong ngành xây dựng mà cả ngành công nghiệp và các ngành khác. Vai trò đó thể hiện:
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, sản xuất xây dựng có những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và điều kiện sản xuất hoàn thiện. Nhờ đó lực lượng sản xuất trong sản xuất xây dựng phát triển nhanh.
Sản xuất xây dựng là hoạt động cơ bản và trực tiếp tạo ra sản phẩm(công trình xây dựng ) nhằm thoả mãn nhiều nhu cầu khác nhau của nền kinh tế quốc dân.
Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp đặc biệt là đặc điểm về công nghệ sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp xây dựng do đó sản xuất xây dựng tạo ra sản phẩm vật chất cho các ngành khác và cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sản xuất xây dựng có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế - xã hội như: tạo việc làm cho lực lượng lao động ở ngay chính công trình địa phương đó.
Sản xuất xây dựng là một ngành kinh tế tổng hợp, nó tạo nên cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước gồm các cơ sở sản xuất, cơ sở hạ tầng, cơ sở phục vụ đời sống trong phạm vi toàn quốc, tạo tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển mọi ngành kinh tế - xã hội.
Sản phẩm do sản xuất xây dựng tạo ra có chức năng rất quan trọng, mang tính tổng hợp là: bảo vệ môi trường, tổ chức khung cảnh sống, tồn tại cảnh quan.
II. Thị trường và cơ chế thị trường.
1. Thị trường và các chức năng của thị trường .
a. Khái niệm:
Sản xuất hàng hoá gắn liền với thị trường. Thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá hay dịch vụ và sản lượng.
Nói thị trường trước hết là nói đến địa điểm, rộng hơn nữa là không gian mua bán, trao đổi; là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế; là nói đến việc trao đổi mua bán các yếu tố gắn liền với đầu vào và đầu ra của sản xuất hàng hoá.
Sự hình thành và phát triển của thị trường gắn liền với sự hình thành, phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Thị trường có vai trò to lớn thúc đẩy phát triển, mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá. Một nền kinh tế hàng hoá chỉ có thể phát triển mạnh mẽ khi có đủ các dạng thị trường như: thị trường hàng tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất , thị trường sức lao động và dịch vụ, thị trường tiền tệ, thị trường “chất xám”, thị trường chứng khoán...
b. Thị trường có những chức năng sau:
Thừa nhận công dụng xã hội của sản phẩm và lao động chi phí để sản xuất ra nó; xác định mức độ giá trị của hàng hoá được thực hiện. Sản xuất hàng hoá là công việc riêng của từng người có tính chất độc lập tương đối với người sản xuất khác. Nhưng hàng hoá của họ có đáp ứng nhu cầu xã hội về chất lượng, hình thức, quy cách so với thị hiếu người tiêu dùng không?. Chỉ có trên thị trường và thông qua thị trường các vấn đề trên mới được khẳng định.
Khi sản phẩm được( bán được) nghĩa là công dụng của nó được xã hội thừa nhận. Điều đó cũng có nghĩa là chi phí để sản xuất ra hàng hoá cũng được thừa nhận và giá trị của hàng hoá được thực hiện. Ngược lại, nếu hàng hoá không bán được nghĩa là do công dụng của hàng hoá không được thừa nhận( chất lượng kém, quy cách mẫu mã không thích hợp, mốt lạc hậu, cung lớn hơn cầu,...) hoặc chi phí sản xuất ra lớn hơn mức trung bình của xã hội( giá quá đắt) không được xã hội thừa nhận.
Trên thị trường, người sản xuất biết được các đối thủ cạnh tranh của họ và để giành ưu thế trong cạnh tranh, họ phải cải tiến chất lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng cường chữ “tín” với khách hàng.
Là đòn bẩy kích thích, hạn chế sản xuất và tiêu dùng. Trên thị trường mọi hàng hoá đều bán và mua theo giá cả thị trường .
Cạnh tranh và cung cầu làm cho giá cả thị trường biến đổi. Thông qua sự biến đổi đó, thị trường có tác dụng kích thích và hạn chế tiêu dùng đối với người tiêu dùng.
Cung cấp thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng. Thị trường chỉ rõ những biến động về nhu cầu xã hội, số lượng, giá cả, cơ cấu và xu hướng thay đổi của nhu cầu các loại hàng hoá - dịch vụ. Đó là những thông tin cực kỳ quan trọng đối với người sản xuất hàng hoá, giúp họ điều chỉnh sản xuất cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu, sản xuất hàng hoá theo “mốt” mà nhu cầu đòi hỏi...
2. Cơ chê thị trường .
Đó là cơ chế hoạt động của nền kinh tế hàng hoá, cơ chế tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá theo những yêu cầu khách quan của các quy luật của kinh tế vốn có của nó như : quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật lưu thông tiền tệ. Có thể nói cơ chế thị trường là tổng thể hữu cơ của những mối quan hệ kinh tế biểu hiện ở các yếu tố cung, cầu và giá cả; chịu sự chi phối của “bàn tay vô hình” hay của các quy luật kinh tế vốn có của nền kinh tế thị trường ; đảm bảo nền kinh tế thị trường có thể tự vận động, tự điều chỉnh được. Như vậy, trong đó người sản xuất và người tiêu dùng tác động lẫn nhau thông qua thị trường để xác định ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?.
3. Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường trong xây dựng.
3.1 Một số đặc điểm về quan hệ cung - cầu trong xây dựng .
Trong xây dựng , nếu chỉ thu hẹp trong phạm vi sản xuất xây lắp thì các doanh nghiệp xây dựng đóng vai trò bên cung, các chủ đầu tư đóng vai trò bên cầu.
Nếu mở rộng ra lĩnh vực đầu tư xây dựng thì quan hệ cung, cầu có thể thay đổi. Ví dụ: trong quan hệ cung cấp vật tư cho xây dựng thì các doanh nghiệp xây dựng lại trở thành bên cầu và các doanh nghiệp cung cấp vật tư cho xây dựng sẽ là bên cung.
Cung trong xây dựng xảy ra tương đối gián đoạn hơn so với các ngành khác, vì nhu cầu đầu tư xây dựng nhà cửa công trình không thể xảy ra thường xuyên nếu nhìn nhận theo từng chủ đầu tư riêng rẽ. Đặc điểm này làm cho các doanh nghiệp xây dựng khó kiếm được việc làm thường xuyên.
Cung cấp trong xây dựng phụ thuộc vào chu kỳ suy thoái và hưng thịnh của nền kinh tế . ở thời hưng thịnh đầu tư xây dựng được phát triển mạnh, còn thời kỳ suy thoái thì đầu tư xây dựng bị đình đốn.
3.2 Một số đặc điểm về hình thức thị trường trong xây dựng :
Theo hình thức gặp nhau giữa bên cung và bên cầu để giải quyết vấn đề mua sắm sản phẩm, trong xây dựng công việc này xảy ra chủ yếu thông qua đàm phán và đấu thầu xây dựng.
Theo địa điểm có thể phân ra thị trường xây dựng theo các địa phương và vùng lãnh thổ; thị trường xây dựng ở miền đồng bằng, trung du và miền núi; thị trường xây dựng đô thị và nông thôn ; thị trường xây dựng trong nước và ngoài nước; thị trường xuất khẩu xây dựng tại chỗ (tức là trường hợp xây dựng các công trình ở trong nước cho các chủ đầu tư nước ngoài).
Theo chuyên ngành xây dựng: có thể phân ra thị trường xây dựng công nghiệp, thị trường xây dựng nông nghiệp, thị trường xây dựng cho các loại dịch vụ, thị trường xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và văn hoá-xã hội.v.v…
Theo thành phần kinh tế: Có thể phân ra thị trường xây dựng của kinh tế nhà nước, thị trường xây dựng của kinh tế tư nhân, thị trường xây dựng đa sở hữu.
Theo nguồn vốn và chủ đầu tư: Có thể phân ra các thị trường xây dựng theo các nguồn vốn được phân loại ở “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” hiện hành, nhưng nói chung có thể phân ra các nhóm lớn sau:
-Thị trường xây dựng do nguồn vốn của Nhà nước.
- Thị trường xây dựng của các doanh nghiệp (bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đa sở hữu ).
- Thị trường xây dựng do nguồn vốn của dân do mục đích xây dựng nhà ở và các mục đích sinh hoạt tư nhân khác.
Theo số lượng bên cung và bên cầu tham gia vào thị trường xây dựng ta có 9 loại hình thị trường xây dựng sau đây:
Số lượng bên
Số cung lượng bên cầu
Một
Một ít
Nhiều
Một
Độc quyền song phương(1)
Độc quyền cầu không hoàn hảo(2)
Độc quyền cầu hoàn hảo(3)
Một ít
Độc quyền cung không hoàn hảo(4)
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo(5)
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền nghiêng về cầu(6)
Nhiều
Độc quyền cung hoàn hảo(7)
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền nghiêng về cung(8)
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo(9)
Hình 1.
- Với ô số (1) có thể lấy ví dụ; khi bên cung có một doanh nghiệp xây dựng, mà doanh nghiệp này có một công nghệ xây dựng độc đáo có tính chất độc quyền và bên cầu chỉ có một chủ đầu tư đang cần chính công nghệ đó để xây dựng công trình của mình.
- Với ô số (2) có thể lấy ví dụ; Khi bên cầu chỉ có một chủ đầu tư đang cần xây dựng một công trình đặc biệt, và do tính chất đặc biệt này nên bên cung chỉ có một số doanh nghiệp xây dựng có khả năng tham gia tranh thầu xây dựng.
- Với ô số (3) có thể ví dụ; khi bên cầu (chủ đầu tư) chỉ có một doanh nghiệp muốn đầu tư xây dựng công trình (vì nền kinh tế đang ở thời kỳ suy thoái), nhưng lại có nhiều tổ chức xây dựng(bên cung) đang muốn có việc làm.
- Với ô số (4) có thể ví dụ; Khi có một ít chủ đầu tư muốn xây dựng công trình (bên cầu), nhưng chỉ có một doanh nghiệp xây dựng (bên cung) có khả năng công nghệ để nhận thầu xây dựng các công trình ấy.
- Với ô số (5) có thể ví dụ ; khi chỉ có một ít chủ đầu tư (bên cầu) có công trình cần xây dựng và một ít tổ chức xây dựng(bên cung) có thể tham gia tranh thầu xây dựng các công trình ấy. Tình hình này có thể phù hợp với giai đoạn đầu tư và xây dựng chưa phát triển mạnh.
- Với ô số (6) có thể ví dụ; khi chỉ có một ít chủ đầu tư(bên cầu) có công trình cần xây dựng trong khi đó lại có nhiều tổ chức xây dựng(bên cung) đang muốn có việc làm.
- Với ô số (7)có thể ví dụ; khi có nhiều chủ đầu tư (bên cầu) có công trình cần xây dựng nhưng chỉ có một doanh nghiệp xây dưng có khả năng công nghệ độc quyền có thể xây dựng các công trình ấy.
- Với ô số (8) có thể ví dụ; khi có nhiều chủ đầu tư (bên cầu) có công trình cần xây dựng, tức là khi nền kinh tế đang phát triển mạnh, nhưng chỉ mới có một ít tổ chức xây dựng (tức là công nghiệp xây dựng chưa phát triển kịp) tham gia tranh thầu.
- Với ô số (9) có thể ví dụ; khi nền kinh tế phát triển mạnh nên có rất nhiều chủ đầu tư có công trình cần xây dựng và cũng có rất nhiều tổ chức xây dựng tham gia tranh thầu xây dựng.
