Lời nói đầu
Có thể nói trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần chủ động về vốn, tuỳ vào đặc điểm kinh doanh cụ thể mà cơ cấu vốn có sự khác biệt nhau ở một mức độ nào đó. Mặt khác vốn được xem là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, một trong hai yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá. Đồng thời để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp đều cần quan tâm đến vấn đề tạo lập, quản lý và sử dụng vốn s
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty TNHH Thương mại và Tin học CaLi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao cho hiệu quả đạt được là cao nhất cũng như chi phí sử dụng vốn là thấp nhất.
Đồng vốn bỏ ra có hiệu quả hay không lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, nó tác động rất lớn đến việc tăng hay giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới việc giảm hay tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng đã và đang là vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp hết sức quan tâm.
Trước kia trong cơ chế bao cấp, các doanh nghiệp tư nhân chưa phát triển còn các doanh nghiệp được Nhà nước cấp phát vốn, lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu. Do đó các doanh nghiệp Nhà nước không quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn. Còn ngày nay khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và cạnh tranh, thì chính các doanh nghiệp Nhà nước cũng như tư nhân luôn đặt trong xu thế cạnh tranh này. Vì vậy để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp tư nhân nói riêng phải luôn quan tâm và không ngừng có các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đó là một vấn đề cơ bản không thể thiếu đối với sự tồn tại phát triển và cùng cạnh tranh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào.
Qua thời gian thực tập tại công ty Tnhh thương mại và tin học CaLi, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên cùng với những lý luận và thực tiễn đã học và tìm hiểu em đã chọn đề tài “Vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp” cho chuyên đề thực tập của mình.
Nội dung của chuyên đề bao gồm:
Chương 1: Vốn lưu động và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp.
Chương 2: Tình hình sử dụng vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty TNHH Thương mại & Tin học CaLi.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Công ty TNHH Thương mại & Tin học CaLi.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn - Thạc sỹ: Trần Kim Oanh cùng toàn thể các anh chị trong Công ty đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương 1
vốn lưu động và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp
I.1. Vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu vốn lưu động trong doanh nghiệp.
I.1.1. Lý luận chung về vốn lưu động.
I.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm.
Trong nền kinh tế quốc dân mỗi doanh nghiệp được coi như một tế bào của nền kinh tế với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần phải có đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản phẩm được thực hiện. Biểu hiện dưới hình thái vật chất của đối tượng lao động gọi là tài sản lưu động, TSLĐ của doanh nghiệp gồm TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông.
TSLĐ sản xuất gồm những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục, vật tư đang nằm trong quá trình sản xuất chế biến và những tư liệu lao động không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định. Thuộc về TSLĐ sản xuất gồm: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, sản phẩm dở dang, công cụ lao động nhỏ.
TSLĐ lưu thông gồm: sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn chuyển hoá lẫn nhau, vận động không ngừng làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Để hình thành nên tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông doanh nghiệp cần phải có một số vốn thích ứng để đầu tư vào các tài sản ấy, số tiền ứng trước về những tài sản ấy được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Như vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất là số tiền ứng trước về tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục nên vốn lưu động cũng vận động liên tục, chuyển hoá từ hình thái này qua hình thái khác. Sự vận động của vốn lưu động qua các giai đoạn có thể mô tả bằng sơ đồ sau:
T
T-H-SX-H’- T’
Δ T
Đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực lưu thông, quá trình vận động của vốn lưu động theo trình tự sau:
T
T – H – T’
Δ T
Sự vận động của vốn lưu động trải qua các giai đoạn và chuyển hoá từ hình thái ban đầu là tiền tệ sang các hình thái vật tư hàng hoá và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ ban đầu gọi là sự tuần hoàn của vốn lưu động. Cụ thể là sự tuần hoàn của vốn lưu động được chia thành các giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1(T-H): khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động dưới hình thái tiền tệ được dùng để mua sắm các đối tượng lao động để dự trữ cho sản xuất. Như vậy ở giai đoạn này vốn lưu động đã từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá.
- Giai đoạn 2(H-SX-H’): ở giai đoạn này doanh nghiệp tiến hành sản xuất ra sản phẩm, các vật tư dự trữ được đưa dần vào sản xuất. Trải qua quá trình sản xuất các sản phẩm hàng hoá được chế tạo ra. Như vậy ở giai đoạn này vốn lưu động đã từ hình thái vốn vật tư hàng hoá chuyển sang hình thái vốn sản phẩm dở dang và sau đó chuyển sang hình thái vốn thành phẩm.
- Giai đoạn 3:(H’-T’): doanh nghiệp tiến hành tiêu thụ sản phẩm và thu được tiền về và vốn lưu động đã từ hình thái vốn thành phẩm chuyển sang hình thái vốn tiền tệ trở về điểm xuất phát của vòng tuần hoàn vốn. Vòng tuần hoàn kết thúc. So sánh giưa T và T’, nếu T’ >T có nghĩa doanh nghiệp kinh doanh thành công vì đồng vốn lưu động đưa vào sản xuất đã sinh sôi nảy nở, doanh nghiệp bảo toàn và phát triển được VLĐ và ngựơc lại. Đây là một nhân tố quan trọng đánh giá hiệu quả sử dụng đồng VLĐ của doanh nghiệp.
Do quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục nên vốn lưu động của doanh nghiệp cũng tuần hoàn không ngừng, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ gọi là sự chu chuyển của vốn lưu động. Do sự chu chuyển của vốn lưu động diễn ra không ngừng nên trong cùng một lúc thường xuyên tồn tại các bộ phận khác nhau trên các giai đoạn vận động khác nhau của vốn lưu động. Khác với vốn cố định, khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện, chu chuyển giá trị toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
I.1.1.2. Phân loại vốn lưu động.
Để quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại sau đây:
* Phân loại theo vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo cách phân loại này vốn lưu động của doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: bao gồm giá trị các khoản nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, động lực, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
- Vôn lưu động trong khâu sản xuất: bao gồm các khoản giá trị sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông: bao gồm các khoản giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền(kể cả vàng bạc, đá quý...); các khoản vốn đầu tư ngắn hạn(đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn...) các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn; các khoản vốn trong thanh toán(các khoản phải thu, các khoản tạm ứng...).
Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động hợp lý sao cho có hiệu quả sử dụng cao nhất.
* Phân loại theo hình thái biểu hiện.
Theo cách nay vốn lưu động có thể chia thành hai loại:
- Vốn vật tư, hàng hoá: là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm....
- Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn....
Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét, đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
* Phân loại theo quan hệ sở hữu.
Theo cách này người ta chia vốn lưu động thành 2 loại:
- Vốn chủ sở hữu: là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước; vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra; vốn góp cổ phần trong công ty cổ phần; vốn góp từ các thành viên trong doanh nghiệp liên doanh; vốn tự bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp.....
- Các khoản nợ: là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay các nhân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác; vốn vay thông qua phát hành trái phiếu; các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng trong một thời hạn nhất định.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay các khoản nợ. Từ đó có các quyết định trong huy động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý hơn, đảm bảo an ninh tài chính trong sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Phân loại theo nguồn hình thành.
Nếu xét theo nguồn hình thành vốn lưu động có thể chia thành các nguồn như sau:
- Nguồn vốn điều lệ: là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn điêù lệ bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này cũng có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
- Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh như từ lợi nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết; là số vốn lưu động được hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá....theo thoả thuận của các bên liên doanh.
