LỜI NÓI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bảo vệ môi trường đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội bền vững của các quốc gia và cả thế giới. Sự phát triển kinh tế xã hội cùng với quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã đặt ra những yêu cầu bức xúc về quản lý chất thải sinh hoạt đô thị. Một trong những nội dung được Đảng và Nhà Nước hết sức quan tâm là hoạt động thu gom và xử lý chất thải rắn trong sinh hoạt như thế nào để vừa nâng cao hiệu quả kinh
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải tại huyện Thanh Trì - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế vừa đảm bảo môi trường. Để giải quyết vấn đề này, nhiều địa phương đã tổ chức các mô hình thu gom và xử lý rác khác nhau tùy theo điều kiện cụ thể của từng địa phương, thể hiện tính xã hội hóa cao.
Thanh Trì là một huyện ngoại thành, nằm ở cửa ngõ phía Nam của Thủ đô Hà Nội. Trong những năm qua, cùng với quá trình hội nhập, phát triển kinh tế xã hội huyện Thanh Trì đã và đang từng bước chuyển mình phát triển kinh tế tập trung, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, thu hút nhiều lao động tự do từ các vùng lân cận khiến cho mật độ dân số ngày càng cao làm nảy sinh nhiều vấn đề môi trường, đặc biệt là vấn đề rác thải. Cùng với quá trình đô thị hóa và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nên quỹ đất bị thu hẹp dần, không còn đủ để phục vụ cho công tác chôn lấp rác tại chỗ. Thực tế rác thải chủ yếu đổ lộ thiên tại các hố đấu, ao, hồ, hoặc ven các trục đường giao thông gây mất vệ sinh môi trường ảnh hưởng tới sức khỏe nhân dân. Trước tình hình trên nhằm thực hiện tốt công tác duy trì vệ sinh môi trường, đảm bảo sức khỏe người dân, giữ gìn cảnh quan đô thị đồng thời thu hút khả năng và tiềm lực kinh tế của nhân dân về công tác vệ sinh môi trường, tôi đã quyết định chọn đề tài: Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải tại huyện Thanh Trì – Hà Nội.
2. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp điều tra thực địa: Thu thập thông tin cần thiết từ cơ quan chức năng (số liệu thống kê) kết hợp với việc quan sát thực tế các đối tượng tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Thanh Trì.
* Phương pháp phân tích chi phí lợi ích:
Trên cơ sở các kết quả có được do điều tra, thu thập tài liệu liên quan từ các nguồn khác nhau, phân tích và đánh giá tổng hợp các thông tin thu thập được để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá hiệu quả thực hiện mô hình xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải trên địa bàn huyện Thanh Trì, đảm bảo thực hiện tốt công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
- Nâng cao chất lượng môi trường và ý thức giữ gìn vệ sinh bảo vệ môi trường của mọi người dân, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng làm mất vệ sinh gây ô nhiễm môi trường, xây dựng môi trường trong lành tại khu dân cư. Tạo điều kiện cho người dân làm chủ, có trách nhiệm tham gia tích cực bảo vệ môi trường sống của mình và của cộng đồng.
- Tận dụng một cách tốt nhất các cơ sở vật chất mà Nhà Nước đã đầu tư để phục vụ công tác thu gom và vận chuyển rác thải, giảm chi phí của ngân sách Nhà Nước cho công tác này.
- Thu hút sự tham gia của các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế vào các hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm đóng góp của nhân dân cùng với việc tham gia, giám sát quá trình thực hiện.
- Đảm bảo quyền lợi vật chất và tinh thần cho số lao động hiện đang làm công tác thu gom rác trên địa bàn huyện Thanh Trì.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian thực tập còn hạn chế nên em chỉ nghiên cứu và đánh giá hiệu quả của việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải trong các đợt vệ sinh phong trào và các mô hình cộng đồng tự quản thực hiện trên địa bàn huyện Thanh Trì.
4. Kết cấu của đề tài
Báo cáo chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được chia làm 3 phần
Phần 1: xã hội hoá công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải
Phần2: Hiện trạng công tác vệ sinh môi trường trên địa bàn huyện Thanh Trì
Phần 3: Đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện mô hình.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của PGS.TS. Lê Thu Hoa, cán bộ hướng dẫn Nguyễn Duy Thuận và tập thể cán bộ công nhân viên huyện Thanh Trì đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
CHƯƠNG 1: XÃ HỘI HOÁ CÔNG TÁC VỆ SINH MÔI TRƯỜNG TRONG QUẢN LÝ RÁC THẢI
1.1. Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
1.1.1 Các quan niệm về xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường (VSMT) là một phần rất quan trọng trong chiến lược bảo vệ môi trường (BVMT) và phát triển bền vững (PTBV) mà Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.
BVMT bao gồm nhiều vấn đề như ô nhiễm không khí, ô nhiễm biển và đại dương, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm tài nguyên đất, đa dạng sinh học,… nhận thức được tầm quan trọng của công tác BVMT đối với sự PTBV của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp thiết thực nhằm khôi phục và cải thiện tình trạng môi trường hiện nay. Nhưng môi trường là một lĩnh vực rộng lớn, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến tất cả mọi người. Nếu chỉ dựa vào Nhà nước thì không đem lại hiệu quả lâu bền được mà đòi hỏi phải có sự hợp tác của cả cộng đồng. Xã hội hóa BVMT là sự kết hợp hài hòa vai trò của cộng đồng và sự quản lý của Nhà nước vào các mặt hoạt động trong lĩnh vực môi trường. Tạo điều kiện để các cá nhân, tổ chức các thành phần kinh tế tham gia góp sức vào bảo vệ môi trường, chia sẻ bớt gánh nặng và trách nhiệm với Nhà nước, để Nhà nước có điều kiện tập trung vào phát triển các lĩnh vực, các chuyên ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, kỹ thuật công nghệ cao, như đào tạo đội ngũ nhân lực, y tế, giáo dục, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất…. BVMT là nhiệm vụ chung của cả cộng đồng chứ không phải nhiệm vụ riêng của Nhà nước.
Mô hình xã hội hóa công tác BVMT mặc dù đã được thực hiện và triển khai ở nhiều địa phương trên cả nước, nhiều quốc gia và đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực nhưng cho đến nay chưa có một khái niệm thống nhất về xã hội hóa công tác BVMT.
- Theo Tiến Sỹ Trần Thanh Lâm ( Tạp chí BVMT ): Xã hội hóa công tác BVMT là quá trình chuyển hóa tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới trong hoạt động BVMT trên cơ sở đồng trách nhiệm, nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội phục vụ cho công tác BVMT để đạt mục tiêu PTBV.
- Xã hội hóa công tác BVMT là việc huy động sự tham gia của toàn xã hội nhằm cải thiện môi trường và từng bước nâng cao mức hưởng thụ vật chất và tinh thần người dân.
- Xã hội hóa công tác BVMT là việc huy động ở mức cao nhất sự tham gia của toàn xã hội vào sự nghiệp BVMT, phát huy vai trò của cộng đồng trong công tác BVMT.
- Xã hội hóa công tác BVMT là việc vận động và tổ chức toàn xã hội và nhân dân tham gia một cách rộng rãi vào công tác BVMT nhằm cải thiện môi trường và từng bước nâng cao mức hưởng thụ vật chất và tinh thần của người dân. (Trích Sở Giao Thông công chính Thành phố Hà Nội năm 2000).
Vậy xã hội hóa công tác BVMT phải trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tầng lớp trong xã hội từ những nhà hoạch định chính sách, những nhà quản lý tới mọi người dân trong xã hội huy động sự tham gia đóng góp một phần kinh phí của mỗi người dân nhằm giảm ngân sách của nhà nước, địa phương đầu tư cho công tác BVMT. Bởi vì môi trường là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn nó bao trùm lên mọi mặt và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, BVMT là trách nhiệm và nghĩa vụ chung của cả cộng đồng.
Xã hội hóa BVMT được xem xét chủ yếu trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải để giải quyết vấn đề rác thải sinh hoạt đang ngày càng trở nên bức thiết ở các quận, huyện. Nhằm khuyến khích sự đóng góp của người dân giảm sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước.
1.1.2 Mục tiêu của xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
1.1.2.1 Về mặt xã hội
- Tạo điều kiện để người dân thực sự làm chủ và có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống của mình và cộng đồng, góp phần nâng cao ý thức giữ gìn môi trường trong nhân dân. BVMT là trách nhiệm chung của cả cộng đồng, BVMT chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi mọi người ý thức vai trò và tầm quan trọng của môi trường. Từ đó BVMT mới trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người dân, họ thực sự làm chủ, có trách nhiệm tham gia trực tiếp BVMT sống của mình và cộng đồng. Xã hội hóa công tác VSMT chính là xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải là một mảng trong xã hội hóa công tác BVMT. Vì vậy Nhà nước cần có các chính sách, giải pháp nhằm khuyến khích sự tham gia của mỗi người dân vào công tác BVMT.
