Tài liệu WTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO: LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay, hội nhập và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, buộc các nước phải thực hiện chiến lược mở cửa kinh tế nhằm tranh thủ thời cơ, phát huy lợi thế và vượt qua thách thức thì mới có thể phát triển nhanh nền kinh tế của quốc gia mình, đóng góp chung vào tăng trưởng kinh tế khu vực và toàn cầu. Không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu không... Ebook WTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu WTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tham gia vào quá trình này và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung này. Hiện nay mỗi quốc gia muốn phát triển thì không còn cách nào khác là tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) - Tổ chức thương mại toàn cầu lớn nhất, quan trọng nhất thu hút tới 149 quốc gia thành viên và chi phối đến 95% tổng kim ngạch thương mại thế giới. Đây cũng chính là nguyên nhân chi phối trong việc định hướng cho kế hoạch phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây. Các chính sách mà Nhà nước Việt Nam đưa ra đều phục vụ cho mục tiêu được là thành viên chính thức của WTO xem đó như là một con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Mặc dù vị thế của Việt Nam khi gia nhập WTO không giống như các nước thành viên khác (ví dụ như nước láng giềng Trung Quốc) nhưng chúng ta có thể rút kinh nghiệm từ những thành công và hạn chế của các nước đó để có thể tiến hành tốt nhất tự do hoá thương mại theo như cam kết từ đó đưa nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả và hạn chế những thua thiệt mà quá trình cạnh tranh không cân sức này mang lại.
Chính vì lý do này, mà em chọn đề tài “WTO và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận tốt nghiệp Đại học Ngoại thương của mình.
Bố cục của đề tài
NgoàI phần lời nói đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về WTO
1.Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
2.Điều kiện cần thiết để tham gia WTO
3.Những lợi thế mà WTO mang lại cho các nước thành viên
Chương II. Khái quát chung về kinh tế Việt Nam
I.Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt của Việt nam trước khi gia nhập WTO
II. Những tác động từ việc gia nhập WTO
Chương III. Những lợi thế của Việt Nam khi gia nhập WTO
I.Lợi thế về thương mại
II. Lợi thế về xuất khẩu
III. Lợi thế về môi trường đầu tư
VI.Lợi thế về tài chính, ngân hàng
V.Lợi thế về các ngành dịch vụ
MỤC LỤC
Lời nói mở đầu
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ WTO
I.Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
1.Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
2. Chức năng của WTO
3. Mục tiêu của WTO
4. Các nguyên tắc hoạt động của WTO
5. Cơ cấu tổ chức của WTO
II. Điều kiện cần thiết để tham gia WTO
III.Những lợi ích mà WTO mang lại cho các nước thành viên
CHƯƠNG II
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ VIỆT NAM
I.Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt của Việt Nam trước khi gia nhập WTO
1. Công nghiệp
1.1Ngành dệt may
1.2. Các ngành công nghiệp lắp ráp (điện tử, ô tô, xe máy)
1.3. Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu
2. Nông nghiệp
II. Những tác động từ việc gia nhập WTO
1. Tác động đến kinh tế
2.Tác động đến xã hội
CHƯƠNG III
NHỮNG LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
I. Lợi thế về thương mại
1. Khái quát thương mại Việt nam trước khi gia nhập WTO
2. Phân tích những điều kiện mà WTO đem lại cho thương mại Việt Nam
2.1 Thương mại tự do giúp giảm chi phí cuộc sống và tăng thu nhập
2.2 Kích thích tăng trưởng kinh tế
3.Thực trạng thương mại Việt nam khi tham gia WTO
II/ Lợi thế về xuất khẩu
1.Khái quát xuất khẩu Việt nam trước khi gia nhập WTO
2.Những lợi thế mà WTO mang lại cho xuất khẩu Việt nam.
2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
2.2 Các định hướng chiến lược trong kỳ hội nhập
III/Lợi thế về môi trường đầu tư
1.Vài nét cơ bản về môi trường kinh doanh của Việt Nam
2.Các yếu tố tạo nên lợi thế của môi trường kinh doanh
2.1 Các định hướng chiến lược trong giai đoạn hội nhập
2.2 Những kết quả đạt được
VI. Lợi thế về tài chính
V. Lợi thế về các ngành dịch vụ
VI. Lợi thế về Nông nghiệp
KẾT LUẬN
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ WTO
1. Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của WTO
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization – WTO) ra đời trên cơ sở kế tục tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (The General Agreement on Tariffs anh Trade – GATT). Đây là tổ chức quốc tế duy nhất đề ra những nguyên tắc thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết.
Hội nghị Bretton Woods năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (International Trade Organization – ITO) với mục đích thiết lập các qui tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Thương mại và việc làm tại Havana tháng 3 năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ chức Thương mại quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào để điều chỉnh thương mại quốc tế vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
GATT ra đời sau Đại chiến Thế giới lần thứ II trong trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên nhằm điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế. GATT đóng vai trò là khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm mà điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, thường được biết đến như là Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF) ngày nay. Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại quốc tế điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, về thương mại hàng hóa, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển,23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và việc làm, dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (International Trade Oganization –ITO) với tư cách là cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các nước này cùng tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý các biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc tế từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hoá mậu dịch, mở đường cho kinh tế thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân của các nước thành viên.
Hiến chương thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) nói trên đã được thoả thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm ở Havana từ tháng 11/1947 đến 24/3/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn trong phê chuẩn, nên việc thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) đã không thực hiện được.
Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế đầu tiên là 45.000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký kết Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 do thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các Hiệp định, hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các vấn đề về hàng rào phi thuế quan, về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) với tư cách là một sự thoả thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tuỳ ý đã tỏ ra không thích hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrakesh (Marốc), kết thúc Hiệp Uruguay, các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. Theo đó, WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên hợp quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
Vậy WTO là gì? Có thể hình dung đơn giản về WTO như sau:
WTO là nơi đề ra những qui định: Để điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên qui mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tính đến thời điểm 31 tháng 12 năm 2005, WTO có 149 thành viên.
WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán: Người ta thường nói, bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm phán. Sau khi ra đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. “Tất cả những gì tổ chức này làm được là đều thông qua con đường đàm phán”. Có thể nói, WTO chính là diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ…, để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
WTO gồm các qui định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế: Ra đời với kết quả ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các “hợp đồng”, theo đó chính phủ các nước tham gia ký kết công nhận (thông qua việc gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của các thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình.
WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp: Nếu mục tiêu kinh tế của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh…(gọi chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các qui định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO chính là “mục tiêu chính trị” của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và mục tiêu chính trị nói trên là nhằm tới “mục tiêu xã hội” của WTO là nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
1.2. Chức năng của WTO
WTO có 6 chức năng chính:
- WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên.
- WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những qui định của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra.
- WTO sẽ thoả thuận về những qui tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước thành viên).
- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển.
- Để đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.
1.3. Mục tiêu của WTO
- Mục tiêu kinh tế: Thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hóa và dịch vụ; phát triển bền vững và bảo vệ môi trường; thúc đẩy phát triển thể chế thị trường. Những hoạt động này được thực hiện thông qua việc loại bỏ hàng rào thương mại, nâng cao nhận thức và hiểu biết của chính phủ, tổ chức và cá nhân về các qui định điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế, xây dựng môi trường pháp lý, thương mại rõ ràng.
- Mục tiêu chính trị: Giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ hệ thống thương mại đa phương phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của tổ chức này; bảo đảm cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng lợi ích đích thực từ sự tăng trưởng của thương mại thế giới, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước và khuyến khích hội nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống kinh tế thế giới.
- Mục tiêu xã hội: Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân của các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
1.4. Các nguyên tắc hoạt động của WTO
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử: bao gồm 2 nguyên tắc nhỏ là dành cho quy chế đối xử quốc gia. Quy chế tối huệ quốc có nghĩa là tất cả hàng hoá, dịch vụ và công ty của các thành viên WTO đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng. Quy chế đối xử quốc gia là không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ và các công ty của nước ngoài trên thị trường trên thị trường nội địa. Nguyên tắc không phân biệt đối xử cho phép đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các thành viên với nhau trên thị trường cả trong nước và trên thế giới.
- Nguyên tắc tiếp cận thị trường: Nguyên tắc này được hiểu trên hai khía cạnh. Thứ nhất, các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng bước, đi tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Thứ hai, các chính sách và luật lệ thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh bạch. Cả hai khía cạnh này đều nhằm tạo ra một môi trường thương mại bình đẳng cho tất cả các nước thành viên tiếp cận.
- Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: Nguyên tắc này yêu cầu các nước chỉ được sử dụng thuế là công cụ duy nhất để bảo hộ. Các biện pháp phi thuế quan (giấy phép, hạn ngạch, hạn chế nhập khẩu,...) đều không được sử dụng. Các biểu thuế phải được giảm dần trong quá trình hội nhập theo thời gian thoả thuận.
- Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết: Khi thị trường và nền kinh tế của một nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe doạ, thì nước đó có quyền khước từ một nghĩa vụ nào đó hoặc có hành động khẩn cấp, cần thiết để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước.
- Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển: Các nước đang phát triển được kéo dài thời gian thực hiện cam kết và mức độ cam kết thấp hơn, phạm vi nhỏ hơn so với các nước phát triển.
Hoạt động của WTO dựa vào 16 hiệp định: Hiệp định về thuế quan và thương mại; Hiệp định về nông nghiệp; Hiệp định về các biện pháp tự vệ dịch tễ (kiểm dịch động thực vật); Hiệp định về hàng may mặc, hàng dệt; Hiệp định về rào cản kỹ thuật đối với thương mại; Hiệp định về đầu tư liên quan đến thương mại; Hiệp định về chống bán phá giá; Hiệp định về định giá hải quan; Hiệp định về kiểm định hàng hoá khi xuất khẩu hàng hóa; Hiệp định về chứng nhận xuất xứ hàng hoá; Hiệp định về thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu; Hiệp định về biện pháp bảo hộ, trợ giá; Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS); Hiệp định về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS); Hiệp định về các biện pháp tự vệ; Hiệp định liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp.
1.5. Cơ cấu tổ chức của WTO
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, uỷ ban của WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm giải quyết tranh chấp và các uỷ ban đặc thù.
- Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng – Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
- Cấp thứ hai: Đại hội đồng – Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiêm bởi 3 cơ quan: Đại hội đồng, Hội đồng giải quyết tranh chấp và Hội đồng rà soát các chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
Đại hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh Hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO.
Hội đồng giải quyết tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương).
Hội đồng rà soát chính sách thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của các thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể tiến hành cách quãng hơn.
- Cấp thứ ba: Các Hội đồng thương mại
Các Hội đồng thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ và Hội đồng các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại. Mỗi hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh 3 Hội đồng này còn có 6 uỷ ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thoả thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO.
Hội đồng Thương mại hàng hoá chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hoá.
Hội đồng Thương mại dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ.
Hội đồng các khía cạnh của Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
- Cấp thứ tư: Các Uỷ ban và Cơ quan
Dưới các Hội đồng trên là các Uỷ ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt.