- Nguồn vốn đi vay: vốn vay của các ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng, vốn vay của người lao động trong doanh nghiệp, vay các doanh nghiệp khác.
- Nguồn vốn huy động từ thị trường vốn bằng việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó. Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi phí sử dụng vốn của mình.
* Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn.
Theo cách này nguồn vốn lưu động được chia thành nguồn vốn lưu động tạm thời và nguồn vốn lưu động thường xuyên.
- Nguồn vốn lưu động tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn lưu động thường xuyên là nguồn vốn có tính chất ổn định nhằm hình thành nên TSLĐ thường xuyên cần thiết.
Chúng ta có thể khái quát như sau:
TSLĐ tạm thời
Nguồn tạm thời
-TSLĐ thường xuyên cần thiết
-TSCĐ
Nguồn thường xuyên
Việc phân loại nguồn vốn lưu động như trên giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn lưu động một cách phù hợp với thời gian sử dụng để nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp mình. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà quản lý lập các kế hoạch tài chính hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn lưu động trong tương lai, trên cơ sở xác định quy mô, số lượng VLĐ cần thiết để lựa chọn nguồn vốn lưu động này mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp.
I.1.2. Kết cấu vốn lưu động và các nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu vốn lưu động.
* Kết cấu vốn lưu động.
- Khái niệm kết cấu VLĐ: là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
VLĐ là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, vấn đề tổ chức quản lý, sử dụng vốn lưu động có hiệu quả sẽ quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tổ chức được tốt quá trình mua sắm dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, phân bổ hợp lý vốn trên các giai đoạn luân chuyển để vốn luân chuyển từ loại này thành loại khác, từ hình thái này sang hình thái khác, rút ngắn vòng quay của vốn.
Để quản lý vốn lưu động được tốt cần phải phân loại vốn lưu động. Có nhiều cách phân loại vốn, mỗi cách phân loại có tác dụng riêng phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý. Thông qua các phương pháp phân loại giúp cho nhà quản trị tài chính doanh nghiệp đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn của những kỳ trước, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý kỳ này để ngày càng sử dụng hiệu quả hơn vốn lưu động. Cũng như từ các cách phân loại trên doanh nghiệp có thể xác định được kết cấu vốn lưu động của mình theo những tiêu thức khác nhau.
Trong các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng không giống nhau. Việc phân tích kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản lý vốn lưu động có hiệu quả hơn phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp, có thể chia ra thành 3 nhóm chính sau:
- Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như: khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp; khả năng cung cấp của thị trường; kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng; đặc điểm thời vụ của chủng loại vật tư cung cấp.
- Các nhân tố về mặt sản xuất như: đặc điểm, kỹ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp; mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo; độ dài của chu kỳ sản xuất; trình độ tổ chức quá trình sản xuất.
_ Các nhân tố về mặt thanh toán như: phương thức thanh toán được lựa chọn theo các hợp đồng bán hàng; thủ tục thanh toán; việc chấp hanh kỷ luật thanh toán giữa các doanh nghiệp.
I.2. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở các doanh nghiệp.
I.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình các doanh nghiệp đã sử dụng VLĐ để đảm bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được bình thường và liên tục. Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả từng đồng vốn lưu động. Việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả VLĐ được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sau:
* Tốc độ luân chuyển VLĐ.
Việc sử dụng hợp lý tiết kiệm vốn lưu động được biểu hiện trước hết ở tốc độ luân chuyển vốn lưu động của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
Tốc độ luân chuyển VLĐ có thể đo bằng hai chỉ tiêu là số lần luân chuyển(số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn(số ngày của một vòng quay vốn). Số lần luân chuyển VLĐ phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong thời kỳ nhất định, thường tính trong 1 năm. Công thức tính như sau:
L=M/VLĐ
Trong đó:
L: số lần luân chuyển(số vòng quay) của VLĐ trong kỳ.
M: tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ.
VLĐ; vốn lưu động bình quân trong kỳ.
Kỳ luân chuyển VLĐ phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay VLĐ.
Công thức được xác định như sau:
K=360/L hay K=(VLĐ x 360)/M
Trong đó:
K:kỳ luân chuyển VLĐ.
M,VLĐ: như công thức trên.
Vòng quay VLĐ càng nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả.
* Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển.
Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn được biểu hiện bằng hai chỉ tiêu là mức tiết kiêm tuyệt đối và mức tiết kiệm tương đối.
- Mức tiết kiệm tuyệt đối là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tiết kiệm được một số vốn lưu động để sử dụng vào công việc khác. Nói một cách khác với mức luân chuyển vốn không thay đổi(hoặc lớn hơn báo cáo) song do tăng tốc độ luân chuyển nên doanh nghiệp cần số vốn ít hơn. Công thức tính như sau:
M1
Vtktđ = ( x K1 ) - VLĐ0 = VLĐ1 – VLĐ0
360
Trong đó: Vtktđ : Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối.
VLĐ0, VLĐ1: Vốn lưu động bình quân năm báo cáo và năm kế hoạch.
M1 : Tổng mức luân chuyển năm kế hoạch
K1 : Kỳ luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch
Điều kiện để có VLĐ tiết kiệm tuyệt đối là tổng mức luân chuyển vốn kỳ kế hoạch phải không nhỏ hơn tổng mức luân chuyển vốn kỳ báo cáo và vốn lưu động kỳ kế hoạch phải nhỏ hơn vốn lưu động kỳ báo cáo.
- Mức tiết kiệm tương đối là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể quy mô VLĐ. Công thức xác định số VLĐ tiết kiệm tương đối như sau:
M1
Vtktgđ = x (K1 – K0)
360
Trong đó:
Vtktgđ : Vốn lưu động tiết kiệm tương đối.
M1 : Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch.
K0, K1: Kỳ luân chuyển vốn năm báo cáo và năm kế hoạch.
Điều kiện để có vốn lưu động tiết kiệm tương đối là tổng mức luân chuyển vốn kỳ kế hoạch phải lớn hơn kỳ báo cáo và VLĐ kỳ kế hoạch phải lớn hơn VLĐ kỳ báo cáo.
* Hàm lượng VLĐ(hay còn gọi là mức đảm nhận VLĐ).
Hàm lượng VLĐ là số vốn lưu động cần có để đạt được một đồng doanh thu. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ, chỉ tiêu này được tính như sau:
Hàm lượng VLĐ=1/H
Trong đó:
H:hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
* Mức doanh lợi VLĐ(tỷ suất lợi nhuận VLĐ).
- Tỷ suất lợi nhuận VLĐ trước thuế và lãi vay: chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự tác động của thuế TNDN và chưa tính đến VLĐ được hình thành từ nguồn nào.
Công thức tính như sau:
LN trước thuế và lãi vay
Tỷ suất VLĐ trước thuế và lãi vay = x 100%
VLĐ
Trong đó:
VLĐ: vốn lưu động bình quân trong kỳ.
- Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động tính với lợi nhuận trước thuế.
Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ chưa có sự tác động của thuế TNDN.
Công thức tính như sau:
LN trước thuế
Tỷ suất VLĐ trước thuế = x 100%
VLĐ
- Tỷ suất lợi nhuận thuần: chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ, một đồng vốn lưu động có thể đạt được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này phản ánh mức sinh lời của VLĐ đã chịu sự tác động của cả thuế TNDN và lãi vay.