- Thực hiện xã hội hóa công tác BVMT nhằm nâng cao trách nhiệm của toàn dân đối với các vấn đề liên quan đến môi trường. Vì vậy công tác xã hội hóa BVMT sẽ tạo ra động lực khuyến khích các tổ chức, cá nhân, thành phần kinh tế có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp dưới các hình thức như: tuyên truyền giáo dục ý thức BVMT, tham gia giữ gìn VSMT làng xóm, địa phương, thành lập các tổ vệ sinh viên, các công ty,… đảm nhận các khâu thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải làm cho đường phố, ngõ xóm, khu dân cư…..luôn sạch sẽ, không để rác phế thải rồn động, lưu cữu góp phần làm cho môi trường trở nên xanh, sạch , đẹp.
1.1.2.2. Về mặt kinh tế
- Thực hiện xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải làm giảm ngân sách của Nhà nước, tăng đóng góp của người dân trong việc thu gom rác và duy trì vệ sinh môi trường.
Nước ta đang trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường việc huy động nguồn vốn tự có trong dân là rất cần thiết cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường đảm bảo một sự PTBV. Các dịch vụ liên quan đến công tác bảo vệ môi trường là các dịch vụ mang tính chất xã hội với những đặc điểm hết sức riêng biệt so với các loại dịch vụ thông thường khác. Vì vậy theo nguyên tắc thị trường người trực tiếp sử dụng và hưởng dịch vụ phải trả cho người cung cấp dịch vụ. Nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân, thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực cung ứng loại dịch mới mẻ này.
Tạo công ăn việc làm cho người dân.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề thất nghiệp đang được Đảng, Nhà nước và người dân rất quan tâm, khi mà xã hội càng phát triển nhu cầu việc đòi hỏi ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu ngày một cao của người dân. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của xã hội hóa công tác BVMT là tạo công ăn việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư địa phương. Chính điều này đã tạo ra động lực khuyến khích các cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế tham gia vào công tác BVMT hình thành nên các công ty, hợp tác xã, đội dân lập tự quản, tổ cung cấp dịch vụ vệ sinh môi trường… tạo điều kiện thu hút một lực lượng lao động đáng kể tạo ra thu nhập cho người dân. Từ đó từng bước giải quyết công ăn việc làm, tạo thêm việc làm và cải thiện mức sống của người dân tạo cơ hội cho phép họ có khả năng tiếp cận được với các dịch vụ như y tế, giáo dục,….
Trong bất cứ lĩnh vực nào của Nhà nước khi đưa ra mà nhận được sự ủng hộ, tham gia của người dân thì chắc chắn sẽ thành công. Lĩnh vực BVMT cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Môi trường là trách nhiệm chung của cả cộng đồng không phải riêng của một cá nhân hay một tổ chức nào trong xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của xã hội hóa công tác BVMT sẽ khuyến khích các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế tham gia vào các lĩnh vực BVMT. Đặc biệt là công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện các mục tiêu trong quản lý rác thải, nâng cao chất lượng môi trường tạo công ăn việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư địa phương, từng bước giảm dần bao cấp của Nhà nước, huy động các nguồn lực hiện có trong dân để góp phần làm tốt công tác vệ sinh môi trưòng, tạo điều kiện thực hiện nhất quán giữa Nhà nước, chính quyền và người dân địa phương trong việc thực thi các chương trình, kế hoạch, chủ trương, chương trình về môi trường.
1.1.3. Nhiệm vụ của xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
1.1.3.1. Phổ biến, giáo dục ý thức người dân trong công tác vệ sinh môi trường
Chất lượng môi trường phần lớn phụ thuộc vào ý thức của cộng đồng. Do đó Nhà nước cần tập trung vào công tác nâng cao nhận thức cộng đồng một cách mạnh mẽ. Cần khuyến khích và đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa đối với công tác vệ sinh môi trường trên toàn quốc. Đặc biệt nước ta đã trải qua thời kỳ bao cấp mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng đổi mới, cải cách nhưng người dân vẫn còn mang nặng tính trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Chính vì vậy công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức người dân về BVMT là rất cần thiệt đặc biệt trong công tác xã hội hóa về thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải nó trở thành công việc chung của cả xã hội.
1.1.3.2. Khuyến khích và đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
- Lập các chương trình xây dựng xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải gồm các khâu thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải phù hợp với trình độ, khả năng của từng đối tượng tham gia như cơ quan, trường học, người dân, cơ sở sản xuất kinh doanh…..
- Phát động các đợt thi đua nhân các ngày lễ, tết, ngày nghỉ nhằm xây dựng các tuyến đường xanh, sạch, đẹp do nhân dân tự quản…
- Đẩy mạnh công tác giáo dục tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia công tác xã hội hóa vệ sinh môi trường. Sử dụng các biểu ngữ, áp phích cũng là 1 cách làm rất hiệu quả đối với công tác tuyên truyền.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động thi đua của các phong trào, các mô hình cộng đồng tự quản, sự tham gia tích cực của các cá nhân có khen thưởng.
- Tiến hành các mô hình về công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải tại 1 số địa bàn cụ thể từ đó sẽ nhân rộng ra toàn khu vực.
1.1.3.3. Lựa chọn mô hình quản lý xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
Việc thực hiện quản lý xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường sẽ đạt hiệu quả cao khi lựa chọn được mô hình quản lý phù hợp. Trên thực tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã có rất nhiều tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tham gia vào dưới các hình thức như công ty tư nhân, các tổ dân lập, công ty trách nhiệm hữu hạn….Từ khi được thành lập và hoạt động môi trường của Thành phố, Thị trấn… được cải thiện nhanh chóng, tạo cho người dân ý thức tự giác hơn trong việc giữ gìn bảo vệ môi trường. Các địa phương cần căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, thực trạng môi trường của mình mà quyết định lựa chọn mô hình phù hợp nhằm thu hút sự tham gia, hưởng ứng và ủng hộ của người dân nâng cao hiệu quả hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
1.1.3.4.Tạo sự phối hợp đồng bộ giữa người dân và cơ chế chính sách trong xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
Tổ chức quản lý xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường chỉ có thể được triển khai và thực hiện có hiệu quả khi có sự phối hợp đồng bộ giữa người dân và cơ chế chính sách quản lý của Nhà Nước như hoàn thiện các văn bản pháp quy về môi trường, vệ sinh môi trường như các tiêu chuẩn phân công phân cấp quản lý, các tiêu chuẩn vệ sinh môi trường đô thị, các cơ chế chính sách khuyến khích đối với các đơn vị thực hiện vệ sinh môi trường, tăng cường tuyên truyền và thay đổi nhận thức của các cấp chính quyền về vai trò của Nhà Nước trong cung ứng dịch vụ công, mạnh dạn đổi mới phương thức quản lý, không ôm đồm những việc mà các chủ thể các thành phần kinh tế khác có thể thực hiện được trong tầm kiểm soát của Nhà Nước, đa dạng hóa hình thức chuyển giao, ngoài hình thức ký hợp đồng giao thầu có thể nghiên cứu, thực hiện các hình thức chuyển giao khác như đấu thầu cung ứng dịch vụ toàn bộ, đấu thầu cung ứng dịch vụ theo công đoạn hoặc theo địa bàn và thực hiện cổ phần hóa, cho thuê, bán doanh nghiệp Nhà Nước đang thực hiện dịch vụ vệ sinh môi trường…. Trước đây Nhà Nước với tư cách là tổ chức pháp nhân duy nhất cung ứng loại dịch vụ này thì nay Nhà Nước cần đưa ra các chính sách, cơ chế tạo động lực khuyến khích các cá nhân, tổ chức , thành phần kinh tế tham gia vào quá trình thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải chuyển dần vai trò sang cho tư nhân, các thành phần kinh tế, người dân. Ngược lại khi có sự tham gia của các cá nhân, các tổ chức, các thành phần kinh tế sẽ huy động được một nguồn vốn lớn hiện có trong dân, lực lượng tham gia đông đảo chính những yếu tố quan trọng này đã quyết định đến hiệu quả thành công của công tác xã hội hóa vệ sinh môi trường về thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Vì vậy cần có sự đồng bộ nhất quán trong các chính sách quản lý rác thải điều đó sẽ khuyến khích, tạo động lực để cộng đồng tham gia vào lĩnh vực hoàn toàn mới này công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
1.1.4. Hiệu quả của xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
- Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường phát huy được sức mạnh của nhân dân trong việc đóng góp kinh phí có thể làm tăng nguồn vốn dự trữ cho Nhà nước.
- Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường đã đạt được hiệu quả về mặt kinh tế, môi trường, xã hội do đó khuyến khích các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế tham gia vào làm giảm chi phí đầu tư từ ngân sách Nhà Nước cho công tác vệ sinh môi trường.
- Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường đã tạo thêm các cơ hội mới về việc làm cho người lao động, tăng thu nhập và mức sống cho họ.
- Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường đã có tác dụng nâng cao tích tự lực và trách nhiệm của cộng đồng trong công tác giữ gìn VSMT xung quanh họ.
