Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Bia Hà nội

Mục lục Trang Lời nói đầu Chương I: Vốn kinh doanh và sự cần thiết phải tổ chức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp. I. Vốn và vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường. 1. Khái niệm. 2. Các cách phân loại. 3. Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp. 4. Chi phí vốn của doanh nghiệp. II. Hiệu quả sử dụng vốn. 1. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Bia Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. 3.1. Chỉ tiêu về vốn cố định. 3.2. Chỉ tiêu về vốn lưu động. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. 5. Một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp. Chương II. Tình hình huy động và sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Bia Hà nội. I. Một số nét khái quát về Công ty Bia Hà nội. 1. Sự hình thành và phát triển Công ty Bia Hà nội. 2. Đặc điểm tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của Công ty. 3. Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất. II. Thực trạng về huy động và sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Bia Hà nội. 1. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong thời gian qua. 2. Nguồn hình thành và cơ cấu vốn của Công ty. 3. Phân tích hiệ quả sử dụng vốn kinh doanh củaCông ty. 3.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định. 3.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. III. Những tồn tại cơ bản trong quá trình sử dụng vốn của Công ty. Chương III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. I. Định hướng phát triển của Công ty. II. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Bia Hà nội. III. Kiến nghị đối với Nhà nước. Kết luận Tài liệu tham khảo Lời nói đầu Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng, cho sự vận động và phát triển của nền kinh tế nói chung là vấn đề rất bức xúc. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp là những tế bào của xã hội mà sự tồn tại và phát triển của chúng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào thì sự phát triển của nó hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các biện pháp sử dụng hợp lý nguồn vốncủa mình một cách có hiệu quả nhất. Xuất phát từ tình hình thực tế của các doanh nghiệp ở Việt Nam và qua quá trình thực tập tại Công ty Bia Hà nội, dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Đàm Văn Huệ và các cán bộ Công ty, em đã chọn đề tài: “Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Bia Hà nội” làm nội dung nghiên cứu của mình. Với phương pháp nghiên cứu kết hợp lý luận với thực tiễn trên cơ sở phân tích các hoạt động tài chính của Công ty, đề tài nhằm nêu rõ bản chất và vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc và nội dung trong công tác sử dụng vốn của các doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Bia Hà nội với hướng nghiên cứu như vậy, nội dung của đề tài bao gồm 3 chương. Chương I: Vốn kinh doanh và sự cần thiết phải tổ chức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty Bia Hà nội. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty. Do kiến thức còn hạn hẹp cả về lý luận và thực tiễn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Chương I vốn kinh doanh và sự cần thiết phải tổ chức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp I. Vốn và vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường. 1. Khái niệm. Trong nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư sản xuất đến tiêu thụ nhằm mục tiêu sinh lời. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện các khoản đầu tư cần thiết ban đầu như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí nguyên vật liệu, trả tiền công, lãi vay, nộp thuế... Đồng thời đầu tư thêm công nghệ, mua sắm máy móc để tái sản xuất mở rộng, phát triển doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không ngừng vận động và tồn tại ở nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và lao vụ tiêu thụ trên thị trường. Điều này được thể hiện qua công thức: T - H......H’ - T ( T’ > T ), có nghĩa là sau khi tiêu thụ sản phẩm, số tiền doanh nghiệp thu về phải bù đắp mọi chi phí và bảo đảm có lãi. Như vậy nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh. Số tiền ban đầu đã được tăng thêm. Quá trình này diễn ra liên tục đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Từ những phân tích ở trên cho ta thấy: “ Vốn là một phạm trù kinh tế cơ bản. Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản dùng cho sản xuất kinh doanh. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư”. Chu chuyển của vốn trong mọi quá trình hoạt động là căn cứ khoa học để doanh nghiệp xác định được phương pháp sử dụng một cách có hiệu quả. 2. Các cách phân loại vốn. Tuỳ theo mục đích sử dụng và quản lý, vốn doanh nghiệp được phân thành nhiều loại khác nhau. 2.1. Theo nguồn hình thành. Mỗi doanh nghiệp có chức năng và nhiệm vụ khác nhau nên đều có cơ cấu vốn kinh doanh riêng phù hợp với chức năng và nhiệm vụ kinh doanh của mình. Hơn nữa, đối với mỗi loại hình doanh nghiệp, nguồn gốc hình thành vốn kinh doanh cũng khác nhau. Nhưng nói chung, một doanh nghiệp dù thuộc loại hình nào đi chăng nữa thì vốn kinh doanh của nó cũng được huy động khai thác từ một số nguồn vốn sau: - Vốn do ngân sách nhà nước cấp ( chủ yếu cấp phát cho các doanh nghiệp nhà nước) còn được gọi là nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn tự có là nguồn vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư kinh doanh, vốn do phát hành cổ phiếu... vốn coi như tự có là vốn mà doanh nghiệp không có quyền sở hữu nhưng lại được quản lý và sử dụng trong một thời hạn nhất định như nộp ngân sách Nhà nước nhưng chưa nộp . - Vốn tự bổ sung : Là vốn nội bộ của doanh nghiệp, lấy từ hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp, lợi nhuận không chia, tiền nhượng bán tài sản ( nếu có ) .... - Vốn liên doanh liên kết: Là nguồn vốn đóng góp theo tỉ lệ của các chủ đầu tư để cùng kinh doanh, cùng san sẻ rủi ro và chung hưởng lợi nhuận. - Vốn vay: Là các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể vay dài hạn của các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc các tài chính trung gian khác, cũng có thể bằng hình thức doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh doanh. Ngoài ra các doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu Công ty hoặc tín dụng thuê mua. 2.2. Theo cơ cấu, vốn kinh doanh được chia thành hai bộ phận: Vốn cố định và vốn lưu động. * Vốn cố định. Là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản cố định (TSCĐ) được đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là một khoản đầu tư ứng trước dùng để mua sắm tài sản thiết bị TSCĐ có hình thái vật chất và phi vật chất nên quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của TSCĐ. Tài sản cố định có đặc điểm là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được dịch chuyển dần về giá trị sản phẩm. Theo đó vốn cố định cũng tham gia và các chu kỳ sản xuất tương ứng. TSCĐ khi tham gia vào quá trình sản xuất không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với giá trị sử dụng giảm dần thì giá trị của nó cũng giảm đi. Bởi vậy vốn cố định được tách thành hai phần. + Một phần tương ứng với giá trị hao mòn được chuyển vào giá trị của sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và