Công thức tính như sau:
LN sau thuế
Tỷ suất VLĐ sau thuế = x 100%
VLĐ
Trên đây là một số chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá hiệu quả tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp giúp cho nhà quản lý tài chính đánh giá đúng đắn tình hình của kỳ trước, từ đó có nhận xét và nêu ra những biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý vốn cho kỳ tiếp theo.
1.2.2. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
VLĐ đóng một vai trò rất quan trọng trong hợp đồng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cùng một lúc, VLĐ được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành thường xuyên liên tục, đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ VLĐ vào các hình thái đó, để cho hình thái đó có được mức tồn tại tối ưu và đồng bộ với nhau nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển hoá hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Do sự chu chuyển của VLĐ diễn ra không ngừng nên thiếu vốn thì việc chuyển hoá hình thái sẽ gặp khó khăn, VLĐ không luân chuyển được và quá trình sản xuất do đó bị gián đoạn.
Quản lý VLĐ là một bộ phận trọng yếu của công ty quản lý tài chính doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ cũng chính là nâng cao hiệu quả của hoạt đông sản xuất kinh doanh. Quản lý VLĐ không những đảm bảo sử dụng VLĐ hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tiết kiệm chi phí, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và thanh toán công nợ một cách kịp thời. Do đặc điểm của VLĐ là luân chuyển nhanh, sử dụng linh hoạt nên nó góp phần quan trọng đẩm bảo sản xuất và luân chuyển một khối lượng lớn sản phẩm. Vì vậy kết quả hoạt động của doanh nghiệp là tốt hay xấu phần lớn là do chất lượng của công tác quản lý VLĐ quyết định.
Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng VLĐ phải được hiểu trên hai khía cạnh:
+ Một là, với số vốn hiện có có thể cung cấp thêm một số lượng sản phẩm với chất lượng tốt, chi phí hạ nhằm tăng thêm lợi nhuận doanh ntghiệp.
+ Hai là, đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhằm tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng vốn.
Hai khía cạnh đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới trong công tác quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và VLĐ nói riêng.
Mỗi doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế, vì vậy nền kinh tế muốn phát triển thì doanh nghiệp hoạt động phải có hiệu quả. Như đã phân tích ở trên, sử dụng hiệu quả VLĐ là một nhân tố tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuát kinh donh của doanh nghiệp. Do đó, không thể phủ nhận vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Trên thực tế những năm vừa qua, hiệu qủa sử dụng vốn nói chung và VLĐ nói riêng của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước đạt thấp. Nguyên nhân chính là các doanh nghiệp chưa bắt kịp với cơ chế thị trường nên còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng vốn.
Mặt khác, hiệu quả sử dụng VLĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kĩ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức thúc đẩy sản xuất phát triển. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và tổng hợp nhằm khai thác để khả năng vốn có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả từng đồng VLĐ nhằm làm cho VLĐ được thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển vốn cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, qua đó, vốn được thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt được số VLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lượng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trước. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn có ý nghĩa quan trong trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí lưu thông và hạ giá thành sản phẩm.
Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận và lợi ích xã hội chung nhưng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn VLĐ. Do đặc điểm VLĐ lưu chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái VLĐ thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn VLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo toàn VLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ được đủ mua một lượng vật tư, hàng hoá tương đương với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cương quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có được trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật được cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường. Đặc biệt khi khai thác được các nguồn vốn, sử dụng tốt nguồn vốn lưu động, nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như việc giảm chi phí về lãi vay.
Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
I.3. Một số biện pháp tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động.
Việc tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố khác nhau. Để phát huy những nhân tố tích cực đòi hỏi nhà quản trị phải nắm bắt được những nhân tố chủ yếu tác động đến công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động.
1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức quản lý và hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
* Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác tổ chức quản lý vốn lưu động.
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Do đó việc tổ chức quản lý vốn lưu động cũng chịu ảnh hưởng của hai nguồn này.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là số VLĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Nguồn vốn này có lợi thế rất lớn vì donh nghiệp được quyền chủ động sử dụng một cách linh hoạt và không chịu chi phí sử dụng vốn. Vì thế, nếu doanh nghiệp tổ chức khai thác triệt để nguồn vốn này sẽ vừa tạo ra được một lượng vốn cung ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, lại vừa giảm được một khoản chi phí sử dụng vốn không cần thiết do phải đi vay từ bên ngoài, đồng thời nâng cao được hiệu quả đồng vốn hiện có.
- Nợ phải trả: là các khoản VLĐ được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Trong nền kinh tế thị trường, ngoài vốn chủ sở hữu doanh nghiệp còn huy động các khoản nợ phải trả để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của mình. Việc huy động các khoản nợ phải trả không những đáp ứng kịp thời VLĐ cho sản xuất kinh doanh mà còn tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu vốn linh hoạt. Tuy nhiên, việc cân nhắc lựa chọn hình thức thu hút VLĐ tích cực lại là nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả của công tác tổ chức VLĐ. Nếu doanh nghiệp xác định chính xác nhu cầu VLĐ, lựa chọn phương án đầu tư vốn có hiệu quả, tìm được nguồn tài trợ thích ứng sẽ đem lại thành công cho doanh nghiệp. Ngược lại nợ vay sẽ trở thành gánh nặng rủi ro đối với doanh nghiệp.
* Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Vốn lưu động được vận động chuyển hoá không ngừng. Trong quá trình vận động đó, vốn lưu động chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
* Các nhân tố khách quan: hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của một số nhân tố:
+ Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Do tác động của nền kinh tế tăng trưởng chậm nên sức mua của thị trường bị giảm sút. Điều này làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít hơn, lợi nhuận giảm sút và như thế sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
+ Rủi ro: do những rủi ro bất thường trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp thường gặp phải trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên tai gây ra như hoả hoạn, lũ lụt...mà các doanh nghiệp khó có thể lường trước được.
+ Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên sẽ làm giảm giá trị tài sản, vật tư...vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá trị của sản phẩm thì hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng.
+ Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà nước có sự thay đổi về chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế... cũng tác động đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
* Các nhân tố chủ quan:
Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên còn rất nhiều nhân tố chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ cũng như toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
+ Xác định nhu cầu vốn lưu động: do xác định nhu cầu VLĐ thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
+ Việc lựa chọn phương án đầu tư: là một nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm lao vụ dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời giá thành hạ thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ và ngược lại.
+ Do trình độ quản lý: trình độ quản lý của doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn đến thất thoát vật tư hàng hoá trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến sử dụng lãng phí VLĐ, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
+ Do kinh doanh thua lỗ kéo dài, do lợi dụng sơ hở của các chính sách gây thất thoát VLĐ, điều này trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hưởng tới công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả tổ chức và sử dung VLĐ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của từng nhân tố, tìm ra nguyên nhân của những mặt tồn tại trong việ._.c tổ chức sử dụng VLĐ, nhằm đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất, để hiệu quả của đồng vốn lưu động mang lại là cao nhất.