1.2 Quản lý rác thải
1.2.1. Rác thải
Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa ở Việt Nam phát triển với tốc độ khá nhanh nên lượng chất thải ngày một gia tăng. Chất thải là một bộ phận vật liệu không còn giá trị sử dụng nữa phát sinh ra từ quá trình xản xuất và sinh hoạt của con người. Chất thải từ quá trình sinh hoạt của con người gọi là rác thải.
Rác thải là một yếu tố ô nhiễm môi trường có hại cho sức khỏe của con người, rác thải luôn gắn liền với đời sống con người và tồn tại xung quanh môi trường sống của con người.
Cùng với sự phát triển công nghiệp, tỷ lệ gia tăng dân số, hệ thống dịch vụ và bệnh viện, chất thải từ các nguồn này cũng tăng một cách nhanh chóng. Ước tính hàng ngày nội thành thải ra một lượng chất khoảng 3000m3. Trong đó chất thải sinh hoạt chiếm khoảng 80%, chất rắn công nghiệp là 12%. Nhưng hiện nay, Công ty môi trường đô thị mới chỉ thu gom được khoảng 80% tổng số rác trong nội thành… còn ở các huyện ngoại thành chỉ đạt 42%. Vì vậy xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải là rất cần thiết cần có sự tham gia của cả cộng đồng.
1.2.2. Phân loại các nguồn phát sinh rác thải
Chất thải sinh hoạt: là loại chất thải phát sinh từ các hoạt động của con người ở các khu dân cư, cơ quan, trường học, các cửa hàng kinh doanh dịch vụ, thương mại…
Chất thải công nghiệp: là loại chất thải phát sinh từ các hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, bao gồm cả chất thải công nghiệp độc hại.
Chất thải xây dựng: là các loại phế thải phát sinh trong quá trình sữa chữa, cải tạo xây dựng các công trình kiến trúc…
Chất thải bệnh viện: là các chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn ở các bệnh viện, trạm y tế….
1.2.3. Hiện trạng quản lý rác thải
Các quốc gia, cùng với xu hướng phát triển nhanh và khả năng tiêu thụ hàng hóa nhiều hơn, đang sản sinh ra một lượng rác lớn chưa từng có. Trong khi đó, hầu hết các nước đều chưa chú trọng các giải pháp và công nghệ xử lý rác thải. Nước ta sau hơn 15 năm đổi mới, cùng với sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế, tốc độ tăng GDP 7 – 8%, khối lượng chất thải rắn tại các khu công nghiệp tăng lên không ngừng theo tốc độ đô thị hóa, phát triển công nghiệp, cũng như mức tăng dân số. Tình trạng thu gom và xử lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp ở nước ta mặc dù đã được cải thiện đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đô thị hiện nay. Hầu hết rác thải không được phân loại nguồn thu mà thu lẫn lộn tỷ lệ thu gom chất thải rắn tính chung toàn quốc vào khoảng 70%. Thực trạng này cùng với sự thiếu ý thức của người dân đang gây ra những thảm họa sinh thái. Hà Nội, cùng với sự bùng nổ nhanh về kinh tế, đang phải đương đầu với những thách thức thực sự về môi trường. Hiện trung bình một cư dân Hà Nội thải ra khoảng 0.85kg rác mỗi ngày. Con số này dự tính sẽ lên tới 1.3kg khi thị trường tiêu thụ của thủ đô còn phát triển nhanh hơn nữa cho đến cuối thập niên này. Bãi rác chính Nam Sơn của Hà Nội mới được đưa vào sử dụng 7 năm nay nhưng đã phải mở rộng tới 43ha để có thể chứa được số lượng rác khổng lồ của thủ đô. Trong tổng số 900.000 tấn rác thải hàng năm của Hà Nội, chỉ có 50.000 tấn được tái chế. Còn tại Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi người dân thải ra trung bình tới 1kg rác mỗi ngày, 10% trong số này được quẳng xuống các kênh rạch trên địa bàn.
Qúa trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh, vượt trước dự báo, không theo quy hoạch và do quản lý không tốt nên môi trường đang bị ô nhiễm nặng nề, lượng rác thải ngày một tăng. Tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường… của từng địa phương để lựa chọn mô hình tổ chức quản lý cho phù hợp vừa đảm bảo phát triển kinh tế, vừa đảm bảo sức khỏe cộng đồng đồng thời giảm chi từ ngân sách của Nhà nước tăng nguồn đóng góp, hỗ trợ trong dân. Để có thể thực hiện tốt được xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường cần phải quản lý tốt các khâu thu gom rác, vận chuyển rác, xử lý rác.
- Ở các nước đang phát triển khi mà nền kinh tế còn nghèo, tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường…. của từng địa phương mà việc thu gom rác được tiến hành bằng các phương tiện khác nhau như các xe xúc vật kéo, các xe có động cơ… phương pháp thu gom rác phổ biến hiện nay ở Việt Nam là thu gom rác bằng xe đẩy tay, đây là loại hình lao động chân tay rất vất vả, không hợp vệ sinh ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của công nhân thu gom rác.
- Công đoạn thực hiện tiếp theo sau khi thu gom rác là vận chuyển. Rác sau khi được chôn lấp lên xe sẽ được chuyển từ địa điểm thu gom đến bãi chôn lấp hoặc qua các trạm trung chuyển. Công đoạn này đuợc thực hiện bằng các phương tiện cơ giới chủ yếu là ô tô có trọng tải lớn, các xe ép rác để vận chuyển một khối lượng rác cùng lúc làm giảm chi phí vận chuyển. Ngoài ra các xe tải nhỏ, xe tải nhẹ cũng được sử dụng để thu gom và vận chuyển rác từ các khu phố, ngõ hẹp, ngõ xóm để đưa rác ra các trạm trung chuyển. Ở trạm trung chuyển rác thải có thể được chôn lấp, xử lý, phân loại và tái sinh, các doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia hoạt động ngay tại đây trong các khâu như thu gom, phân loại rác, tái chế. Từ các trạm trung chuyển rác thải được chuyển từ thiết bị sức chứa nhỏ sang thiết bị có sức chứa lớn hơn và được vận chuyển đến các bãi rác.
- Tùy vào điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên, môi trường…. của từng quốc gia, địa phương và tùy vào thành phần rác thải mà có sự kết hợp các biện pháp xử lý sao cho thích hợp nhất đảm bảo tính vệ sinh cao, giảm bớt chi phí…
1.3. Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải
1.3.1. Khái niệm
Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải là việc huy động sự tham gia của cộng đồng, của toàn thể xã hội vào công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải đồng thời biến công tác vệ sinh môi trường trở thành quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân. Kết hợp hài hòa vai trò của nhân dân, các thành phần kinh tế và sự đầu tư của Nhà Nước nhằm đảm bảo hiệu qủa cao trong quản lý rác thải.
1.3.2. Các mô hình tham gia thực hiện xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường ở nước ta
Hiện nay môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm và bị suy thoái, có nơi nghiêm trọng…Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp thiết thực nhằm khôi phục và cải thiện tình trạng môi trường hiện nay. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là tăng nguồn ngân sách đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là tăng nguồn ngân sáh đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Việt Nam đang trong quá trình CNH – HĐH đất nước ngân sách Nhà nước còn hạn chế, phải san sẻ cho nhiều lĩnh vực đầu tư cho công tác BVMT vẫn chưa được thỏa đáng. Vì vậy việc huy động sự đóng góp của cộng đồng trong việc giải quyết các vấn đề môi trường là rất cần thiết, phải coi bảo vệ môi trường là quyền lợi và trách nhiệm của cả cộng đồng.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường Nhà nước chuyển dần vai trò của mình từ quản lý và điều hành trực tiếp hoạt động phát triển đất nước sang chức năng hoạch định, giám sát và điều phối chính sách phát triển. Bên cạnh tác nhân xã hội Nhà nước và tác nhân mới cộng đồng dân cư địa phương và tổ chức xã hội thì thị trường cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi các hành vi của cơ sở sản xuất cụ thể là sự tham gia của các thành phần kinh tế, các công ty, doanh nghiệp…
Với sự tham gia của ba yếu tố cơ bản: Nhà nước, thị trường, cộng đồng trong công tác xã hội hóa BVMT cụ thể là XHH công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Người ta đã đưa ra ba mô hình: mô hình doanh nghiệp quốc doanh, mô hình ngoài quốc doanh và mô hình cộng đồng tự quản trong công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải. Tùy vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường…của từng địa phương để lựa chọn mô hình tổ chức quản lý cho phù hợp, việc xây dựng một mô hình tổ chức quản lý thích hợp sẽ quyết định đến hiệu quả của công tác vệ sinh môi trường.
1.3.2.1. Mô hình doanh nghiệp quốc doanh
Các doanh nghiệp do Nhà nước đảm nhiệm với hình thức hoạt động dịch vụ công ích, các doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình công ty gồm nhiều phòng, ban, tổ, đội, trong đó lao động gián tiếp chiếm tỷ lệ 5% - 10%. Các điều kiện ban đầu cho hoạt động của doanh nghiệp như tài sản, thiết bị, vốn… đều do Nhà nước cấp, kinh phí thường xuyên từ ngân sách Nhà nước cho hoạt động VSMT bình quân từ 3 – 5 tỷ đồng/năm.