Dưới Hội đồng thương mại hàng hóa là 11 Uỷ ban, 1 nhóm công tác và 1 uỷ ban đặc thù.
Dưới Hội đồng thương mại dịch vụ là 2 Uỷ ban, 2 nhóm công tác và 2 Uỷ ban đặc thù.
Dưới Hội đồng giải quyết tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu của Vòng đám phán Doha, WTO đã thành lập Uỷ ban đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Uỷ ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
2. Điều kiện cần thiết để tham gia WTO
Để có thể là thành viên gia của tổ chức thương mại thế giới WTO, các quốc gia phải thực hiện theo các yêu cầu mà tổ chức đặt ra.
Trước tiên quốc gia muốn gia nhập phải nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban công tác về việc gia nhập của Việt Nam được thành lập. Ban công tác có nhiều thành viên WTO quan tâm đến thị trường của quốc gia đó.
Gửi “Bị Vong lục về chế độ ngoại thương của quốc gia gia nhập” tới ban thư ký WTO để luân chuyển tới các thành viên của Ban công tác. Bị Vong lục không chỉ giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà còn cung cấp các thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hoá, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
Quốc gia muốn gia nhập phải làm rõ chính sách thương mại của quốc gia mình. Cung cấp các thông tin khác theo biểu mẫu do WTO qui định về hỗ trợ nông nghiệp, trợ cấp trong công nghiệp, các doanh nghiệp có đặc quyền, các biện pháp đầu tư không phù hợp với qui định của WTO, thủ tục hải quan, hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ...
Tiếp theo quốc gia đó phải đưa ra các bản chào ban đầu về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ để thăm dò phản ứng của các thành viên trong tổ chức và tiến hành Đàm phán song phương với tất cả các thành viên quan tâm tới thị trường của các quốc gia đó.
Khi đã hoàn thành Nghị định thư gia nhập có nghĩa là quốc gia đó có các nghĩa vụ khi trở thành thành viên WTO dựa trên các thoả thuận đã đạt được sau các cuộc đàm phán song phương, đàm phán đa phương và tổng hợp các cam kết song phương.
3. Những lợi ích mà WTO mang lại cho các nước thành viên
Khi gia nhập vào WTO, hệ thống này mang lại không ít lợi ích cho các nước thành viên.
Tuy WTO không thể tuyên bố làm cho tất cả các nước đều bình đẳng nhưng WTO thực sự làm giảm bớt một số bất bình đẳng, giúp các nước nhỏ hơn có nhiều tiếng nói hơn. Đồng thời cũng giải thoát cho các nước lớn khỏi sự phức tạp trong việc thoả thuận các hiệp định thương mại với các đối tác của mình. Các quốc gia có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Các quyết định và hiệp định của WTO được thực hiện bằng nhất trí ý kiến. Các hiệp định này áp dụng cho mọi người. Các nước giàu cũng như các nước nghèo đều có thể bị chất vấn nếu họ vi phạm một hiệp ước, và họ có quyền chất vấn các nước khác trong qui trình giải quyết tranh chấp của WTO. Thiếu một cơ chế đa phương kiểu hệ thống WTO, các nước mạnh hơn sẽ càng được tự do đơn phương áp đặt ý muốn của mình cho các nước yếu hơn. Các nước lớn hơn cũng được hưởng những lợi ích tương xứng. Các cường quốc kinh tế có thể sử dụng diễn đàn duy nhất của WTO để thương lượng với tất cả hay với hầu hết các đối tác thương mại của họ cùng một lúc. Trên thực tế, có riêng một hệ thống nguyên tắc áp dụng với tất cả các nước thành viên, điều đó đã đơn giản hoá rất nhiều toàn bộ cơ chế thương mại.
Các nước thành viên được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ của nhau với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử. Hệ thống toàn cầu đã giảm bớt các hàng rào mậu dịch thông qua thương lượng và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí sản xuất giảm, giá hàng hoá thành phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn. Cho đến nay, các hàng rào mậu dịch đã giảm đi rất nhiều so với trước đây. Các hàng rào này còn tiếp tục được giảm và tất cả các quốc gia đều có lợi.
WTO cũng tạo cơ hội mở rộng thị trường hàng hoá và dịch vụ cho các nước thành viên. Hiện nay các quốc gia có thể có được tất cả các hàng hóa bởi các nước có thể nhập khẩu chúng. Nhập khẩu cho phép người dân có nhiều lựa chọn hơn – cả hàng hoá và dịch vụ lẫn phạm vi chất lượng. Thậm chí chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Nhiều lựa chọn hơn không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng thành phẩm của nước ngoài. Hàng nhập khẩu còn được sử dụng làm nguyên liệu, linh kiện và thiết bị cho sản xuất trong nước. Điều này mở rộng phạm vi của các thành phẩm và dịch vụ do các nhà sản xuất trong nước làm và nó làm tăng phạm vị những công nghệ mà họ có thể sử dụng. Chẳng hạn, khi thiết bị điện thoại di động trở nên phổ biến, các dịch vụ phát triển mạnh, thậm chí ngay tại các nước không hề sản xuất thiết bị. Đôi khi, sự thành công của một sản phẩm hay dịch vụ nhập khẩu tại thị trường trong nước cũng có thể khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh, làm gia tăng lựa chọn nhãn hàng hoá sẵn có cho người tiêu dùng cũng như tăng phạm vi hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước. Nếu thương mại cho phép chúng ta nhập khẩu nhiều hơn, nó cũng cho phép người khác mua nhiều hàng sản xuất của chúng ta hơn. Nó làm tăng thu nhập của chúng ta, cung cấp cho chúng ta những phương tiện để hưởng sự lựa chọn gia tăng đó.
WTO làm tăng thu nhập cho các quốc gia. Việc giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tăng trưởng, điều này làm tăng thu nhập - cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân. Dự tính của WTO về tác động của các thoả thuận thương mại tại vòng đàm phán Uruguay 1994 là thu nhập thế giới có thêm từ 109 tỷ USD đến 510 tỷ USD. Thương mại cũng làm nảy sinh những thách thức khi các nhà sản xuất trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Nhưng thực tế rằng có nguồn thu nhập bổ sung có nghĩa là sẵn có nhiều nguồn lực để các chính phủ tái phân phối lợi nhuận từ những người được lợi nhiều nhất, chẳng hạn để giúp các công ty và công nhân thích ứng bằng cách trở nên năng suất và có khả năng cạnh tranh hơn trong lĩnh vực mà họ đã và đang làm, hoặc bằng cách chuyển sang các hoạt động mới.
WTO giúp các quốc gia giải quyết các mâu thuẫn thương mại một cách xây dựng. Do thương mại tăng lên về mặt khối lượng, số lượng sản phẩm được trao đổi, số lượng các nước và công ty tham gia thương mại nên có thêm nhiều cơ hội để những tranh chấp thương mại nảy sinh. Hệ thống WTO giúp giải quyết các tranh chấp này một cách hoà bình và mang tính xây dựng. Nếu để mặc chúng thì những tranh chấp này có thể dẫn đến những xung đột nghiêm trọng. Một trong những nguyên tắc của WTO là các thành viên có nghĩa vụ đưa những tranh chấp của mình tới WTO và không được đơn phương giải quyết. Khi họ đưa các tranh chấp ra giải quyết tại WTO, thủ tục giải quyết của WTO là tập trung chú ý của họ vào các nguyên tắc, và có lẽ sau đó tái thương lượng về các nguyên tắc – chứ không phải là tuyên chiến với nhau. Gần 200 tranh chấp đã được đưa ra giải quyết ở WTO kể từ khi tổ chức này được thành lập. Nếu thiếu một phương tiện giải quyết các tranh chấp này một cách xây dựng và đồng bộ, một số tranh chấp đã có dẫn đến những cuộc xung đột chính trị nghiêm trọng hơn.
Thương mại có thể là một động lực mạnh mẽ tạo ra việc làm và giảm đói nghèo. Mối quan hệ giữa thương mại và sự phát triển là phức tạp. Thương mại tự do và ổn định thúc đẩy phát triển kinh tế. Nó có tiềm năng tạo ra việc làm và cũng giúp cho việc xoá đói giảm nghèo và thường là cả hai. Bên được lợi nhiều nhất là nước hạ thấp rào cản thương mại. Nước xuất khẩu vào nước hạ thấp rào cản cũng có lợi, nhưng ít hơn. Tuy nhiên, các nhà sản xuất nội địa và công nhân của các nước hạ thấp rào cản (trước đây được bảo vệ) rõ ràng là phải đối mặt với sự cạnh tranh mới khi hàng rào thương mại thấp hơn. Một số nhà sản xuất nội địa tồn tại được là vì biết tạo ra cho mình khả năng cạnh tranh tốt hơn. Một số hội nhập nhanh hơn bằng việc tìm nguồn nhân lực mới. Cụ thể, một số nước hội nhập tốt hơn so với các nước khác. Đó là do những nước này có chính sách hội nhập hiệu quả hơn. Những nước không có chính sách hội nhập hiệu quả sẽ bỏ lỡ thời cơ là sự thúc đẩy mà thương mại đem lại cho nền kinh tế. WTO giải quyết vấn đề này bằng một số cách. Trong hệ thống thương mại WTO, sự tự do hoá được thực hiện một cách từ từ tạo điều kiện về mặt thời gian cho các nước thành viên thực hiện việc điều chỉnh cần thiết. Nhiều qui định trong các hiệp định cho phép nước thành viên áp dụng một số biện pháp tình thế nhằm giảm thiểu các thiệt hại do việc nhập khẩu có thể gây nên. Các biện pháp này, tất nhiên, phải tuân theo những qui định và trình tự hết sức chặt chẽ. Đồng thời, sự tự do hoá trong hệ thống thương mại WTO là kết quả của đàm phán. Những nước cảm thấy chưa kịp thích ứng với việc mở cửa, có thể phản đối yêu cầu mở cửa đối với một số lĩnh vực cụ thể. Trong khi thế giới vẫn còn 1,5 tỷ người dân sống trong tình trạng đói nghèo, chính sách tự do hoá thương mại đã giúp ba tỷ người thoát khỏi cuộc sống đói nghèo kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Gia nhập vào WTO sẽ giúp các quốc gia tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, việc trở thành thành viên của WTO sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trở thành thành viên của WTO sẽ thúc đẩy quá trình cải thiện môi trường đầu tư nhằm tăng cường thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
CHƯƠNG II
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KINH TẾ VIỆT NAM
I.Đặc điểm cơ bản của các ngành kinh tế chủ chốt của Việt Nam trước khi gia nhập WTO
1. Công nghiệp
Trong những năm qua, công nghiệp luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế quốc dân và có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nếu năm 2000, công nghiệp chiếm 36,73% tổng GDP cả nước, thì đến năm 2005 tỷ trọng này đã lên đến 40,8%. Đến nay, công nghiệp Việt Nam đã có khả năng đáp ứng toàn bộ nhu cầu trong nước về các hàng hoá tiêu dùng thông thường và nhiều loại như tư liệu sản xuất quan trọng cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng và giao thông.
1.1 Ngành dệt may
Công nghiệp dệt may Việt Nam có những điểm mạnh cơ bản như sau:
- Nhân lực dồi dào, giá lao động rẻ, lao động khéo léo và có khả năng tiếp thu nhanh kỹ thuật mới.