được tích luỹ lại thành quỹ khấu hao, dùng để tái sản xuất TSCĐ, duy trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp. + Phần còn lại của vốn cố định được cố định trong nó, tức là giá trị còn lại của TSCĐ. Khi TSCĐ hết thời gian sử dụng thì vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển Vốn cố định là bộ phận quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Vốn lưu động. Là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu động được đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự liên tục trong hoạt động của doanh nghiệp. TSLĐ bao gồm những tài sản ở khâu dự trữ sản xuất như: nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ...; tài sản ở khâu sản xuất như sản phẩm đang chế tạo bán thành phẩm... và tài sản lưu động trong khâu lưu thông như sản phẩm hàng hoá chưa tiêu thụ, vốn bằng tiền và các khoản phải thu. Trong quá trình sản xuất, khác với TSCĐ, TSLĐ của doanh nghiệp luôn thay đổi hình thái biểu hiện để tạo ra sản phẩm. Vì vậy giá trị của nó cũng được dịch chuyển một lần vào giá trị sản phẩm và vận động liên tục qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bắt đầu bằng hình thái tiền tệ sang hình thái vật chất và cuối cùng lại trở về hình thái ban đầu - tiền tệ. Vốn lưu động vận động một cách thường xuyên và liên tục từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, các chu kỳ sản xuất được lặp đi lặp lại. Vốn lưu động hoàn thành một vòng luân chuyển sau một chu kỳ sản xuất. Ngoài ra vốn cố định còn phân chia theo vốn ngắn hạn, trung và dài hạn. Vốn ngắn hạn là các khoản phải trả, phải thu ngắn hạn, tín dụng ngân quỹ... Vốn trung và dài hạn là nguồn vốn thường xuyên ổn định gồm vốn tự có và vốn vay dài hạn từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu... 3. Vai trò của vốn đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở bất kỳ quy mô nào cũng phải có một lượng vốn nhất định. Nó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và là cơ sở để mở rộng sản xuất kinh doanh. Với những tiến bộ khoa học công nghệ phát triển với tốc độ ngày càng cao thì nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh càng lớn. Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất một cách thường xuyên và liên tục, doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh và lợi thế trong cạnh tranh. Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách Nhà nước và và qua nguồn tín dụng với lại xuất ưu đãi của ngân hàng. Hơn nữa các doanh nghiệp đều sản xuất theo chi tiêu pháp lệnh bởi vậy vai trò của vốn không được coi là vấn đề cấp bách, điều này đã làm thủ tiêu tính chủ động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song tồn tại cùng các thành phần kinh tế khác. Để tồn tại và phát triển, tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cải tiến qui trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm hàng hoá. Muốn vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn. Nhu cầu về vốn đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, có đủ lượng vốn kinh doanh nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả vẫn đang là vấn đề mà tất cả các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp hết sức quan tâm. 4.Chi phí vốn của doanh nghiệp Trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, phần thứ nhất của bảng thể hiện những tài sản của doanh nghiệp. Xếp theo thứ tự tính lỏng giảm dần và tương tự phần thứ hai của bảng là các nguồn vốn. Cũng như các yếu tố đầu vào khác, muốn có vốn để sử dụng thì chúng ta phải trả chi phí. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát chi phí vốn tức là chi phí trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Ai cũng biết rằng chi phí của việc sử dụng lao động được đo bằng tiền lương(tiền công). Tiền công suy cho cùng chính là giá của lao động và giá trị hàng hoá sức lao động lại được đo bằng giá cả của các tư liệu sinh hoạt phục vụ cho việc tái sản xuất sức lao động. Còn vốn chính là tư bản, là tiền được dùng với mục đích sinh lợi. Giá của tiền được đo bằng lãi suất, tiền lại có giá trị theo thời gian và tỉ lệ sinh lời cần thiết là cơ sở nền tảng của thị trường vốn và nó cũng đo lường chi phí cơ hội của các nguồn tiền. Các nhà đầu tư sẽ đồng ý cung cấp vốn cho doanh nghiệp bởi vì họ cho rằng họ không thể kiếm được phần lãi suất cao hơn nếu đầu tư vào chỗ khác với cùng rủi ro. Như vậy chi phí vốn chính là tỷ lệ sinh lời cần thiết của khoản tiền mà người sở hữu yêu cầu. Tỷ lệ sinh lời cần thiết lại phụ thuộc vào rủi ro có thể xảy ra đối với khoản đầu tư. Đối với nhà quản lý doanh nghiệp thì chi phí vốn được đo bằng tỉ suất lợi nhuận cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để không làm thay đổi số lợi nhuận dành cho cổ đông thường cũ (hoặc tiền vốn tự có) của doanh nghiệp. Chi phí trung bình của vốn. Có thể tài trợ cho một công ty bằng toàn bộ vốn cổ phần. Trong trường hợp đó chi phí vốn được sử dụng để phân tích các quyết định dự toán vốn nên lấy lãi suất yêu cầu của công ty đối với vốn cổ phần. Tuy nhiên phần lớn các công ty cũng sử dụng tài trợ một phần đáng kể cho vốn của công ty bằng nợ dài hạn và nhiều công ty cũng sử dụng cả cổ phiếu ưu tiên. Đối với những công ty này, chi phí vốn phải phản ánh chi phí trung bình của các nguồn vốn tài trợ dài hạn khác nhau chứ không phải chỉ là chi phí về vốn cổ phần của công ty. Trong thực tiễn hoạt động, mỗi công ty có một cơ cấu vốn tối ưu được xác định bằng hỗn hợp nợ, cổ phần ưu tiên và cổ phần thông thường. Cơ cấu vốn đó tối đa hoá giá cả cổ phiếu của công ty. Do vậy, một công ty trong quá trình phát triển liên tục với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận sẽ thiết lập một cơ cấu vốn mục tiêu và mọi sự tài trợ cho sự phát triển phải tuân thủ cơ cấu vốn mục tiêu đó. Trong cơ cấu vốn mục tiêu đó, mỗi nguồn vốn sẽ có một tỉ trọng nhất định và chi phí vốn của công ty sẽ là chi phí bình quân gia quyền hay chi phí trung bình trọng số của vốn đầu tư. Chi phí cận biên của vốn. Chi phí cận biên của một khoản mục nào đó là chi phí của một đơn vị tăng thêm của khoản mục đó. Khái niệm đó cũng đúng với chi phí vốn. Khi công ty cố gắng huy động thêm những đồng vốn mới thì chi phí của mỗi đồng vốn tại một điểm nào đó sẽ tăng lên. Do vậy, chi phí cận biên của vốn được định nghĩa là chi phí của đồng tiền cuối cùng của vốn mới mà công ty huy động. Chi phí cận biên của vốn sẽ tăng lên khi càng nhiều vốn được huy động trong một giai đoạn nào đó. II. Hiệu quả sử dụng vốn. 1. Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn. Bất kỳ hoạt động nào của con người, hoạt động nói chung và kinh doanh nói riêng đều mong muốn đạt được kết quả hữu ích nào đó. Nhu cầu của con người bao giờ cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Bởi vậy họ cần phải quan tâm đến việc làm sao với khả năng hiện có có thể làm ra nhiều sản phẩm nhất. Từ đó nẩy sinh vấn đề là phải lựa chọn xem xét cách nào để đạt hiệu quả nhất. Khi tiến hành đánh giá hoạt động kinh doanh không chỉ dừng lại ở các kết quả mà phải đánh giá cả chất lượng hoạt động kinh doanh để tạo ra sản phẩm đó. Do đó hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực ít nhất. Đối với bất kì doanh nghiệp nào, lợi nhuận cũng là mục tiêu cao nhất. Để thực hiện được mục tiêu này, các doanh nghiệp phải chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cách thức đo lường chính xác nhất, thể hiện rõ nhất hiệu quả đó là sử dụng thước đo tiền tệ để lượng hoá các đầu ra và đầu vào, đánh giá quan hệ giữa chúng của quá trình sản xuất kinh doanh đó. Hiệu quả kinh doanh xác định bằng thước đo tiền tệ gọi là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như vậy hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào hay là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với chí phí cho quá trình kinh doanh đó. Ngoài ra hiệu quả sử dụng nguồn vốn ở các doanh nghiệp còn được thể hiện ở các chỉ tiêu hiệu quả theo mức thu nhập, khả năng thanh toán, chỉ tiêu về sử dụng vốn và phân bổ vốn. 2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Có lợi nhuận, doanh nghiệp mới có thể tồn tại, phát triển và ngược lại. Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục đích của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính chất quyết định là hiệu quả sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Mặt khác do phụ thuộc vào yếu tố khách quan và chủ quan nên hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Trong cơ chế cũ, DNNN coi nguồn cấp phát từ Ngân sách Nhà nước đồng nghĩa với “cho không” nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp gây ra tình trạng vô chủ trong việc quản lý và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí và thất thoát rất lớn. Theo số liệu thống kê cho thấy vốn sản xuất kinh doanh trong khu vực quốc doanh không nhiều, hiệu quả sử dụng vốn rất thấp. Đối với TSCĐ mới chỉ sử dụng được 50% - 60% công suất hiện có, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca/ngày. Vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn rất thấp. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới để có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh là quy luật của thị trường. Nó cho phép tận dụng triệt để mọi nguồn lực của doanh nghiệp và của toàn xã hội vì nó buộc doanh nghiệp phải luôn luôn tự đổi mới, hạ giá thành, tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm để có thể thắng được trên thương trường và nhằm tối ưu hoá lợi nhuận. Bởi vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua đó các doanh nghiệp sẽ đảm bảo việc huy động các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán, khắc phục được mọi rủi ro trong kinh doanh. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ nâng cao mức sống cho người lao động, tạo công ăn việc làm nhờ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả đóng góp cho xã hội, đồng thời nó cũng làm tăng các khoản nộp ngân sách. Như vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không những đem lại những hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế đặc biệt là trong cơ chế hiện nay. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Mục đích của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải khai thác và sử dụng triệt để mọi nguồn lực sẵn có, tức là việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp cần có một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn bảo đảm phản ánh và đánh giá được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các số liệu được dùng để phân tích và đánh giá chủ yếu lấy từ các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm xác định, được lập ra trên cơ sở Tài sản = Nguồn vốn. Nó có ý nghĩa quan trọng đến mọi đối tượng có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo thu nhập cho biết sự dịch chuyển của tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: 3.1. Chỉ tiêu về vốn cố định. DT tiêu thụ sản phẩm hh trong kỳ * Hiệu suất sử dụng VCĐ = VCĐ bình quân trong kỳ - Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ thu được là do sử dụng VCĐ vào kinh doanh. Giá trị còn lại ĐK + giá trị còn lại CK VCĐ bình quân trong kỳ = 2 Hiệu suất sử dụng VCĐ phản ánh 1 đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ hàng hoá trong kỳ. Đối với doanh nghiệp chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Số VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ * Hàm lượng vốn cố định = DT tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra 1 đồng doanh thu hay lợi nhuận thì cần bao nhiêu đồng VCĐ. Bởi vậy, trong doanh nghiệp chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. Lợi nhuận ròng trong kỳ *Hiệu quả sử dụng vốn cố định = VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng VCĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận nên chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Ngoài ra để đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ, người ta sử dụng một số chỉ tiêu khác như kết cấu TSCĐ, kết cấu nguồn vốn đầu tư cho TSCĐ và các chỉ tiêu: Công suất thực tế *Hệ số sử dụng công suất TSCĐ = Công suất thiết kế * Hệ số hao mòn TSCĐ GTCL của TSCĐ tại thời điểm kiểm tra = NG TSCĐ tại thời điểm kiểm tra * Hiệu suất sử dụng TSCĐ DT tiêu thụ sản phẩm hh trong kỳ = TSCĐ sử dụng bình quân Trong đó: TSCĐ sử dụng bình quân NG đầu kỳ + NG cuối kỳ = 2 3.2. Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ) Hiệu quả chung về sử dụng VLĐ được phản ánh qua các chỉ tiêu như sức sinh lợi sức sản xuất của VLĐ Sức sinh lợi hay hiệu quả sử dụng VLĐ Lợi nhuận ròng trong kỳ = VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Sức sản xuất hay hiệu suất sử dụng VLĐ Tổng doanh thu thuần trong kỳ = VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ Hai chỉ tiêu này phản ánh một đồng VLĐ làm ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần hay lợi nhuận ròng. Bởi vậy, chỉ tiêu này càng cao càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ tốt. Trong quá trình sản xuất kinh doanh VLĐ vận động không ngừng thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất. Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của VLĐ sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Bởi vậy, ngoài các chỉ tiêu trên, để xác định tốc độ luân chuyển của VLĐ người ta còn sử dụng các chỉ tiêu sau: Số vòng quay của VLĐ Tổng mức luân chuyển (tổng DT thuần) = VLĐ sử dụng bình quân Trong đó VLĐ sử dụng bình quân được tính như sau: VLĐ bình quân tháng VLĐ đầu tháng + VLĐ cuối tháng = 2 VLĐ bình quân quý Tổng số VLĐ sử dụng bình quân 3 tháng = 3 VLĐ bình quân năm Tổng số VLĐ sử dụng bình quân 4 quý = 4 Chỉ tiêu này phản ánh số lần lưu chuyển VLĐ trong năm. Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ tốc độ luân chuyển của VLĐ tăng và ngược lại. Thời gian một lần luân chuyển Thời gian của kỳ phân tích = Số vòng quay của VLĐ trong kỳ Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết để cho VLĐ quy được một vòng. Thời gian này càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn, đảm bảo nguồn vốn lưu động tránh bị hao hụt mất mát trong quá trình SXKD. Hệ số đảm nhiệm VLĐ VLĐ bình quân trong kỳ = Tổng số doanh thu thuần Hệ số này nhỏ càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao, số vốn tiết kiệm được càng nhiều. Qua đó, ta biết được để tạo ra một đồng doanh thu thì phải cần bao nhiêu đồng VLĐ. Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh dưới góc độ TSCĐ và TSLĐ thì khi phân tích cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới gốc độ sinh lời. Đây là một trong những nội dung phân tích được các nhà đầu tư, tính dụng đặc biệt quan tâm. Để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn, người phân tích thường tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau: Hệ số doanh lợi của Vốn kinh doanh Lợi nhuận = Vốn kinh doanh Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hệ số doanh lợi của Vốn chủ sở hữu Lãi ròng trước thuế = Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này đo lường mức sinh lời của đồng vốn chủ sở hữu, phản ánh trình độ sử dụng vốn của người quản lý doanh nghiệp, bởi vậy càng cao càng tốt. Sau khi tính toán tất cả các chỉ tiêu trên, cần phân tích và so sánh giữa các thời kỳ, giữa các doang nghiệp... để đánh giá ưu, nhược điểm, từ đó đề ra giải pháp cho doanh nghiệp. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đế hiệu quả sử dụng vốn. 4.1. Các nhân tố khách quan. - Môi trường kinh doanh Doanh nghiệp là cơ thể sống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ qua lại với môi trường xung quanh. ở đây chúng ta đề cập tới môi trường bên ngoài: + Môi trường tự nhiên: Là toàn bộ các yêu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như khí hậu, thời tiết, môi trường. Khoa học càng phát triển thì con người càng nhận thức rằng họ là bộ phận không thể tách rời của tự nhiên. Các điều kiện làm việc trong môi trường tự nhiên sẽ phù hợp và tăng năng suất lao động và hiệu quả làm việc. Mặt khác trong điều kiện tự nhiên phù hợp còn tác động đến các hoạt động kinh tế và cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt...gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. + Môi trường kinh tế: Là tác động của các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, lạm phát thất nghiệp, lãi suất, tỷ giá hối đoái... đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Môi trường pháp lý: Là hệ thống các chủ trương chính sách, hệ thống pháp luật tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết nhưng tác động của Nhà nước chỉ thực hiện thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, không can thiệp trực tiếp mà giao quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường pháp lý thích hợp sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh đáng kể. + Môi trường chính trị, văn hoá - xã hội: Tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới khách hàng. Do đó các phong tục tập quán của khách hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp hoạt động trong môi trường văn hoá lành mạnh, chính trị ổn định thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được nâng cao. + Môi trường kỹ thuật cộng nghệ: Là sự tác động của các yếu tố như trình độ tiến bộ của KHKT, công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước là rất lớn, làn sóng chuyển giao công nghệ ngày càng gia tăng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao trình độ của mình. + Môi trường cạnh tranh: Cơ chế thị trường là cơ chế của cạnh tranh gay gắt. Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải đứng vững trong cạnh tranh. Cạnh tranh sẽ hạn chế hiệu quả sử dụng vốn trong ngắn hạn nhưng nếu doanh nghiệp đứng vững thì về lâu dài hiệu quả sử dụng vốn sẽ được tăng lên vì các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để sử dụng nguồn vốn hợp lý, đem lại hiệu quả cao nhất. - Nhân tố giá cả: Đây là nhân tố do doanh nghiệp quyết định nhưng lại phụ thuộc vào mức chung của thị trường. Khi giá cả tăng, các kết quả kinh doanh tăng dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn tăng, đồng thời sự biến đổi của giá cả sẽ làm cho hoạt động của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Nhân tố cung cầu: Đây là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn. Chỉ trên cơ sở sử dụng vốn hợp lý, doanh nghiệp mới có thể cung cấp được một khối lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu khách hàng. 4.2. Các nhân tố chủ quan. - Lao động: + Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo: Vai trò của người lãnh đạo trong sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu và hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm giảm những chi phí không cần thiết, đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển. + Trình độ tay nghề của người lao động: Thể hiện ở khả năng tự tìm tòi sáng tạo trong công việc, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. + Trình độ tổ chức về hoạt động kinh doanh: Đây cũng là một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp, chỉ trên cơ sở tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả mới đem lại những kết quả tốt, quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn phù hợp với công thức chuyển đổi T - H - T’, đó là cung ứng và tiêu thụ. + Cung ứng hàng hoá là quá trình tổ chức nguồn hàng cho hoạt động bán ra bao gồm mua và dự trữ. Để đảm bảo hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn, mua hàng phải đảm bảo chi phí tối ưu tức là phải hạ thấp giá thành đầu vào. Mục tiêu chất lượng mua hàng là phải phù hợp với chi phí bỏ ra và nhu cầu thị trường với khả năng thanh toán của khách hàng. Do hoạt động bán hàng có phụ thuộc vào tính thời vụ của tiêu dùng và sự biến động của sức mua, đồng thời trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn có những cơ hội xuất hiện một cách bất ngờ nên đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn có một lượng hàng dự trữ hợp lí để đảm bảo tính liên tục và tránh lãng phí trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Bán hàng hay tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong đó việc xác định giá bán tối ưu hết sức phức tạp, thể hiện rất rõ trình độ và năng lực tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp. - Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn: Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để quản lí các nguồn tài chính là hệ thống kế toán tài chính. Nếu công tác kế toán được thực hiện tốt sẽ dẫn đến việc mất mát chiếm dụng, sử dụng không đúng mục đích... gây lãng phí tài sản, đồng thời có thể gây ra các tệ nạn tham ô hối lộ, tiêu cực... là các căn bệnh xã hội thường gặp trong cơ chế hiện nay. Hơn nữa việc sử dụng vốn còn được thể hiện thông qua việc lựa chọn phương án đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư. Việc lựa chọn không phù hợp và đầu tư vốn vào các lĩnh vực bất hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu vốn, gây ra ứ đọng, hao hụt mất mát làm cho hiệu quả ứng dụng vốn rất thấp. Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, ngoài ra còn có thể có những nguyên nhân khác tuỳ thuộc vào điều kiện kinh doanh cụ thể của từng doanh nghiệp. 