3.3. Một số đặc điểm về hình thức cạnh tranh trong kinh doanh.
Hình thức cạnh tranh giữa các chủ thầu xây dựng (bên cung) diễn ra chủ yếu dưới hình thức đấu thầu. Đấu thầu lại có nhiều hình thức riêng, trong đó có hai hình thức chủ yếu:
- Đấu thầu rông rãi không hạn chế
- Đấu thầu hạn chế.
3.4. Một số đặc điểm về quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm xây dựng có mấy đặc điểm sau:
a. Xảy ra trước khi sản phẩm(công trình, nhà cửa) ra đời, tức là được bắt đầu khi chủ đầu tư công bố đấu thầu xây dựng.
b. Quá trình tiêu thụ xảy ra kéo dài kể từ khi chủ đầu tư công bố đấu thầu, trải qua các quá trình thanh toán trung gian, đến khi thanh toán công trình cuối cùng.
c. Sản phẩm xây dựng (là các công trình, nhà cửa) nói chung không có khâu lưu kho chờ bán.
d. Sản phẩm xây dựng(các công trình, nhà cửa) nói chung là không thể chế tạo sẵn hàng loạt để bán, trừ trường hợp chủ thầu xây dựng là các nhà kinh doanh bất động sản và họ có thể xây dựng sẵn một số căn hộ để bán hay cho thuê.
e. Quá trình mua bán nói chung xảy ra trực tiếp giữa người mua và người bán thông qua đấu thầu không qua đại lý mua bán hàng trừ trường hợp có sự tham gia của các nhân viên môi giới.
g. Số người tham gia mua bán lớn, bao gồm chủ đầu tư có sự tham gia của các tổ chức tư vấn một bên và chủ thầu xây dựng có sự tham gia của cả một tập thể chuẩn bị tham gia tranh thầu một bên.
h. Người mua( chủ đầu tư) phải tạm ứng tiền cho người bán( chủ thầu xây dựng) trong quá trình xây dựng( trừ trường hợp chủ thầu xây dựng muốn được thắng thầu đã tự nguyện tạm ứng vốn trước).
i. Người mua( chủ đầu tư) đóng vai trò quyết định trong việc lựa chọn người bán( tổ chức xây dựng) và trong việc định giá bán.
3.5 Một số đặc điểm về giá cả.
Giá cả của sản phẩm xây dựng có một số đặc điểm sau:
Giá cả sản phẩm xây dựng có tính cá biệt cao vì nó phụ thuộc vào điều kiện địa phương có công trình xây dựng, vào phương án tổ chức xây dựng của từng công trình, vào thời điểm và thời gian xây dựng cũng như vào ý muốn của người có công trình xây dựng.
Người ta không thể định giá sẵn cho một sản phẩm cuối cùng(nhà cửa), mà chỉ có thể định sẵn phương pháp tính toán giá, cũng như định sẵn một số định mức và đơn giá để tính nên giá của toàn công trình.
Quá trình hình thành giá công trình xây dựng kéo dài kể từ thời điểm đấu thầu cho đến khi kết thúc xây dựng công trình và thanh quyết toán, vì trong quá trình xây dựng rất có thể phát sinh các chi phí mới ngoài dự kiến của chủ đầu tư.
Trong xây dựng có nhiều loại giá như : giá xét thầu, giá tranh thầu, giá hợp đồng, giá thanh quyết toán công trình, giá cứng, giá mềm, giá trần, giá sàn, giá bắt buộc, giá thoả thuận…
Giá xây dựng công trình hình thành chủ yếu thông qua đấu thầu và đàm phán.
Bên mua( chủ đầu tư) giữ vai trò quyết định đối với mức giá công trình thông qua đấu thầu hay chỉ định thầu.
Phụ thuộc vào giai đoạn đầu tư và ý định quản lý giá xây dựng có nhiều tên gọi khác nhau và có cách tính khác nhau : tổng mức đầu tư, tổng dự toán công trình, giá trị dự toán xây lắp chi tiết các hạng mục công trình và các loại công việc xây lắp, giá hợp đồng, giá thanh quyết toán…
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành giá cả các công trình xây dựng do vốn ngân sách của Nhà nước cấp hoặc do vốn của các doanh nghiệp nhà nước bỏ ra thông qua các định mức, đơn giá, phương pháp tính toán chi phí xây dựng và các định hướng về giải pháp xây dựng cũng như các luật có liên quan đến xây dựng.
3.6. Một số đặc điểm về marketing trong xây dựng.
Marketing trong xây dựng có nhiều đặc điểm khác biệt so với các ngành khác như :
Chính sách sản phẩm trong xây dựng có các đặc điểm khác biệt như: kiểu cách công trình xây dựng không phải do chủ thầu xây dựng thiết kế mà do chủ đầu tư thuê công ty tư vấn thiết kế thực hiện, trừ trường hợp áp dụng hình thức tổng thầu “chìa khoá trao tay”. Do đó, nói chung sản phẩm đích thực của chủ thầu xây dựng chỉ là giải pháp công nghệ và tổ chức xây dựng được đem chào hàng và tham gia tranh thầu.
Chính sách giá cả trong xây dựng chịu ảnh hưởng của các đặc điểm của giá cả trong xây dựng.
Chính sách giao tiếp và quảng cáo trong xây dựng diễn ra chủ yếu trong giai đoạn tranh thầu, quảng cáo trực tiếp và cá biệt là chủ yếu.
Chính sách tiêu thụ trong xây dựng chịu ảnh hưởng của quá trình tiêu thụ sản phẩm xây dựng. ở đây, các kênh tiêu thụ chính là các chủ đầu tư có công trình cần xây dựng, không có tổ chức đại lý bán hàng, các kênh tiêu thụ thực sự hoạt động khi quá trình đấu thầu xây dựng bắt đầu .
3.7 Một số đặc điểm về vai trò của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thuộc lĩnh vực xây dựng được đề cao hơn so với các ngành sản xuất khác vì:
Xây dựng có liên quan chặt chẽ đến việc sử dụng đất đai, một loại tài sản chung của đất nước. Ngay ở các nước, mà ở đó đất đai là tài sản riêng thì vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực này cũng rất quan trọng.
Xây dựng có liên quan đến môi trường tự nhiên, do đó Nhà nước cần có sự quản lý xây dựng chặt chẽ để bảo vệ môi trường.
Khối lượng xây dựng do ngân sách nhà nước cấp tương đối lớn, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng văn hoá - xã hội. Do đó, Nhà nước cần có sự quản lý chặt chẽ trong lĩnh vực định mức, định giá hay nói chung trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
3.8 Một số đặc điểm của sản xuất xây dựng theo một số tác giả của các nước tư bản.
Theo knehtel, tác giả quyển “Kinh tế xây dựng ở các nước cộng đồng Châu Âu” xuất bản năm 1992, kinh tế xây dựng có những đặc điểm sau:
Tỷ trọng số doanh nghiệp xây dựng nhỏ chiếm phần lớn.
Chi phí cho nhân công chiếm tỉ trọng cao.
Mức thu nhập của những người có liên quan đến xây dựng lớn.
Giá cả trong xây dựng tăng nhanh hơn so với các ngành khác.
Mức trang bị vốn ít hơn.
Vai trò của Nhà nước lớn hơn.
Theo Donald S.Barric và Boyd C. Paulson, JR ( giáo sư trường đại học Stanford, tác giả cuốn sách “Quản lý công nghiệp xây dựng” được dịch và xuất bản ở Việt Nam năm 1996) thì kinh tế xây dựng có các đặc điểm sau:
Công nghiệp xây dựng ở Hoa kỳ có giá trị sản phẩm chiếm 10% so với tổng giá trị sản phẩm của Hoa Kỳ, nhưng phần lớn chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp này cạnh tranh lẫn nhau rất gay gắt theo những truyền thống của thị trường tự do nhưng các tiến bộ về kỹ thuật không có gì nổi bật.
Ngành xây dựng mang nhiều đặc tính chung của công nghiệp sản xuất và công nghiệp dịch vụ. Với tư cách là một ngành công nghiệp sản xuất, ngành xây dựng sản xuất ra các sản phẩm vật chất thường gây ra ấn tượng về kích thước, giá cả và tính đa dạng, phức tạp. Nhưng, mặt khác ngành Xây dựng lại mang dáng vẻ của một ngành công nghiệp dịch vụ, bởi lẽ nó không tích luỹ một lượng vốn lớn so với các ngành khác như ngành Thép, Giao thông vận tải, Khai thác mỏ…
Xây dựng theo nghĩa rộng bao gồm nhiều lực lượng tham gia như chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng, các tổ chức tư vấn và thiết kế, các doanh nghiệp sản xuất vật liệu và thiết bị, các cơ quan nhà nước có liên quan. Do đó, là một ngành bị cắt rời cao độ và đôi khi chia rẽ, không có một trung tâm hội tụ và các bộ phận trên rất khó phối hợp tốt với nhau.
Công nghiệp xây dựng có định hướng rõ rệt và phục vụ theo đơn đặt hàng, do đó nó đáp ứng một cách châm chạp các lợi ích của sản xuất l._.ớn. Cơ cấu của ngành này đã được chuyên môn hoá và phân tầng một cách cao độ với các quyền lợi và truyền thống đan xen nhau phức tạp. Các đặc điểm của ngành xây dựng làm cho nó đạt hiệu quả cao trong các vấn đề thực tế hoặc dự án, nhưng lại kém hiệu quả trong những vấn đề chung.
Nghiên cứu khoa học ở ngành Xây dựng người ta bỏ vốn cho nghiên cứu ít hơn các ngành khác( khoảng 1% thu nhập trong khi đó ở các ngành khác có thể lên tới 10% thu nhập). ở đây người ta chỉ chú ý nghiên cứu ứng dụng và bỏ qua nghiên cứu cơ bản. Một trong những lý do cơ bản của việc ít chú ý đến nghiên cứu khoa học là vì các sáng kiến cải tiến công nghệ xây dựng khó giữ được bí mật.
Ngành công nghiệp xây dựng với một số khối lượng lớn các doanh nghiệp với quy mô nhỏ là chủ yếu đã không thể chi phối chủ động nhu cầu tiêu thụ sản phẩm đầu ra của mình, vì nó phụ thuộc vào nhu cầu xây dựng của các chủ đầu tư, mà các nhu cầu này lại chịu ảnh hưởng nhiều của tính giai đoạn và thời vụ.
Ngành Xây dựng thường được đặt vào hàng đầu trong chính sách về tài chính và xã hội của Nhà nước.
III. Vấn đề định giá trong xây dựng.
1. Cơ sở lý luận của việc hình thành giá thị trường.
Giá thị trường là hiện tượng kinh tế xuất hiện trong quá trình trao đổi do sự thoả thuận trực tiếp của người mua và người bán trên cơ sở nhận thức những điều kiện cụ thể của thị trrường, hay nói một cách tổng quát, do các lực lượng về cầu và cung quyết định. Giá thị trường nhằm thoả mãn lợi ích kinh tế của cả bên mua lẫn bên bán, là “bàn tay vô hình” điều tiết nền sản xuất xã hội. Giá thị trường có đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, sự hình thành và vận động của giá thị trường chịu sự chi phối mạnh mẽ của các quy luật kinh tế của thị trường(quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh). Các quy luật này tác động tới người mua và người bán như những lực lượng vô hình.