- Có cơ sơ vật chất ban đầu tương đối khá và được chú trọng đầu tư phát triển.
- Có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển tơ lụa tự nhiên.
- Có truyền thống sản xuất và đã bước đầu xác lập được vị thế trên thị trường thế giới, kể cả thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản.
Bên cạnh đó, ngành dệt may Việt Nam cũng có những điểm yếu khá cơ bản. Đó là:
- Năng lực thiết kế sản phẩm thấp kém, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu thực hiện gia công cho các hãng nước ngoài theo mẫu mốt do họ cung cấp.
- Chưa xây dựng được thương hiệu sản phẩm có uy tín trên thị trường.
- Năng suất lao động thấp kém, giá thành đơn vị sản phẩm cao.
- Công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may hết sức yếu kém._., nguyên phụ liệu chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài (do phía nước ngoài đặt gia công cung cấp); trang bị kỹ thuật của ngành dệt lạc hậu, đổi mới công nghệ chậm, không có khả năng sản xuất những loại vải có chất lượng cao, thay đổi mẫu mã đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, nhất là những khách hàng cao cấp.
Việc đầu tư vào dệt may kém hiệu quả, gần 8400 tỷ đồng đầu tư vào 220 dự án trong 5 năm qua, song hiệu quả đạt được rất thấp. Hầu hết sản lượng các nguyên phụ liệu đầu vào cho ngành dệt may chưa đạt kế hoạch đặt ra. Theo Tổng công ty Dệt may Việt Nam (VINATEX), từ đầu năm đến nay đã có 11 dự án đầu tư mới được triển khai với kinh phí 345 tỷ đồng, nâng tổng vốn đầu tư 5 năm qua (2001-2005) lên mức 8.373 tỷ đồng. Tuy vậy, hiệu quả đầu tư vẫn khá thấp so với yêu cầu. Chẳng hạn, sản lượng bông mới đạt được 56%, vải dệt kim đạt 71,4%, sản phẩm may dệt kim đạt 83% và may dệt thoi đạt 77% so với dự kiến. Chỉ có sản lượng sợi toàn bộ là tăng 6% so với yêu cầu đặt ra. Nguyên nhân khiến một số chỉ tiêu không đạt được yêu cầu là công tác đầu tư còn khép kín với từng doanh nghiệp, chưa thể hiện mối liên kết trong nội bộ và tính chuyên môn hoá theo ngành hàng và sản phẩm.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt khoảng 4,85 tỷ USD, tuy thấp hơn kế hoạch (5,2 tỷ USD), nhưng vẫn tăng 10% so với năm 2004. Thị trường Mỹ vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 2,626 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng kim ngạch và tăng 6,1% so với năm 2004. Tiếp đến là thị trường EU đạt khoảng 850 triệu USD, chiếm khoảng 17% và tăng 12%. Đứng thứ ba là thị trường Nhật Bản với kim ngạch đạt 630 triệu USD, chiếm 13% và tăng 17%. Tuy chưa đạt kế hoạch, nhưng kim ngạch xuất khẩu của ngành được coi là khá ấn tượng trong bối cảnh cạnh tranh rất khốc liệt, đặc biệt khi Việt Nam vẫn còn bị áp đặt hạn ngạch của thị trường Mỹ trong khi các nước thành viên WTO đã được bãi bỏ hạn ngạch từ ngày 1/1/2005.
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu thực hiện phương thức gia công cho các hãng nước ngoài. Theo phương thức này, các hãng nước ngoài đặt gia công sẽ cung cấp mẫu mã sản phẩm và các nguyên phụ liệu chủ yếu; các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao động và cơ sơ vật chất của mình, tổ chức quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt hàng và nhận tiền gia công theo đơn giá và sản lượng đã nghiệm thu. Phương thức này thích hợp với điều kiện năng lực kỹ thuật, vốn và tiếp cận thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Tuy độ rủi ro trong sản xuất kinh doanh thấp, nhưng hiệu quả kinh tế mà các doanh nghiệp Việt Nam thu được cũng thấp kém, vì các doanh nghiệp chủ yếu xuất khẩu “sức lao động”. Chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu của ngành dệt may rất nhỏ.
Biểu: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may
Đơn vị tính: triệu USD
2000
2001
2002
2003
2004
Xuất khẩu
1891,9
1975,9
2732,0
3609,1
4385,6
Nhập khẩu
Thiết bị phụ tùng
242,6
325,1
402,3
Bông
90,4
115,4
111,6
105,4
190,2
Xơ dệt
89,1
119,1
119,0
158,7
Sợi dệt
237,3
228,4
272,6
317,5
338,8
Vải các loại
761,3
880,2
1523,1
1805,4
1926,7
Phụ liệu may
971,4
1036,2
1069,2
1264,9
2252,7
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Trong định hướng chiến lược phát triển công nghiệp trong quá trình công nghệ hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, nhằm phát huy lợi thế về nhân lực, ngành công nghiệp dệt may được coi là một trong những ngành được chú trọng đầu tư phát triển. Trong chiến lược tăng tốc của ngành dệt may, Việt Nam đã hết sức chú trọng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ cho dệt may. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư chưa đạt được như mong muốn.
1.2 Ngành da giầy
Công nghiệp da giầy có những nét tương đồng với công nghiệp dệt may cả về lợi thế, yếu thế và phương thức xuất khẩu. Trong những năm qua, phát huy về nhân lực và cơ sơ vật chất kỹ thuật hiện có, da giầy là một trong những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào tổng kim ngạch xuất khẩu và tạo việc làm cho người lao động. Hiện nay, chất lượng giày dép, đồ da của Việt Nam đã được thị trường thế giới chấp nhận và xác lập được vị thế trên thị trường. Sản xuất giày dép cũng là lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các nhà đầu tư Hàn Quốc và Đài Loan.
Tuy được xếp vào nhóm ngành có kim ngạch xuất khẩu cao, nhưng cũng giống như ngành dệt may, hiệu quả kinh tế trong xuất khẩu ngành hàng da giầy không cao là do:
- Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu nhận làm gia công cho nước ngoài;
- Công nghiệp phụ trợ cho sản xuất da giầy Việt Nam quá yếu kém, các nguyên phụ liệu chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
- Thiếu cán bộ kỹ thuật và khả năng thiết kế mẫu mốt còn rất yếu.
Việc xuất khẩu da giầy của Việt Nam thực chất là xuất khẩu lao động sống.
Biểu: Kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành hàng da giầy
Đơn vị: triệu USD
2000
2001
2002
2003
2004
Xuất khẩu
1471,7
1587,4
1875,2
2260,5
2691,6
Nhập khẩu
Thiết bị phụ tùng
269,4
242,6
325,1
402,3
Nguyên phụ liệu
504,2
553,4
641,5
768,7
2252,7
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Cũng như ngành hàng dệt may, việc tiếp tục duy trì ở tỉ lệ cao phương thức gia công sẽ không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hơn nữa, cách làm này đặt doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vào tình trạng phụ thuộc vào các hãng nước ngoài, không có mối quan hệ trực tiếp với thị trường thế giới. Việc chuyển sang phương thức tự doanh (các doanh nghiệp mua nguyên phụ liệu và xuất khẩu các sản phẩm sản xuất ra) là một hướng đi tất yếu. Song để thực hiện phương thức này, trong những năm trước mắt các doanh nghiệp công nghiệp trong ngành da giầy Việt Nam chưa thể đảm bảo được các điều kiện cần thiết (xác lập chỗ đứng trên thị trường, xây dựng thương hiệu riêng, quản lý chất lượng, vốn lưu động, kỹ năng marketing quốc tế…). Bởi vậy, phương thức gia công vẫn được xác định là cần thiết, dù rằng hiệu quả kinh tế mang lại không cao. Theo Cục xúc tiến thương mại, hiện trên 95% lượng giày dép mà các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài đều mang nhãn mác của khách hàng như Nike, Adidas hoặc thương hiệu của các tập đoàn bán lẻ như Famous Footwear, K, Shoes,… do các đối tác nước ngoài cung cấp cho các doanh nghiệp theo mẫu thiết kế, hay thậm chí không có nhãn mác gì. Đây là kiểu sản xuất mà phần lớn khách hàng nước ngoài mong muốn sản xuất tại Việt Nam. Thực tế các doanh nghiệp sản xuất và gia công giày dép đều có đặc điểm chung là phải đầu tư cơ sở hạ tầng, đầu tư nguồn nhân lực cho sản xuất, nhưng lại bỏ qua khâu rất quan trọng là đầu tư cho các khâu thiết kế, tiếp thị, lưu kho, cửa hàng bán lẻ. Do vậy, lợi nhuận tiềm năng bị thu hẹp và phải dựa vào hiệu quả và số lượng của sản xuất. Các doanh nghiệp này không tham gia vào khâu thiết kế và phân phối sản phẩm, mà chỉ đóng góp 30% - 50% giá trị sản phẩm trong giai đoạn sản xuất. Giá trị đó thể hiện qua việc bán sức lao động của nhân công. Các doanh nghiệp này khó có thể kiếm thêm lãi bởi chi phí lao động ngày càng có xu hướng giảm sức cạnh tranh so với các quốc gia khác. Nếu phương thức gia công hạn chế được rủi ro thì lợi nhuận thu được cũng bị hạn chế theo.
1.3 Các ngành công nghiệp lắp ráp (điện tử, ô tô, xe máy)
Các ngành này cũng được phát triển trên cơ sở lợi thế về nhân lực và đón nhận sự chuyển dịch từ các nước công nghiệp phát triển sang. Trong những năm gần đây, sản lượng sản xuất của các ngành này tăng lên nhanh chóng.
Biểu: Sản lượng một số sản phẩm lắp ráp
Đơn vị: 1.000 chiếc
Sản phẩm
2000
2001
2002
2003
2004
Ti vi
1031,1
1125,6
1597,3
2187,8
2478,6
Radio
144,7
71,4
67,3
23,7
25,1
Ô tô
13,547
20,526
29,536
47,701
42,561
Xe máy
463,4
610,3
1051,6
1180,4
1568,9
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Xét thuần tuý về sản lượng, công nghiệp lắp ráp cơ khí và điện tử Việt Nam có sự gia tăng khá nhanh (trừ sản phẩm radio) và đã thu hút được lực lượng khá đông đảo lao động, góp phần giải quyết việc làm cho lao động Việt Nam. Tuy nhiên, trong sự phát triển của nhóm ngành này, có một số đặc điểm đáng chú ý sau:
- Phần lớn các sản phẩm được lắp ráp dưới dạng CKD, IKD trên cơ sở các cụm chi tiết nhập khẩu từ nước ngoài.
- Phần linh phụ kiện sản xuất trong nước chiếm tỷ trọng nhỏ và chủ yếu là các loại giản đơn.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng sản xuất ra. Tỷ lệ sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản lượng sản xuất năm 2004 là 91,5% ti vi, 89,4% với ô tô và 76% với xe máy.