Mô hình này phụ trách các khâu khâu quan trọng, yêu cầu kỹ thuật phức tạp, đúng quy trình kỹ thuật công nghệ đòi hỏi vốn lớn, thực hiện duy trì VSMT thành phố, thị trấn, các khu vực trung tâm.
Mô hình hoạt động dưới 2 loại hình là.
Công ty môi trường đô thị trực thuộc sở giao thông công chính của tỉnh/ thành phố.
Các xí nghiệp môi trường đô thị trực thuộc ủy ban nhân dân huyện.
* Ưu điểm của mô hình
Có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các khâu thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải đặc biệt khi có sự cố xảy ra dễ dàng huy động sự giúp đỡ của các đơn vị khác.
Thu gom, vận chuyển và xử lý rác cần có những công nghệ cao, vốn đầu tư lớn khả năng thu hồi vốn chậm khiến cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không muốn hoặc không có khả năng tham gia vào để thực hiện các hoạt động này.
* Nhược điểm của mô hình
- Mục đích của xã hội hóa công tác VSMT trong lĩnh vực thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải là giảm dần bao cấp của Nhà nước, tăng sự đóng góp và huy động nguồn vốn hiện có trong dân nhưng hoạt động của mô hình chủ yếu dựa vào bao cấp của Nhà nước. Bên cạnh đó bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo nên tính khả thi thực hiện các phương án còn chậm trễ chủ yếu mang tính trông chờ, ỷ lại. Khả năng cung cấp các dịch vụ VSMT của các doanh nghiệp quốc doanh chỉ giới hạn ở một mức độ nhất định, không thể cung cấp cho mọi đối tượng. Cụ thể chỉ đảm nhận được công tác VSMT các khu vực thành phố, thị trấn, thị tứ còn ở khu vực nông thôn chỉ tham gia hướng dẫn thực hiện về kỹ thuật. Tuy nhiên hình thức hoạt động, phương thức quản lý vẫn còn nhiều lúng túng, chưa đạt hiệu quả cao.
- Bên cạnh đó, do không có yếu tố cạnh tranh nên các doanh nghiệp công ích thường không chú ý tới việc giảm chi phí, hạ giá thành và nâng cao hiệu quả hoạt động. Cách tổ chức cung ứng dịch vụ như vậy không thực sự khuyến khích doanh nghiệp, chưa gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với công việc được giao.
1.3.2.2. Mô hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Ở nước ta, việc chuyển giao một số dịch vụ như vận tải công cộng, giáo dục, y tế… cho khu vực tư nhân cũng đã từng được thực hiện. Tuy nhiên, việc cung ứng dịch vụ VSMT đô thị một loại hình dịch vụ công cộng hết sức cần thiết trong đời sống xã hội hiện nay vẫn do khu vực kinh tế quốc doanh đảm nhiệm. Việc tham gia của khu vực tư đã bước đầu đem lại hiệu quả.
- Mô hình công ty tư nhân thu gom rác thải ở Đồng Nai hiệu quả
Doanh nghiệp dịch vụ VSMT công cộng Trúc Anh ở thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai do Anh Đỗ Khắc Long làm chủ sau 6 năm hoạt động đã khẳng định hiệu quả trong việc huy động tư nhân tham gia công tác VSMT, tạo dựng được uy tín với nhân dân địa phương.
Với sự cần cù, chịu khó của đội ngũ công nhân làm công tác thu gom rác thải sinh hoạt, hiện nay công ty đã ký hợp đồng thu dọn rác với hơn 5.000 hộ trong nội, cộng với các hợp đồng với các cơ quan, đơn vị, lượng rác doanh nghiệp thu gom mỗi ngày lên tới hơn 50 tấn, chiếm khoảng 65% lượng rác thải của thị xã. Doanh nghiệp hiện có 2 bãi chôn rác biệt lập ở nông trường An Lộc để xử lý rác.
Từ 19 lao động ban đầu, doanh nghiệp đã tuyển thêm gần 60 lao động trong thị xã làm công việc thu gom rác với mức thu nhập từ 1 triệu đồng trở lên/tháng.
Từ sự hiệu quả trong thu gom rác thải của công ty Trúc Anh, thị xã Long Khánh tiếp tục giao thêm cho đơn vị bảo trì hệ thống chiếu sáng công cộng, chăm sóc bảo vệ cây xanh thành phố, các vườn hoa, tượng đài, nạo vét kênh mương, rãnh thoát nước cho thị xã.
- Mô hình thu gom rác thải của anh Nguyễn Văn Tước xã Tản Lĩnh
Trên địa bàn xã nhiều hộ dân còn vứt rác bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường khu dân cư, đặc biệt có nhiều điểm du lịch, vấn đề rác thải, vệ sinh môi trường chưa được quan tâm. Trước những bức xúc này, năm 2004 anh Trước đã mạnh dạn thành lập Tổ thu gom rác thải. Lúc đầu gặp nhiều khó khăn về vốn, anh đã quyết định bán vườn cây cảnh của gia đình, mua 2 xe công nông, 6 xe đẩy, thuê 6 lao động, tự thu gom rác ở thôn, xóm, rồi thu phí dịch vụ trực tiếp với các hộ dân 6.000 đồng/hộ/tháng. Đề nghị với Công ty Môi trường Đô thị xã Sơn Tây đồng ý được tập kết rác trên bãi rác của Công ty tại Huyện Ba Vì với mức phí 50.000 đồng/tấn. Sau 1 năm hoạt động, cuối năm 2005, anh đã thành lập hợp tác xã Thành Đạt, mở rộng địa bàn thu gom rác ở một số xã trong huyện.
Đến nay, hợp tác xã Thành Đạt có 13 lao động chuyên thu gom rác thải trực tiếp ở khu dân cư trên địa bàn xã và hợp đồng với UBND một số xã và các điểm du lịch khu vực Ba Vì làm dịch vụ chuyên chở rác đến địa điểm tập kết và xử lý hơn 1.000 tấn rác thải/năm. Lao động làm việc được trang bị đầy đủ bảo hộ lao động, các dụng cụ làm việc, mức lương bình quân 900.000 đồng/người/tháng. Hiện nay anh mong sớm được các cấp, các ngành quan tâm cho phép xây dựng đề án vay vốn, mở rộng dịch vụ VSMT trên địa bàn toàn huyện Ba Vì.
- Công ty trách nhiệm._. hữu hạn Huy Hoàng
Công ty đảm nhận thu gom rác trên các tuyến đường, nạo vét hệ thống cống ngầm, chăm sóc cây xanh tại trung thành phố… Địa bàn hoạt động của công ty ngày càng mở rộng. Chất lượng dịch vụ của Công ty ngày càng được nâng lên, rác thải được gom hàng ngày và vận chuyển đến nơi tập kết một cách nhanh chóng, lượng rác thải tồn đọng ngày càng giảm. Bãi đổ rác tập trung đã được đưa ra trung tâm thành phố và có những thiết bị xử lý ban đầu, hạn chế được tình trạng ô nhiễm môi trường. Công ty còn tận dụng bãi rác đã chôn lấp để trồng trên 70 ha rừng với nhiều loại cây có giá trị cao như hồi, thông…
Có thể đánh giá đây thực sự là một mô hình hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường. Trong năm 2007, doanh thu của đơn vị đạt 11 tỉ đồng, lợi nhuận 239 triệu, nộp ngân sách 70 triệu đồng, thu nhập bình quân đầu người 1,5 triệu đồng/người/tháng.
Sự thành lập một mô hình mới trong thực hiện chuyển giao dịch vụ vệ sinh môi trường là phù hợp với xu thế đổi mới, nhằm mục tiêu tinh giản bộ máy hành chính, đổi mới quản lý doanh nghiệp, góp phần đa dạng hóa các hình thức cung ứng dịch vụ công cộng, tận dụng được các nguồn lực kinh tế từ khu vực ngoài quốc doanh, giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Đánh giá trên nhiều mặt, việc áp dụng mô hình này thực sự là một phương thức đem lại hiệu quả cao, cần được tiếp tục hoàn thiện và nhân rộng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong giai đoạn mới, khắc phục tình trạng Nhà nước ôm đồm trong cung ứng các dịch vụ công cộng.
1.3.2.3 Mô hình cộng đồng tự quản
Trong giai đoạn hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, trong điều kiện mới, các chức năng và phương thức hoạt động của Nhà nước cũng có nhiều thay đổi, việc tham gia của cộng đồng vào các hoạt động thuộc chức năng của Nhà nước đã phổ biến. Đặc biệt là sự tham gia của cộng đồng vào lĩnh vực VSMT.