Hai là, mặt bằng giá cả không chỉ phản ánh các quan hệ kinh tế trên thị trường trong nước, mà nó còn phản ánh quan hệ giá cả trên thị trường thế giới.
2. Một số đặc điểm của định giá trong xây dựng.
Việc định giá trong xây dựng có một số đặc điểm sau đây :
Giá cả của sản phẩm xây dựng có tính cá biệt cao vì các công trình xây dựng phụ thuộc nhiều vào điều kiện của địa điểm xây dựng, vào chủng loại của công trình xây dựng và vào yêu cầu sử dụng khác nhau của các chủ đầu tư. Do đó, giá xây dựng không thể định trước hàng loạt cho các công trình xây dựng toàn vẹn mà phải xác định cụ thể cho từng trường hợp theo đơn đặt hàng cụ thể.
Trong xây dựng, không thể định giá trước cho một công trình toàn vẹn nhưng có định giá trước cho từng loại công việc xây dựng, từng bộ phận hợp thành công trình thông qua đơn giá xây dựng.
Trên cơ sở các đơn giá này người ta sẽ lập giá cho toàn thể công trình xây dưng mỗi khi cần đến. Trong xây dựng giá trị dự toán công tác xây lắp đóng vai trò giá cả của sản phẩm của ngành công nghiệp xây dựng.
Quá trình hình thành giá xây dựng công trình thường kéo dài kể từ khi đấu thầu đến khi kết thúc xây dựng và bàn giao trải qua các điều chỉnh và đàm phán trung gian giữa bên giao thầu và bên nhận thầu xây dựng. Giá xây dựng một công trình nào đó như vậy đã được hình thành trước khi sản phẩm thực tế ra đời.
Sự hình thành giá cả xây dựng chủ yếu đã được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu hay đàm phán khi chọn thầu hoặc chỉ định thầu giữa chủ đầu tư và chủ thầu xây dựng. ở đây chủ đầu tư( tức là người mua sản phẩm) đóng vai trò quyết định trong việc định giá xây dựng công trình.
Phụ thuộc vào giai đoạn đầu tư, giá xây dựng công trình được biểu diễn bằng các tên gọi khác nhau, được tính toán theo các quy định khác nhau và được sử dụng với các mục đích khác nhau. Các chỉ tiêu giá xây dựng công trình càng được xác định chính xác hơn theo các giai đoạn đầu tư, và chi phí ở giai đoạn sau phải phấn đấu nhỏ hơn so với giai đoạn trước.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước vẫn đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành giá cả xây dựng, chủ yếu là cho khu vực xây dựng từ nguồn vốn của nhà nước.
ở nước ta hiện nay, vai trò quản lý giá xây dựng của Nhà nước còn tương đối lớn. Vì phần lớn các công trình xây dựng hiện nay là nhờ vào nguồn vốn của Nhà nước và vì Nhà nước còn phải đóng vai trò can thiệp vào giá xây dựng các công trình của các chủ đầu tư nước ngoài để tránh thiệt hại cho đất nước.
3. Hệ thống định mức và đơn giá trong xây dựng.
3.1. Định mức dự toán trong xây dựng.
3.1.1. Khái niệm.
Định mức dự toán là các trị số quy định về mức tiêu phí tư liệu lao động( chủ yếu là máy móc,vật liệu) và nhân công để tạo nên một sản phẩm xây dựng nào đó dùng để lập giá dự toán trong xây dựng.
Định mức dự toán được lập trên cơ sở các số liệu quan sát thống kê thực tế và dựa vào khoa học về định mức chi phí sản xuất.
Định mức dự toán phải đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, phản ánh đúng trình độ công nghệ và trình độ tổ chức sản xuất trong xây dựng ở một giai đoạn nhất định.
Định mức dự toán có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tính toán giá cả xây dựng. Vì nó là cơ sở để lập nên tất cả các loại đơn giá trong xây dưng. Một sai sót nhỏ trong việc xác định các trị số định mức có thể gây nên các lãng phí rất lớn cho xây dưng.
Các trị số định mức chi phí được trình bày chủ yếu theo đơn vị đo hiện vật, trên cơ sở đó chỉ có các đơn giá là được thay đổi theo tình hình của thị trường.
3.1.2. Phân loại định mức dự toán.
a. Theo chủng loại công việc xây dựng cần thiết để tạo nên các loại công trình xây dựng, ví dụ phân ra các định mức cho các công việc xây dựng như phần ngầm dưới nước, phần thân công trình, phần trang trí hoàn thiện, phần lắp đặt máy móc và thiết bị…
Theo mức bao quát các loại công việc nằm trong định mức được phân ra định mức dự toán chi tiết và định mức dự toán tổng hợp.
Định mức dự toán chi tiết quy định mức chi phí về vật liệu, nhân công và sử dụng máy móc theo hiện vật cho một đơn vị khối lượng công việc xây lắp riêng rẽ nào đó( ví dụ cho các công việc xây, trát, đổ bê tông, đào móng…). Định mức dự toán chi tiết được dùng để lập đơn giá xây dựng chi tiết.
Định mức dự toán tổng hợp quy định mức chi phí về vật liệu, nhân công và sử dụng máy móc theo hiện vật cho một đơn vị khối lượng xây dựng tổng hợp( bao gồm nhiều loại công việc xây dựng riêng rẽ có liên quan hữu cơ với nhau để tạo nên một sản phẩm tổng hợp nào đó) hoặc cho một kết cấu xây dựng hoàn chỉnh nào đó. Định mức dự toán tổng hợp được dùng để lập đơn giá xây dựng tổng hợp.
Theo mức độ phổ cập các định mức có thể lập chung cho mọi chuyên ngành xây dựng và lập riêng cho từng chuyên ngành xây dựng đối với các công việc xây lắp đặc biệt của các chuyên ngành này.
Theo cách tính và trình bày các định mức có thể là các trị số tuyệt đối hoặc là các trị số tương đối dưới dạng tỉ lệ phân trăm( ví dụ định mức về vật liệu phụ, về hao hụt vật tư…).
3.2. Đơn giá dự toán trong xây dựng.
3.2.1. Khái niệm.
Đơn giá dự toán trong xây dựng là giá quy định cho một đơn vị sản phẩm xây dựng được dùng để lập giá trị dự toán xây dựng.
Cơ sở để tính toán lập dơn giá là các định mức dự toán xây dựng. Các đơn giá xây dựng đóng vai trò vô cùng quan trọng, vì chúng là cơ sở để tính toán giá xây dựng cho toàn bộ công trình.
3.2.2. Phân loại dự toán xây dựng.
Theo thông tư 23/ BXD - VKT ngày 15/ 12/1994, hiện nay ở nước ta đang áp dụng mấy loại đơn giá dự toán xây dựng sau:
Đơn giá dự toán xây dựng chi tiết.
Đơn giá dự toán xây dựng chi tiết bao gồm những chi phí xây lắp trực tiếp về vật liệu, nhân công và chi phí sử dụng máy móc xây dựng tính cho một đơn vị khối lượng công việc xây lắp riêng biệt hoặc một bộ phận kết cấu xây dựng và được xác định trên cơ sở định mức dự toán chi tiết.
Đơn giá dự toán chi tiết được lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương( gọi là đơn giá địa phương) do chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành được dùng để lập dự toán xây dựng chi tiết và để làm căn cứ xác định giá xét thầu đối với tất cả các công trình xây dựng của trung ương và địa phương, được xây dựng trên địa phương đó, không phụ thuộc vào cấp quyết định đầu tư. Riêng các tập đơn giá xây dựng của thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Nam - Đà Nẵng và Cần Thơ trước khi ban hành hoặc bổ sung cần phải có sự thoả thuận bằng văn bản của Bộ Xây Dựng. Đơn giá chi tiết do sở Xây dựng chủ trì với sự phối hợp với các ngành có liên quan( tài chính, vật giá, giao thông thuỷ lợi…) của tỉnh để xây dựng theo các nguyên tắc và các phương pháp hướng dẫn của Bộ Xây Dựng.
Đơn giá dự toán xây dựng tổng hợp.
Đơn giá loại này bao gồm toàn bộ chi phí xã hội cần thiết gồm các chi phí vật liệu, nhân công và chi phí sử dụng máy móc, chi phí chung, lãi và thuế cho từng loại công việc hoặc một đơn vị khối lượng công tác xây lắp tổng hợp, hay ,một kết cấu xây dựng hoàn chỉnh và được xác định trên cơ sở định mức dự toán tổng hợp.
Đơn giá tổng hợp được lập theo các vùng( khu vực) lớn, căn cứ vào điều kiện thi công xây lắp, điều kiện sản xuất và cung ứng vật liệu xây dựng ở một tỉnh, thành phố đại diện cho vùng đó. Công trình ở các tỉnh, thành phố khác trong vùng sẽ được sử dụng hệ số điều chỉnh cho phù hợp. Đơn giá tổng hợp do Bộ Xây Dựng chủ trì lập ra, ban hành và chỉ đạo sử dụng để lập dự toán các công trình ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật, không được dùng để lập dự toán chi tiết và thanh quyết toán khối lượng công tác hoàn thành.
Đơn giá công trình.
Đối với một số công trình quan trọng của Nhà nước trong trường hợp được phép chỉ định thầu do các đặc điểm và điều kiện thi công phức tạp, cũng như đối với một số công trình có điều kiện đặc biệt có thể được lập đơn giá riêng( gọi là đơn giá công trình). Đơn giá loại này được lập theo phương pháp lập đơn giá xây dựng do Bộ Xây Dựng hướng dẫn. Ban lập đơn giá công trình gồm chủ đầu tư, tổ chức nhận thầu xây lắp chính và cơ quan tài chính hoặc ngân hàng( nếu là vay vốn). Đơn giá công trình của một số công trình thuộc nhóm A khi xây dựng phải được Bộ Xây Dựng thống nhất ý kiến với các ngành hoặc địa phương trongviệc lập Ban xây dựng đơn giá cũng như trong việc xét duyệt các đơn giá ấy. Đơn giá công trình của các loại công trình còn lại( nếu có) sẽ do các bộ, tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương xét duyệt có sự thoả thuận của Bộ Xây dựng.
Đơn giá xây dựng công trình được dùng để lập dự toán xây lắp chi tiết các hạng mục công trình và các loại công tác xây lắp riêng biệt trong trường hợp được nhà nước cho phép áp dụng loại đơn giá này.
Giá chuẩn.
Giá chuẩn là chỉ tiêu xác định chi phí bình quân cần thiết để hoàn thành một đơn vị diện tích xây dựng hay một đơn vị công suất sử dụng của từng loại nhà hay hạng mục công trình thông dụng được xây dựng theo thiết kế điển hình( hay thiết kế hợp lý về mặt kinh tế). Trong giá chuẩn chỉ bao gồm giá trị dự toán của các loại công tác xây lắp trong phạm vi ngôi nhà hay phạm vi của hạng mục công trình hoặc công trình thuộc các lĩnh vực xây dựng dân dụng, công nghiệp, giao thông thuỷ lợi…
Trong giá chuẩn không bao giờ gồm các chi phí không cấu thành trực tiếp ngôi nhà hay công trình như các loại chi phí để xây dựng các hạng mục công trình ở ngoài nhà và chi phí mua sắm thiết bị cho ngôi nhà hoặc cho công trình đang xét.
Giá chuẩn chỉ được dùng để xác định chi phí xây lắp của tổng dự toán công trình trong trường hợp áp dụng thiết kế điển hình.