- Trừ một số hàng điện tử và xe máy được xuất khẩu, phần lớn các sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nội địa với các chế độ bảo hộ sản xuất trong nước, điển hình là với ô tô. Là một nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam được đánh giá là thị trường tiêu thụ ô tô có tiềm năng lớn. Ngay trong những năm 1990 đã có 12 dự án liên doanh với nước ngoài trong lĩnh vực lắp ráp ô tô, phần lớn trong đó là những hãng có danh tiếng trên thế giới như TOYOTA, NISSAN, SUZUKI, MISHUBISHI (Nhật Bản), MERCEDES (Đức), FIAT (Italia), FORD (Mỹ), DEWOO (Hàn Quốc)....Sau sự phát triển rầm rộ của các doanh nghiệp lắp ráp xe máy vào những năm 2000 – 2003, từ những năm 2004 đến nay có xu hướng phát triển các doanh nghiệp lắp ráp ô tô. Thủ tướng chính phủ đã từng ban hành Quyết định số 177/QĐ - TTg phê duyệt qui hoạch ngành ô tô. Bộ Công nghiệp cũng ban hành Quyết định số 115/QĐ-BCN về những tiêu chuẩn đối với doanh nghiệp lắp ráp ô tô. Vừa qua, Bộ Công nghiệp đã tiến hành kiểm tra 36 doanh nghiệp lắp ráp ô tô trong nước, kết quả là chỉ có 10 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quy định, tất cả các dây chuyền đều được chuyển giao công nghệ từ Trung Quốc, giá trị đầu tư thấp (chỉ khoảng 500 triệu đồng/dây chuyền). Các doanh nghiệp này tính toán: nhu cầu ô tô giá rẻ đang rất cao (thay thế 75.000 xe công nông, 32.000 xe buýt quá thời hạn lưu hành...) chỉ cần nhập khẩu dây chuyền trên, sau đó nhập linh kiện để lắp ráp và sau 5 năm sẽ hoàn thành khấu hao và bắt đầu thu lãi. Với kiểu đầu tư như vậy thì công nghiệp ô tô Việt Nam không thể trở thành một ngành công nghiệp thực thụ và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường.
1.4Công nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu
Trong những năm gần đây, công nghiệp chế biến nông sản Việt Nam có những bước phát triển tích cực. Với hàng trăm ngàn cơ sở có qui mô khác nhau thuộc các thành phần kinh tế, hàng năm công nghiệp chế biến nông sản đã sản xuất nhiều loại hàng hoá phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, chế biến nông sản, trong đó có nông sản xuất khẩu vẫn là ngành công nghiệp nhỏ bé, lạc hậu.
Xay xát lúa gạo (dạng chế biến đơn giản): cả nước có hơn 5.000 cơ sở xay sát tập trung với công suất từ 8 – 60 tấn/ca/cơ sở. Ở miền Bắc, các cơ sở này được xây dựng từ những năm 1960 đến nay đã cũ nát và hoạt động kém hiệu quả. Ở miền Nam, các cơ sở xay sát chủ yếu do tư nhân quản lý với thiết bị lạc hậu. Gần đâym, Việt Nam đã đầu tư một số nhà máy lớn tại đồng bằng sông Cửu Long với thiết bị hiện đại của nước ngoài phục vụ xuất khẩu gạo. Nhờ đó tỉ lệ gạo phẩm cấp cao (35% tấm) giảm xuống còn 4%.
Biểu: Sản lượng một số sản phẩm nông sản chế biến
(Đơn vị: 1.000 tấn)
Mặt hàng
2000
2001
2001
2003
2004
gạo, ngô xay xát
22.225
25.460
27.400
27.094
27.150
Đường, mật
1.208,7
1.057,8
1.077,8
1.360,6
1.370,9
Chè búp khô
69,9
82,6
85,4
Chè chế biến
70,1
82,1
85,0
85,171
87,500
Cà phê nhân
802,5
840,6
688,7
793,7
834,6
Cao su mủ khô
290,8
312,6
331,4
363,5
400,1
Hoa quả hộp
11,438
11,450
28,275
44,080
44,00
Dầu thực vật
280,08
281,00
315,00
314,32
320,00
(Nguồn: Niên giám thống kê 2004)
Chế biến chè: cả nước hiện có 90 cơ sở chế biến công nghiệp, trong đó có 13 doanh nghiệp nhà nước, 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn lại là doanh nghiệp ngoài nhà nước, công suất thiết kế đạt 1.190 tấn chè búp tươi/ngày, tương ứng với 89.827 tấn chè chế biến/năm. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu chè đen sang Iraq, Anh, Nga và một số nước Đông Âu. Các dây chuyền chế biến chè đen xuất khẩu chủ yếu nhập từ Liên Xô cũ, những năm gần đây có trang bị một số dây chuyền mới hiện đại hơn, nhưng nhìn chung thiết bị công nghệ chế biến còn lạc hậu, thiếu đồng bộ đã ảnh hưởng xấu đến chất lượng ché xuất khẩu.
Chế biến cà phê: có 16 doanh nghiệp, trong đó có 1 doanh nghiệp nhà nước (Tổng công ty Cà phê Việt Nam), 1 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 14 doanh nghiệp ngoài quốc doanh với 50 dây chuyền chế biến cà phê nhân đạt công suất 100.000 tấn/năm. Chế biến cà phê của Việt Nam có 2 loại: chế biến cà phê hạt; cà phê rang, xay, hoà tan. Cà phê hạt chủ yếu chế biến bằng phương pháp khô với thiết bị thủ công lạc hậu, vì vậy chất lượng cà phê hạt rất thấp. Theo đánh giá của WB, chỉ có khoảng 2% sản lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt loại 1 (R1), còn lại là loại R2 và R3 (cà phê xô). Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm hiệu quả xuất khẩu cà phê Việt Nam. Cả nước hiện chỉ có 1 doanh nghiệp chế biến cà phê hoà tan phục vụ nhu cầu trong nước.
Chế biến cao su: Tổng công suất chế biến mủ cao su đạt khoảng 250.000 tấn/năm, trong đó của Tổng công ty Cao su là 225.000 tấn. Thiết bị và công nghệ chế biến mủ cao su của Việt Nam hết sức lạc hậu nên chỉ có khả năng đáp ứng nhu cầu cấp thấp (để sản xuất săm lốp) với thị trường chủ yếu là Trung Quốc, chưa có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu chất lượng cao của các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản. Gần đây, Tổng công ty Cao su đầu tư một số nhà máy chế biến hiện đại hơn, từ đó đã mở rộng khả năng xuất khẩu cao su mủ khô vào các thị trường tiềm năng này.
Chế biến rau quả: Cả nước có 43 doanh nghiệp chế biến rau quả xuất khẩu với tổng công suất chế biến là 150.000 tấn /năm. Nhìn chung, thiết bị công nghệ và điều kiện vệ sinh công nghiệp trong chế biến còn lạc hậu là yếu tố cơ bản hạn chế khả năng khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới và mở rộng thị trường của công nghiệp chế biến hoa quả xuất khẩu. Sản xuất nước hoa quả được coi là nhóm có tiềm năng phát triển mạnh, nhưng lại phát triển hết sức kém cỏi; cả nước chỉ có 14 cơ sở với công suất thiết kế đạt 34 triệu lít/năm, nhưng mới chỉ sử dụng được 1/3 công suất và cũng gặp nhiều khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra. So với ngành công nghiệp trọng điểm khác, công nghiệp chế biến nông sản vừa nhỏ bé về qui mô, vừa lạc hậu về trình độ công nghệ, đơn điệu về sản phẩm sản xuất ra. Từ đó, sự tác động của ngành công nghiệp chế biến nông sản đến sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế, tỉ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp (chè: 55%; rau quả:5%; thịt: 1%...)
Công nghiệp mía đường: Ngành mía đường được phát triển mạnh từ khi có Chương trình mía đường (1995). Đến nay, cả nước đã có 44 nhà máy đường có năng lực chế biến 12-15 triệu tấn mía/năm và sản xuất trên 1,2 triệu tấn đường. Sự phát triển của ngành này đã có những tác dụng tích cực nhất định đến việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, xoá đói giảm nghèo ở một số vùng và giảm kim ngạch nhập khẩu đường. Tuy nhiên, ngành mía đường Việt Nam còn non yếu trên nhiều mặt: Phần lớn nhà máy có công suất nhỏ (700-1000 tấn mía/ngày), thiết bị lạc hậu, hiệu quả và chất lượng thấp; vùng nguyên liệu nhỏ bé, phân tán, chưa được đầu tư cân đối với phát triển công nghiệp chế biến đường, năng suất và chất lượng mía còn thấp.
2. Nông nghiệp
Nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá trên cơ sở khai thác lợi thế về tài nguyên sinh học đa dạng và gắn bó hơn với yêu cầu thị trường. Sản xuất lương thực, chăn nuôi, rau quả và cây công nghiệp đều có những bước phát triển mạnh mẽ. Cùng với việc đáp ứng ngày càng tốt hơn cả về sản lượng và kim ngạch. Tỷ trọng hàng nông lâm sản xuất khẩu chiếm khoảng 30 – 35% khối lượng hàng nông sản thực phẩm làm ra, trong đó lúa gạo chiếm khoảng 20%, cà phê: 95%, cao su: 85%, hạt điều: 90%, chè: 80%, hạt tiêu: 95%,...Một số nông sản của Việt Nam đã khẳng định được vị thế trên thị trường thế giới (gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu). Thị trường tiêu thụ nông sản đã được mở rộng, ngoài các khu vực tiêu thụ truyền thống nông sản của Việt Nam, như Trung Quốc, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, nông sản Việt Nam cũng đã bước đầu thâm nhập thị trường Trung Đông, EU, Mỹ và châu Phi.
Sản lượng nông sản xuất khẩu có xu hướng tăng rõ rệt. Song sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp kém, do vậy, hiệu quả xuất khẩu chưa cao, chưa tạo được thế đứng vững chắc trên thị trường.
Biểu: Sản lượng một số hàng nông sản xuất khẩu
(Đơn vị tính: 1.000 tấn)
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Gạo
3.476
3.729
3.241
3.810
4.059
5.200
Cà phê
733
931
711
749
974
880
Hạt tiêu
37,0
57,0
77,0
73,9
111,9
110
Hạt điều
34,2
43,7
62,8
82,2
105,1
Cao su
273,4
308,1
444,0
432,2
513,3
574
Rau quả
213,1
330,0
200,0
151,5
178,8
235
Chè
55,6
68,2
75,0
58,6
99,4
Lạc
76,1
78,2
107,0
82,4
44,9
57
Nguồn: Niên giám thống kế 2004 và Thời báo Kinh tế Việt Nam
Gạo: là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được các nhà hoạch định chính sách xếp vào nhóm có sức cạnh tranh cao. Sự phát triển lúa gạo là một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong công cuộc đổi mới về kinh tế. Từ chỗ hàng năm phải nhập khẩu trên dưới 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã vươn lên là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo với sản lượng xuất khẩu khoảng từ 3,5 đến 4 triệu tấn/năm, năm 2005 đã đạt mức kỷ lục là 5,2 triệu tấn tới 1,38 tỷ USD. Do tác động của quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, diện tích trồng lúa có xu hướng giảm, sản lượng lúa tăng lên chủ yếu do tăng năng suất. Với chủ trương ổn định diện tích trồng lúa, sản lượng lúa trong những năm tới vẫn ổn định. Đó là điều kiện để Việt Nam bảo đảm an ninh lương thực trong nước và duy trì vị thế xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới.