- Đội thu gom rác dân lập phường Phú Cường
Được thành lập từ năm 1996, hiện nay đội gồm 12 công nhân và 1 đội trưởng. Toàn phường Phú Cường có đến 147 hẻm, công việc hàng ngày của anh em trong đội thu gom rác là phải đảm bảo không ô nhiễm rác thải bên trong các con hẻm. Trung bình mỗi ngày anh em trong đội thu gom khoảng 12 – 15 tấn rác, mỗi xe chở từ 5 – 8 chuyến. Rác sau khi được các công nhân của đội thu gom lại sẽ tập kết ở 6 địa điểm khác nhau trên địa bàn để giao lại cho xe trung chuyển của Công ty Công trình đô thị. 12 – 15 tấn rác thu gom mỗi ngày là một khối lượng tương đối lớn, nếu không có đội rác dân lập này không biết rác sẽ lấn chiếm và gây ô nhiễm đến đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân như thế nào. Anh em trong đội cũng thường xuyên gặp cán bộ các khu phố, các đoàn thể khu phố để họp cùng nhân dân và vận động nhân dân để rác đúng nơi quy định, không vứt rác ra đường, xuống kênh rạch và được nhân dân rất đồng tình. Từ ngày có đội thu gom rác đi vào hoạt động, môi trường cảnh quan ở các khu phố và trong toàn phường trở nên sạch, đẹp hơn, hiện nay không còn những tụ điểm rác thải tồn đọng như trước nữa,…
- Dự án 3R cần sự đồng lòng hưởng ứng của mỗi người dân
Hiện rác thải chưa được phân loại là một sự lãng phí. Trung bình mỗi ngày có người dân Hà Nội thải ra khoảng 2.700 tấn rác gồm hữu cơ, vô cơ và rác tái chế, thì chỉ có rác vô cơ là không thể tái chế được cần phải chôn lấp, hai loại rác còn lại đều có thể tận dụng để chế biến làm phân bón, phục vụ sản xuất nông nghiệp hoặc tái chế thành các sản phẩm có ích. Trên thực tế, trước khi có dự án 3R, tất cả các loại rác sinh hoạt thải ra người dân đều bỏ chung vào một túi được công nhân Công ty môi trường đô thị Hà Nội thu gom đưa về chôn lấp ở bãi Nam Sơn. Việc chôn lấp chung các loại rác như vậy vừa gây lãng phí tài nguyên, vừa tốn kém công thu gom, vận chuyển, diện tích chôn lấp. Bãi rác Nam Sơn có tổng diện tích chôn lấp rác là 83,5 ha với thời gian hoạt động đến năm 2015 nhưng khả năng đến năm 2010 đã hết chỗ đổ. Hiện Công ty môi trường đô thị Hà Nội đang xin thành phố mở rộng thêm 43 ha tại Nam Sơn nữa nhưng đây chỉ là giải pháp tình thế. Trung bình đầu tư xây dựng 1ô chôn lấp rộng 5 ha phải mất khoảng 5 tỷ đồng, chưa kể trung bình mỗi ngày phải xử lý 1000m3 nước rác đòi hỏi quy trình kỹ thuật phải rất cẩn thận để tránh tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước tại các khu vực dân cư.
Theo tính toán của tổ chức JICA của Nhật Bản, nếu thành phố Hà Nội đổi mới phương pháp thu gom, xử lý rác thải theo sáng kiến 3R thì trung bình mỗi tháng tiết kiệm được 4 tỷ đồng tự xử lý rác thải. Mô hình này trong thực tế đã được triển khai thành công tại phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm trước đây 4 năm. Với việc thực hiện dự án 3R, các hộ dân ở các phường trên sẽ được hướng dẫn cách phân loại rác, được phát xô đựng rác hữu cơ bằng nhựa, có rọ lọc chất lỏng. Rác hữu cơ sẽ được thu gom hàng ngày để xử lý làm phân vi sinh, còn rác vô cơ được thu gom hai ngày/lần, đưa về chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn. Ngoài ra, các gia đình cũng sẽ được phát túi vải để đi chợ, hạn chế việc sử dụng túi ni – lông.
Hiệu quả bước đầu ở phường Phan Chu Trinh quận Hoàn Kiếm cho thấy, đối với người dân, dự án 3R trước lạ sau quen. Thời gian đầu khi triển khai dự án này tại phường, các tổ trưởng dân phố, Bí thư chi bộ, các bà, Chi hội phụ nữ thường xuyên phải nhắc nhở nhưng nay người dân đã quen dần với việc phân loại rác, đổ rác đúng giờ, đúng nơi quy định.
Từ hiệu quả bước đầu, công ty Môi trường đô thị lại tiếp tục chọn phường Phan Chu Trinh để triển khai dự án, đến tháng 8 tới triển khai tại phường Nguyễn Du, sau đó sẽ nhân rộng mô hình này trên toàn thành phố. Tuy nhiên, để dự án 3R thực sự đi vào cuộc sống cần có sự hưởng ứng của cơ quan quản lý, cơ quan truyền thông, đặc biệt mỗi người dân phải đồng lòng hưởng ứng, góp phần tiết kiệm “ tài nguyên” và bảo vệ môi trường.
1.3.3. Bài học kinh nghiệm về xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải trên thế giới cho Việt Nam
Đã có nhiều nghiên cứu trên thế giới về vai trò của Nhà nước trong hoạt động quản lý môi trường nhưng những nghiên cứu này đều dựa trên một quan niệm chung cho Nhà nước là tác nhân xã hội duy nhất đóng vai trò quản lý môi trường. Trong khi lĩnh vực quản lý môi trường là vô cùng phức tạp, rộng lớn bao gồm nhiều vấn đề như công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải… Vì vậy Nhà nước đã không đủ nguồn lực để đáp ứng cho công tác quản lý môi trường như thiếu các nhà quản lý có đủ trình độ kiến thức chuyên môn, thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động quản lý, thanh tra, kiểm tra giám sát môi trường, thiếu kinh phí…
Kinh nghiệm của các nước cho thấy các cộng đồng dân cư có thể tác động một cách đáng kể có hiệu quả đến hoạt động môi trường từ đó làm thay đổi hành vi của mình sao cho phù hợp với môi trường. Ở một số nước trên thế giới xã hội hóa công tác vệ môi trường cộng đồng đã bắt đầu vận dụng từ những năm 1950 phát huy được sức mạnh của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường, quản lý và khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giữ gìn vệ sinh môi trường, quan tâm đến các lợi ích về xã hội và môi trường trong quá trình phát triển kinh tế.
1.3.3.1. Trung Quốc
Kinh nghiệm về quản lý xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường ở tỉnh Giang Tây Trung Quốc.
Chìa khóa thành công của Trung Quốc về công tác xã hội hóa vệ sinh môi trường là quá trình lập kế hoạch, xác định trách nhiệm tham gia của các cấp chính quyền, các ngành Trung Ương và địa phương. Sau khi lập kế hoạch việc đảm bảo nguồn tài chính là rất quan trọng. Chiến lược huy động vốn từ 3 nguồn: Từ nguồn vốn của chính phủ Trung Ương và địa phương, huy động quyên góp vốn từ các tổ chức, giới kinh doanh, đóng góp của người hưởng lợi từ chương trình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy nếu chỉ ban hành các tiêu chuẩn hay hướng dẫn thì chưa đủ mà còn cần có các cơ quan quản lý, giám sát và các giải pháp phù hợp, xây dựng tổ chuyên trách và đề ra chế tài xử lý sẽ góp phần đảm bảo chất lượng VSMT. Trung Quốc đã có cơ chế chính sách khuyến khích, tuyên truyền, giáo dục và hỗ trợ người dân thay đổi hành vi VSMT. Xử lý rác thải Nilon, các thành phố có hệ thống thu gom và nhà máy chế biến rác, còn ở nông thôn, nhiều nơi rác thải nilon cũng có vấn đề cần quan tâm đặc biệt là dùng nilon trong trồng trọt và thải ra ngoài môi trường. Biện pháp đang thực hiện ở các vùng nông thôn là chôn lấp. Kinh nghiệm về xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường ở Trung Quốc cho thấy, việc thành công chỉ có thể có được khi chiến lược, quy hoạch phải phù hợp với điều kiện và tập quán của nhân dân, công tác truyền thông thông qua các chiến dịch phải được duy trì thường xuyên và rộng rãi kết hợp giữa các bộ, các cấp chính quyền và các tổ chức xã hội, đặc biệt là thanh niên và phụ nữ.
1.3.3.2. Nhật Bản
Hiện nay vấn đề môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu, chính phủ các nước đang tìm mọi cách để tìm ra phương án tối ưu để giải quyết vấn đề này. Đặc biệt là vấn đề do ô nhiễm sản xuất công nghiệp gây nên. Nhật Bản là một nước đi đầu trong việc bảo vệ môi sinh nhất là xử lý chất thải bởi sản xuất càng phát triển, chất thải ngày càng nhiều. Những điều Nhật Bản đã và đang làm trong vấn đề xử lý rác thải sẽ là những điều rất quý báu với Việt Nam, nếu chúng ta biết vận dụng kịp thời, biến rác thành tài nguyên. Mỗi năm Nhật Bản thải ra khoảng 55 – 60 triệu tấn rác nhưng chỉ khoảng 5% trong số đó phải đưa đến bãi chôn lấp, còn phần lớn được đưa đến các nhà máy để tái chế. Kinh nghiệm quản lý rác thải của Nhật Bản:
Phân loại ngay tại thùng
Trên các thùng rác hai bên vệ đường có vẽ những loại rác được phép bỏ vào, người dân rất tự nguyện bỏ rác đúng loại vào thùng như là một thói quen sinh hoạt.