4. Giá xây dựng công trình.
ở các mục trên chúng ta đã nghiên cứu các yếu tố cơ bản để lập nên giá xây dựng cho một công trình. ở mục này sẽ xem xét tiếp theo vấn đề sử dụng các định mức và đơn giá xây dựng công trình.
4.1. Khái niệm về giá xây dựng công trình.
Giá xây dựng công trình thuộc các dự án đầu tư là toàn bộ chí phí cần thiết để xây dựng mới, cải tạo, mở rộng hay trang thiết bị lại kỹ thuật cho công trình. Do đặc điểm của sản phẩm và sản xuất xây dựng mỗi công trình có giá trị xây dựng riêng được xác định bằng phương pháp dự toán xây dựng do Nhà nước quy định.
Giá xây dựng công trình được biểu thị bằng các tên gọi khác nhau theo từng giai đoạn của quá trình đầu tư. ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đó là tổng mức đầu tư; ở giai đoạn thực hiện xây dựng công trình của dự án đầu tư đó là tổng dự toán công trình, dự toán chi tiết các hạng mục công trình và các loại công tác xây lắp riêng biệt; ở giai đoạn kết thúc xây dựng đưa dự án vào hoạt động đó là giái quyết toán công trình.
Giá xây dựng được xác định trên cơ sở hệ thống định mức, đơn giá, chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật và các chế độ chính sách của Nhà nước phù hợp với tình hình khách quan của thị trường ở từng thời kỳ và được quản lý theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của Nhà nước.
4.2. Căn cứ để lập đơn giá xây dựng công trình.
Khi lập giá xây dựng công trình cần phải tuân theo hướng dẫn hiện hành của nhà nước. Sau đây là một số căn cứ quan trọng để lập giá xây dựng công trình.
a. Khối lượng công tác.
ở đây cần phân biệt hai trường hợp:
- Khi lập tổng dự toán công trình thì khối lượng công tác( cho xây lắp, mua sắm thiết bị và chi phí khác) để lập tổng dự toán công trình được xác định theo thiết kế kỹ thuật đã duyệt với công trình được thiết ké theo hai bước hoặc theo thiết kế bản vẽ thi công với công trình được thiết kế theo một bước.
- Khi lập dự toán hạng mục công trình hoặc loại công tác xây lắp riêng biệt thì khối lượng công tác xây lắp của hạng mục công trình và loại công tác đang xét được lấy theo thiết kế bản vẽ thi công( với công trình thiết kế theo hai bước, còn với loại thiết kế theo một bước thì khối lượng công tác xây dựng cũng lấy theo thiết kế bản vẽ thi công).
b. Các loại đơn giá:
Bao gồm các loại đơn giá chi tiết, đơn giá tổng hợp, đơn giá công trình, giá chuẩn tính theo một đơn vị diện tích xây dựng hay một đơn vị công suất mà cách sử dụng chúng được quy định chặt chẽ.
c. Giá mua các thiết bị, giá cước vận tải, xếp dỡ, bảo quản và bảo hiểm. Các chỉ tiêu này được xác định theo hướng dẫn của bộ Thương mại, ban Vật giá của Chính phủ, bộ Tài chính.
d. Định mức các loại chi phí tính theo tỉ lệ hay bảng giá, gồm:
- Định mức chi phí chung để xác định giá trị dự toán xây lắp, định mức giá khảo sát, giá thiết kế và các chi phí tư vấn khác.
- Các quy định về đền bù đất đai, hoa màu, di chuyển dân cư và các công trình hiện có nằm trên mặt bằng xây dựng.
- Các quy định về tiền thuê đất hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất.
- Các quy định về lệ phí cấp đất xây dựng và cấp giấy phép xây dựng.
- Các loại thuế, quy định về lãi, bảo hiểm công trình…
5. Các loại giá áp dụng trong xây dựng.
5.1 Giá gói thầu.
Là giá được xác định theo từng gói thầu trong kế hoặc đấu thầu của dự án trên cơ sở tổng mức đầu tư hoặc tổng dự toán, dự toán được duyệt. Đó là giá giới hạn trên khi quyết định giá trúng thầu.
Tổng mức đầu tư là vốn đầu tư được dự kiến để chi phí cho toàn bộ quá trình đầu tư nhằm đạt được mục tiêu đầu tư, đưa vào khai thác, sử dụng theo yêu cầu của dự án( bao gồm cả yếu tố trượt giá). Tổng mức đầu tư được phân tích, tính toán và xác định dựa trên cơ sở công suất thiết kế của công trình dự án, khối lượng các công việc chủ yếu, suất vốn đầu tư, giá chuẩn, đơn giá tổng hợp do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Tổng dự toán công trình là tổng chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng công trình được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật. Với công trình được thiết kế theo hai bước thì tổng dự toán công trình được lập ở bước thiết kế kỹ thuật. Với công trình được thiết kế theo một bước thì tổng dự toán công trình tất nhiên là sẽ được lập theo thiết kế bản vẽ thi công.
5.2. Giá dự thầu.
Giá dự thầu là giá do nhà thầu ghi trong hồ sơ dự thầu sau khi đã trừ phần giảm giá( nếu có), giá này do các nhà thầu tham gia tranh thầu và đã tự lập ra để tranh thâù dựa trên hồ sơ thiết kế, các yêu cầu của bên mời thầu, các quy định chung về định mức và đơn giá của Nhà nước, các kinh nghiêm thực tế và dựa vào ý đồ chiến lược tranh thầu.
Giá dự thầu có thể có các mức khác nhau, trog đó tổ chức xây dựng cần xác định được giá cận dưới và độ tin cậy của giá dự thầu.
Dựa trên khối lượng công việc đã được bên chủ đầu tư tính toán trước và do bên dự thầu xác định lại, căn cứ vào hồ sơ thiết kế, các tổ chức tham dự đấu thầu, trên cơ sở tham khảo đơn giá dự toán chi tiết mà các chủ đầu tư đã sử dụng để tính giá xét thầu.
Giá dự thầu cận dưới có thể xác định bằng hiệu số giữa giá trị dự toán hạng mục công trình và chi phí bất biến của nó.
5.3. Giá ký hợp đồng xây dựng.
Giá ký hợp đồng xây dựng là giá do bên chủ đầu tư mời thầu và bên tổ chức xây dựng đã thắng thầu đã cùng nhau thoả thuận chính thức đưa vào hợp đồng phù hợp với kết quả trúng thầu. Giá hợp đồng xây dựng có thể quy định theo các cách sau đây:
Giá cố định ( giá cứng): Theo cách này giá hợp đồng được giữ cố định cho đến khi thanh toán cuối cùng. Một trường hợp riêng của phương pháp giá cứng là chỉ giữ giá cố định cho một đơn vị sản phẩm( tức là đơn giá cứng), còn khối lượng công việc xây dựng có thể thay đổi theo thực tế.
Giá mềm: Theo cách này có thể có các trường hợp sau:
- Giá hợp đồng có thể thay đổi tuỳ theo các phát sinh thực tế hợp lý gây nên như sự thay đổi giá cả, thay đổi tỉ giá hối đoái, cũng như tuỳ theo các sự cố không thể khắc phục nổi như thiên tai và thời tiết xấu.
- Giá hợp đồng được tính theo chi phí thực tế cộng thêm một khoản lãi được tính theo phần trăm so với chi phí thực tế, hoặc so với chi phí theo dự toán ban đầu.
- Trong trường hợp khó xác định chính xác giá cả xây dựng, nhất là đối với các công trình đặc biệt mới được xây dựng lần đầu chưa có định mức và đơn giá, bên chủ đầu tư và bên nhà thầu xây dựng cũng có thể thống nhất với nhau một dự toán chi phí ban đầu nào đó, nếu sau này bên nhà thầu xây dựng thực hiện với mức chi phí thấp hơn dự toán ban đầu thì được thưởng một khoản tiền nào đó và ngược lại. Trong trường hợp này ở Việt Nam đã có quy định phải lập Ban xây dựng đơn giá công trình theo quy định để lập giá xây dựng.
5.4. Giá định giá
Đó là giá dự thầu đã sửa lỗi và các hiệu chỉnh các sai lệch (nếu có) được quy đổi về cùng mặt bằng (kỹ thuật, tài chính, thương mại và các nội dung khác) để làm cơ sở so sánh giữa các hồ sơ dự thầu.
5.5 Giá đề nghị trúng thầu.
Đó là giá do bên mời thầu đề nghị trên cơ sở giá dự thầu của nhà thầu được đề nghị trúng thầu sau khi sửa lỗi và hiệu chỉnh các sai lệch của hồ sơ mời thầu.
5.6 Giá trúng thầu.
Đó là giá được người có thẩm quyền hay cấp có thẩm quyền phê duyệt kết quả dự thầu quyết định để làm căn cứ cho bên mời thầu thương thảo hoàn thiện và ký hợp đồng với bên trúng thầu.
5.7 Giá quyết toán công trình.
Đó là toàn bộ chi phí hợp lý đã thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa công trình vào khai thác và sử dụng.
5.8. Giá thoả thuận và giá theo quy định của Nhà nước.
Giá thoả thuận là giá được quy định tuỳ theo sự tự thoả thuận giữa chủ đầu tư và tổ chức nhận thầu xây dựng và thường được áp dụng cho các công trình xây dựng thuộc nguồn vốn của tư nhân.
Giá quy định của Nhà nước là loại giá được lập trên cơ sơ các định mức, đơn giá, các quy định và chính sách của Nhà nước và là cơ sở để xác định giá xây dựng các công trình do nguồn vốn của Nhà nước cấp.
Khi quy định giá có thể xác định mức giá cao nhất (giá trần) và mức giá thấp nhất (giá sàn) để phục vụ công tác quản lý giá.
5.9. Giá xây dựng công trình, hạng mục công trình và các việc xây lắp riêng.
Do đặc điểm của sản phẩm xây dựng nên giá có thể tính toán cho toàn bộ công trình hay một hạng mục công trình nằm trong công trình và một loại công việc xây lắp riêng biệt của hạng mục công trình.
Ngoài ra theo góc độ kế hoạch của các DN xây dựng giá trị xây dựng còn được tính cho các khối lượng công việc xây dựng được hoàn thành theo các thời đoạn niên lịch (tháng, quý, năm).
5.10. Giá xây dựng công trình do VĐT trong nước và do VĐT của nước ngoài.
Do yêu cầu của hợp tác quốc tế trong xây dựng cần phân biệt và có cách quản lý riêng đối với giá xây dựng chỉ do nguồn vốn trong nước và đối với giá xây dựng công trình do nguồn vốn nước ngoài.
Việc xác định giá xây dựng để tham gia dự thầu các công trình xây dựng do vốn của chủ đầu tư nước ngoài rất phức tạp, vì nó vừa phải tuân theo các quy định của quốc gia lại vừa phải tuân theo các quy định của thông lệ quốc tế.
5.11. Giá tài chính và giá kinh tế.
Giá tài chính là giá do thị trường quy định được dùng để phân tích tài chính các dự án đầu tư khi đứng trên góc độ lợi ích của doanh nghiệp.
Giá kinh tế (còn gọi là giá tham khảo, giá ẩn) là giá tài chính đã được điều chỉnh có tính đến ảnh hưởng của quy luật cung cầu, thuế trong giá, nhưng khoản trợ giá của Nhà nước…Giá kinh tế được dùng để phân tích kinh tế xã hội của dự án đầu tư trên góc độ của lợi ích quốc gia và toàn xã hội.