1.3.2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc tổ chức quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp tư nhân cũng như mọi doanh nghiệp khác đều bình đẳng trước pháp luật, phải đối mặt với cạnh tranh, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, tự chủ về vốn. Do đó, việc nâng cao sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng là vấn đề quan trọng và cần thiết. Để sử dụng vốn lưu động có hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt một số biện pháp sau:
-Thứ nhất, phải xác định chính xác số VLĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động VLĐ đáp ứng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận lợi, đồng thời tránh tình trạng ứ đọng vốn, thúc đẩy VLĐ luân chuyển nhanh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
-Thứ hai, lựa chọn hình thức thu hút VLĐ. Tích cực tổ chức khai thác triệt để các nguồn VLĐ bên trong doanh nghiệp, vừa đáp ứng kịp thời vốn cho nhu cầu VLĐ tối thiểu cần thiết một cách chủ động, vừa giảm được một khoản chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Tránh tình trạng vốn tồn tại dưới hình thái tài sản không cần sử dụng, vật tư hàng hoá kém phẩm chất... mà doanh nghiệp lại phải đi vay để duy trì sản xuất với lãi suất cao, chịu sự giám sát của chủ nợ làm giảm hiệu quả SXKD.
-Thứ ba, trước khi quyết định đầu tư doanh nghiệp cần phải cân nhắc kĩ nguồn tài trợ vốn đầu tư, quy trình công nghệ, tình hình cung ứng nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để đảm bảo chi phí sử dụng vốn đầu tư là thấp nhất doanh nghiệp phải xem xét sự quyết định đầu tư ảnh hưởng như thế nào đến kết cấu vốn SXKD của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tốt hay xấu đến công tác tổ chức và sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
-Thứ tư, tăng tốc độ luân chuyển VLĐ: tốc độ luân chuyển VLĐ thể hiện bằng hai chỉ tiêu là số vòng quay VLĐ kỳ luân chuyển bình quân của VLĐ. Số vòng quay VLĐ trong kỳ được tính toán trên cơ sở mức luân chuyển VLĐ và số VLĐ bình quân. Vì vậy phương hướng chung để tăng tốc độ luân chuyển VLĐ là trên cơ sở mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh tạo điều kiện tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, sẽ dẫn tăng tổng mức luân chuyển VLĐ.
Để tăng tốc độ luân chuyển VLĐ, sử dụng vốn tiết kiệm cần phải thực hiện tốt những biện pháp về các mặt mua sắm dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, thanh toán với người mua và người bán hay nói cách khác, doanh nghiệp cần phải sử dụng hợp lý, tiết kiệm VLĐ ở tất cả các khâu dự trữ, sản xuất và lưu thông. Cụ thể:
+Trong lĩnh vực sản xuất cần rút ngắn chu kỳ sản xuất, công ty cần có biện pháp rút ngắn thời gian làm việc trong quy trình công nghệ ở mức cho phép và hạn chế tới mức thấp nhất thời gian ngừng việc do các nguyên nhân khác nhau.
+Trong lĩnh vực lưu thông cần có các biện pháp cụ thể trong việc tổ chức hoạt động tiêu thụ và mua sắm, doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ thị trường và khả năng sản xuất tối đa của doanh nghiệp, từ đó dự đoán về vốn thành phẩm để đưa ra kế hoạch sản xuất thích hợp cả về số lượng, chất lượng sản phẩm cũng như chủng loại sản phẩm. Có như vậy vốn thành phẩm trong khâu lưu thông mới đúng kế hoạch theo ý muốn của công ty.
-Thứ năm, làm tốt công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh. Doanh nghiệp cần chủ động trong công tác thanh toán công nợ, chủ động thanh toán tiền hàng, hạn chế tình trạng bán hàng không thu được tiền, vốn bị chiếm dụng làm phát sinh nhu cầu vốn cho sản xuất dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch làm phát sinh chi phí sử dụng vốn lẽ ra không có (nếu như thanh toán tốt), đồng thời vốn bị chiếm dụng còn là một rủi ro khi trở thành nợ khó đòi làm thất thoát VLĐ của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường thì mọi rủi ro đều có thể xảy ra đối với mỗi doanh nghiệp, để chủ động phòng ngừa rủi ro các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm, lập quỹ dự phòng tài chính để có nguồn bù đắp khi rủi ro xảy ra, cần đề phòng các rủi ro như hoả hoạn, lũ lụt...
-Thứ sáu, tăng cường bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý tài chính. Để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao, tình hình sử dụng vốn hợp lý, tiết kiệm thì bên cạnh những điều kiện về trình độ công nghệ của máy móc thiết bị, về cơ cấu sản phẩm được thị trường chấp nhận...còn phải kể đến một vấn đề quan trọng trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý tài chính. Nếu có đủ các điều kiện khác mà không làm tốt công tác quản lý thì việc sử dụng VLĐ cũng không mang lại hiệu quả cao. Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý tài chính phải năng động nhạy bén với thị trường, huy động linh hoạt các nguồn vốn có lợi nhất, quản lý vốn huy động được một cách uyển chuyển nhất, phù hợp nhất với điều kiện của doanh nghiệp để càng ngày nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.
Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của các doanh nghiệp. Trong thực tế, do các doanh nghiệp thuộc những ngành nghề kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh khác nhau nên mỗi doanh nghiệp cần phải căn cứ vào những giải pháp chung để từ đó đề ra cho doanh nghiệp mình những biện pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả vốn lưu động của mình.
Chương 2.
Thực trạng và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công tyTNHH thương mại và tin học CaLi
II.1. Tổng quan về Công Ty TNHH Thương mại & Tin học CaLi
II.1.1. Khái quát :
- Tên Công ty : Công ty TNHH thương mại và tin học CALI
- Quyết định thành lập: ngày 3 - 2 - 2003, do Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội cấp
- Tên giao dịch quốc tế : CALI computer & Trade Company Limited
- Tên viết tắt : CALI Computer Co., LTD
- Vốn điều lệ : 500.000.000 đ
-Trụ sở chính : Số 140 Lê Thanh Nghị - Hai Bà Trưng -Hà Nội
-Điện thoại : 04.8683565
-Ngành nghề kinh doanh : phân phối , lắp ráp máy tính và các thiết bị văn phòng .
II.1.2. Tổ chức bộ máy
Sơ đồ bộ máy tổ chức công ty Giám đốc
P. Giám đốc
P. Kinh doanh
P. Kế toán
P. Kỹ thuật
Kho
Kế toán thuế
Kế toán tiền mặt
Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban :
Giám đốc : Là người điều hành công việc hàng ngày của công ty, kí kết các hợp đồng kinh tế, tuyển dụng công nhân, giải quyết mọi công việc của Công ty theo pháp luật và điều lệ của công ty. Là người đại diện theo pháp luật .
Phó giám đốc : Là người tham mưu ,trợ giúp cho giám đốc trong công tác chỉ đạo công ty .
Phòng kinh doanh : Phụ trách công việc kinh doanh, giao dịch , marketing , mua bán trao đổi máy tính và các thiết bị văn phòng .
Phòng kế toán : Có chức năng giúp GĐ về lĩnh vực tài chính kế toán , theo dõi tình hình thực hiện các kế hoach tài chính & tình hình chấp hành các chế độ chính sách quản lý kinh tế, tài chính của Công ty. Đây là phòng có chức năng rất quan trọng của công ty trong quá trình kinh doanh, bám sát quá trình đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác ,kịp thời phục vụ cho GĐ ra quyết định đúng đắn .