5. Một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, các doanh nghiệp cần thực hiện một số phương hướng sau: 5.1. Xác định chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hạn chế tình trạng thiếu vốn gây gián đoạn, ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh hoặc phải đi vay ngoài kế hoạch vớ._.i lãi xuất cao, đồng thời cũng phải tránh tình trạng vốn “chết”, không phát huy được hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp bằng các biện pháp linh hoạt như đầu tư mở rộng sản xuất, cho các đơn vị khác vay, hạn chế đến mức tối đa hàng tồn kho... 5.2. Lựa chọn các hình thức thu hút vốn tích cực, triệt để khai thác nguồn vốn trong nội bộ doanh nghiệp đáp ứng kịp thời cho vốn sản xuất kinh doanh và giảm được chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Cần tránh tình trạng vốn tồn tại dưới hình thái tài sản không cần sử dụng, vật tư hàng hóa kém phẩm chất trong khi doanh nghiệp phải đi vay với lãi xuất cao, thiếu chủ động, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước khi quyết định đầu tư, doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ từ nguồn tài trợ vốn đầu tư, tình hình cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo chi phí sử dụng vốn là thấp nhất, thiết bị máy móc tiên tiến, hiện đại, kết cấu tài sản đầu tư hợp lý, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình. 5.3. Tổ chức tốt quá trình sản xuất và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận sản xuất. Không ngừng nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm, tiết kiệm nguyên vật liệu, khai thác tối đa công xuất máy móc thiết bị. Doanh nghiệp phải lập kế hoạch cho việc mua sắm, cung ứng vật tư cho phù hợp với kế hoạch sản xuất và tình hình thị trường. Kế hoạch cung ứng phải hoàn chỉnh cả về số lượng, chất lượng và chủng loại để giảm thiểu lượng dự trữ vượt mức. Trong khâu tiêu thụ phải theo dõi chặt chẽ khâu thanh toán với khách hàng, có chính sách thương mại hợp lý khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh thông qua cơ chế chiết khấu, giảm giá... Ngoài ra phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi, đôn đốc các khoản nợ quá hạn để có các biện pháp thu hồi kịp thời. Quảng cáo giới thiệu sản phẩm nhằm chiếm lĩnh thị trường ngày một lớn. Hạn chế đến mức thấp nhất sản phẩm dở dang và thành phẩm tồn kho, tăng nhanh vòng quay của vốn. 5.4. Làm tốt công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng chiếm dụng vốn. Từ đó làm phát sinh nhu cầu vốn dẫn đến doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, làm tăng chi phí sử dụng vốn mà lẽ ra không có. Đồng thời vốn bị chiếm dụng còn là một rủi ro khi trở thành nợ khó đòi gây thất thoát, khó khăn cho doanh nghiệp. Bởi vậy, để chủ động các doanh nghiệp nên mua bảo hiểm, lập quỹ dự phòng tài chính để có nguồn bù đắp khi vốn bị thiếu hụt. 5.5. Tăng cường phát huy vai trò của tài chính trong việc sử dụng vốn bằng cách thường xuyên kiểm tra tài chính đối với việc sử dụng vốn trong tất cả các khâu từ dự trữ, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm và đầu tư mua sắm TSCĐ. Theo dõi và kiểm tra tình hình sản xuất cả trên sổ sách lẫn thực tế để đưa ra kế hoạch sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả. Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay. Việc triệt để tiết kiệm trong sử dụng vốn sẽ làm giảm giá thành và chi phí tạo lợi thế cho doanh nghiệp và trở thành vấn đề hết sức bức bách. Tuy nhiên, do đặc điểm và lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có thể áp dụng các phương hướng và biện pháp cụ thể sao cho phù hợp và mang tính khả thi nhất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo tính linh hoạt, sáng tạo, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chương II tình hình huy động và sử dụng vốn kinh doanh ở công ty bia hà nội 1. Sự hình thành và phát triển của Công ty Bia Hà Nội 1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty Bia Hà nội Là một công ty thuộc Tổng Công ty Rượu Bia - Nước giải khát Việt nam do Bộ Công nghiệp quản lý, Công ty Bia Hà nội (HABECO) tại 70A Hoàng Hoa Thám, phía Bắc Thủ đô Hà nội, đảm nhận nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu giải khát cho mọi tầng lớp nhân dân. Vào những năm 1890, lúc đó nước ta đang chịu sự đô hộ của thực dân Pháp, với mục đích kiếm lời và phục vụ nhu cầu giải khát cho quân đội viễn chinh Pháp và lính đánh thuê cho cho Pháp ở Việt Nam, một chủ tư sản Pháp, ông Homel đã đầu tư xây dựng nhà máy. Với đội ngũ 150 người, trong đó khoảng 50 người là người nhà và người làm thuê được Homel thuê từ Pháp sang còn lại là công nhân Việt Nam làm thuê. Công suất của nhà máy lúc bấy giờ khoảng 1 đến 3 triệu lít/năm. Sau giải phóng Điện Biên Phủ (7/5/1954), thực dân Pháp đã phải kí hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) trao trả lại độc lập và phải rút khỏi miền Bắc nước ta, Homel cùng người nhà đã bỏ lại nhà máy và mang theo một số thiết bị quan trọng. Cho đến 15/8/1957, Chính phủ đã quyết định phục hồi nhà máy. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về trình độ kỹ thuật, lực lượng lao động cũng như những yếu tố khác nhưng với tấm lòng quyết tâm và sự cố gắng của công nhân viên cộng với sự giúp đỡ của chuyên gia Tiệp Khắc và Cộng hoà dân chủ Đức (cũ) nhà máy đã được phục hồi và đi vào sản xuất. Ngày 15/8/1958 đã cho sản xuất mẻ đầu tiên, công suất được nâng từ 6 triệu lên 30 triệu lít/năm, với hai chủng loại sản phẩm chính là bia hơi và bia chai. Trong thời kỳ bao cấp, mọi kế hoạch sản xuất cũng như kế hoạch tiêu thụ. đều được thực hiện theo sự chỉ đạo của Nhà Nước, mặc dù nhà máy không được tự chủ trong sản xuất kinh doanh nhưng vẫn luôn thực hiện đầy đủ kế hoạch sản xuất, năm sau tăng hơn năm trước. Từ tháng 6/1989, nhà máy được Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (cũ) cho phép hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân đầy đủ. Chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, nhà máy được tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh nhưng cũng gặp không ít khó khăn về mọi mặt. Máy móc thiết bị sản xuất bia rất lạc hậu, không đồng bộ, bên cạnh đó lại gặp phải sự cạnh tranh “khốc liệt” của các đơn vị sản xuất bia, nước giải khát trong và ngoài nước... mặt khác nhà máy vẫn phải đảm bảo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân, những người đã gắn bó với nhà máy từ những ngày đầu mới khôi phục. Chính trong khó khăn, một quyết định đúng đắn mang tính chất quyết định đó là phải thực hiện phương án vừa sản xuất vừa đầu tư và đầu tư có trọng điểm đã được đề ra và cho đến nay đã phát huy hiệu quả tích cực. Ngày 9/12/93 để phù hợp với tình hình mới, nhà máy đã được đổi tên thành “Công ty Bia Hà nội” - tên giao dịch quốc tế HABECO(HANOI BEER COMPANY). Với lợi thế về nguồn nước và công nghệ sản xuất bia truyền thống, không pha tạp hoá chất, ba sản phẩm chính của Công ty là Bia chai Hà nội, Bia lon Hà nội và bia hơi đã từng bước chiếm được cảm tình của người tiêu dùng, sản lượng sản xuất tăng từ 33 triệu lít (năm 1990) lên 48 triệu lít (năm 1996). Công ty đã được Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng nhì, thành tích 5 năm liên tục 1991-1995, trong thời gian tới công ty sẽ nâng công suất lên gấp đôi hiện nay (100 triệu lít/năm). Công ty luôn quan tâm tới đời sống của cán bộ công nhân viên, tiền lương và tiền thưởng đảm bảo tái sản xuất sức lao động cũng như đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho gia đình của công nhân, không những thế, công ty còn có kế hoạch để cải tạo môi trường làm việc, môi trường sinh thái trong và ngoài công ty. 1. 