Chất lượng gạo của Việt Nam ngày càng được cải thiện và nâng cao để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường thế giới.
Biểu: Phân loại gạo xuất khẩu của Việt Nam (%)
2000
2001
2002
2003
Phẩm cấp cao (5-10% tấm)
50,0
31,2
30,6
45,4
Phẩm cấp trung bình (15-20% tấm)
12,0
41,5
40,1
29,2
Phẩm cấp thấp (trên 25% tấm)
38,0
28,3
30,3
26,4
Nguồn: Hiệp hội xuất khẩu lúa gạo Việt Nam và Bộ thương mại.
Tuy có những tiến bộ nhất định, nhưng chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều nhược điểm về độ đồng đều, tỷ lệ gạo đặc sản thấp. Điều này hạn chế rất nhiều đến khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu của Việt Nam so với gạo xuất khẩu của Thái Lan. Từ những năm 1990, tỷ lệ gạo phẩm cấp cao của Thái Lan chiếm tỷ trọng lớn, đạt tới trên 80% lượng gạo xuất khẩu, đặc biệt là Thái Lan đã xuất khẩu khối lượng lớn loại gạo đạt 100% (không có tấm) và gạo đặc sản.
Trong những năm vừa qua, giá cả gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn giá gạo quốc tế.
2000
2001
2002
2003
2004
FOB Bangkok, 5% tấm
207
178
234
199
237
Giá xuất trung bình của VN
182
165
224
188
230
Giá xuất VN qui ra 5% tấm
190
173
230
190
225
Chênh lệch
17
5
4
9
12
(Nguồn: FAO)
Trong năm 2004-2005, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng hơn, chênh lệch giá so với Thái Lan đã được thu hẹp hơn. Nếu trong những năm 1995-2000, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn từ 20-25 USD/tấn, thì hiện nay còn khoảng 5-10 USD/tấn. Có 2 nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình hình này: Thứ nhất là chất lượng gạo của Việt Nam thấp hơn, do vậy khó vào những thị trường lớn và đòi hỏi chất lượng cao. Thứ hai là Việt Nam chưa có hệ thống đối tác tin cậy nhiều năm như Thái Lan, khả năng hạn chế về Marketing, nắm thông tin thị trường, giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng.
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu gạo tẻ thường, trong một vài năm gần đây đã bắt đầu chú ý sản xuất và xuất gạo phẩm cấp cao và gạo đặc sản nhưng sản lượng chưa nhiều.
Cà phê: Diện tích và sản lượng cà phê ở Việt Nam trong thời gian qua có sự gia tăng rất nhanh. Nếu năm 1990, cả nước mới có 119.300 ha, thì đến năm 2004, diện tích này lên đến 503.200 ha; sản lượng các năm tương ứng là 92.000 tấn và 834.600 tấn. Tuy nhiên, sự tăng lên quá nhanh về diện tích và sản lượng đã tạo ra sự mất cân đối giữa thực tế và qui hoạch, giữa sản xuất và chế biến, giá bán thấp, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất.
Đánh giá chung, cà phê Việt Nam có một số ưu thế cạnh tranh khá cơ bản: điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất cà phê; giá thành sản xuất thấp vì năng suất cao và giá trị ngày công lao động thấp; đã xác lập được vị thế trên thị trường cà phê thế giới. Hiện nay Việt Nam là nước sản xuất cà phê vối đứng đầu thế giới. Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam cũng có nhiều mặt hạn chế: chất lượng sản phẩm không ổn định; sản phẩm còn đơn điệu, hầu như chỉ có cà phê vối nhân chưa qua chế biến; chưa xây dựng được thương hiệu; phần lớn cà phê được xuất khẩu qua trung gian.
Sản phẩm thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản ở cả 3 loại thuỷ vực (nước ngọt, nước lợ, nuôi biển) đều có sự gia tăng nhanh chóng. Nếu năm 2000, tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 641.900 ha, thì đến năm 2004 diện tích này đã lên tới 904.900 ha. Sản lượng khai thác và nuôi trồng cũng tăng nhanh. Năm 2000, cả nước đạt sản lượng 2.250.500 tấn, trong đó sản lượng cá là 1.660.900 tấn, nuôi trồng là 589.600 tấn; năm 2004, tổng sản lượng khai thác đạt 3.078.500 tấn, trong đó khai thác là 1.992.900 tấn, nuôi trồng là 1.255.600 tấn. Sản lượng thuỷ sản tăng là kết quả của sự tăng lên của cả 2 ngành khai thác và nuôi trồng, đặc biệt là tăng sản lượng của ngành nuôi trồng thuỷ sản. Năm 2004 sản lượng nuôi trồng đã tăng lên gấp 2 lần so với năm 2000. Sự gia tăng sản lượng nhanh chóng đã đưa thủy sản Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới, trong đó thế mạnh gần như độc quyền về tôm sú cỡ lớn. Riêng mặt hàng cá ba sa, cá tra năm 2004 sản lượng cá nguyên liệu đạt 300.00 tấn ngang bằng sản lượng cá nheo của Mỹ và trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh với cá rô phi của Trung Quốc. Tôm là một trong những mặt hàng thủy sản quan trọng của nước ta hiện nay. Sản phẩm tôm thường chiếm 40-50% giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Từ những năm 2000 đến nay, sản lượng tôm sú của Việt Nam đứng hàng đầu trong các nước xuất khẩu tôm sú. Chất lượng tôm nuôi của Việt Nam tốt hơn và ngon hơn sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực.
Công nghệ đánh bắt và nuôi trồng hiện còn rất nhiều lạc hậu do được thực hiện ở phạm vi hộ gia đình với qui mô nhỏ, khả năng tài chính yếu, không đủ khả năng đầu tư thâm canh, áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất. Tuy công nghệ chế biến thủy sản của Việt Nam đang tiếp cận trình độ công nghệ của khu vực và của một số nước tiên tiến trên thế giới, nhưng hiện vẫn còn trên 40% nhà máy chế biến qui mô nhỏ, máy móc, thiết bị cũ và lạc hậu, chủ yếu là sơ chế. Tỷ trọng lao động thủ công trong chế biến thuỷ sản còn rất lớn, năng suất lao động thấp. Những điều này đã ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng, hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản trên thị trường quốc tế. Về chất lượng một số loại thủy sản của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm của thị trường thế giới, kể cả những thị trường khó tính như EU, Mỹ và Nhật Bản. Tuy nhiên, do sự phát triển quá nhanh vượt khỏi tầm kiểm soát đã dẫn đến sự quản lý yếu kém về chất lượng. Những năm gần đây, tỷ lệ nhiễm dư lượng kháng sinh, hoá chất bị cấm trong cá nuôi khá cao, tình trạng bơm chích tạp chất vào tôm chưa được xử lý một cách triệt để, khả năng đảm bảo trong xuất xứ nguồn gốc sản phẩm kém do diện tích manh mún, trình độ sản xuất chưa đồng đều. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm thủy sản chủ lực của Việt Nam.
II. Những tác động từ việc gia nhập WTO
Trong xu thế toàn cầu hoá, khi là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam có những thuận lợi cơ bản để thâm nhập, mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh công nghiệp hoá và tăng cường năng lực của nền kinh tế. Những cơ hội mới trong phát triển kinh tế xã hội chỉ có được khi hệ thống luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh để mọi loại hình doanh nghiệp được đối xử công bằng trong các hoạt động thị trường. Muốn đón nhận thời cơ, tận dụng điều kiện thoát khỏi tình trạng bị nước lớn gây sức ép, Việt Nam phải sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế thị trường, cải cách hành chính và doanh nghiệp cho tương đồng với những thể chế toàn cầu. Đây chính là tác động mạnh mẽ của WTO đến hoạt động mở cửa thị trường và cải cách chính sách, thể chế luật pháp. Hệ thống chính sách minh bạch, ổn định và dễ dự đoán, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là cơ sở quan trọng để thu hút đầu tư đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực cần mở mang.
1. Tác động đến kinh tế
Đối với ngành kinh tế, việc gia nhập WTO tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, trong thu hút đầu tư nước ngoài và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Việc xoá bỏ rào cản đối với đầu tư nước ngoài (FDI) sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia vào các ngành công nghiệp, chế biến nông sản và nhất là dịch vụ có lợi thế. Việc điều chỉnh chính sách nhằm xoá bỏ yêu cầu cân đối thương mại và cân đối ngoại tệ cũng là điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và các ngành hàng có lợi thế xuất khẩu. Khi gia nhập WTO, hiệp định TRIPS, một cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, có tác dụng kích thích mạnh mẽ việc đầu tư chuyển giao công nghệ và đưa công nghệ cao vào các ngành kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉnh những cam kết TRIPS, tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ cũng là giải pháp khuyến khích sáng tạo, khích lệ doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hoạt động nghiên cứu phát triển, đặc biệt là ở những ngành hàng đòi hỏi hàm lượng trí tuệ cao, mang lại lợi ích kinh tế lơng. Làn sóng đầu tư nước ngoài nếu được gia tăng sẽ là động lực tích cực để tăng trưởng sản xuất công nghiệp, tăng cường nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, góp phần quan trọng vào nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và những sản phẩm ngành hàng. Nước ta mở rộng thị trường khi đại bộ phận các tổ chức sản xuất kinh doanh là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu nguồn lực đầu tư trình độ nhân lực thấp, cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém, nhiều lĩnh vực công nghệ đang còn lạc hậu. Sức ép lớn đối với các doanh nghiệp trong nước khi vào WTO là sự cạnh tranh gay gắt. Cạnh tranh thị trường nội địa càng trở nên gay gắt hơn khi các rào cản thương mại bị cắt giảm, những doanh nghiệp nhỏ, khả năng cạnh tranh yếu kém có nguy cơ phá sản hoặc giảm hiệu quả kinh doanh. Với tiềm lực hạn chế, doanh nghiệp Việt Nam đang ở thế yếu trong những tranh chấp thương mại quốc tế, thu hút được đầu tư nước ngoài vào phát triển những ngành có lợi thế phát triển, đòi hỏi trình độ công nghệ cao sẽ là một hướng thúc đẩy nhanh những ngành hàng có lợi thế xuất khẩu để chiếm lĩnh thị trường toàn cầu. Từ thực tiễn nhiều quốc gia, trong thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI thường mở mang những ngành nghề mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng sản xuất kinh doanh cho lao động của nước sở tại nhằm thu được lợi nhuận cao. Mở mang phát triển những ngành nghề mới áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi lao động có trình độ cao, buộc lực lượng lao động trẻ phải tự học hỏi vươn lên để có việc làm. Đây cũng chính là cơ hội để nâng cao trình độ nguồn nhân lực nước ta khi vào WTO.