Phòng kỹ thuật : lắp dặt, sửa chữa, thay thế, bảo hành ,bảo dưỡng thiết bị máy móc ,hàng hoá, triển khai thiết kế, tạo dựng hệ thống máy tính cho khách hàng, mạng máy tính....
Kho : Bảo quản ,quản lý hàng hoá, thiết bị, nhập , xuất linh kiện, máy móc .
II.2. Tình hình kinh doanh của công ty trong 2 năm vừa qua
II.2.1. Thị trường tin học nói chung
Với xu hướng phát triển mạnh của nền kinh tế hiện nay , nhất là thị trường tin học đang trên đà phát triển mạnh , mức sống của người dân thành thị và nông thôn được nâng cao , nên khả năng tiếp nhận với tin học cũng được nâng lên . Theo đánh giá của các chuyên gia , mức tăng trưởng của thị trường thiết bị tin hoạ Việt Nam năm 2003 đạt 16,5% tỉ lệ người dân biết sử dụng vi tính và internet ngày càng cao . Tuy nhiên người tiêu dùng hiện nay ( nhất là những khu vực không thuộc phạm vi thành phố ) chưa có điều kiện mua một bộ máy với cấu hình mạnh vì giá thành cao , Vì vậy họ thường tìm đến các công ty kinh doanh máy tính nguyên chiếc đã qua sử dụng được nhập khẩu từ các nước phát triển về tin học như Hàn Quốc , Mỹ,Australia...., bởi vf máy tính sử dụng nguyên chiếc đánh vào thị khiếu người tiêu dùng do giá cả phù hợp , chất lượng rất tốt và ổn định .
II.2.2. Thị trường đầu ra của công ty
Là một công ty hàng đầu về phân phối máy tính , thiết bị văn phòng .Chúng tôi luôn đưa ra thị trường những sản phẩm mang nhãn hiệu của hãng sản xuất nổi tiếng trên thế giới . Tuy công ty mới thành lập được 2 năm nhưng đã tạo được uy tín với các đối tác lớn cũng như khách hàng mua lẻ , hệ thống khách hàng đầu ra của Công ty CaLi nằm rải rác ở các khu vực trọng điểm như:
* Công ty Thương Mại & Phát Triển Công Nghệ Bách Khoa
ĐC : 29Láng Hạ - Thanh Xuân - Hà Nội
* Công ty TNHH Máy Tính Lâm Lee
ĐC : 328 Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội
* Công ty TNHH Sao Sáng
ĐC : 395 Hoàng Quốc Việt- Hà Nội .
* Công ty Thương Mại Dịch vụ Đặng Gia .
ĐC : 29/78 Thái Thịnh - Hà Nội
* Công ty TNHH STC
ĐC : Số 8 - Phùng Hưng - Hoàn Kiếm - Hà Nội
* Công ty thương mại và XNK Tân Hoàng Hưng
ĐC : Hoàng Quốc Việt - Cầu Giấy - Hà Nội
* Trung tâm tin học và PTCNTT Thiên Thảo
ĐC : 129 Yên Hoà - Cầu Giấy - Hà Nội
* Cửa hàng HBEE Computer
ĐC : 141 Lê Thanh Nghị - Hai Bà Trưng - Hà Nội
* Công ty TNHH Phát Triển & Chuyển Giao Công Nghệ Kỹ Thuật Cao
ĐC : 68 Đốc Ngữ - Ba Đình - Hà Nội
* Công ty xây dựng Việt Nam
ĐC: 37 Lê Đại Hành - Hà Nội
* Công ty Dịch Vụ Pháp Lý
ĐC: 26/41 Thái Hà - Hà Nội
* Công ty Tin Học và Thương mại Phú Thành Đạt
ĐC : 97 Phan Đình Phùng - Thị xã Hà Tĩnh
* Công ty TNHH Trần Quang
ĐC : 113 - Bà Triệu - HBT - Hà Nội
* Cửa hàng điện tử Tuấn Loan
ĐC : 10 - Hồ Sen- Hải Phòng ........
Một phần thành công lớn nhất của công ty phải kể đến sự ủng hộ nhiệt tình của các đối tác lớn , các đại lý lân cận đã đóng góp khá lớn doanh số của công ty . Mỗi năm riêng bán buôn đã đạt khoảng 70% tổng doanh thu .
Các chi nhánh ở các tỉnh lân cận có mạng lưới phân phối bán lẻ tương đối lớn ( khoảng 30% tổng số doanh thu ) , thu mới tiếp cận với thị trường ở các tỉnh lẻ nhưng tình hình kinh doanh rất khả thi và đóng góp rất lớn vào doanh thu của doanh nghiệp .
II.2.3. Đánh giá, nhận định về thị trường đầu vào.
Thị trường đầu vào của công ty CaLi chủ yếu là nhập khẩu các linh kiện máy tính , màn hình , máy tính nguyên chiếc đã qua sử dụng nước Mỹ , Hàn Quốc...., Các nhà cung cấp chủ yếu là bạn hàng quốc tế , thông qua các mối quan hệ, các giao dịch thương mại đã hình thành nên những mối quan hệ kinh doanh lâu dài. Với phương thức thanh toán rất nhanh chóng , chính xác, đúng hợp đòng đã ký kết, đúng hạn dựa trên các tiêu chuẩn Quốc tế( LC- thư tín dụng không huỷ ngang đối với các lô hàng giá trị lớn và thanh toán tiền đổi chứng từ đối với các lô hàng trị giá nhỏ ) thông qua các Ngân hàng.
Nói chung hàng hoá đầu vào mà các đối tác cung cấp hiện nay cho công ty CaLi là rất lớn. Bởi vậy để đứng vững được trên thị trường luôn biến động đầy sóng gió như hiện nay, công ty CaLi đã đề ra những mục tiêu cần làm ngay là nâng cao khả năng cạnh tranh, ngày càng phát triển và mở rộng thị trường , tạo uy tín lâu dài cho các đối tác , khơi dậy và khai thác tối đa khả năng tiêu thụ hàng hoá của các đại lý.
II.2.4. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong năm 2003 và 2004.
Tuy mới thành lập và được cấp giấy phép hoạt động vào giữa năm 2003 nhưng sau một thời gian nghiên cứu thị trường cũng như tìm kiếm đối tác, công ty đã chính thức hoạt động kinh doanh vào ngày 03/04/2003. Với
thời gian rất ngắn nhưng đã khẳng định được lợi thế kinh doanh của công ty , trong 8 tháng năm 2003 và tiếp tục tăng trưởng trong năm 2004:
Bảng 1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2003 & 2004 Đơn vi tính: đồng
Thứ tự
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
1
Doanh thu thuần
1.558.250.000
4.640.500.000
2
Giá vốn hàng bán
1.134.560.000
3.980.600.000
3
Lãi gộp(1-2)
423.690.000
659.900.000
4
Chi bán hàng & quản lý DN
385.673.000
339.276.000
5
Lãi thuần (3-4)
38.017.000
320.624.000
6
Thuế TNDN ( 28%)
10.644.760
89.774.720
7
Lợi nhuận sau thuế(5-6)
27.372.240
230.849.280
8
Nộp ngân sách Nhà nước
53.013.760
155.764.720
II.3. Tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công tyTNHH thương mại và tin học CaLi.
II.3.1.Những nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công tyTNHH thương mại và tin học CaLi.