Sản xuất đi kèm tái chế
Việc thu gom rác ở Nhật cũng không giống như ở Việt Nam, chất thải từ hộ gia đình thuộc trách nhiệm quản lý của Nhà nước, còn chất thải từ các công ty, nhà máy… cho tư nhân đấu thầu hoặc các công ty do chính quyền địa phương chỉ định. Một điều mà Nhật Bản làm rất chặt chẽ trong việc quản lý rác thải công nghiệp là các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải tự chịu trách nhiệm về rác thải của mình. Và điều này được quy định bởi luật về bảo vệ môi trường.
- Khu công nghiệp sinh thái.
Từ năm 1991, chính phủ Nhật Bản chính thức khuyến khích tận dụng nguồn tài nguyên từ rác thải tái chế, các công ty tái chế chất thải chủ yếu các mặt hàng như bao bì, gỗ, đồ điện tử….Không những khuyến khích các công ty tái chế, tái sử dụng các chất thải, Nhà nước cũng khuyến khích người dân sử dụng rác như một nguyên liệu sản xuất, xử lý rác thải hữu cơ làm phân composit bón cho cây trồng.
Giáo dục ý thức người dân.
Chính quyền địa phương đôi khi còn tổ chức các chiến dịch xanh, sạch, đẹp phố phường nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân và tặng thưởng những cá nhân có thành tích xuất sắc. Chương trình này đã được đưa vào trường học và đã tỏ ra hiệu quả. Học sinh ngay từ cấp tiểu học đã được dạy về việc ý thức bảo vệ môi trường. Do đó ý thức bảo vệ môi trường của người dân Nhật quả thật đáng để Việt Nam học tập.
1.4. Đánh giá hiệu quả của mô hình xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải
Hiệu quả của mô hình xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường trong quản lý rác thải tại huyện Thanh Trì được đánh giá về mặt kinh tế, xã hội, môi trường.
1.4.1. Về kinh tế
Tiếp cận theo góc độ tiết kiệm chi phí thu gom, vận chuyển và xử lý cho Xí nghiệp từ các mô hình cộng đồng tự quản và các đợt vệ sinh phong trào.
1.4.1.1. Chi phí thu gom
C = Cnc + Csx + Cql
Cnc: Chi phí nhân công
Csx: Chi phí sản xuất
Cql: Chi phí quản lý
Cnc = Lương + phụ cấp
Phụ cấp = Phụ cấp trung bình tháng của 1 công nhân x số công nhân x 12
Csx = Ccc + Cbh
Ccc: Chi phí dụng cụ, phương tiện
Cbh: Chi phí bảo hộ
Cql = 10% chi phí lương công nhân
1.4.1.2. Chi phí vận chuyển
Cvc = Ckh + Cbd + Cnl + Cnc + Cbh + Cpđ
Cvc: Chi phí vận chuyển
Ckh: Chi phí khấu hao
Cbd: Chi phí bảo dưỡng
Cnl: Chi phí nguyên liệu
Cnc: Chi phí nhân công
Cbh: Chi phí bảo hộ
Cpđ: Lệ phí đường
1.4.1.3. Chi phí xử lý
Cxl = M x B
Cxl: Chi phí xử lý
M: Khối lượng rác cộng đồng tự xử lý trong các đợt vệ sinh phong trào và mô hình cộng đồng tự quản.
B: Chi phí xử lý trung bình 1 tấn rác theo đơn giá của Thành phố.
1.4.2. Về xã hội
- Ý thức người dân được cải thiện trong công tác vệ sinh môi trường quản lý rác thải từ khâu thu gom, vận chuyển và xử lý.
- Tăng sự đóng góp và huy động các nguồn vốn hiện có trong dân.
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, người dân tham gia vào thực hiện công tác xã hội hóa quản lý rác thải.
- Giải quyết thất nghiệp một vấn đề đang rất bức xúc hiện nay.
1.4.3. Về môi trường
- Môi trường Huyện Thanh Trì ngày càng được cải thiện chất lượng, hạn chế tình trạng đổ rác và vứt rác bừa bãi.
- Nhiều xã được tiếp cận với dịch vụ vệ sinh này.
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC VỆ SINH MÔI TRƯỜNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THANH TRÌ
2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Thanh Trì là một huyện ngoại thành nằm ở cửa ngõ phía Nam của Thủ đô Hà Nội là một trong những huyện sản xuất nông nghiệp cung cấp nhiều sản phẩm nông nghiệp cho thành phố, là khu vực tập trung nhiều công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật của thành phố. Một phần đất tự nhiên của huyện nằm trong quy hoạch phát triển thành phố trung tâm.
- Phía Bắc giáp Quận Hoàng Mai.
- Phía Nam và phía Tây Nam giáp Tỉnh Hà Tây.
- Phía Đông giáp Huyện Gia Lâm có ranh giới tự nhiên là sông Hồng.
Phía Tây giáp Quận Thanh Xuân.
Tọa độ địa lý tự nhiên của Huyện Thanh Trì là 20050 đến 21000 vĩ độ Bắc và 105045 đến 105056 kinh Đông. Chiều dài Bắc Nam tương ứng với chiều dài từ Đông sang Tây vào khoảng 10km.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
2.1.2.1 Địa hình
Địa hình được bồi đắp bởi các dòng sông với các bãi bồi hiện đại, các bãi bồi cao và các vũng trũng với các hồ, đầm.
Huyện Thanh Trì là vùng đồng trũng, có độ cao trung bình từ 4m – 5m. Cao nhất từ 6m – 6.5m, nơi thấp nhất từ 2.5m – 2.8m được xếp vào vùng ô trũng ven đê của đồng bằng sông Hồng. Đất ở đây chủ yếu do phù sa mới của Sông Hồng hình thành, nền đất yếu hơn các vùng khác. Khu vực ngoài đê là vùng bãi bồi bao gồm 3 xã ven sông. Đất ở là sống đất bồi cao nằm giữa dòng sông và đê có độ cao khoảng 8m – 9.5m, đường bãi có cao độ khoảng 7m – 7.5m, có đầm, hồ chạy dài theo chân đê có khả năng giữ nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
2.1.2.2. Điều kiện khí hậu
Nước ta là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Huyện Thanh Trì nằm trong vùng khí hậu II, phân vùng II khu vực thành phố Hà Nội.
- Khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời dồi dào, tổng lượng bức xạ trung bình hàng năm khoảng 120 kcal/cm².
Nhiệt độ: Ngày cao nhất trong năm 390C, nhiệt độ trung bình quân năm 270C.
Độ ẩm: Cao nhất trong năm 97.5% vào các tháng(3,4,9,10). Thấp nhất trong năm 63% vào các tháng (1,11,12), độ ẩm bình quân năm 85%.
Tổng lượng mưa: lượng mưa hàng năm thường từ 1700 – 2000mm. Với số ngày bình quân 143 ngày/năm, mưa nhiều vào tháng 8 với lượng mưa bình quân 300 – 350mm. Tháng 12 hầu như không có mưa.
Lượng bốc hơi: Tổng lượng bốc hơi hàng năm khoảng 938 mm, bốc hơi nhiều nhất vào tháng 7 bình quân 100 – 101 mm, bốc hơi ít nhất vào tháng 2 bình quân 50 – 51 mm.
Số giờ nắng: có khoảng 220 ngày nắng với khoảng 1640 giờ/năm.
Tốc độ gió trung bình trong năm:
+ Gió Đông Nam: 2.7m/s.
+ Gió Đông Bắc : 3.3m/s.
Đặc điểm khí hậu rõ nét nhất là sự thay đổi khác biệt giữa hai mùa nóng, lạnh. Từ tháng 5 đến tháng 9 là mùa nóng và mưa, từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau là mùa lạnh và khô. Giữa hai mùa lại có 2 thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 và tháng 10, có đủ 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân bắt đầu vào tháng 2 (hay tháng giêng âm lịch) kéo dài đến tháng 4. Mùa hạ bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8, nóng bức nhưng lại mưa nhiều. Mùa thu bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 10, trời dịu mát, lá vàng rơi. Mùa đông bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau, thời tiết giá lạnh, khô hanh. Ranh giới phân chia bốn mùa chỉ có tính chất tương đối, có năm rét sớm, có năm rét muộn, có năm nóng kéo dài, nhiệt độ lên tới 40°C, có năm nhiệt độ xuống thấp dưới 50C.
2.1.2.3. Mạng lưới sông ngòi
Nét đặc trưng của cảnh quan Huyện Thanh Trì là một vùng nhiều sông ngòi và đầm hồ. Bao bọc xung quanh Thanh Trì là sông Hồng ở phía Đông, sông Nhuệ ở phía Tây, phía Bắc là sông Kim Ngưu, ở giữa có sông Tô, sông Sét, sông Lừ tạo nên hình ảnh rõ nét về một tứ giác nước bên cạnh những tứ giác khác của vùng Đồng Bằng Châu Thổ Bắc Bộ.