Chương II
Nội dung giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm ngành xây dựng
I. Sự cần thiết phải xác định giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm xây lắp trong nền kinh tế thị trường.
Từ năm 1992 trở về trước để đo lường, đánh giá kết quả sản xuất của nền kinh tế quốc dân và quản lý nền kinh tế, ngành Thống kê Việt Nam đã sử dụng Hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân (MPS). Song số lượng chỉ tiêu cũng như nội dung tính toán các chỉ tiêu trong MPS không còn phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ năm 1993 để đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế vĩ mô, ngành Thống kê nước ta đã bắt đầu sử dụng hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) thay cho MPS và bước đầu đạt được những kết quả nhất định. SNA là hệ thống thông tin kinh tế - xã hội tiên tiến được áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
SNA là một công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế được hình thành bởi một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có moói liên hệ chặt chẽ với nhau, trình bày dưới dạng những bảng cân đối hoặc những tài khoản. Nó phản ánh sự vận động của các hiện tượng và quá trình kinh tế trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân như : phản ánh các chu trình kinh tế, sự tác động qua lại qiữa các yếu tố trong quá trình sản xuất ; phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành, các đơn vị thể chế và của toàn bộ nền kinh tế .
SNA có tác dụng rất quan trọng đối với việc quản lý vĩ mô của Nhà nước. Thông tin về các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, đặc biệt là chỉ tiêu GDP là cơ sở quan trọng trong việc đánh giá, phân tích thực trạng nền kinh tế cũng như để quản lý điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô của mỗi một quốc gia. SNA có những tác dụng sau:
Giám sát nền kinh tế .
Số liệu của các tài khoản trong SNA cho ta biết được nhiều biến số kinh tế như tiêu dùng của dân cư và của xã hội, các khoản tích luỹ tài sản, để dành, xuất nhập khẩu, tiền lương, thuế, khấu hao TSCĐ,… của mỗi khu vức hoạt động kinh tế cũng như của cả nền KTQD. Hơn nữa nó còn cung cấp các thông tin về các mối quan hệ, các tỷ lệ cân đối chủ yếu, các cơ cấu kinh tế của mỗi thời kỳ nhất định, xác định được các khoản dư thừa hay thiếu hụt trong ngân sách, khoản để dành được từ thu nhập, từ lợi tức của từng khu vực hay của toàn bộ nền KTQD. SNA còn phản ánh được chỉ số phát triển của toàn bộ nền kinh tế, của từng ngành sản xuất và của nhiều chỉ tiêu khác.
Phân tích kinh tế .
SNA phản ánh một cách tổng hợp toàn bộ kết quả của nền KTQD. Qua SNA ta có thể:
Đánh giá được tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế , so sánh tốc độ tăng của các chỉ tiêu GO, GDP hay GDP bình quân đầu người.
Phản ánh cơ cấu kinh tế và sự biến động của cơ cấu đó theo các tiêu thức khác nhau.
Phản ánh quan hệ của cácc ngành kinh tế trong quá trình sản xuất và sử dụng sản phẩm, quan hệ giữa kinh tế trong nước và kinh tế nước ngoài.
Phản ánh các cân đối của nền KTQD, cân đối giữa TDCC với sản xuất , TDCC với GDP, TLTS với sản xuất ,…
Phản ánh hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội.
Là cơ sở sánh quốc tế.
SNA được xây dựng theo phương pháp chuẩn quốc tế, nhiều chỉ tiêu trong SNA được dùng để so sánh quốc tế như: GDP, GNI… Bên cạnh đó, các chỉ tiêu này còn được dùng để tính các chỉ tiêu so sánh như : tỷ lệ đầu tư, tỷ lệ chi tiêu của Nhà nước theo GDP… Đặc biệt, GDP bình quân đầu người là một trong những chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá trình độ phát triển của một nước, là cơ sở chủ yếu cho việc xác định mức đóng góp niêm liễm cho các tổ chức quốc tế mà nước đó tham gia.
Nội dung của SNA có nhiều chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, tuy nhiên có một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
Tổng giá trị sản xuất (GO).
Chi phí trung gian(IC).
Tổng sản phẩm quốc nội(GDP).
Tổng thu nhập quốc gia(GNI).
……
Như vậy, để lập SNA chính xác trong nền kinh tế thị trường thì điều quan trọng là xác định được chính xác các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như đã nêu trên
II. Sự khác biệt của xây dựng trong thời kỳ bao cấp so với hiện nay.
1. Sự khác biệt của hoạt động xây dựng trong thời kỳ bao cấp so với hiện nay.
Sản xuất xã hội phát triển không ngừng theo sự phát triển của xã hội loài người. Sản xuất càng phát triẻn thì sự phân công lao động xã hội càng cao, sự hợp tác và liên kết trong sản xuất càng mở rộng… Sự hợp tác và liên kết trong sản xuất không chỉ diễn ra giữa các đơn vị kinh tế, các ngành, các địa phương trong nước mà còn mở rộng ra cả phạm vi cả thế giới theo các phương thức hết sức khác nhau. Trong bối cảnh đó thì phát triển sản xuất sản phẩm công nghiệp cũng tạo ra ngày càng nhiều giá trị sử dụng. Đó là trung tâm của ngành công nghiệp nói chung; của các xí nghiệp, doanh nghiệp xây dựng nói riêng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội một cách có kế hoạch, tạo ra thu nhập quốc dân, góp phần tích luỹ để tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ, bỏ qua chế độ TBCN. Xu hướng vận động của nó là phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Mác- Ăng ghen và Lênin đã vạch ra sẽ được thực hiện thông qua việc sử dụng sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước và sức mạnh tổng hợp về kinh tế và công nghệ quốc tế. Mỗi chế độ xã hội thì đều phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có một chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và do đó có một cơ cấu thành phần kinh tế thích hợp. Chúng ta cần biết rằng chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là một phạm trù kinh tế phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa sở hữu được thực hiện vè mặt kinh tế trong quá trình sản xuất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất bao gồm các hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu là một thành phần kinh tế, thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nhất định và chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế nhất định.
Trên con đường đi của sự phát triển kinh tế hàng hoá ở các nước xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện mô hình “kinh tế chỉ huy” hay mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này xét về mặt thực chất đó là sự xoá bỏ các thành phần kinh tế với tư cách là cơ sở kinh tế của sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá ; và quan hề hàng hoá - tiền tệ hầu như bị hình thức hoá, nếu không muốn nói là bị phủ nhận .
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế phần lớn là do Nhà nước quản lý, Các nhu cầu về đời sống xã hội cũng đều do Nhà nước bao cấp toàn bộ. Từ đó nền kinh tế mất đi sự linh hoạt vốn có và rất cần thiết . Cho nên trong giai đoạn này nước ta cómột nền kinh tế với tích luỹ cho sản xuất và tái sản xuất rất thâp dẫn đến năng suất lao động thấp do công nghệ lạc hậu . Việc làm cho công nghệ lạc hậu cũng do thiếu vốn và từ đó việc thiếu vốn nên tích luỹ thấp . Với tình trạng như thế, nên trong thời kỳ tập trung bao cấp thì quy mô và cơ cấu của ngành Xây dựng rất nhỏ . Đồng thời giai đoạn này người xây dựng chủ yếu do các thành phần kinh tế tham gia hoạt động là các doanh nghiệp Nhà nước và hớp tác xã xây dựng. Mô hình nói trên, cuộc sống không thể chấp nhận và đã phải trả giá, buộc phải thay đổi mô hình , buộc phải “chấn hưng” và thừa nhận vai trò to lớn của kinh tế hàng hoá hay kinh tế trị trường. Trong mấy thập niên gần đây, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động và thúc đẩy của công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới. Vì vậy xu thế chuyển sang kinh tế thị trường – trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá đang ra sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà soạn thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở các nước XHCN. Với tình hình trên, ở nước ta Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định phương hướng: “phát triển kinh tế hangf hoá nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận độnh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Trong giai đoạn này, việc xác định rõ xu hướng phát triển chung của nền kinh tế là rất quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. ở giai đoạn đầu của cơ chế thị trường, nước ta đã gặt hái được khá nhiều thành công trong lĩnh vực kinh tế – xã hội. Tốc độ phát triển rất nhanh của nền kinh tế quốc dân, từ đó nhu cầu về đời sống xã hội cũng tăng theo. Nên quy mô và cơ cấu của ngành Xây dựng tăng rất nhanh, so với thời kỳ kinh tế tập chung thì việc tăng này rất lớn. Nhu cầu về xây dựng tăng nhanh ro chủ đầu tư tự bỏ vốn ra để sản xuất mkinh doanh, nên bắt buộc phải xây dựng các công trình xây dựng để thực hiện mục đích đầu tư khác nhau. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế( doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình ) đều tham gia hoạt động xây dựng. Các loại hình doanh nghiệp này có trình độ về quản lý hạch toán và năng lực thi công xây lắp khác nhau do vậy việc xác định các chỉ tiêu kinh tế nói chung và giá trị sản xuất nói riêng cũng khác nhau, điều này quy định đến việc tính toán và phương pháp xác định giá trị sản xuất khác nhau.
2. Phương pháp xác định giá trị sản xuất trong thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp.
Trong thời kỳ này việc xác định và phương pháp tính toán đã bỏ qua phần thuế và phần chi phí gián tiếp còn cũng phần lớn tương đối là giống so với thời kỳ hiện nay. Tức các phần như chi phí trực tiếp, lãi định mức cũng có nội dung tương tự. Cụ thể :
Giá trị SPXL = CPTT + Phụ phí(CPGT) + lãi định mức
= Spq + c + Lđm
Trong đó: Spq là chi phí trực tiếp.
q là khối lượng hiện vật(bao gồm nguyên, vật liệu, nhân công, máy móc).
p là đơn giá dự toán.
c là chi phí chu._.c khác(theo biểu mẫu kèm theo), sau đó suy rộng theo số xã viên, hộ xã viên hoặc thành viên của từng loại hợp tác xã hoặc kinh tế – xã hội khác.
6. Chi phí trung gian.
6.1 Khái niệm.
Chi phí trung gian là một bộ phân của chi phí sản xuất nói chung, nó được cấu thành trong giá trị sản phẩm và được thể hiện dưới dạng vật chất như nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng… và dưới dạng dịch vụ phục vụ sản xuất là các chi phí.
Nội dung chi phí trung gian trong xây dựng gồm 2 phần:
- Chi phí vật chất gồm:
+ Chi phí về nguyên vật liệu chính, và phụ (gồm cả các cấu kiện bê tông đúc sẵn) đã dùng cho xây lắp và sửa chữa lớn.
+ Chi phí về nhiên liệu, gồm cả nhiên liệu dùng cho máy móc thi công và dùng cho các phương tiện quản lý.
+ Chi phí về động lực dưới nhiều hình thái khác nhau, trong đó chủ yếu là điện dùng cho sản xuất và quản lý.
- Chi phí về dịch vụ thuê ngoài gồm:
+ Chi phí về vận tải, bưu điện, phục vụ sản xuất, không kể phần đã tính vào giá trị nguyên, nhiên, vật liệu.
+ Chi phí về dịch vụ y tế, giáo dục, văn hoá, khoa học, phục vụ sản xuất và đời sống của đơn vị đã hạch toán vào giá thành và chi phí sản xuất.
+ Chi phí về dịch vụ sửa chữa thường xuyên thiết bị, máy móc và phương tiện quản lý.
+ Chi phí thuê các máy móc, thiết bị và các phương tiện phục vụ sản xuất và quản lý sản xuất của đơn vị.