Để công tác tổ chức quản lý và sử dụng VLĐ có hiệu quả, nhà quản trị doanh nghiệp cần nắm bắt được tình hình thực tế của đơn vị mình, những khó khăn và thuận lợi mà doanh nghiệp hiện có để từ đó có các biện pháp phù hợp để tận dụng những nhân tố thuận lợi và hạn chế, khắc phục những nhân tố khó khăn. Qua đó từng bước tạo thế ổn định cho sự phát triển của công ty cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
a>Những thuận lợi.
Về mặt pháp lý, công ty là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có tư cách pháp nhân, công ty được mở tài khoản tại ngân hàng, nhờ ngân hàng là trung gian giao dịch thanh toán, thu chi nội, ngoại tệ trong việc thanh toán với các đối tác.
Về nguồn lực con người, công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên hiện tại là 18 người, tuổi đời còn trẻ, chủ yếu là trình độ đại học, cao đẳng, đây là một nguồn lực dồi dào cả về phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, tạo nên sự vững mạnh về văn hoá của doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ công nhân viên này không ngừng được củng cố nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn để thường xuyên và sẵn sàng đáp ứng với sự đổi mới không ngừng trong cơ chế thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng.
Đặc biệt cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty khá chặt chẽ với người lãnh đạo có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, đồng thời sự kết dính giữa các phòng ban thường xuyên, khăng khít, đã góp phần vào việc chèo lái mọi công việc đi theo đúng hướng và mục tiêu đã đặt ra.
Bên cạnh đó, công ty là đơn vị đi đầu trong công tác kinh doanh Máy tính cũ, có nhiều các mối quan hệ làm ăn, tin cậy, lâu dài, hơn nữa Công ty đang ngày càng có uy tín trên thương trường, đây cũng là một nhân tố quan trọng trong việc huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ.
b>Những khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên, công ty còn gặp phải những khó khăn trong công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động như:
Khó khăn lớn nhất của công ty trong những năm vừa qua là vấn đề vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Là một Công ty mới thành lập, với số vốn ban đầu là 500 triệu đồng, trong khi DN lại kinh doanh trong lĩnh vực máy tính nên nhu cầu vốn lưu động là rất lớn. Hiện nay, Công ty đang tiến hành mở rộng thị trường bằng việc mở thêm các chi nhánh mới như ở Yên Bái, Việt Trì ...thì nhu cầu vốn là rất cần thiết. Trong điều kiện vốn chủ sở hữu không đủ đáp ứng, Công ty đã phải đi vay vốn của các Ngân hàng, các đối tác, việc phải chịu lãi suất vốn vay khá lớn đã làm cho lợi nhuận của Công ty giảm đáng kể.
Chậm thanh toán trong mua bán, các bạn hàng nhiều khi thanh toán không đúng thời hạn làm cho vốn bị ứ đọng , không thu hồi được vốn kinh doanh, dẫn đến giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
II.3.2. Tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động của Công ty TNHH thương mại và tin học CaLi.
II.3.2.1. Vốn và nguồn vốn kinh doanh của Công tyTNHH thương mại và tin học CaLi.
Để thấy rõ tình hình vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty ra xem xét bảng sau:
Bảng3: Vốn và nguồn vốn kinh doanh của công ty trong 2 năm qua.
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
Tổng tiền
Tỉ lệ%
Tổng tiền
Tỉ lệ%
I. Vốn kinh doanh
725.500.000
100,0
1.088.420.000
100,0
1. Vốn lưu động
625.500.000
86,2
972.670.000
89,4
2. Vốn cố định
100.000.000
13,8
115.750.000
10,6
II. Nguồn vốn kinh doanh
725.500.000
100,0
1.088.420.000
100,0
1. Nợ phải trả
225.500.000
31,1
561.047.760
51,5
a. Nợ ngắn hạn
125.500.000.
17,3
461.047.760
42,4
b. Nợ dài hạn
100.000.000
13,8
100.000.000
9,1
2. Vốn chủ sở hữu
500.000.000
68,9
527.372.240
48,5
a. Lợi nhuận giữ lại
27.372.240
2,5
b. Vốn góp
500.000.000
68,9
500.000.000
46,0
Qua bảng 2 ta thấy:
Về vốn kinh doanh: cơ cấu vốn có sự chênh lệch khá lớn, VLĐ chiếm 86,2% năm 2003 và chiếm 89,4% vào năm 2004. Trong khi đó năm 2003 vốn cố định(VCĐ) chỉ là 13.8%, năm 2004 VCĐ chỉ chiếm 10,6% tổng vốn kinh doanh. Có thể nói vốn kinh doanh của công ty chủ yếu vẫn là VLĐ vì Công ty TNHH Thương mại & Tin học CaLi là một công ty thương mại với hoạt động chủ yếu là mua bán máy tính & các thiết bị văn phòng nên VCĐ chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong tổng số vốn kinh doanh .
Về nguồn vốn kinh doanh: Năm 2003 Vốn chủ sở hữu(VCSH) chiếm một tỉ lệ lớn(68,9%) trong nguồn vốn kinh doanh, trong khi đó nợ của Công ty chỉ chiếm 31,1%. Điều này cho thấy Công ty khá tự chủ về nhu cầu vốn trong kinh doanh. Nhưng đến năm 2004, do nhu cầu mở rộng thị trường, Công ty đã tăng số vốn kinh doanh lên 1,088,420,000 đ và các khoản nợ của công ty cũng tăng lên cả về số lượng tuyệt đối và tương đối - nợ phải trả của công ty năm 2004 là 561.047.760 đ, chiếm 51,5% tổng số vốn kinh doanh. Doanh nghiệp sẽ phải mất thêm các khoản chi trả cho lãi suất vốn vay khá lớn. Hơn nữa việc tỉ lệ nợ chiếm cao cũng làm cho doanh nghiệp chịu khá nhiều sức ép với các khoản nợ đến hạn và sự phụ thuộc vào các chủ nợ - mà ở đây chủ yếu là các ngân hàng.
Đồng thời hệ số nợ quá cao cũng có thể làm cho các chủ nợ mất sự tự tin phần nào vào công ty về khả năng hoàn trả vốn vay đúng hạn.
Xét về tính ổn định của nguồn vốn ta thấy:
*Nguồn vốn thường xuyên = vay dài hạn + vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn TX năm 2003 = 100.000.000(đ)+ 500.000.000 = 600.000.000đ , chiếm tỷ trọng 82,7% tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn TX năm 2004 = 100.000.000 + 527372240 = 627372240đ chiếm tỷ trọng 57,6% tổng nguồn vốn.
*Nguồn vốn tạm thời = Nợ ngắn hạn
Năm 2003 nguồn vốn tạm thời là: 125.500.000đ chiếm 17.3% tổng nguồn vốn.
Năm 2004 nguồn vốn tạm thời là: 461.047.760 đ chiếm tỷ trọng 42.4% tổng nguồn vốn.
Từ những tính toán phân tích ở trên ta có thể đi đến một số nhận xét, đánh giá khái quát tình hình nguồn vốn kinh doanh của công ty trong 2 năm 2003 và 2004 như sau:
Hệ số nợ quá cao(năm 2004), cho thấy công ty đang vay nợ nhiều mà chủ yếu là nợ ngắn hạn. Đòi hỏi công ty phải thường xuyên có các nguồn hợp lý để trả nợ đúng hạn.