2. Chức năng, nhiệm vụ sản xuất: Chức năng, nhiệm vụ của Công ty: Chức năng cơ bản của Công ty Bia Hà Nội là sản xuất mặt hàng bia các loại để cung cấp ra thị trường đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Để thực hiện được chức năng trên nhiệm vụ của Công ty là: - Sản xuất kinh doanh mặt hàng bia các loại. - Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn được giao. - Thực hiện các nghĩa vụ và nhiệm vụ được giao. - Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn cho các cán bộ công nhân viên chức. - Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn nhà máy, làm tròn nhiệm vụ Quốc phòng. - Đẩy mạnh đầu tư mở rộng công xuất nhà máy, đổi mới thiết bị, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến nhằm tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm để kinh doanh có hiệu quả. - Chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc chế độ quản lý Nhà nước và cơ quan quản lý cấp trên. Mặt hàng sản xuất: Công ty Bia Hà Nội nằm ngay trung tâm Thủ đô nên việc tiêu thụ sản phẩm rất thuận lợi. Hơn nữa Công ty có một nguồn nước đặc biệt ngay tại vị trí mặt bằng sản xuất, nguồn nguyên liệu này chiếm hơn 90% trong thành phần bia nên đã tạo ra cho bia Hà Nội một hương vị rất riêng, không giống bất kỳ loại bia nào trên thị trường. Hiện nay Công ty đang sản xuất ba loại sản phẩm bia: Bia lon, Bia chai, Bia hơi mang nhãn hiệu Hà Nội. * Bia lon Hà Nội: Từ tháng 8/1996, Công ty đưa vào một dây chuyền sản xuất bia lon mới thay thế cho dây chuyền bia lon Trúc Bạch trước đây. Từ đó Công ty cung cấp ra thị trường một loại bia lon mới với nhãn hiệu “Bia lon Hà Nội’. Dung tích của một lon là 0,33lít đóng trong lon nhôm, đậy nắp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, thời gian sử dụng 90 ngày, thuận tiện cho việc vận chuyển đi xa. Đây là loại bia cao cấp nên nhiều người tiêu dùng chú trọng đến chất lượng, hình thức mẫu mã và uy tín. * Bia chai Hà Nội: Loại bia này được coi là sản phẩm mũi nhọn của Công ty. Đây là loại bia được sản xuất từng năm một. Bia chai sau khi được chiết lọc được chiết vào chai thủy tinh dung tích 0,5 lít (đã được rửa sạch bằng máy rửa chai), qua máy dập nút, máy thanh trùng(thời gian 47 phút ở nhiệt độ 680C), qua máy dán nhãn, qua khâu bốc xếp vào két và nhập kho. Bia chai được dán giấy bảo đảm vệ sinh an toàn, bảo quản tốt trong thời gian sử dụng 90 ngày. Bia chai được đóng vào két nhựa thuận tiện cho việc vận chuyển đi xa. Hiện nay bia chai Hà Nội đang là sản phẩm đáp ứng một cách mạnh mẽ nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Ngoài ra thị trường Hà Nội tiêu thụ với khối lượng lớn thì còn có một số thị trường đáng kể như: Quảng Ninh, Hà Tây, Hải Dương, Nam Định... * Bia hơi Hà Nội: Đây là loại bia tươi mát nhưng khó vận chuyển được đi xa và bảo quản không được lâu (chỉ trong 24 giờ). Sau khi lọc, bia hơi được được đóng vào thùng nhôm 100 lít (đã được rửa sạch và khử trùng) để tiện cho việc bảo quản và vận chuyển. Sản phẩm này mang đặc tính phụ thuộc vào thời tiết, song vẫn luôn đảm bảo chất lượng và được người tiêu dùng ưa thích. Giá cả lại phù hợp tạo nên uy tín cao trên thị trường. Đặc biệt trong những ngày hè nóng bức thì bia hơi Hà Nội rất được ưa chuộng ở thị trường Hà Nội, ở các khu vực ngoại thành hay ở các tỉnh khác lượng bia tiêu thụ với số lượng nhỏ. Sản phẩm của Công ty Bia Hà Nội là hàng thực phẩm tươi sống ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người tiêu dùng nên được kiểm dịch chặt chẽ từ khâu đầu đến khâu cuối, phải qua ba lần lọc và chiết lọc. Sau đó phải qua thanh trùng để diệt men còn lại và các vi sinh vật có hại. Hàng ngày phòng KCS phân tích mẫu bia bán thành phẩm, đúng tiêu chuẩn mới cho phép suất xưởng. Vì luôn thực hiện các tiêu chuẩn về chất lượng cho nên sản phẩm của Công ty luôn được đảm bảo, gây niềm tin cho người tiêu dùng và được thị trường chấp nhận, ưa thích. Các nhà chuyên môn cho rằng, sản phẩm của Công ty bia Hà Nội có bí quyết công nghệ và có truyền thống lâu năm. Do vậy dù có rất nhiều hãng bia lớn trong, ngoài nước thâm nhập trên thị trường, nhưng thị phần bia của Công ty không bị biến động nhiều. Tình hình thị phần bia của Công ty bia Hà Nội như sau: Bảng 1: Thị phần bia Hà Nội trên thị trường: Năm Đơn vị Sản lượng bia cả nước Bia Hà Nội % 1995 1000 lít 350.000 40.194 11,48 1996 1000 lít 502.000 43.325 8,63 1997 1000 lít 532.400 48.194 7,45 1998 1000 lít 645.000 51.374 7,96 1999 1000 lít 694.000 53.102 7,65 (Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty) Qua bảng trên ta thấy, mặc dù thị phần có giảm song sản lượng của Công ty Bia Hà Nội luôn đạt chỉ tiêu Nhà nước giao cho. Hơn nữa, Việt Nam đang tìm cách vươn lên hội nhập vào xu hướng phát triển của Thế giới. Hiện nay, số lít bia trên đầu người của Việt Nam còn thấp khoảng 7 lít/ người/ năm. Trong khi các nước cùng khu vực như Thái Lan là 20 lít/ người/ năm; Malayxia là 40 lít/ người/ năm. 2. Đặc điểm tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh của Công ty Bia Hà nội: Công ty Bia Hà nội là một đơn vị có bề dày lịch sử, có nhiều đóng góp trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong những năm gần đây công ty luôn hoàn thành tốt và vượt mức kế hoạch đề ra. Đồng thời cũng nộp đủ nghĩa vụ về thuế cho Nhà nước có năm còn nộp trước thời hạn quy định. Bên cạnh đó công ty cũng giải quyết tốt vấn đề công ăn việc làm( cho gần 700 người lao động ); với thu nhập bình quân năm 1998 là 1600000 đồng/ người / tháng... Những thành tựu của Công ty bia hôm nay là do có những chính sách đổi mới kịp thời, đúng đắn của Đảng và Nhà nước, của một quá trình phấn đấu của tập thể cán bộ công nhân viên toàn công ty...và đặc biệt là sự đổi mới về phương thức quản lý. Công ty bia Hà nội với 668 con người được phân thành 8 phòng ban. Bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bia Hà nội tổ chức theo hình thức trực tuyến thực hiện chế độ một thủ trưởng. Đứng đầu là Giám đốc Công ty, người có quyền hành cao nhất, đồng thời là người chịu trách nhiệm với Nhà nước với toàn thể cán bộ công nhân viên về tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Giúp việc cho Giám đốc là hai Phó Giám đốc: Phó Giám đốc kinh doanh và Phó Giám đốc kỹ thuật sản xuất. Có thể khái quát cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Bia Hà nội bằng sơ đồ sau: cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh tại công ty bia hà nội Giám đốc PGĐ KT_SX PGĐ-KD Ban bảo vệ Ban đời sống Phòng cung ứng vật tư Phòng kế hoạch tiêu thụ Phòng kế toán tài vụ Phòng tổ chức hành chính Phòng kỹ thuật cơ điện Phòng công nghệ KCS Khối vật tư nguyên liệu Phân xưởng cơ điện Đội sửa chữa kiến trúc Phân xưởng sản xuất bia Phòng Tổ chức hành chính: Là bộ phận tổng hợp từ phòng tổ chức lao động tiền lương và hành chính quản trị. Nhiệm vụ của bộ phận này là bố trí sắp xếp lao động trong công ty về số lượng, trình độ, tay nghề của từng phòng ban và tổ sản xuất. Phòng Kế hoạch - Cung ứng vật tư: Nhiệm vụ của phòng này là xây dựng kế hoạch thu mua, dự trữ, nguyên nhiên vật liệu công cụ dụng cụ để đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra một cách đều đặn, thông suốt. Phòng Tài vụ: Chịu trách nhiệm thu thập và xử lý thông tin tài chính phục vụ cho yêu cầu của người quản lý, quản lý mọi mặt về tài chính của công ty, giúp giám đốc hạch toán kinh doanh nộp đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, tham mưu cho Giám đốc trong công tác quản lý công ty và kinh doanh. Phòng Kế hoạch tiêu thụ: Là phòng có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tiêu thụ trong một khoảng thời gian có thể là ngắn mà cũng có thể là dài hạn, có thể lập kế hoạch cho năm sau, cho kỳ sau... Trạm y tế: Có nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên trong Công ty, định kỳ tiến hành khám sức khoẻ và có kế hoạch khám chữa kịp thời... Phòng Kỹ thuật KCS: Phòng kỹ thuật có nhiệm vụ xây dựng các định mức kinh tế, kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, quy cách của từng mặt hàng trước khi bắt tay vào sản xuất. Ngoài ra phòng còn có một chức năng nữa là: Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập kho của công ty hoặc trước khi xuất bán trực tiếp ... Ban Bảo vệ: Có chức năng bảo vệ an toàn cho toàn bộ tài sản của toàn công ty, theo dõi việc đi làm đầy đủ đúng giờ của toàn thể cán bộ công nhân viên của toàn công ty... Phòng Kỹ thuật cơ điện: Là phòng đảm bảo sửa chữa các trang thiết bị máy móc vận hành trong toàn công ty giúp cho việc sản xuất được tiến hành một cách liên hoàn... 3. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Trước đây tại Công ty bia Hà nội ngoài các mặt hàng chủ yếu như bia chai, bia hơi, bia lon công ty còn tiến hành sản xuất một số các mặt hàng nước giải khát. Song hiện nay khi nền kinh tế bước sang một thời kỳ mới thời kỳ kinh tế thị trường thì sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã, cũng như chất lượng của các loại mặt hàng nước giải khát trên thị trường khiến cho các doanh nghiệp trong ngành nói chung và Công ty Bia Hà nội nói riêng phải có những cải tiến nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến mẫu mã. Để đạt được điều này trong điều kiện cho phép Công ty bia Hà nội đã thu hẹp mặt hàng sản xuất và chỉ tiến hành sản xuất 3 loại mặt hàng đó là: Bia hơi. Bia lon. Bia chai. Quy trình công nghệ sản xuất bia tại Công ty Bia Hà nội: Là một quy trình sản xuất liên tục, phức tạp qua nhiều công đoạn sản xuất gồm có nhiều bước chế biến khác nhau. Đây là một căn cứ quan trọng để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành. Nguyên vật liệu chính được sử dụng để nấu bia là Malt (mầm đại mạch), hoa bia (hoa Hublon), gạo, đường và nước. Quy trình sản xuất bia ở công ty có thể chia thành các giai đoạn sau: Giai đoạn nấu: Nguyên liệu là Malt, gạo, hoa bia và đường được đưa vào sản xuất theo một tỷ lệ nhất định tuỳ thuộc vào mục đích sản xuất loại bia thành phẩm nào: bia chai, bia lon, bia hơi... Bước 1: malt, gạo được nghiền mịn. Bước 2: gạo được xay mịn trộn với nước, nâng nhiệt độ qua giai đoạn hồ hoá đến 65o rồi dịch hoá 75 o, sau đó đun sôi tới 120 o trong 1 giờ. Malt được ngậm nước dưới nhiệt độ thường sau đó được nâng nhiệt độ 52o, 62 o và 75 oC. Dung dịch gạo đã đun sôi dược trộn với dung dịch Malt sau một thời gian cho ra dung dịch nước mạch nha; lấy dung dịch có độ đường 10 cho bia hơi, 10,5 cho bia chai và 12 cho bia lon. Dịch nha được cho qua bộ phận lọc bỏ bã bia, hoa Hublon được cho vào dung dịch mạch nha đun sôi tới nhiệt độ cần thiết thì cho hạ nhiệt độ xuống 12 o và bắt đầu đưa vào gia đoạn lên men. Giai đoạn lên men sơ bộ: nước mạch nha sau giai đoạn nấu được chuyển tới thùng chứa cho men vào với tỷ lệ 1% theo thể tích, lên men trong khoảng 24h sau đó chuyển sang giai đoạn lên men chính. Công đoạn lên men chính: dung dịch nước mạch nha sau khi được lên men sơ bộ được chuyển sang quá trình lên men chính. Nhiệt độ lên men chính được khống chế cao nhất là 15 oC và thấp nhất là 7 oC. Thời gian lên men chính là 5 đến 7 ngày, sau quá trình này đường biến thành cồn và CO2, độ đường được hạ phù hợp với các thông số kỹ thuật. Sau đó chuyển sang quá trình lên men phụ. Công đoạn lên men phụ: công đoạn này được tiến hành ngay sau khi lên men chính có tác dụng để bão hoà CO2 và ổn định thành phần hoá học của bia. Thời gian lên men phụ với bia hơi là 15 ngày, bia chai là 20 ngày và bia lon là 45 ngày. Giai đoạn lọc bia: khi kết thúc lên men phụ, dung dịch sẽ được kiểm tra độ chua, nếu đạt yêu cầu mới cho lọc bia để loại bỏ các tạp chất hữu cơ và men có trong bia để được bia trong và tăng thời gian bảo quản. Bia được lọc qua “máy lọc khung bản” và có bão hoà CO2 với bia lon và bia chai. Giai đoạn chiết bia: bia lọc xong được đưa vào chiết ở áp suất 3 kg/cm3, chiết xong đem thanh trùng ở nhiệt độ 62 và 68 oC để tiêu diệt men bia và các sinh vật sau đó được dán nhãn và đóng vào két. Thời gian đảm bảo phẩm chất các loại bia: bia hơi 24h, bia chai 90 ngày, bia lon 3 tháng. Quy trình công nghệ sản xuất bia Tăng chứa áp lực Lọc bão hòa CO2 Lên men Khí sạch Men giống Chiết chai Chiết lon Xuất Chiết thùng Rửa thùng Rửa lon Rửa chai Chai Thùng Lon Ngâm Làm sạch Malt Gạo + Malt Làm sạch Xuất Dán nhãn Nhập kho Nhập kho Đóng hộp Sấy khô Ghi ngày SX Làm khô Thanh trùng Thanh trùng Lắng trong ở nhiệt độ lạnh Đóng nút Ghép mí Xuất Lên men phụ Thu hồi men Thu hồi CO2 Lên men chính Khí sạch Men giống Lên men sơ bộ Hạ nhiệt độ Tách bã hoa Lắng trong Bã hoa Hoa Đường Đun hoa Bã bia Dịch hóa Hồ hóa Xay Đun sôi Lọc Đường hóa II Đường hóa I Đạm hóa Xay II. Thực trạng về huy động và sử dụng vốn tại Công ty Bia Hà Nội 1. Thực trạng về hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian qua Kể từ khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doang nghiệp Nhà nước nói chung và Công ty Bia Hà Nội nói riêng được quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, tìm kiếm thị trường theo nguyên tắc lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi và có nghĩa vụ đóng góp cho Ngân sách Nhà nước. Nhờ sự năng động sáng tạo, nhanh chóng thích ứng với cơ chế mới, tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty Bia Hà Nội trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. So với năm 1997, tài sản của Công ty tăng 31.494 triệu đồng, trong khi tài sản cố định giảm so với năm 1997 (-8.172 triệu đồng) nhưng tài sản lưu động năm 1998 lại tăng 39.726 triệu đồng. So với năm 1998, năm 1999 tài sản của Công ty đã có nhiều thay đổi cả về tổng tài sản và cơ cấu tài sản. Tổng tài sản tăng 222.495 triệu đồng tức tăng 69,2% so với năm 1998, trong đó tài sản cố định giảm 5.226 triệu đồng nhưng tài sản lưu động gần như tăng gấp 2 lần so với năm 1998 (tăng 227.421 triệu đồng). Năm 1998 TSLĐ là 71,5%, TSCĐ là 28,5%; năm 1999 doanh thu thuần tăng 37.596 triệu đồng tức tăng 41,4% Tình hình sản xuất kinh doanh một số năm gần đây: TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 1997 1998 1999 1 2 3 Sản lượng Doanh thu Nộp ngân sách Triệu lít Tỷ đồng Tỷ đồng 46,4 404,029 223 51,3 437,605 224 53 428,364 233,7 Để mở rộng sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng cả về số lượng và chất lượng, từ năm 1990 đến nay, Công ty đã từng bước đầu tư mở rộng sản xuất như xây dựng lại nhà xưởng, mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại, nâng cao tay nghề công nhân, nâng cao trình độ quản lý, sắp xếp lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu nhân sự trong Công ty Công ty luôn quan tâm đến vấn đề bảo hộ và an toàn lao động, chăm sóc sức khoẻ người lao động, lắp đặt hệ thổng xử lý nước thải đảm bảo về sinh môi trường lao động và môi trường xung quanh Công ty. 2. Nguồn hình thành và cơ cấu vốn của Công ty. Cũng như nhiều doanh nghiệp nhà nước khác, khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường và cùng với các chính sách đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước của Đảng, Nhà nước. Công ty Bia Hà Nội được cấp vốn ngân sách một lần. Trên cơ sở số vốn đó Công ty phải tự xoay sở trong việc sản xuất kinh doanh, không những thế phải có trách nhiệm bảo tồn và phát triển nguồn vốn đó, đồng thời hàng năm thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước thông qua việc tạo việc làm cho cán bộ công nhân viên, đóng góp vào ngân sách Nhà nước và các nhiệm vụ kinh tế xã hội khác. Trong thời gian qua, trên cơ sở các quan hệ tài chính của Công ty và số vốn được Nhà nước cấp Công ty không