+ Các chi phí về dịch vụ khác đơn vị đã phải trả và đã hạch toán vào chi phí sản xuất.
6.2. Nguồn thông tin để tính chi phí trung gian.
- Đối với các doanh nghiệp xây lắp và sửa chữa lớn bao thầu thuộc các thành phần kinh tế:
Dựa vào báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố của doanh nghiệp hàng năm và tài liệu điều tra SNA năm 1997 để tính.
Nội dung biểu chi phí sản xuất, kinh doanh theo yếu tố như sau:
- Nguyên liệu, vật liệu.
(2) Nhiên liệu, động lực.
(3) Chi phí nhân công.
(4) Chi phí khấu hao tài sản cố định.
(5) Chi phí dịch vụ mua ngoài.
(6) Chi phí bằng tiền khác.
Trong các yếu tố trên:
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu gồm cả nguyên, vật liệu chính, phụ, bán thành phẩm mua ngoài và yếu tố nhiên liệu, động lực 100% là chi phí vật chất. Trường hợp tiền công trả cho người lao động của đơn vị trực tiếp bốc vác nguyên, vật liệu đã tính vào giá thành vật liệu thì phải trừ khỏi yếu tố này và đưa về yếu tố 3 (chi phí nhân công).
- Các yếu tố chi phí nhân công và khấu hao TSCĐ 100% thuộc giá trị tăng thêm.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài 100% là chi phí dịch vụ trong chi phí trung gian.
- Các chi phí bằng tiền khác: Yừu tố này thường có lẫn cả 3 nội dung là chi phí trung gian(chi phí vật chất, chi phí dịch vụ), thu nhập của người sản xuất và giá trị tăng thêm khác.
Để bóc tách yếu tố này, trong khi tính chi phí trung gian và giá trị tăng thêm hàng năm, cần dựa vào tỉ lệ đã được xác định qua kết quả điều tra SNA năm 1997.
Tỉ lệ này sẽ được sử dụng để tính cho một số năm, khi chưa có điều kiện điều tra lại hoặc điều tra bổ sung để chỉnh lý.
Trong thực tế đến thời điểm báo cáo có những đơn vị chưa làm(hoặc không làm được ) báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố. Vì vậy quy trình tính cần phải theo các bước sau:
+ Tính giá trị sản xuất của các đơn vị có báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố của từng thành phần kinh tế.
+ Tổng hợp báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố của từng thành phần kinh tế đó.
+ Dùng tỉ lệ đã được xác định thông qua điều tra năm 1997 để tách yếu tố chi phí bằng tiền khác ra ba phần: Chi phí vật chất, chi phí dịch vụ ; thu nhập của người sản xuất và giá trị tăng thêm khác.
+ Tổng hợp chi phí trung gian của các đơn vị có báo cáo theo từng thành phần kinh tế.
+ Tính tỉ lệ % chi phí trung gian so với giá trị sản xuất của các đơn vị có báo cáo chi phí sản xuất theo từng thành phần kinh tế.
+ Tính giá trị sản xuất toàn bộ hoạt động xây lắp và sửa chữa lớn bao thầu trên địa bàn theo từng thành phần kinh tế (Nhà nước, hợp tác, tư nhân, hỗn hợp).
+ Dùng tỉ lệ % chi phí trung gian so với giá trị sản xuất đã tính được từ các đơn vị có báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố trên nhân (´) với giá trị sản xuất của toàn bộ hoạt động xây lắp và sửa chữa lớn bao thầu trên địa bàn theo thành phần kinh tế, ta được chi phí trung gian của từng thành phần kinh tế
6.3. Đối với hoạt động xây lắp và sửa chữa lớn tự làm:
- Xây dựng và sửa chữa lớn tự làm của các đơn vị thuộc kinh tế nhà nước (không kể phần xây dựng và sửa chữa lớn tự làm của xã, phường):
Nội dung chi phí trung gian, nguồn thông tin và phương pháp tính giống như đối với doanh nghiệp nhà nước, nhưng là đơn vị xây lắp tự làm nên không phải nộp thuế và không hạch toán lợi tức kinh doanh do đó giá trị sản xuất quy ước bằng tổng chi phí sản xuất thực tế thực hiện trong năm. Vì vậy, phải xác định tỉ lệ chi phí trung gian so với tổng chi phí sản xuất của những đơn vị có báo cáo để ước tính cho các đơn vị không có báo cáo chi phí chi tiết. Trong trường hợp đặc biệt, phải dựa vào tỉ lệ chi phí trung gian của các doanh nghiệp nhà nước để tính(cũng chỉ tính tỉ lệ chi phí trung gian so với tổng chi phí sản xuất ).
- Xây dựng tự làm của xã, phường:
Nội dung của chi phí trung gian cũng bao gồm:
+ Chi phí vật chất:
+ Nguyên, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực mua ngoài.
+ Trị giá các loại nguyên, vật liệu chính, phụ đã dùng vào xây lắp, nhưng không phải mua ngoài mà sử dụng nguyên, vật liệu do tự sản xuất, thu hồi từ các loại công sản cũ, nhân dân đóng góp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài như thuê máy móc, thiết bị, phương tiện dùng vào xây dựng và sửa chữa lớn, thuê sửa chữa thiết bị, dụng cụ dùng cho xây dựng và các dịch vụ khác đã tính vào chi phí xây dựng và sửa chữa tự làm của xã, phường.
Nguồn thông tin: Dựa vào tài liệu điều tra chọn mẫu về xây dựng và sửa chữa lớn tự làm của xã, phường để tính theo phương pháp sau:
Chi phí trung gian về XD và SCL tự làm của xã(phường)
=
Giá trị sản xuất XD và SCL tự làm của xã(phường)
´
Chi phí trung gian về XD và SCL tự làm của xã(phường) điều tra
Giá trị sản xuất về XD và SCL tự làm của xã(phường) điều tra
ắắắắắắắắắắắắắ
6.4. Xây dựng cơ bản tự làm của các loại hợp tác xã và tổ chức kinh tế- xã hội không thuộc thành phần kinh tế nhà nước khác:
Nội dung chi phí trung gian gồm:
- Chi phí vật chất:
+ Nguyên, vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, động lực mua ngoài.
+ Giá trị nguyên, vật liệu do thành viên của đơn vị đóng góp bằng hiện vật theo nghĩa vụ hoặc tự nguyện quy ra tiền theo giá bình quân trên thị trường trong thời gian xây dựng.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài như thuê máy móc, thiết bị và phương tiện dùng cho xây dựng, thuê các đơn vị có hạch toán kinh tế, thiết kế và các dịch vụ thuê ngoài khác.
Nguồn thông tin: Dựa vào tài liệu điều tra tỉ lệ % chi phí trung gian so với giá trị sản xuất của các đơn vị điều tra chọn mẫu, theo từng ngành và từng thành phần kinh tế để tính suy rộng theo phương pháp đã giới thiệu trong phần xây dựng tự làm của xã, phường.
Chi phí trung gian về XD tự làm của HTX nông nghiệp
=
Giá trị sản xuất về XD tự làm của các HTX nông nghiệp trên địa bàn
´
Tỉ lệ % chi phí trung gian so với Giá trị sản xuất của các HTX nông nghiệp đã điều tra về XD tự làm
Ví dụ:
Cũng tính tương tự như vậy cho các hợp tác xã phi nông nghiệp, các công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức, tư nhân khác v.v…
6.5. Xây dựng tự làm của hộ gia đình dân cư thành thị và nông thôn:
Nội dung của chi phí trung gian là:
- Chi phí vật chất gồm:
+ Chi phí mua nguyên, vật liệu chính và phụ đã dùng cho xây dựng và sửa chữa lớn.
+ Giá trị nguyên, vật liệu tự sản xuất theo giá bình quân thị trường trên địa bàn vào thời kỳ xây dựng hoặc sửa chữa.
+ Giá trị nguyên, vật liệu từ các nguồn không phải mua khác đã dùng vào xây dựng, tính theo giá bình quân trên thị trường.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
Nguồn thông tin: Dựa vào tài liệu điều tra về tỉ lệ % chi phí trung gian so với giá trị sản xuất của các hộ điều tra, sau đó suy rộng cho toàn bộ theo phương pháp sau:
Chi phí trung gian về XD tự làm của hộ nông thôn
=
Giá trị sản xuất về XD tự làm của hộ nông thôn
´
Tỉ lệ % chi phí trung gian so với giá trị sản xuất về XD tự làm của các hộ nông thôn đã điều tra
Cũng tính tương tự như trên cho các hộ gia đình ở thành thị.
7. Giá trị tăng thêm.
7.1. Khái niệm:
Giá trị tăng thêm là một bộ phận của giá trị sản xuất sau khi trừ đi phần chi phí trung gian.
Nói chung, giá trị tăng thêm của các ngành và thành phần kinh tế đều gồm 5 yếu tố sau:
(1)Thu của người sản xuất
(2) Thuế sản xuất
(3) Khấu hao tài sản cố định
(4) Giá trị thặng dư
(5) Thu nhập hỗn hợp.
Tuy nhiên do thực tế hạch toán và nguồn thông tin của các loại hình xây lắp bao thầu, xây lắp tự làm của các thành phần kinh tế có những đặc điểm khác nhau, nên khi tính cần vận dụng cụ thể cho các loại hình xây dựng và các thành phần kinh tế.
7.2. Nguồn thông tin và phương pháp tính.
Đối với các doanh nghiệp xây lắp và sửa chữa lớn bao thầu thuộc thành phần kinh tế nhà nước.
- Thu của người sản xuất là toàn bộ lương chính, lương phụ, phụ cấp lương, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, các khoản tiền thưởng từ kết quả sản xuất, các khoản trả công lao động khác chưa tính vào tiền lương của toàn thể cán bộ, công nhân viên chức, đã tính vào chi phí sản xuất của đơn vị.
Nội dung về thu của người sản xuất được thể hiện trong yếu tố nhân công và các khoản thu nhập khác , trong yếu tố chi phí bằng tiền khác của phụ biểu chi phí sản xuất, kinh doanh theo yếu tố của đơn vị xây lắp.
- Thuế sản xuất là thuế doanh thu phải nộp theo tỉ lệ doanh thu thực tế đã thực hiện trong năm. Ngoài ra, thuế sản xuất còn bao gồm cả thuế vốn, thuế đất, tài nguyên và các khoản lệ phí khác coi như thuế đã hạch toán trong yếu tố chi phí bằng tiền khác.
Nguồn thông tin: Căn cứ vào các báo cáo khoản thanh toán với ngân sách để ghi( phần phải nộp trong năm). Nếu đơn vị có sản xuất phụ không hạch toán riêng, đã tính vào giá trị sản xuất chính của đơn vị sản xuất, cần cộng thêm cả thuế doanh thu của hoạt động sản xuất này.
- Khấu hao tài sản cố định là toàn bộ khấu hao cơ bản và khấu hao sữa chữa lớn tài sản cố định dùng cho sản xuất đã trích và hạch toán vào chi phí sản xuất trong năm. Số liệu này lấy toàn bộ phần khấu hao trong chi phí sản xuất theo yếu tố.
- Giá trị thặng dư là lợi tức trước khi nộp thuế lợi tức của doanh nghiệp về sản xuất, kinh doanh, lợi tức trả tiền vây, lợi tức trả tiền liên doanh, góp cổ phần, đóng góp theo cấp trên…
Nguồn thông tin: Căn cứ vào lợi tức trả tiền vay, nộp thuế lợi tức, các khoản nộp cho cấp trên, phân chia lợi tức kinh doanh cho các đơn vị liên doanh góp cổ phần để tính toán và tổng hơp.