Nguồn vốn kinh doanh có xu hướng tăng, nguồn vốn thường xuyên chủ yếu đầu tư vào vốn lưu động đây là một điều thuận lợi trong việc huy động vốn lưu động vào phục vụ cho hoạt động kinh doanh, nó cũng phù hợp với đặc điểm hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp thương mại cần nhiều vốn lưu động.
Nhìn chung, hệ số nợ lớn nhưng nguồn vốn thường xuyên cũng chiếm tỷ trọng nhỏ do đó công ty phải luôn quan tâm tới cách thức sử dụng vốn vay cho hợp lý và có hiệu quả, cũng như quan tâm tới vấn đề an ninh tài chính của công ty.
II.3.2.2. Nguồn vốn lưu động của Công ty TNHH thương mại và tin học CaLi.
Là một doanh nghiệp thương mại, do đó vốn lưu động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn lưu động của công ty gồm: nguồn vốn lưu động thường xuyên và nguồn vốn lưu động tạm thời.
Nguồn vốn lưu động thường xuyên đảm bảo một phần cho tình hình tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn VLĐ TX = TSLĐ - Nợ ngắn hạn
Cũng qua bảng 2 ta có:
Nguồn VLĐ TX năm 2003 = 625.500.00đ - 125.500.00đ = 500.000.000đ chiếm tỷ trọng 79.9% trong tổng số tài sản lưu động.
Nguồn VLĐ TX năm 2004 = 972.670.000đ - 461.047.760đ = 511.622.240đ chiếm tỷ trọng 52.6% trong tổng số tài sản lưu động.
Bảng4. Nguồn vốn lưu động của Công ty TNHH thương mại và tin học CaLi. Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Chênh lệch
Số tiền
Tt%
Số tiền
Tt%
Số tiền
Tỷ lệ%
I.VLĐ
625.500.000
100
972.670.000
100
347.170.000
55,5
1.Tiền
78.827.000
12,6
90.128.000
9,3
11.301.000
14,3
2.Các khoản phải thu
152.613.000
24,4
217.782.000
22,4
65.169.000
42,7
3.Hàng tồn kho
351.740.000
56,2
611.145.000
62,8
259.405.000
73,7
4.TSLĐ khác
42.320.000
6,8
53.615.000
5,5
11.295.000
26,7
II.Nguồn VLĐ
Theo thời gian huy động và sử dụng
Nguồn VLĐ thường xuyên
500.000.000
79,9
511.622.240
52,6
11.622.240
2,3
Nguồn VLĐ tạm thời
125.500.000
20,1
461.047.760
47,4
335.547.760
267,4
Qua bảng 3 ta thấy vốn lưu động năm 2003 là: 625.500.000đ, năm 2004 là:972.670.000đ, như vậy vốn lưu động năm 2004 tăng so với năm 2003 là 347.170.000đ tỷ lệ tăng tương ứng là 55.5%. trong đó chủ yếu là các khoản phải thu tăng 65.169.000đ tương ứng với tỷ lệ tăng là 42,7%. Tiền mặt cũng tăng 11.301.000đ với tỷ lệ tăng tương ứng là 14.3%, Tài sản lưu động khác cũng tăng 11.295.000đ với tỷ lệ tăng tương ứng là 26.7%. Đặc biệt hàng tồn kho của công ty tăng lớn nhất, năm 2004 tăng so với năm 2003 là 259.405.000đ - tương ứng tăng 73.7%.
Có thể nói, việc luôn có lượng hàng trong kho thường xuyên để đáp ứng nhu cầu kinh doanh thường xuyên của công ty, nhưng lượng hàng tồn kho sao cho là hợp lý lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Với tỷ trọng hàng tồn kho quá nhiều lại là một bất lợi đối với công ty trong hoạt động kinh doanh, do bị ứ đọng một lượng vốn lớn và bị khách hàng chiếm dụng vốn, khi đó công ty cần có những biện pháp kịp thời và cứng rắn trong việc thu hồi nợ, cũng như cần nghiên cứu thị trường, thẩm định về loại hàng, chất lượng, giá cả để giảm dần lượng hàng tồn kho tới mức hợp lý nhất, từ đó làm cho đồng vốn lưu động được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn quá nhiều để hoạt động kinh doanh liên tục và bình thường thì tất yếu doanh nghiệp lại phải đi vay ngân hàng.
Năm 2003 nguồn VLĐ tạm thời là: 125.500.000đ chiếm tỷ trọng 20.1% tổng nguồn vốn lưu động. Năm 2004 nguồn VLĐ tạm thời là: 461.047.760đ chiếm tỷ trọng 47.4%. Như vây nguồn vốn lưu động tạm thời năm 2004 tăng so với năm 2003 là 335.547.760đ với tỷ lệ tăng tương ứng là 267.4%. điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự chủ động về vốn lưu động của công ty. Từ đó có thể gây ra nhiều khó khăn cho công ty khi thực hiện chiến lược kinh doanh nhất là những chiến lược kinh doanh lâu dài và nhiều khi công ty mất đi những cơ hội kinh doanh do thiếu vốn nhất là nguồn vốn lưu động thường xuyên. cụ thể nguồn vốn lưu động thường xuyên của công ty có xu hướng tăng nhưng tăng rất ít, năm 2004 tăng so với năm 2003 là: 11.622.240đ với tỷ lệ tăng tương ứng là 2.3%.
Song xét trên tình hình thực tế của công ty cũng như kết quả hoạt động kinh doanh 2 năm gần đây cho thấy công ty đã biết khai thác và sử dụng tốt nguồn vốn lưu động tạm thời nhằm đảm bảo nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động kinh doanh. Điều này chứng tỏ công ty rất năng động trong việc tổ chức nguồn vốn lưu động đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả cao nhất.
II.3.2.3. Vốn tiền mặt và khả năng thanh toán của Công tyTNHH thương mại và tin học CaLi.
A . Vốn tiền mặt
Trong hoạt động kinh doanh vốn tiền mặt là hết sức quan trọng và cần thiết, nó có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp hàng ngày như mua sắm hàng hoá, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất thường chưa dự đoán được và động lực trong“đầu cơ” trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng kinh doanh khi xuất hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì một mức dự trữ vốn tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu được triết khấu trên hàng mua trả đúng kỳ hạn, làm tăng hệ số khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Song việc dự trữ tiền mặt phải luôn luôn chủ động và linh hoạt.
Bảng5 Tình hình tiền mặt & khả năng thanh toán của Công ty CaLi
Đơn vị tính: đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
Tăng
Tiền
Tỉ lệ%
Tiền
Tỉ lệ%
Tiền
Tỉ lệ%
Tiền mặt
78.827.000
100
90.128.000
100
11.301.000
14.3
1. Tiền tại quỹ
15.827.000
20
20.130.600
22.3
4.303.600
27.2
2. Tiền gửi NH
63.000.000
80
69.997.400
77.7
6.997.400
11.1
Từ bảng trên ta thấy:
Năm 2003 vốn tiền mặt là: 78.827.000đ chiếm tỷ trọng 12.6% trong tổng VLĐ.
Năm 2004 vốn tiền mặt là: 90.128.000đ chiếm tỷ trọng 9.3% trong tổng VLĐ.
Như vậy vốn tiền mặt năm 2004 đã tăng so với năm 2003 là: 11.301.000đ với tỷ lệ tăng tương ứng 14.3%.