Đối với ngành nông nghiệp của nước ta thì việc gia nhập WTO cũng mang lại rất nhiều cơ hội. Được hưởng ưu đãi của 149 nước thành viên, mặt hàng nông sản nhiệt đới có thế mạnh của nước ta không bị phân biệt đối xử, có nhiều cơ hội để thâm nhập vào thị trường toàn cầu, đặc biệt ở những nước phát triển có nhu cầu cao. Ngoài những sản phẩm có ưu thế đặc thù, cây trồng vụ đông là một thế mạnh khi các nước ôn đới đang mùa đông giá cần nhiều, nông sản thực phẩm sạch có khả năng mở rộng cũng là một hướng có nhiều triển vọng xuất khẩu lâu dài… Khi gia nhập WTO, ngành nông nghiệp nước ta có thuận lợi hơn trong các tranh chấp, với cam kết không phân biệt đối xử, hàng nông sản xuất khẩu giá rẻ nước ta có thuận lợi hơn trong các tranh chấp với cam kết không phân biệt đối xử, hàng nông sản xuất khẩu giá rẻ nước ta sẽ có cơ hội thâm nhập vào nhiều thị trường. Thêm vào đó, ảnh hưởng trong các chương trình nghị sự và quyền đàm phán đa biên của nước thành viên WTO cũng là những thuận lợi để tối đa hoá các lợi ích trong các vòng đàm phán thương mại. Từ chính sách và thể chế phù hợp với thông lệ quốc tế, nông nghiệp nước nhà sẽ có sức thu hút nhiều nhà đầu tư vào lĩnh vực này. Ngoài ra, khi vào WTO, Việt Nam còn được tham gia nhiều hơn vào những chương trình hợp tác khoa học công nghệ, thu hút đầu tư đổi mới công nghệ, mở mang nhiều ngành nghề nông thôn, hiện đại hoá công nghiệp chế biến…sẽ tác động lớn đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn. Với hướng phát triển này, theo ước tính của ngành Lao động thương binh xã hội, nếu xuất khẩu nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp tăng được 31%, 62% và 7% thì việc làm cho lao động nông nghiệp có thể tăng thêm 85 vạn.
Tác động đến tổng thể ngành công nghiệp: Có thể nói, khả năng cạnh tranh tổng thể ngành công nghiệp nước ta còn ở thế yếu do năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và trình độ khoa học công nghệ, khả năng quản lý còn nhiều hạn chế. Trong ngành công nghiệp có một số mặt hàng có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới song tỷ trọng nhỏ, chủ yếu dựa vào lợi thế tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ. Với chính sách thúc đẩy tự do hoá thương mại, việc bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan chỉ thực hiện được trong những hoàn cảnh nhất định và ngày càng giảm, khả năng Nhà nước bảo hộ cho ngành công nghiệp trước sức ép cạnh tranh ngày càng hạn hẹp, ngành công nghiệp nước nhà đang phải chấp nhận một cuộc chơi không cân sức, phải có những nỗ lực tối đa mới không bị biến thành thị trường tiêu thụ của các nước công nghiệp phát triển khi vào WTO.
Đối với ngành dịch vụ: Gia nhập WTO, dịch vụ sẽ là khu vực có độ mở cao. Đón nhận dòng đầu tư trực ._.am đã được đào tạo lại nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn.
Các hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài được quan tâm đẩy mạnh tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 81,3%, lĩnh vực dịch vụ chiếm 13,3% còn lại là lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Vùng đồng bằng Nam Bộ chiếm 68%, vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 17%, vùng Trung du và miền núi phía Bắc chiếm 4% việc cấp mới và bổ sung vốn trong giai đoạn 2001-2005 tăng nhanh ước đạt 17,9 tỷ USD. Vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với khoảng 12,6 tỷ USD chiếm 70,5% tổng vốn cấp mới; lĩnh vực dịch vụ khoảng 3,36 tỷ USD chiếm 18,8%; lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp khoảng 1,9 tỷ USD chiếm 10,7%. Tuy nhiên điểm nổi bật về đầu tư trong giai đoạn 2001-2005 là sự tăng lên mạnh mẽ của đầu tư từ khu vực tư nhân. Do tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp từ năm 2001 đến năm 2004 đã có khoảng hơn 106 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 198,2 nghìn tỷ đồng, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng bình quân mỗi năm khoảng 21,8% về số lượng và tăng 44,1% về vốn đăng ký. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới từ năm 2001-2004 bằng 2,6 lần so với giai đoạn 1991-1999 theo luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty với số vốn đăng ký gấp 7,6 lần. Như vậy trong 5 năm 2001-2005 có trên 500 nghìn doanh nghiệp đăng ký với số vốn trên 305 nghìn tỷ đồng đồng thời khu vực kinh tế dân doanh đã tạo thêm 1,5 triệu việc làm mới. Tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước liên tục tăng và vượt cao hơn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân năm 2001 chíêm 23,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, dự kiến năm 2005 tăng 27,8%. Doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp tích cực và kim ngạch xuất khẩu nhất là mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản,.. và đã đóng vai trò quan trọng trong tổng nguồn thu ngân sách nhà nước.Với 99% doanh nghiệp dân doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp khoảng 26% tổng sản phẩm trong nước, 31% giá trị sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% khối lượng vận chuyển hàng hoá và tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi có khả năng tiếp nhận phần lớn số lao động mới hàng năm và số lao động dôI dư trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước góp phần ổn định xã hội và tăng thu nhập cho người lao động.
Nhờ huy động tốt các nguồn lực khối lượng vốn đầu tư đã tăng nhanh cho phép dành một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư cho các công trình chủ yếu, quan trọng trong các nghành, lĩnh vực và địa phương, Đầu tư chuyển đổi mạnh theo hướng hiệu quả và phát huy được lợi thế từng vùng, từng ngành từng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đầu tư có chiều sâu đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp.Trong những năm qua để cảI thiện môi trường kinh doanh Việt nam tiếp tục duy trì tổng vốn đầu tư cho ngành giao thông vận tảI và bưu điện ở mức 14% vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách chiếm khoảng 27,5% tổng nguồn vốn ngân sách. Tập trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, đường trục quan trọng, hạ tầng giao thông nông thôn đặc biệt là ở các vùng núi biên giới. Bên cạnh đó việc chú trọng đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn như triển khai chương trình giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao đặc biệt là thuỷ sản để cải thiện các ngành nông lâm, ngư nghiệp.
2.Các yếu tố tạo nên lợi thế của môi trường kinh doanh
2.1 Các định hướng chiến lược trong giai đoạn hội nhập
Trong những năm qua đặc biệt là năm 2006 Việt nam đã có những nỗ lực to lớn trong việc xây dựng mới và bổ sung hệ thống pháp luật đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Dẫu rằng hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa hoàn toàn đồng bộ nhưng chúng ta đã tạo lập được những điều luật quan trọng nhất. Song một trong những tồn tại lớn hiện nay là nhiều đạo luật đã được ban hành nhưng chưa có những văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện vì thế trong những năm tới cần kiên quyết khắc phục tình trạng chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật đã được Quốc hội thông qua đặc biệt là các luật đầu tư, luật doanh nghiệp thống nhất, luật đấu thầu,… Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này Chính phủ cần chỉ đạo sát sao các cơ quan chức năng có thẩm quyền hướng dẫn thi hành các đạo luật trên cơ sở xác định tiến độ thời gian hợp lý.Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế WTO. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu nhằm thể chế hoá đường lối phát triển kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Làm rõ nội hàm của sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, các vấn đề cơ chế đảm bảo quyền sở hữu và hạn chế quyền sở hữu. Tách bạch hình thức pháp lý của doanh nghiệp với thành phần kinh tế thông qua Luật doanh nghiệp thống nhất. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tạo lập môI trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với cam kết quốc tế và lộ trình đã công bố.
Hoàn thiện pháp luật thương mại và dịch vụ theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết hoặc tham gia để tạo cơ sở pháp lý đáp ứng các yêu cầu về tự do thương mại-đầu tư-dịch vụ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã cam kết.Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế theo hướng ổn định và đơn giản hoá có tính đến các định chế kinh tế quốc tế và khu vực cũng như các điều ước quốc tế khác có liên quan.
Hoàn thiện khung khổ pháp luật cho việc tạo lập và vận hành có hiệu quả các loại thị trường, tập trung cào các thị trường hàng hoá và dịch vụ, bất động sản, tài chính và khoa học công nghệ. Đối với các loại thị trường hàng hoá và dịch vụ phải tổ chức tốt việc triển khai thực hiện luật cạnh tranh, đổi mới quản lý nhà nước về giá phù hợp với nền kinh tế thị trường. Thực hiện tự do thương mại và đầu tư phù hợp với cam kết song phương, đa phương và theo thông lệ quốc tế. Tập trung phát triển mạnh thị trường dịch vụ nhất là thị trường dịch vụ chất lượng cao và có giá trị gia tăng lớn. Đối với thị trường lao động cần phát triển thị trường lao động đồng bộ, tạo một môi trường thông suốt để tăng sự kết gắn cung-cầu lao động, đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm, đảm bảo quyền lợi lựa chọn chỗ làm việc. Thực hiện chế độ rộng rãI hợp đồng lao động, đảm bảo quyền lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động, phát triển thị trường nhân lực quản trị kinh doanh, tăng cường hệ thống thông tin thống kê về thị trường lao động.Đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có kỹ thuật và chuyên gia, tăng cường quản lý nhà nước với hoạt động xuất khẩu lao động.
Đối với thị trường tài chính thì phát triển thị trường theo hướng có cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô và phạm vi hoạt động rộng, an toàn, được quản lý, giám sát chặt chẽ, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia đầu tư, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phát triển thị trường chứng khoán từng bước làm cho thị trường này thực sự trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế từng bước phải niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Tăng cường hoàn thiện thị trường tiền tệ, lành mạnh hoá các giao dịch ngắn hạn và mua bán giấy tờ có giá trị trên thị trường, tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường tài chính cả về hoạch định chính sách, cơ chế hoạt động, quản lý điều hành và giám sát hoạt động. Đối với thị trường khoa học công nghệ phải thực hiện các chính sách ưu đãI, công nhận và cấp bằng sáng chế đối với các công trình khoa học và hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới. Hình thành các doanh nghiệp khoa học công nghệ , các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển khoa học và công nghiệp hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Tạo điều kiện thúc đẩy thương mại hoá các sản phẩm khoa học công nghệ, tạo môi trường mua bán thuận lợi các sản phẩm công nghệ, gắn kết hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, phát triển quan hệ hợp đồng giữa doanh nghiệp sản xuất với cơ sở nghiên cứu, triển khai, phát triển công nghệ mới. Tăng cường các dịch vụ hỗ trợ về sở hữu trí tuệ, tư vấn, mua bán công nghệ, giám định, đánh giá, chuyển giao công nghệ. Hình thành các tổ chức trung gian giao dịch công nghệ, chợ công nghệ, vườn ươm công nghệ. Chuyển đổi các tổ chức công nghệ sang chế độ tự chủ tài chính hoặc doanh nghiệp, thực hiện việc công ty hoá các tổ chức nghiên cứu ứng dụng công nghệ. Xóa bỏ độc quyền trong hoạt động khoa học, hoàn thiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu để tuyển chọn các dự án, đề tài nghiên cứu và đơn vị thực hiện sản phẩm công ích và khoa học, thương mại hoá hoạt động nghiên cứu triển khai. Bên cạnh đó để thực hiện tốt các cam kết khi tham gia WTO thì Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách tạo điều kiện và động lực cho doanh nghiệp chủ động tăng quy mô hoạt động thông qua tự tích luỹ và các biện pháp huy động vốn trên thị trường chứng khoán, phát triển hình thức công ty cổ phần.