Giá trị thặng dư
=
Giá trị sản xuất
Chi phí trung gian
-
Thu của người sản xuất
-
Thuế sản xuất
-
Khấu hao tài sản cố định
-
Trường hợp chưa có đủ thông tin để tính chi tiết, giá trị thặng dư được tính toán theo phương pháp sau:
Đối với các doanh nghiệp xây lắp và sửa chữa lớn bao thầu thuộc các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước khác:
Nội dung, phương pháp tính Giá trị tăng thêm giống mhư đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, trong thực tế ta không thể thu được đầy đủ các báo cáo quyết toán, do đó giá trị tăng thêm được tính như sau:
Giá trị tăng thêm = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian
Để phân tích Giá trị tăng thêm theo các yếu tố , căn cứ vào tỉ lệ của các đơn vị có báo cáo chi tiết hoặc tỉ lệ trong điều tra chọn mẫu về Tài sản quốc gia năm 1997 để tính cho từng thành phần kinh tế rồi tổng hợp cho toàn bộ.
c. Xây dựng và sửa chữa lớn tự làm của xã, phường:
Do đặc điểm của xây dựng cơ bản tự làm là tự tổ chức xây dựng để sử dụng, không phải nộp thuế, không hạch toán lỗ lãi, không có tài sản cố định, nên Giá trị tăng thêm của xây dựng và sửa chữa lớn tự làm chỉ còn phần thu của người sản xuất với 3 nội dung sau:
- Tiền công trả cho những người lao động thuê ngoài để làm các công trình xây dựng và sửa chữa lớn tự làm của xã, phường.
- Tiền công lao động, tiền bồi dưỡng hoặc giá trị công lao động của cán bộ chuyên trách quản lý, theo dõi thi công các công trình xây dựng và sửa chữa lớn tự làm của xã, phường.
- Trị giá công lao động( theo giá thị trường) do nhân dân đóng góp theo nghĩa vụ hoặc tự nguyện để làm các công trình xây dựng và sửa chữa lớn của xã, phường.
Xây dựng cơ bản tự làm của tổ chức kinh tế hợp tác:
Giá trị tăng thêm của phần này cũng có nội dung như xây dựng cơ bản tự làm của xã, phường.
e. Xây dựng cơ bản tự làm của hộ gia đình dân cư :
Nội dung Giá trị tăng thêm bao gồm các yếu tố:
- Thu của người sản xuất như: Tiền công trả cho người lao động xây dựng, kể cả công khoán hoặc công theo ngày. Nếu theo thoả thuận chủ đầu tư phải nuôi cơm thợ thì phải tính cả chi phí ăn uống của họ.
- Giá trị công lao động của chủ đầu tư và giá trị ngày công do bà con xóm làng giúp đỡ bằng cách trực tiếp tham gia lao động đã tính vào giá trị sản xuất ở trên.
- Để đơn giản cho việc tính và lập báo cáo và suy rộng được Giá trị sản xuất và Chi phí trung gian như hướng dẫn ở trên, có thể tính giá trị tăng thêm như sau :
Giá trị tăng thêm trong XD & SCL tự làm
=
Giá trị sản xuất XD & SCL tự làm
-
Chi phí trung gian trong XD & SCL tự làm
Toàn bộ giá trị tăng thêm đưa vào thu của người sản xuất. Công thức trên áp dụng cho từng thành phần kinh tế như : Xây dựng và sửa chữa lớn tự làm của Nhà nước, xã, phường; các hợp tác xã nông nghiệp, phi nông nghiệp và xây dựng cơ bản tự làm của hộ gia đình dân cư.
8. Nhân tố ảnh hưởng đến việc tính toán các chỉ tiêu GO, IC và VA xây lắp của doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế thị trường.
Để tính đúng và tính đủ các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng, thì trước hết phải tính thật chính xác các chỉ tiêu này trong các doanh nghiệp xây dựng của nước ta.
Hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp chỉ mới áp dụng Hệ thống tài khoản quốc gia nói chung và các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và chi phí tăng thêm nên việc tính toán còn mới mẻ và khó khăn. Chính vì vậy, kết quả đạt được còn rất hạn chế về chất lượng do những sai sót trong quá trình thu thập thông tin và quá trình tính toán xử lý thông tin. Trong thực tế hoạt đông sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng phát sinh nhiều chi phí mà trong phương pháp tính hiện nay đang áp dụng thì không đề cập hết được. Bên cạnh các chi phí sản xuất, nhiều chi phí không thường xuyên khác được tập hợp vào mục gọi là “ các chi phí trực tiếp khác” hay “ chi phí gián tiếp”... trong khoản này có chi phí thường xuyên tự làm hoặc thuê ngoài, vừa tự làm có lẫn các chi phí trung gian và giá trị tăng thêm. Việc tách chi phí trung gian và giá trị tăng thêm ra khỏi phần này là hết sức khó do tỷ lệ bóc tách phụ thuộc rất nhiêù vào hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng và phương pháp bóc tách rất phức tạp, nó cũng không mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp mà nếu thực hiện công việc bóc tách thì hệ số bóc tách có độ tin cậy chưa cao. Chính vì vậy, việc bóc tách phần trùng nhau dù được làm hay chưa làm cũng chỉ có tính tương đối. Hiện nay báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp xây dựng còn thiếu độ chính xác do nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan mang lại. Trình độ thống kê ở các doanh nghiệp xây dựng hầu hết còn non kém và chưa coi trọng công tác thống kê mà chỉ dựa vào kinh nghiệm để ước tính. Mặt khác, các doanh nghiệp xây dựng còn thiếu kinh phí cho công tác điều tra thống kê định kỳ còn rất ít. Vì vậy, số mẫu điều tra định kỳ ít, không đủ đảm bảo tính đại diện, dẫn đến kết quả thu được có độ chính xác chưa cao. Đây là nguyên nhân quan trọng và chủ yếu với chất lượng tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm của các doanh nghiệp xây dựng. Tuy nhiên, việc tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm nếu tính toán một cách đầy đủ và chính xác thì nó có vị trí quan trọng đối với các nhà quản lý kinh tế doanh nghiệp vì nó đem lại cái nhìn tổng quát nhất và chi tiết nhất với sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp cần chú trọng đến công tác thống kê, cấp kinh phí cho việc đào tạo cán bộ, tổ chức các cuộc hội thảo, truỳen kinh nghiệm qua các lớp giảng dạy, từ đó giúp cho bộ phận thống kê của các doanh nghiệp xây dựng tính chính xác và đầy đủ các chỉ tiêu có chất lượng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của các doanh nghiệp xây dựng.
Trong thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng tính các chỉ tiêu GO, IC và VA chính xác và đầy đủ, chỉ có các đơn vị áp dụng chế độ báo cáo thống kê định kỳ tính các chỉ tiêu này theo phương pháp đã nêu mới thu được kết quả chính xác và sát thực.
Việc tính toán các chỉ tiêu GO, IC và VA xây lắp không chính xác là do ảnh hưởng của nhân tố chủ quan và khách quan mang lại như:
Do đặc điểm phức tạp của sản xuất xây dựng, do trình độ công nghệ và tổ chức xây dựng còn thấp, trong đó có cả khó khăn về vốn và trình độ con người. Vì vậy, số liệu báo cáo thiếu độ chính xác, chưa có hệ thống thanh tra kểm soát hữu hiệu, trong cùng một doanh nghiệp, trong cùng một thời kỳ tính toán tuỳ theo mục tiêu của doanh nghiệp có nhiều báo cáo với nội dung khác nhau dẫn đến tình trạng lãi giả, lỗ thật là tương đối phổ biến ở các doanh nghiệp xây dựng.
Do tác động của đấu thầu cạnh tranh làm cho giá cả luôn luôn biến động do đó việc định ra những tỷ lệ, định mức cụ thể, chính xác cho từng yếu tố trong chi phí giá thành là không cố định, không theo định mức đưa ra của Nhà nước. Chẳng hạn như chi phí khấu hao tài sản cố định do giá đấu thầu thấp nên phải kéo dài thời hạn khấu hao trong khi các nguồn vốn vay tín dụng, đầu tư thường là trung hạn từ 3 đến 5 năm. Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác hạch toán.
Tình trạng chậm thanh toán vốn thi công xây dựng công trình dẫn đến các chi phí lãi vay ngân hàng lớn. Mặt khác chi phí tiêu cực trong hoạt động xây dựng chiếm một tỉ trọng tương đối lớn làm cho việc phân bố chi phí và đánh gí các chỉ tiêu bị sai lệch, không còn mang ý nghĩa thực chất chính xác của chi phí giá thành.
Yếu tố thường sai lệch nhiều nhất là tình trạng giấu doanh thu báo cáo của các doanh nghiệp và thiếu sự quản lý chặt chẽ chi phí dở dang.
- Ngoài sự thay đổi liên tục của các chế độ chính sách có liên quan của Nhà nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống thu thập số liệu, xử lý thông tin phục vụ cho việc tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất , chi phí trung gian và giá tăng thêm của doanh nghiệp xây dựng.
9. Một số tồn tại trong quá trình tính GO, VA và IC.
Các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm có vai trò rất quan trọng như chúng ta đã biết và việc tính toán các chỉ tiêu này phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Mặt khác, trong thực tế các doanh nghiệp xây dựng còn một số tồn tại, do đó dẫn đến việc tính toán các chỉ tiêu này còn không đầy đủ và chính xác. Những tồn tại đó là:
Số liệu báo cáo thiếu độ chính xác dẫn đến có một số doanh nghiệp thực tế bị thua lỗ nhưng trên báo cáo vânx đang phát triển và làm ăn có lãi.
Hệ thống tổ chức, thống kê, tính toán vận dụng các chỉ tiêu không đồng bộ thiếu sự chính xác và thống nhất.
Hệ thống kiểm toán và thanh tra hoạt động kém hữu hiệu.
Sự quan tâm của các cấp lãnh đạo chưa hài hoà.
10. Một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng.
Để nâng cao chất lượng tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến chủ quan của mình.
(1). Về phương pháp tính.
Hiện nay, ở nước ta các doanh nghiệp xây dựng nói chung và ngành Thống kê nói riêng đang sử dụng phương pháp tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm chưa được rõ ràng và đồng bộ. Đó là do mỗi doanh nghiệp có trong tay nguồn số liệu khác nhau nên dẫn đến phương pháp tính cũng khác nhau. Mặt khác, các phương pháp tính đó còn tồn tại những nhược điểm là chưa phản ánh đầy đủ và chính xác giá trị thực tế của các chỉ tiêu GO, IC và VA. Nên điều cần thiết hiện giờ là Tổng cục Thống kê phải nghiên cứu và đưa ra phương pháp tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm phản ánh một cách đúng đắn và đầy đủ.
(2). Về vấn đề tổ chức thu thập thông tin.