Vốn tiền mặt tăng là do:
Tiền mặt tại quỹ năm 2004 tăng so với năm 2003 là: 4.303.600đ với tỷ lệ tăng tương ứng là 27.2%. Song tiền mặt tại quỹ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn tiền mặt.
Trong khi đó TGNH lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn tiền mặt. Cụ thể năm 2003 là: 63.000.000đ chiếm tỷ trọng 80% tổng vốn tiền mặt. Năm 2004 là: 69.997.400đ chiếm tỷ trọng 77.7% tổng vốn tiền mặt. Như vậy TGNH năm 2004 tăng so với năm 2003 là: 6.997.400đ với tỷ lệ tăng tương ứng 11.1%. Việc tăng TGNH là một điều có lợi cho công ty vì khi đó ta không chỉ được hưởng lãi mà việc dùng chúng để thanh toán cũng khá thuận tiện, nhanh gọn, chống thất thoát nhờ hệ thống thanh toán của ngân hàng. Nó đặc biệt quan trọng đối với một công ty hoạt động nhập khẩu như CaLi.
Lý do TGNH tăng do trong kỳ những khoản chưa dùng đến công ty đem gửi vào ngân hàng như: quỹ phát triển kinh doanh, quỹ khen thưởng phúc lợi hoặc do khách hàng thanh toán cho công ty qua ngân hàng.
Việc dự trữ lượng tiền mặt tại quỹ thấp sẽ giúp công ty tăng được các tài sản lưu động sinh lãi giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Mặt trái của nó là công ty phải đi vay ngắn hạn ngân hàng để trang trải khoản chi phát sinh, khi đó chi phí sử dụng vốn sẽ tăng cao hơn ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
Như vậy ta thấy công ty dự trữ một lượng ít vốn tiền mặt trong tổng vốn lưu động. điều này chưa cho phép công ty có thể đáp ứng nhanh các khoản chi khi cần thiết, cũng như chớp cơ hội kinh doanh. Song công ty luôn phải xem xét để có một tỷ trọng hợp lý sao cho hiệu quả sử dụng vốn tiền mặt là hiệu quả và hợp lý nhất.
Khả năng thanh toán của Công tyTNHH thương mại và tin học CaLi
Việc dự trữ một lượng vốn tiền mặt nói riêng và tình hình vốn lưu động nói chung có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của công ty. Trong nền kinh tế thị trường, các đối tác kinh doanh, nhất là các bạn hàng thường xuyên quan tâm đến khả năng thanh toán để xem xét và đưa ra các quyết định tài chính khi quan hệ với doanh nghiệp. Đối với Công ty TNHH Thương mại & Tin học CaLi việc xem xét khả năng thanh toán còn có ý nghĩa trong việc đánh giá và điều chỉnh lại tình hình tài chính của mình sao cho đảm bảo khả năng thanh toán tốt hơn cũng như đảm bảo về sự lành mạnh tài chính của công ty.
B. Khả năng thanh toán của công ty:
Khả năng thanh toán ngắn hạn.
TSLĐ
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán ngắn hạn Năm 2003:
=625.500.000đ/125.500.000đ = 4.98, cứ 1 đồng nợ ngắn hạn thì DN có 4.98 đồng có khả năng chuyển thành tiền mặt để thanh toán.
Năm 2004: Khả năng = 972.670.000đồng/461.047.760đồng =2.01 , cứ 1đồng nợ ngắn hạn thì DN có 2.01 đồng VLĐ có thể chuyển thành tiền mặt để thanh toán.
Như vậy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn năm 2004 có thấp hơn năm 2003, nhưng vẫn có thể coi là an toàn, bởi vì vào năm 2004 công ty chỉ cần giải phóng 1/2.01 = 49.7% số tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn hiện có là đủ thanh toán nợ ngắn hạn. Tuy nhiên không phải hệ số này càng lớn càng tốt, vì khi đó có một lượng tài sản lưu động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng vốn không hiệu quả, vì bộ phận này không vận động, không sinh lời. Nhưng dây là doanh nghiệp thương mại do đó tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, thì hệ số này lớn và ngược lại. Khi đó lại có được sự hợp lý trong khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
TSLĐ - hàng tồn kho
2. Khả năng thanh toán nhanh =
Tổng nợ ngắn hạn
625.500.000 - 351.740.000
Hệ số TTN năm 2003= = 2.18
125.500.000
972.670.000 - 611.145.000
Hệ số TTN năm 2004 = = 0.78
461.047.760
Hệ số thanh toán nhanh năm 2004 nhỏ hơn năm 2003, nhìn chung công ty gặp ít khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Vì các tài sản lưu động và đầu ngắn hạn và vật tư hàng hoá tồn kho có thể nhanh chuyển đổi thành tiền đáp ứng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
Bảng 6. Tổng kết khả năng thanh toán của công ty.
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Chênh lệch
1. HSTTNH
4.98
2.01
-2.97
2. HSTT nhanh
2.18
0.78
-1.4
II.3.2.4. Tình hình quản lý các khoản phải thu của Công tyTNHH thương mại và tin học CaLi.
Trong quá trình kinh doanh do nhiều nguyên nhân khác nhau thường tồn tại một khoản vốn trong quá trình thanh toán, đó là các khoản phải thu. Tỷ lệ các khoản phải thu trong các doanh nghiệp có thể khác nhau, thông thường chúng chiếm từ 15% đến 20% trên tổng tài sản của doanh nghiệp.
Để xem xét tình hình quản lý các khoản phải thu của côngty là hợp lý hay không ta xét bảng sau:
Qua bảng 4 và bảng 6 trên ta thấy khoản phải thu năm 2004 tăng so với năm 2003 là: 65.169.000đ với tỷ lệ tăng tương ứng là: 42.7% cụ thể:
Năm 2003 tổng các khoản phải thu là: 152.613.000đ chiếm 24.4% tổng vốn lưu động.
Năm 2004 tổng các khoản phải thu là: 217.782.000đ chiếm 22.4% tổng vốn lưu động.
Như vậy ta thấy năm 2004 các khoản phải thu tăng so với năm 2003, Doanh nghiệp chưa xử lý tốt vấn đề thu hồi nợ, khách hàng vẫn còn nợ DN một khoản tương đối lớn, vốn lưu động bị ứ đọng, hiệu quả sử dụng VLĐ bị giảm. Vấn đề cần giải quyết với DN lúc này và trong tương lai là thu hồi nợ tốt, với khách hàng mua chịu với thời gian lâu sẽ chịu giá bán cao hơn.
Để đánh giá đúng tình hình quản lý các khoản phải thu ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Doanh thu(thuần)
+ Vòng quay các khoản phải thu =
Số dư bình quân các khoản phải thu
1.558.250.000
Vòng quay các khoản = = 10.4 (vòng)
phải thu năm 2003 152.613.000
Năm 2004
4.640.500.000
= =21.3 vòng.
217.782.000
360
+ Kỳ thu tiền trung bình =
Vòng quay các khoản phải thu
360
Kỳ thu tiền trung bình năm 2003 = = 34.6(ngày)
10.4
Năm 2004: Kỳ thu tiền bình quân = 360 ngày / 21.3 vòng =16.9 ngày.
Với các chỉ tiêu tính toán trên ta có thể rút ra một số nhận xét sau:
Vòng quay các khoản phải ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34071.doc