Ngoài ra Việt nam cũng luôn chú trọng đến việc phát triển các chủ thể tham gia kinh tế thị trường như; tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy quản lý nhà nước bằng việc xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý kinh tế của nhà nước, điều chỉnh chức năng của chính phủ. Cơ cầu lại chính phủ theo hướng giảm mạnh các đầu mối, các Bộ quản lý nhà nước ban hành các chính sách, quy định các tiêu chuẩn, định mức chuyên ngành áp dụng cho cả nước, đồng thời kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật.Điều chỉnh lại cơ cấu các cơ quan trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước các cấp theo hướng bỏ các cấp trung gian, chuyển các bộ phận phục vụ sang hình thức hợp đồng. Tăng cường quyền chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tổ chức nhân sự và tài chính qua đó thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai. Xây dựng nền hành chính nhanh chóng đạt trình độ chính quy hiện đại, phát huy sự đa dạng về hình thức và phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia quản lý nhà nước. Việt nam đã đưa ra các chính sách nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, cơ cấu lại doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh. Thông qua việc sắp xếp đổi mới và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại đối với các doanh nghiệp nhà nước như; hoàn thành cơ bản việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang chế độ công ty, cùng một mặt bằng pháp lý với các loại doanh nghiệp khác. Đổi mới triệt để mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước nói chung và công ty nhà nước nói riêng trên cơ sở đảm bảo về quyền chủ sở hữu, hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân. Tôn trọng và đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các đồng chủ sở hữu trong các doanh nghiệp, chuyển đổi các tổng công ty sang mô hình công ty mẹ-công ty con. Hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế, chủ yếu là tập đoàn đa sở hữu, trên cơ sở liên kết về vốn giữa các doanh nghiệp. Kiên quyết thực hiện giải thể, phá sản theo đúng quy định pháp luật đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện và năng lực tàI chính nhằm lành mạnh hoá và tăng cường khả năng cạnh tranh và cả hệ thống doanh nghiệp Việt nam. Cải thiện môi trường đầu tư để hỗ trợ sự phát triển khu vực khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bằng cách xây dựng hệ thống đồng bộ, điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp theo một cơ chế chính sách thống nhất trên quan điểm nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân, từng doanh nghiệp trong đó coi khu vực tư nhân là yếu tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư và nguồn thu cho ngân sách, thực hiện xoá đói giảm nghèo.
Đẩy mạnh công việc khai hoá các quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị, các quy hoạch về phát triển kết cấu hạ tầng dân sinh( nhà ở, cấp nước, bến xe,..) trên phạm vi địa phương để các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, lựa chọn đầu tư phát triển.Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, các trang trại và các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phát triển toàn diện và hiệu quả thông qua việc ban hành các cơ chế mới cho phép các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các chính sách khuyến khích và các chương trình hỗ trợ của nhà nước, nhất là trong việc huy động vốn đầu tư và tín dụng, thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, nắm bắt thông tin thị trường, khai thác tư vấn kỹ thuật và đào tạo phát triển nguồn nhân lực cũng như tiếp cận với các dịch vụ phát triển kinh doanh. Nhà nước phải thành lập thêm các quỹ hỗ trợ đầu tư, cho vay trung hạn, dài hạn phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lập quỹ bảo lãnh tín dụng, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua tàI chính, tín chấp ưu đãi, miễn giảm một số loại thuế và đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Khuyến khích phát triển các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài bằng cách tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép đầu tư cho các dự án không thuộc danh mục cấm hoặc hạn chế đầu tư. Cụ thể hoá và thu hẹp các lĩnh vực không cấp giấy phép đầu tư và điều kiện cấp phép với các lĩnh vực đầu tư có điều kiện. Mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua đầu tư gián tiếp, mua lại, sáp nhập. Đa dạng hoá các hình thức pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI, chủ động thu hút nhiều tập đoàn đa sở hữu của nước ngoàI đầu tư vào Việt nam. Giảm dần và tiến tới xoá bỏ các quy định đặc thù đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xoá bỏ những hạn chế về vốn góp và huy động vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sửa đổi, bổ sung các biện pháp hiện hành hạn chế thương mại, những hạn chế về tiếp cận thị trường, trước hết đối với các dự án trong ngành sản xuất chế tạo hoặc có tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hoá cao, phục vụ thay thế xuất khẩu và các dự án phát triển các nguồn nguyên liệu trong nước. Thể chế hoá việc nhà đầu tư nước ngoài thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất để vay vốn tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt nam. Thời hạn thuê đất được gia hạn tự động nếu nhà đầu tư có nguyện vọng, tiền thuê đất được xác định trên cơ sở thoả thuận. áp dụng thống nhất về phí hàng hoá dịch vụ, giá thuê đất, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
2.2 Những kết quả đạt được
Mặc dù gặp những điều kiện không thuận lợi và đi lên từ một nước có nền kinh tế thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng với những chính sách phù hợp Việt nam đã và đang từng bước cải thiện môI trường kinh doanh đầu tư. Điều này được phán ánh qua mức tăng trưởng GDP cao nhất trong 8 năm trở lại đây.
Tất cả các khu vực kinh tế đều tăng trưởng với tốc độ nhanh so với năm trước, tổng vốn đẩu tư tiếp tục tăng cao ( 21 tỷ USD) chiếm 28,9% GDP. Trong đó đầu tư tư nhân chiếm hơn 32% tổng vốn và được khẳng định là có tốc độ phát triển nhanh nhất tăng 28% so với năm trước. Đầu tư của khu vực tư nhân có hiệu quả cao hơn so với khu vực nhà nước đã giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm. Vốn đầu tư tăng ở khu vực này là một dấu hiệ đáng mừng cho thấy tiềm lực trong nước đang tăng lên và khẳng định các chính sách của Việt nam nhằm cải thiện môI trường kinh doanh đang dần phát huy hiệu quả. Vốn FDI năm nay cũng tăng gần 40%, đạt 5,8 tỷ USD mức cao nhất trong 10 năm( trong đó đầu tư mới là 4 tỷ USD, đầu tư bổ sung là 1,9 tỷ USD) . Có thể nhận thấy rằng năm 2006 đã khởi đầu cho một làn sang FDI mới sau khi Việt Nam trở thành một thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế WTO trong điều kiện nền kinh tế đang hội tụ những điều kiện thuận lợi:
Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, trong khi vẫn duy trì được nền kinh tế vĩ mô vững chắc( tỷ lệ nợ thấp, lạm phát ở mức có thể chấp nhận được, tỷ lệ tiết kiệm cao và sự phân hoá giàu nghèo thấp).
Môi trường chính trị và xã hội ổn định và là một nước quốc gia yên bình không nằm trong khu vực nhiều thiên tai và chi phí nhân công lại thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đang tìm kiếm cơ hội đầu tư và Việt nam đang xem là một nhân tố quan trọng trong chiến lược “ Trung Quốc +1” của các công ty xuyên quốc gia. Nhật bản đang xếp Việt nam nằm trong số 3 thị trường đầu tư hàng đầu của họ và một số lượng lớn các đầu tư của Nhật đã và đang chuyển dần hoạt động sản xuất sang Việt nam. Cho đến nay Việt nam hiện đã thu hút được hơn 50,5 tỷ USD vốn trong các dự án FDI vẫn còn có hiệu lực trong đó 60,8% nguồn vốn đến từ Châu á, Singapore, Nhật Bản,..Cơ cấu FDI được định hướng chủ yếu vào các ngành công nghiệp xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam do nguồn nhân công và tài nguyên dồi dào. Tuy nhiên hiện có dấu hiệu gia tăng FDI vào các lĩnh vực dịch vụ điều này phản ánh môI trường kinh tế thông thoáng hơn và đời sống sức mua trong nước ngày càng tăng, Ngành công nghiệp kỹ thuật cao cũng đang tìm đường đến Việt nam khởi đầu bằng việc Intel xây dựng nhà máy sản xuất chíp và linh kiện máy vi tính đầu tiên trị giá 605 triệu USD. Hiện tại có hơn 3.000 doanh nghiệp FDI hoạt động rất tốt tại Việt nam và trong năm 2005 khu vực này đạt doanh thu 21 tỷ USD( tăng 16,7%), tổng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 13,3 tỷ USD đóng góp quan trọng trong tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và chiếm một phần đáng kể trong các ngành công nghiệp then chốt.
VI. Lợi thế về tài chính
Trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, áp lực mục tiêu tăng trưởng đã giảm đáng kể so với những năm trước. Mục tiêu tốc độ tăng trưởng trong năm 2007 mà Quốc hội đặt ra là 8% và kiềm chế lạm phát sẽ là tâpk trung của chính sách trong năm tới khi tốc độ gia tăng giá cả đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của người dân như vậy tình hình lãi suất sẽ rất nóng bỏng theo xu thế kiềm chế tốc độ gia tăng tín dụng và tập trung vào cải thiện chất lượng vốn cho vay của Ngân hàng. Thị trường tàI chính trong năm 2007 sẽ rất sôi động với sự khởi đầu của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài và sự tham gia thị trường của nhiều Ngân hàng quốc tế. Mặc dù thị trường Ngân hàng vẫn chưa được mở cửa cho đến năm 2008 theo lộ trình BTA, nhiều Ngân hàng quốc tế sẽ nỗ lực tìm kiếm đối tác Việt Nam và trở thành các cổ đông chiến lược bằng cách mua lại các cổ phần ngân hàng trong nước, tạo cơ sở cho sự tham gia thị trường của họ trong vài năm tới. Các Ngân hàng thương mại tiếp tục hoạt động có lãi khi nền kinh tế trên đà phát triển mạnh mẽ, dù vậy nhiều rủi ro vẫn đang tiềm ẩn trong thị trường bất động sản. Tình hình khó có thể được cảI thiện đáng kể trong những năm tới khi giá đất đang bị các hoạt động đầu cơ đẩy lên khá cao so với khả năng của đại bộ phận dân chúng. Nếu nhà đầu tư bất động sản bị phá sản hay giá đất giảm xuống mức thực tế một cách quá nhanh thì hệ thống Ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
Thị trường chứng khoán trong những năm tới sẽ khởi sắc với sự tham gia thị trường của các công ty lớn và hấp dẫn như Vinamilk, Sacombank,..tạo nên nhiều cơ hội đầu tư và xâm nhập của các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2007 cũng sẽ là năm của các Tổng công ty huy động vốn trên thị trường quốc tế qua việc phát hành cổ phiếu doanh nghiệp nhằm tàI trợ các dự án đầu tư dài hạn. Tăng cường vay tín dụng trên thị trường quốc tế đem lại cho các doanh nghiệp cơ hội huy động vốn dàI hạn với lãi suất cạnh tranh đồng thời gia tăng rủi ro tài chính của nền kinh tế( đặc biệt trong bối cảnh Việt nam đang từng bước tự do hoá các giao dịch vốn) do đó đòi hỏi Chính phủ phải có những nỗ lực nâng cao công tác quản lý vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong giai đoạn hội nhập. Nhà nước phải luôn là thành phần nòng cốt của các Ngân hàng thương mại nhà nước, đồng thời đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh lành mạnh của các Ngân hàng thương mại trong toàn hệ thống theo pháp luật. Phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống quỹ tín dụng nhân dân để thực sự trở thành tổ chức tín dụng hợp tác động lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động. Tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng và doanh nghiệp tiếp cận với các dịch vụ Ngân hàng, trên cơ sở đó mở rộng các hình thức thanh toán qua Ngân hàng.Đảm bảo quyền kinh doanh của các Ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo cam kết quốc tế. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp,ưu đãI và phân biệt đối xử giữa các tổ chức tín dụng. Thực hiện mở của thị trường dịch vụ Ngân hàng và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng theo đúng lộ trình đã cam kết tại các hiệp định song phương và đa phương.Phấn đấu hoàn thành về cơ bản chương trình tái cơ cấu Ngân hàng thương mại đã được Chính phủ phê duyệt. Nâng cao khả năng sinh lời, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và cải thiện bảng cân đối tài sản của các Ngân hàng thương mại. Phát hành cổ phiếu và tráI phiếu dài hạn để tăng vốn tự có theo đúng chuẩn mực quốc tế. Đến năm 2010 hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ các thíêt chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ-ngân hàng, hoàn thiện căn bản Luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng. Qua đó phát triển thị trường tàI chính theo hướng có cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô và phạm vi hoạt động rộng, an toàn được quản lý giám sát chặt chẽ, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia đầu tư, từ đó chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phát triển mạnh thị trường chứng khoán, từng bước là cho thị trường này thực sự trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế từng bước phảI niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. Tăng cường hoàn thiện thị trường tiền tệ, lành mạnh hoá các giao dịch vốn ngắn hạn và mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường, tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường tàI chính cả về hoạch định chính sách, cơ chế hoạt động, quản lý điều hành và giám sát hoạt động.