Để tính đúng và tính đủ các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm thì nguồn thông tin về số liệu cần phải tin cậy và chính xác. Điều này thì hiện nay các doanh nghiệp xây dựng chưa thật sự quan tâm tới công tác thống kê định kỳ, chưa thấy được vai trò quan trọng như thế nào đối với việc quản lý doanh nghiệp và với việc quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, các doanh nghiệp xây dựng cần phải thật sự quan tâm tới công tác thống kê định kỳ, đầu tư kinh phí vào công tác này, cần đưa kinh phí vào công việc đào tạo nhân viên về kiến thức thống kê, thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về việc thu thập thống kê và báo cáo tài chính; báo cáo thống kê định kỳ... cho các cơ quan nhà nước. Về Tổng cục Thống kê cần phải quan tâm tới công việc thống kê của các doanh nghiệp xây dựng hơn nữa, cần cử người tới doanh nghiệp để phổ biến, tuyên truyền về cách thu thập thông tin và phương pháp tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm, mở thêm các cuộc họp, hội thảo với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp để tăng thêm sự thống nhất với nhau. Cần phải đưa thêm ra các quy đinh hữu hiệu nhằm có được nguồn số liệu thật đầy đủ và chính xác.
(3). Về công tác thống kê - tổng hợp báo cáo.
Trong điều kiện kinh tế thị trường diễn biến phức tạp nhưng công tác thống kê - tổng hợp báo cáo thời gian vừa qua trong phạm vi các doanh nghiệp xây dựng thực hiện chưa nghiêm đặc biệt là báo cáo tác nghiệp hàng ngày, báo cáo định kỳ hàng quý, 6 tháng và năm. Nội dung các báo cáo thường sơ sài, các số liệu chưa phản ánh đúng thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn chạy theo thành tích của các đợt thi đua cho nên lãnh đạo chỉ huy các cấp không có điều kiện đánh giá phân tích tình hình một cách khách quan để có các biện pháp chỉ đạo một cách sát thực và hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới lãnh đạo và chỉ huy các cấp cần quan tâm hơn nữa trong tổ chức thực hiện công tác báo cáo thống kê hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lên cơ quan cấp trên một cách trung thực chính xác và kịp thời.
Chương III
Minh hoạ việc tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất (GO), chi phí trung gian(IC) và giá trị tăng thêm(VA)
Chúng ta đã xác định được các chỉ tiêu GO, VA và IC ở chương II và việc tính toán cho thật chính xác, sát thực của các doanh nghiệp xây dựng cũng cần một khối lượng số liệu tin cậy. Việc tính toán các chỉ tiêu đó cho các doanh nghiệp xây dựng chúng ta phải dựa vào báo cáo thống kê định kỳ theo Quyết định số 01/QĐ - TCTK ngày 5/1/1995 của Tổng cục Thống kê và chế độ báo cáo hiện hành của bộ tài chính.
Tuy nhiên, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng thường phát sinh nhiều chi phí mà trong phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thường không đề cập hết được. Bên cạnh những chi phí sản xuất chính còn nhiều khoản các chi phí khác thì các doanh nghiệp thường đưa tất cả vào yếu tố chi phí khác bằng tiền, trong yếu tố đó chi phí khác bằng tiền bao gồm cả chi phí trung gian, chi tền lương cho người lao động và cả giá trị tăng thêm. Chẳng hạn, chỉ tiêu chi phí sử dụng máy bao gồm cả chi phí chung và bao gồm cả chi phí vật chất và chi phí dịch vụ thuộc chi phí trung gian, chi tiền lương cho người lao động thuộc giá trị tăng thêm. Vì vậy, muốn tính được chính xác thì phải tiến hành bóc tách được các chỉ tiêu yếu tố chi phí khác bằng tiền để đưa về chỉ tiêu IC, VA mà trong đó có chứa cả chi phí trung gian và giá trị tăng thêm.
Trong chương này, chúng ta dùng số liệu từ vụ Xây dựng, giao thông và bưu điện năm 2001 của Công ty lắp máy điện nước và xây dựng để minh hoạ, nhằm giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn việc tính toán các chỉ tiêu GO, IC và VA. Công ty lắp máy điện nước và xây dựng là một trong 10 thành viên trực thuộc Tổng công ty cơ khí xây dựng. Tuy Công ty là trực thuộc nhưng đã hoạt động tương đối độc lập có hạch toán nội bộ, được mở tài khoản tại Ngân hàng và kho bạc. Vì vậy, việc tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm xây lắp cho công ty là rất cần thiết và khách quan.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty lắp máy điện nước và xây dựng năm 2001
(Đơn vị tính: Triệu đồng)
STT
Chỉ tiêu
Giá trị
1
Doanh thu thuần tiêu thụ sản phẩm xây dựng trong kỳ
17.581
2
Xây lắp dở dang:
+ Đầu năm
+ Cuối năm
2.120
8.532
3
Giá trị công tác SCL nhà cửa, vật kiến trúc
13.749
4
Nguyên liệu và vật liệu
16.590
5
Nhiên liệu và động lực
2.980
6
Năng lượng
400
7
Doanh thu cho thuê MMTB thi công có người
điều khiển đi kèm
9.747
8
Tiền lương và các khoản phụ cấp khác
4.250,94
9
BHXH, BHYT và KPCĐ
198,50
10
Khấu hao tài sản cố định
2.203,00
11
Chi phí dịch vụ mua ngoài
3.450,0
12
Chi phí bằng tiền khác
3.368,50
13
Giá trị phế liệu, phế phẩm do thi công tạo ra
53
14
Thuế sản xuất
900
15
Lợi nhuận và các khoản phải nộp khác
15.414,06
1. Tính chỉ tiêu giá trị sản xuất xây lắp (GO).
Theo công thức đã xác định:
=
Doanh thu thuần tiêu thụ sản phẩm xây lắp trong kỳ
+
Giá trị khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ
-
Giá trị khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ
Giá trị công tác xây lắp
Ta có:
= 17.581 + 8.532 - 2.120
= 23.993 (triệu đồng)
Giá trị sản xuất xây lắp
=
Giá trị công tác xây lắp
+
Giá trị công tác SCL nhà cửa, vật kiến trúc
+
Doanh thu cho thuê TB, MM có người điều khiển đi kèm
+
Giá trị phế liệu, phế phẩm do thi công tạo ra
= 23.993 + 13.749 + 9.747 + 53
= 47.542 (triệu đồng)
Như vậy, giá trị sản xuất của Công ty lắp máy điện nước và xây dựng năm 2001 là:
GOxl = 47.542 (triệu đồng)
2. Tính chi phí trung gian của Công ty lắp máy điện nước và xây dựng năm 2001.
Ta đã có :
Chi phí trung gian xây lắp
=
Tổng chi phí vật chất(không kể khấu hao TSCĐ)
+
Tổng chi phí dịch vụ
Trong đó tổng chi phí vật chất bao gồm nguyên vật liệu, nhiên liệu và động lực, năng lượng và chi phí vật chất khác. Cụ thể:
Chi phí nguyên vật liệu : 16.590 (tr.đ)
Chi phí nhiên liệu, động lực: 2.980 (tr.đ)
Chi phí năng lượng: 400 (tr.đ)
Chi phí vật chất khác: 3.368,5 (tr.đ)
ị Tổng chi phí vật chất = 16.590 + 2.980 + 400 + 3.368,5 = 23.338,5 (tr.đ)
và tổng chi phí dịch vụ : 3.450 (tr.đ)
Vậy ta đượcgiá trị chỉ tiêu chi phí trung gian xây lắp (IC) năm 2001 của Công ty lắp máy điện nước và xây dựng là :
ICxl = 23.338,5 + 3.450 = 26.788,5 (tr.đ)
3. Tính giá trị tăng thêm (VA)của Công ty lắp máy điện nước và xây dựng năm 2001.
3.1. Tính VA theo phương pháp sản xuất:
VAxl = GOxl - ICxl
= 47.542 – 26.778,5 = 20.763,5 (tr.đ)
3.2. Tính VA theo phương pháp phân phối:
Theo phương pháp này ta có công thức:
Giá trị tăng thêm
=
Thu nhập của người lao động
+
BHXH, BHYT,KPCĐ doanh nghiệp đã trích nộp trong kỳ
+
Lợi nhuận và các khoản phải nộp khác
+
Thuế sản xuất
+
Khấu hao TSCĐ
= 4.250,94 + 198,5 + 15.414,06 + 900 + 2.203
= 20.763,5 (tr.đ)
Vậy giá trị tăng thêm xây lắp năm 2001 của công ty lắp máy điện nước và xây dựng là:
VAxl = 20.763,5 (tr.đ)
Kết luận
Sau một thời gian thực tập thực tế, tôi đã cố gắng bằng hiểu biết của mình đã học được ở trường để mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế của ngành Xây dựng và là các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) đặc biệt là ba chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm của ngành Xây dựng. Qua thực tập tốt nghiệp tôi thấy được việc tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất (GO),chi phí trung gian(IC) và giá trị tăng thêm(VA ) là rất quan trọng đối với việc quản lý kinh tế của các doanh nghiệp ở tầm vi mô cũng như việc quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ mô. Hầu hết các doanh nghiệp bây giờ đều áp dụng tính các chỉ tiêu đó vừa giúp cho cấp trên quản lý kinh tế vừa tiện lợi cho việc so sánh đánh giá giữa các doanh nghiệp với nhau. Có những doanh nghiệp vì không tập hợp được đầy đủ số liệu về chi phí hoặc số liệu không chính xác làm cho kết qủa thiếu độ tin cậy không phản ánh đúng bản chất của các hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.
Trong bài viết, tôi dựa vào các phương pháp tính của các tài liệu đưa ra và đang áp dụng để cố gắng nêu ra phương pháp tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm ngành Xây dựng, đặc biệt là Giá trị sản xuất xây lắp. Vì các chỉ tiêu này phản ánh đúng kết quả cuối cùng của doanh nghiệp và của toàn ngành Xây dựng và việc phân bố giá trị cho từng đối tượng để từ đó giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp , cho Nhà nước hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo.
Vì thời gian thực tập tốt nghiệp ở Vụ Xây dựng, Giao thông và Bưu điện thuộc Tổng cục Thống kê chưa nhiều cho nên kinh nghiệm thực tế của tôi còn hạn chế, nhưng được sự giúp đỡ của các bác, các cô và các chú ở Vụ Xây dựng, Giao thông và Bưu điện và các thầy, cô trong khoa Thống kê nhất là được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Trần Ngọc Phác nên tôi đã hoàn thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Qua chuyên đề thực tập tốt nghiệp này cho tôi một lần nữa gửi tới các bác, các cô, các chú ở Vụ Xây dưng, Giao thông và Bưu điện và thầy giáo TS. Trần Ngọc Phác lời cảm ơn chân thành nhất.
Tài liệu tham khảo
Phương pháp biên soạn Hệ thống tài khoản quốc gia(SNA) ở Việt nam.
Tổng cục Thống kê biên soạn.
Xây dựng Hệ thống tài khoản quốc gia(SNA) ở Việt nam.
Tổng cục Thống kê biên soạn.
Kinh tế xây dựng.
Trường ĐH Xây dựng biên soạn.
4. Giáo trình Thống kê kinh tế.
Trường ĐH Kinh tế quốc dân biên soạn.
5. Giáo trình Kinh tế chính trị.
Trường ĐH Kinh tế quốc dân biên soạn.
6. Chế độ báo cáo thống kê xây dựng cơ bản định kỳ.
Vụ Xây dựng, Giao thông và Bưu điện biên soạn.
7. Quản lý Nhà nước về kinh tế và quản trị kinh doanh trong xây dựng .
GS.TS .Nguyễn Văn Chọn chủ biên.
8. Lý thuết kinh tế và công nghiệp xây dựng.
Bộ Xây dựng biên soạn.
9. Tạp chí xây dựng năm 2001.
Mục lục
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29115.doc