Có các con sông tiêu thoát nước thải của Thành phố và các khu công nghiệp chảy qua có chiều dài 26,7 Km.
Sông tô lịch đoạn Thanh Liệt dài 4 Km.
Sông Om (đầu nguồn sông Sét, sông Kim Ngưu đổ vào) dài 7 Km chảy qua thị trấn Văn Điểm, Vĩnh Quỳnh, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Liên Ninh, Đông Mỹ.
Sông Hòa Bình dài 7 Km chảy qua các xã Tam Hiệp, Vĩnh Quỳnh, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai, Đại Áng.
Kênh tiêu 3 xã: Tứ Hiệp, Đông Mỹ, Ngũ Hiệp dài 5 Km.
Kênh tiêu 3 xã: Tân Triều, Thanh Liệt, Tả Thanh Oai dài 3,7 Km.
Bên cạnh đó với nhiều ao hồ, nguồn nước dồi dào là những điều kiện thuận lợi để Thanh Trì có một nền nông nghiệp đa dạng và lâu đời với nhiều loại sản vật có chất lượng cao.
2.2. Điều kiện kinh tế và xã hội
2.2.1. Dân số và diện tích đất tự nhiên
Hiện nay, địa bàn Huyện Thanh Trì có 1 thị trấn và 15 xã tính đến đầu năm 2004 theo số liệu NĐ 132/CP khi tách địa giới hành chính.
Dân số của Huyện Thanh Trì là 1550737 nhân khẩu, diện tích tự nhiên 6131.2ha.
Bảng 1: Bảng số liệu dân số và diện tích đất tự nhiên của Huyện Thanh Trì năm 2004.
TT
Tên thị trấn, xã
Số dân( nhân khẩu )
Diện tích( ha )
1
Thị trấn Văn Điển
10.542
91
2
Tứ Hiệp
8.754
465,9
3
Thanh Liệt
7.165 + 587KTT
351,9
4
Tam Hiệp
10.449
318,4
5
Ngũ Hiệp
10.015
320,4
6
Ngọc Hồi
8138
362
7
Liên Ninh
10.450
408,7
8
Đông Mỹ
6.135
272,1
9
Tân Triều
13.705
298
10
Tả Thanh Oai
16.720
816
11
Hữu Hòa
7.630
293
12
Vĩnh Quỳnh
19.207
650
13
Đại Áng
8.160
504,7
14
Yên Mỹ
4.467
360
15
Duyên Hà
4.536
265,9
16
Vạn Phúc
8.964
353,2
Tổng cộng:
155.737
6131,2
( Theo số liệu NĐ 132/CP khi tách địa giới hành chính đầu năm 2004 )
2.2.2. Tình hình phát triển kinh tế
Thanh Trì là huyện sản xuất nông nghiệp, với các sản phẩm chính là lúa, ngô, đậu đỗ, rau xanh…. Nhưng trong một vài năm gần đây Thanh Trì đã và đang từng bước chuyển mình phát triển kinh tế tập trung, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Với tốc độ đô thị hóa nhanh, hiện đang có nhiều dự án phát triển công nghiệp và thương mại dịch vụ đã và đang xây dựng và đi vào vận hành trên địa bàn huyện như: Cụm công nghiệp Ngọc Hồi, Trung tâm thương mại Thanh Trì, chợ đầu mối, bến xe tải Ngũ Hiệp, Trung tâm thương mại Thủy sản Ngũ Hiệp, chợ đầu mối Cầu Bưu… Do đó huyện Ủy – Hội Đồng Nhân Dân - Ủy Ban Nhân Dân huyện xác định cơ cấu kinh tế của huyện sẽ chuyển dịch theo hướng công nghiệp (CN) – thương mại công nghiệp (TMCN) – thương mại dịch vụ (TMDV) – nông nghiệp (NN). Cụ thể kết quả về phát triển kinh tế giai đoạn năm 2000 – 2004 như sau:
Kinh tế tiếp tục tăng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 14%, tỷ trọng cơ cấu kinh tế có sự thay đổi rõ rệt, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 38,8% xuống 24,4%, tỷ trọng CN – TTCN – TMDV tăng từ 61,2% lên 85,6%, sản xuất CN – TTCN tăng mạnh cả về số lượng và chất lượng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 20,6%. TMDV phát triển mạnh, doanh thu TMDV hàng năm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 18,5%. Giá trị sản xuất/ha đất NN năm 2001 đạt 40,7 triệu đồng/năm, năm 2004 đạt 52 triệu đồng/năm tăng gần 30%. Tổng thu ngân sách hàng năm đều tăng cả về số lượng và mức thu bình quân mỗi năm tăng 15,2%.
Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo cơ sở vật chất cho phát triển điện, đường, trường, trạm khang trang làm thay đổi bộ mặt nông thôn trong thời kỳ đô thị hóa của thủ Đô, thúc đẩy cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ phát triển hình thành các khu công nghiệp tạo thêm việc làm cho người lao động góp phần nâng cao đời sống cho nhân dân.
2.3. Cơ sở hạ tầng
2.3.1. Hệ thống đường giao thông
Huyện Thanh Trì là đầu mối giao thông phía Nam của Thành phố Hà Nội, có nhiều loại hình giao thông:
Đường bộ.
Đường Quốc lộ 1A dài 8 Km, đoạn thị trấn Văn Điểm dài 2 Km được mở rộng 41m, đoạn từ thị trấn Văn Điểm đến giáp huyện Thường Tín dài 6 Km, mặt đường rộng từ 15- 17m.
Cao tốc 1B chạy qua địa bàn huyện nối Hà Nội với các tỉnh phía Nam và phía Bắc.
Đường 70A, đoạn từ Quốc lộ 1A đến thị xã Hà Đông dài 9 Km.
Đường 70B từ Quốc lộ 1A đến đê sông Hồng dài 7 Km, mặt cắt 13m.
Đường liên xã: gồm 15 tuyến đường liên xã với chiều dài trên 50 Km, mặt cắt bình quân từ 4 – 8m. Đường liên xã đều đã được trải nhựa và bê tông hóa.
Hệ thống đường giao thông liên thôn, ngõ xóm được trải nhựa, đổ bê tông, lát gạch nhưng mặt cắt đường nhỏ hẹp, hạn chế tốc độ hiệu đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Đường sắt.
- Có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua địa phận huyện Thanh Trì từ cầu Văn Điển đến hết địa phận xã Liên Ninh với chiều dài khoảng 7km có Ga Văn Điển.
Đường sông.
- Trên địa bàn huyện Thanh Trì có nhiều sông nhưng phần lớn là sông nhỏ chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp. Đáng kể nhất là đoạn sông Hồng chảy qua địa phận 3 xã ngoài đê.
2.3.2. Nước sạch
Tình hình sử dụng nước sạch của dân cư trong địa bàn Huyện đang ngày càng được cải thiện, do nhu cầu về nước sạch ngày một cao cũng như chất lượng phải được đảm bảo, tỉ lệ hộ sử dụng nước máy đã tăng lên cao nhưng nguồn nước ngầm cung cấp của các nhà máy có nguy cơ nhiễm mặn, nhiễm amoniac, nhiễm sắt vì qua thăm dò, khảo sát và đánh giá của các chuyên gia thì nguồn nước ngầm ở Huyện Thanh Trì có chứa hàm lượng kim loại nặng trong nước cao hơn 50% đặc biệt là hàm lượng As. Nên các nhà máy không nâng công suất mà vẫn giữ nguyên do đó vấn đề cung cấp nước sạh cho đời sống nhân dân cũng đang là một bài toán khó cần được giải quyết. Vì vậy tỉ lệ hộ sử dụng nước mưa tăng lên thay thế cho việc giảm sử dụng nước giếng khoan như trước đây.
Toàn huyện có 30 trạm cấp nước sạch với công suất: 27.800m3 /ngày đêm. Trong đó:
+ Có 29 trạm cấp nước sạch mini với công suất: 22.800m3 /ngày đêm.
+ Có 1 nhà máy nước sạch thị trấn Văn Điểm với công suất: 5.000m3 /ngày đêm.
2.3.3. Điện nông thôn
- Tổng số 52 trạm biến áp với tổng công suất 13.900 KVA.
- Cải tạo lưới điện nông thôn các xã đã được đầu tư cải tạo 100%. Có 4 xã đã bán giao cho ngành điện quản lý.
- Ở các xã và đường liên xã được chiếu sáng bằng đèn tròn hoặc đèn neong để đảm bảo giao thông và sinh hoạt của nhân dân trong các xã.
2.4. Y tế
- Các bệnh viện trên địa bàn huyện.
+ Bệnh viện 103, bệnh viện Y học dân tộc, bệnh viện nông nghiệp I, bệnh viện K, bệnh viện bỏng quốc gia.
+ Bệnh viện Thanh Trì: 150 giường bệnh.
Các bệnh viện sẽ xây dựng mới và mở rộng.
+ Bệnh viện nội tiết Trung ương.
+ Bệnh viện tư nhân Hải Châu.
+ Bệnh viện K.
+ Mở rộng bệnh viện bỏng Quốc gia.