V. Lợi thế về các ngành dịch vụ
Vượt qua nhiều khó khăn thách thức xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2005 đạt 21.1 tỷ USD với tốc độ bình quân là 15,7%/năm, bằng khoảng 19% so với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá, xấp xỉ mức bình quân của thế giới ( bình quân của thế giới là 20%) trong đó một số ngành dịch vụ xuất khẩu đạt khá như: hàng không, bưu chính viễn thông, hàng hải, tài chính-ngân hàng, du lịch. Cơ cấu thị trường xuất khẩu có nhiểu chuyển đổi tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Châu á, ổn định xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ. Ngoài ra còn mở rộng nhiều thị trường mới có tiềm năng trong những năm tới khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO.
Về nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng có nhiều biến đổi, đạt khoảng 129,6 tỷ USD trong giai đoạn 2001-2005. Về cơ bản đã thực hiện được chủ trương nhập khẩu đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh hàng hoá đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống và xuất khẩu. Về cơ cấu nhập khẩu, nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu chiếm tỷ trọng ưu thế, tốc độ tăng bình quân 5 năm đạt 17,9%, chiếm tỷ trọng 61,5% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng chi phối nhưng đang có xu hướng giảm dần bên cạnh đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI trong tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước có xu hướng tăng dần. Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ trong 5 năm 2001-2005 đạt 21,2 tỷ USD tăng bình quân 10,3%. Tuy nhiên trong năm 2006 thị trừơng bảo hiểm tăng thấp hơn kỳ vọng rất nhiều chỉ tăng trưởng ở mức 8,66% giảm sút đáng kể so với mức 20,2% trong năm 2004. Tổng doanh thu đạt mức 980 triệu USD hay chiếm 2,03% GDP trong đó phí bảo hiểm chiếm 850 triệu USD và doanh thu từ hoạt động đầu tư là 130 triệu USD. Số lượng các hợp đồng mới tăng 3,27 % trong khi tổng giá trị các hợp đồng mới chỉ đạt 1,3 tỷ USD( 9,24% của mức năm 2004) với gía trị trung bình của mỗi hợp đồng năm 2005 giảm 8,7%. Trong thị trường bảo hiểm nhân thọ thì Prudential vẫn dẫn đầu chiếm 41% thị phần phí bảo hiểm của tất cả các hợp đồng bảo Việt chỉ đứng thứ 2 với 38% thị phần. Với sự tham gia của các công ty quốc tế, áp lực cạnh tranh sẽ tiếp tục gia tăng và Bảo Việt sẽ phải chịu sức ép lớn mặt dù đã chuyển đổi thành một tập đoàn tài chính và đa dạng hoá các hoạt động của mình.Trong năm 2007 theo lộ trình thực hiên Hiệp định thương mại song phương BTA với Hoa Kỳ thị trường bảo hiểm sẽ được mở cửa hơn cho các công ty của Mỹ mặc dù hiện nay đã có nhiều công ty nước ngoài được cấp phép hoạt động như: AAA, AIG,.. Thị trường phi nhân thọ tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao 20%. Tổng giá trị tài sản được bảo hiểm đã tằn 50% và phí bảo hiểm tăng 20%, bảo Việt vẫn giữ vị trí dẫn đầu thị trường này nhưng thị phần bị thu hẹp từ 40% xuống còn 38%, Thị trường này hiện vẫn do các công ty trong nước nắm giữ công ty nước ngoàI chỉ chiếm vào khoảng 7% thị phần.
VI. Lợi thế về Nông nghiệp
Việt Nam là quốc gia đang phát triển ở trình độ cấp thấp, giá nhân công rẻ do thu nhập người dân còn thấp, bên cạnh đó là lợi thế do thiên nhiên ưu đãi, khí hậu ôn hoà, bờ biển trải dài, tài nguyên phong phú sẽ là nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực du lịch, thương mại, dịch vụ và sản xuất công nghiệp. Sự thành công của các khu chế xuất, khu công nghiệp Tân Thuận, Linh Trung, Tân Tạo tại TP Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp ở Đồng Nai, Bình Dương..., kim ngạch xuất khẩu và GDP của Việt Nam tăng hàng năm đã minh hoạ cho các lợi thế, và các chủ trương kêu gọi đầu tư của Việt Nam. Là một nước có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ sẽ giúp Việt Nam thu hút được các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều nhân công như may mặc, da giầy...Điều này sẽ giải quyết lớn được vấn đề công ăn việc làm cho người lao động. Với bờ biển trải dài và khí hậu ôn hoà sẽ giúp Việt Nam có cơ hội phát triển các sản phẩm nông nghiệp như nuôi trồng thuỷ sản, các cây lương thực như lúa gạo, các cây công nghiệp như cao su, cà phê, tiêu, điều và các vùng rau, hoa, quả, vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm. Cơ hội này càng được nhân lên khi Việt Nam tham gia vào WTO, các định chế tự do thương mại được thực hiện thì sẽ không còn các rào cản về hạn ngạch Quota, sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam không chỉ xuất khẩu cho một số thị trường truyền thống như Nhật Bản, Pháp, Đức, Nga.... mà sẽ dễ dàng vào các thị trường Mỹ, các quốc gia Châu Âu và các quốc gia khác trên thế giới. Đây không chỉ là cơ hội mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước mà còn là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam để khai thác các lợi thế xuất khẩu của Việt Nam.
Các cam kết mở cửa thị trường, giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam sẽ giúp cho sản phẩm hàng hoá Việt Nam giảm giá đáng kể do đầu vào của nguyên liệu được giảm thuế, và khi xuất khẩu theo nguyên tắc có đi có lại của các quốc gia thành viên WTO, sẽ không có sự áp đặt thuế nhập khẩu của các quốc gia nhập khẩu, sẽ tạo cho sản phẩm của Việt Nam dễ cạnh tranh hơn, như thế cũng tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam (kể cả các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở Việt Nam). Khi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, các sản phẩm của các doanh nghiệp này sẽ ghi xuất xứ “Made in Việt Nam”, kim ngạch xuất khẩu, các chỉ tiêu tính GDP thuộc Việt Nam, nguyên tắc không phân biệt đối xử, luật đầu tư chung của Việt Nam đã khẳng định không phân biệt đối xử với các đối tượng sở hữu doanh nghiệp, vì thế những doanh nghiệp này phải được xem là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân ở Việt Nam, chịu trách nhiệm pháp lý về kinh doanh tại Việt Nam và được hưởng các quyền lợi chính đáng của một doanh nghiệp Việt Nam. Điều này sẽ thu hút được một lượng vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam phát triển và tăng trưởng nhanh trong mấy năm gần đây do lợi thế xuất khẩu, sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân. Người dân có thu nhập cao, sẽ có nhu cầu mua sắm và tạo ra nhu cầu của thị trường và tạo ra sự kích thích sản xuất. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam và các nhà đầu tư nước ngoài trong việc chiếm lĩnh thị trường đầy tiềm năng này.
Yếu tố chính trị ổn định của Việt Nam cũng là một lợi thế giúp cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài yên tâm bỏ vốn kinh doanh.
KẾT LUẬN
Việc gia nhập WTO là một cơ hội và thách thức đối với Việt nam. Với tư cách là thành viên chính thức của WTO chúng ta sẽ thu được nhiều lợi ích mà quan trọng nhất là đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển,hoà nhập với nền kinh tế chung của thế giới, từ đó dần nâng cao vị thế của kinh tế Việt nam trên trường quốc tế. Khi trở thành thành viên chính thức của WTO sẽ mang đến những cơ hội cho các nhà xuất khẩu cải thiện khả năng tiếp cận thị trường và mang đến nhiều lợi thế trong giảI quyết tranh chấp thương mại cho phép hàng hoá Việt nam được cạnh tranh trêan mặt bằng bình đẳng với các nước thành viên khác. Nhưng là thành viên chính thức Việt nam cũng sẽ gặp nhiều khó khăn do địa vị kinh tế, đặc điểm xã hội-chính trị là một nước đang phát triển. Tuy nhiên với sự nỗ lực của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy, tạo sự đồng thuận trong nhận thức ở tất cả các cấp về công cuộc đổi mới nói chung, về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đến việc tiếp tục đổi mới hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách, đổi mới hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giải pháp các vấn đề về thủ tục gia nhập WTO- NXB Thế giới, Hà nội
Số liệu thống kê tình hình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001-2005
Những đặc điểm cơ bản và xu thế phát triển kinh tế của các nước đang phát triển-Tạp trí những vấn đề kinh tế thế giới( t1-2006)
Thông tấn xã Việt Nam, Các vấn đề quốc tế(2/2005)
Tìm hiểu tổ chức Thương mại quốc tế WTO-NXB Chính trị quốc gia, Hà nội,
Kinh tế Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO-NXB Thế giới, Hà nội
Thông tin kinh tế tại Website Bộ thương mại
Thông tin tại Website Tổng cục thống kê
Thông tin tại Website Bộ Tài chính
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVKT058.doc