- Mạng lưới y tế xã: Các trạm y tế xã đã được đầu tư khang trang, đảm bảo đủ điều kiện khám chữa bệnh ban đầu cho nhân dân. Trong thời gian tới, huyện tiếp tục đầu tư, nâng cấp đảm bảo các trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia.
2.5. Hiện trạng phát sinh rác thải trên địa bàn huyện Thanh Trì
2.5.1. Các thành phần môi trường tự nhiên trên địa bàn huyện Thanh Trì đang bị ô nhiễm
Huyện Thanh Trì đang trong quá trình đô thị hóa từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng đóng góp của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần các ngành nông nghiệp. Chính sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đã tạo điều tiền đề cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ từng bước cải thiện, nâng cao đời sống người dân. Nhưng không một hoạt động phát triển nào lại không có những tác động tiêu cực đến môi trường làm cho môi trường ngày càng trở nên ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt….
2.5.1.1. Không khí bị đặc quánh bởi các cơ sở sản xuất kinh doanh
Huyện Thanh Trì có nghĩa Trang Văn Điển, là nơi Hà Nội thuê đất để chôn và thiêu với một khối lượng quá đông. Khi thiêu đã phát ra các khí rất độc như S, P, SO2… với nồng độ cao gây ô nhiễm không khí ảnh hưởng trực tiếp đến người dân sống quanh khu vực đó chưa kể đến là sự phát tán trong không khí còn ảnh hưởng, lan tỏa rất nhanh đến một diện rộng hơn. Ngoài nghĩa trang Văn Điển, ven đường Phan Trọng Tuệ và khu công nghiệp mới Ngọc Hồi có nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp với lượng chất thải, khí thải ra hàng ngày rất lớn như: Nhà máy Pin Văn Điển, Nhà máy Phân Lân Văn Điển, Nhà máy Sơn, Nhà máy Bột Giặt Nét…. nhiều nhà máy sản xuất không có hệ thống xử lý khí thải, khí thải nhiều khi không qua một phương tiện xử lý nào hoặc nếu có thì rất ít được xả trực tiếp ra ngoài không khí ảnh hưởng đến người dân.
Bên cạnh đó, tình trạng ô nhiễm không khí của người dân khu vực dọc đường Phan Trọng Tuệ này cũng hết sức báo động. Bụi và mùi nồng nặc bốc ra từ các Nhà máy Phân Lân, Xà Phòng,… khiến cho không khí của khu dân cư xung quanh bị đặc lại. Được biết việc di dời các Nhà máy sản xuất công nghiệp tại Huyện Thanh Trì chưa có tính thực thi vì Huyện mới chỉ có khu công nghiệp Ngọc Hồi. Để vào khu công nghiệp này, các doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lớn. Để đảm bảo đời sống, sinh hoạt của người dân nơi đây, Ủy Ban Nhân Dân Huyện Thanh Trì và các cơ quan chức năng nên nhanh chóng kiểm tra và có biện pháp khắc phục tạo ra một môi trường không khí trong sạch hơn.
2.5.1.2. Ô nhiễm môi trường đất
Thanh Trì là một Huyện nông – công nghiệp, hoạt động sản xuất nông nghiệp còn là hoạt động chính của Huyện đặc biệt Thanh Trì còn là vùng trồng rau và cung cấp rau chủ yếu cho Hà Nội và một số khu vực lân cận. Do người dân ở đây có trình độ nhận thức chưa cao, bên cạnh đó lại chạy theo mục tiêu là tăng năng suất cây trồng cao để thu được nhiều tiền hơn. Vì vậy họ đã sử dụng rất nhiều hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật với hàm lượng cao vượt qua nhiều lần tiêu chuẩn cho phép và còn sử dụng một số loại thuốc cấm. Gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đất làm cho đất trở nên suy thoái, thoái hóa, bạc màu, cằn cỗi…chi phí để cải tạo đất càng tốn kém hơn mà chất lượng rau xanh lại không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Đồng thời một số xã người dân vẫn chưa có ý thức họ đổ rác bừa bãi, rác chất thành đống không hề xử lý, các bãi chôn lấp rác thì được hình thành một cách tự phát không tuân theo các quy hoạch, quy trình công nghệ, kỹ thuật, không đảm bảo đúng theo các tiêu chuẩn vệ sinh gây ô nhiễm nguồn đất tại đấy và khu vực dân cư xung quanh, ảnh hưởng tới môi trường sống, sức khỏe của con người.
2.5.1.3. Ô nhiễm môi trường nước
Nhiều năm nay, người dân sống ở khu vực phía Nam dọc Cầu Tó xuống gần thị Trấn Văn Điển thuộc Huyện Thanh Trì theo đường Phan Trọng Tuệ phải dùng nước giếng khoan không đảm bảo vệ sinh. Không chỉ có vậy, hiện khu vực này còn đang bị ảnh hưởng bởi chất thải công nghiệp từ các nhà máy sản xuất lân cận… Khu dân cư trên thuộc địa phận 2 xã Tam Hiệp và Vĩnh Quỳnh nhiều năm nay vẫn phải dùng nước giếng khoan để ăn uống, sinh hoạt. Bên cạnh đó lại có nghĩa Trang Văn Điển sinh hoạt người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì hàng ngàn ngôi mộ trôn ở đây ảnh hưởng đến quá trình thẩm thâu nên nguồn nước giếng khoan bơm lên có váng và hơi nhớt. Nguồn nước còn có nồng độ Fe, N2, P cao quá tiêu chuẩn cho phép, người dân còn tận mắt chứng kiến trong bể lọc nước giếng khoan màng Fe bám vàng khè cả lưới chắn. Nước bơm lên thường có màu vàng và mùi tanh nên rất nguy hiểm khi sử dụng, quần áo cũng bị vàng và dễ hư hỏng khi giặt. Người dân vẫn phải dùng nước giếng khoan, mặc dù thành phố đã đầu tư kinh phí xây dựng trạm nước khoan nên có hệ thống lọc nước tương đối tốt đảm bảo vệ sinh nước sạch sinh hoạt nhưng chỉ đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước của người dân thôn Huỳnh Cung mà không cung cấp đủ nguồn nước cho dân. UBND xã đã nhiều lần kiến nghị lên cấp trên về nhu cầu được sử dụng nước sạch của dân song tình hình vẫn chưa có chuyển biến gì…
Thanh Trì có mạng lưới các con sông tiêu thoát nước thải của thành phố và khu công nghiệp nên toàn bộ các nguồn nước thải công nghiệp của các nhà máy hoạt động trong các lĩnh vực hóa chất, cơ khí nồng độ của nước thải mang tính độc hại cao và nước thải sinh hoạt của toàn thành phố đều đổ vào các con sông chảy trên địa bàn huyện gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước các con sông, nước có màu đen kịt, mùi hôi thối, ô nhiễm kim loại nặng không sử dụng được cho sinh hoạt.
Thanh Trì còn có rất nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp hầu hết các nhà máy chưa có hệ thống xử lý nước thải ví dụ như: Công ty Bột Giặt Nét hiện nhà máy không có hệ thống xử lý nước thải nên dùng máy bơm xả hết vào khu dân cư. Vào những ngày mưa nước xà phòng nổi bọt cao hàng trăm mét tràn hết ra đường Phan Trọng Tuệ, tràn hết cả vào nhà dân.
2.5.2. Phát sinh chất thải rắn ở Huyện Thanh Trì
Với sự tăng trưởng và phát triển không ngừng của nền kinh tế, khối lượng và thành phần chất thải rắn ở các đô thị và khu công nghiệp tăng lên không ngừng theo tốc độ đô thị hoá và công nghiệp hóa dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế tác động nhiều đến yếu tố môi trường, ngành công nghiệp phát triển gây ô nhiễm do tăng lượng chất thải nguy hại, ngành thương mại và dịch vụ phát triển dẫn đến gia tăng lượng rác thải. Cũng như sự gia tăng dân số, gia tăng dân số bao gồm gia tăng tự nhiên và cơ học sẽ dẫn tới tăng mật độ dân số. Lượng chất thải tăng tỷ lệ thuận với gia tăng dân số. Hiện trung bình một cư dân Hà Nội thải ra khoảng 0,85 kg rác mỗi ngày tăng 0,44 kg so với thời điểm năm 1996. Còn ở Thành Phố Hồ Chí Minh trung bình một cư dân thải ra 1 kg rác mỗi ngày. Con số này dự tính sẽ còn tiếp tục tăng nữa. Trung bình một ngày Huyện Thanh Trì thải ra 1258,689 tấn rác, nguồn phát sinh chủ yếu là rác thải sinh hoạt chiếm khoảng 80% trọng lượng chất thải rắn bao gồm chất thải sinh hoạt, chất thải xây dựng, chất thải công nghiệp, chất thải bệnh viện và đang ngày càng gia tăng vào cuối thập niên này.
2.5.2.1. Phát sinh chất thải sinh hoạt
Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các hoạt động của con người ở các khu dân cư, cơ quan trường học, ….
Thành phần của chất thải sinh hoạt bao gồm chất thải hưu c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34961.doc