ngừng phát triển sản xuất, làm ăn liên tục có lãi, đóng góp cho ngân sách ngày càng tăng. Ta có thể xem xét việc hình thành nguồn vốn của Công ty thông qua bảng sau: Bảng 2: Nguồn hình thành vốn (Đơn vị: Tỷ đồng) Tổng nguồn vốn Trong đó Vốn kinh doanh Quỹ Nợ phải trả N. sách cấp Tự bổ sung Nợ ngắn hạn Nợ dài hạn 1998 1999 1998 1999 1998 1999 1998 1999 1998 1999 1998 1999 321,512 544,007 92,075 92,075 61,172 74,267 121,665 182,779 46,600 49,870 0 140,000 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty các năm 1998,1999) Cơ cấu nguồn vốn của Công ty là khá ổn định, chỉ từ năm 1999 Công ty đã thực hiện vay dài hạn để đầu tư vào tài sản lưu động. Nhìn chung Công ty có sự độc lập tương đối cao, khả năng sử dụng đòn bẩy tài chính rất lớn. So với năm 1998, tổng số vốn sản xuất kinh doanh của Công ty năm 1999 tăng 18,111 tỷ đồng tức 11,82%. Trong đó số vốn ngân sách là cố định, vốn kinh doanh là do vốn tự bổ sung tăng, điều đó chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty diễn ra khá tốt. Cụ thể là lợi nhuận thu được từ kinh doanh tăng từ 54,342 tỷ đồng năm 1998 lên 76,899 tỷ đồng năm 1999. Bảng 3: Kết cấu nguồn vốn kinh doanh của Công ty Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 1998 1999 1999/1998 Trị giá % Trị giá % Trị giá % Tổng số vốn 153,247 100 171,358 100 +18,111 +11,82 Vốn cố định 119,149 77,7 137,260 80,1 +18,111 +15,2 Trong đó: - NSNN cấp - Tự bổ sung 62,933 56,156 41,1 36,6 62,933 74,267 36,8 43,3 0 +18,111 0 +32,25 Vốn lưu động 34,098 22,3 34,098 19,9 0 0 Trong đó: - NNSN cấp - Tự bổ sung 29,082 5,016 19,0 3,3 29,082 5,016 17,0 2,9 0 0 0 0 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty các năm 1998,1999) Trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh vốn cố định chiếm tỷ trọng khá lớn 77,7% năm 1998 và 80,1% năm 1999. Vốn kinh doanh của Công ty tăng là do vốn cố định của Công ty tăng trong khi số vốn lưu động là không đổi trong suốt mấy năm gần đây. Để đánh giá tính hợp lý trong việc sử dụng vốn, ta phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn của Công ty, tỷ trọng đầu tư của từng bộ phận để có biện pháp hợp lý trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty. Bảng 4: Phân tích cơ cấu tài sản Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 1999/1998 Số tiền % Số tiền % Số tiền % +/- % A. TSLĐ và ĐTNH I. Tiền II. Đầu tư TCNH III. Các khoản phải thu IV. Hàng tồn kho V. TSLĐ khác VI. Chi sự nghiệp 190.144 150.126 0 6.985 28.343 4.690 0 65,5 229.870 190.940 0 3.149 34.286 1.495 0 71,5 457.291 215.146 0 62.507 35.255 144.683 0 84,1 227.421 24.206 59.358 969 143.118 0 98,9 12,7 1885 2,8 9578 0 B. TSCĐ và ĐTDH I. TSCĐ II. Đầu tư TCDH III. Chi phí XDCB DD IV. Ký quỹ, ký cượcDH 99.874 90.618 1.300 7.956 0 34,5 91.642 76.114 1.300 14.228 0 28,5 86.416 76.708 4.450 5.258 15,9 -5226 594 3150 -8970 -5,7 0,8 242,3 -63 Tổng tài sản 290.018 100 321.512 100 544.007 100 222.495 69,2 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty các năm 1997,1998,1999) Qua bảng ta thấy tài sản của Công ty tăng lên qua các năm: - Năm 1998 tăng so với năm 1997 là 314,94 tỷ đồng tức là 10,8% - Năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 là 222,495 tỷ đồng tức 69,2%. Tài sản tăng trong khi TSCĐ và ĐTDH giảm, điều này là do có sự biến động lớn trong TSLĐ và ĐTNH. Sự biến động trong TSLĐ chủ yếu là do trong năm 1999 Công ty đã tăng lớn trong khoản ký quỹ ký cược ngắn hạn từ 1,495 tỷ năm 1998 lên 140,000 tỷ đồng năm 1999. Khoản phải thu tăng là do Công ty chủ động tìm nguồn hàng, ứng trước cho người cung cấp để chủ động cho việc mua sắm một số trang thiết bị, máy móc lắp đặt trong năm 2000, có thể nói đây là khoản chủ yếu trong các khoản phải thu với số tiền lên đến 56,083 tỷ đồng. Giá trị hàng tồn kho cũng là một bộ phận quan trọng, chiếm 7,7% VLĐ và có giá trị tới 35,225 tỷ đồng. Tuy nhiên hàng tồn kho của Công ty chủ yếu là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ phục vụ cho quá trình sản xuất bia, năm 1999 tăng 2,8% so với năm 1998, do đó Công ty cần có kế hoạch sản xuất cụ thể để cung cấp nguyên vật liệu hợp lý, đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục và hạn chế đến mức thấp nhất việc tồn kho gây ứ đọng vốn. Bảng 5. Phân tích cơ cấu nguồn vốn Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 1999/1998 Số tiền % Số tiền % Số tiền % +/- % A. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn III. Nợ khác 40.113 38.903 0 1.210 13,8 46.600 45.390 0 1.210 14,5 189.870 43.925 140.000 5.945 34,9 143.270 -1.465 140.000 +4.735 307,4 -3,2 391,3 B. Nguồn vốn CSH I. Nguồn vốn - quỹ II. Nguồn kinh phí 249.905 249.905 0 86,2 274.912 274.912 0 85.5 354.137 354.137 65,1 79.225 28.8 Tổng tài sản 290.018 100 321.512 100 544.007 100 222.495 69,2 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty các năm 1997,1998,1999) Qua bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn ta thấy nguồn vốn tăng dần qua các năm. Năm 1998 tăng so với năm 1997 là 31,494 tỷ đồng tức 10,8%, năm 1999 tăng so với năm 1998 là 222,495 tỷ đồng tức 69,2%. Tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn CSH lại giảm qua các năm, từ 85,5% năm 1998 xuống còn 65,1% năm 1999. Điều này do khoản nợ của Công ty tăng, năm 1998 trở về trước không có nợ dài hạn, chỉ có nợ ngắn hạn dưới các hình thức thuế phải nộp nhưng chưa đến hạn nộp, phải trả công nhân viên, phải trả người cung cấp, các khoản chi phí phải trả và các khoản phải trả khác. Nhưng đến năm 1999 Công ty tiến hành vay dài hạn để đầu tư cho tài sản lưu động khoản tiền 140 tỷ đồng chiếm 73,7% nợ phải trả. Điều này chứng tỏ Công ty đã tăng cường việc huy động vốn từ bên ngoài để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đa dạng cơ cấu nguồn vốn nhưng cần có kế hoạch cụ thể trong tổ chức quản lý nguồn vốn vì sẽ phải trả lãi với lãi suất cao cho khoản vay này. 3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty. Như đã trình bày ở trên để tiến hành hoạt động kinh doanh, mỗi doanh nghiệp đều cần phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng. Tuy nhiên có vốn nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả mới là nhân tố quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Bởi vậy, phân tích hiệu quả sử dụng vốn là việc làm cần thiết nhằm thể hiện chất lượng công tác quản lý sử dụng vốn đồng thời đánh giá hiệu quả của nó để từ đó có các biện pháp thích hợp nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn của Công ty. Hiệu quả sử dụng vốn hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mà hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, môi trường kinh tế - chính trị - xã hội, phong tục tập quán, tính mùa vụ... nên hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không nằm ngoài sự ảnh hưởng của các nhân tố đó. Công ty Bia Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân. Cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác nói chung và các doanh nghiệp trong Tổng Công ty Rượu - Bia - Nước giải khát Việt Nam nói riêng, Công ty Bia Hà Nội là một doanh nghiệp độc lập, tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ nguồn vốn ban đầu Nhà nước giao Công ty không những phải bảo toàn mà còn phải phát triển nguồn vốn đó. Công ty Bia Hà Nội đã làm được điều này, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Để xem xét cụ thể về hiệu quả sử dụng vốn của Công ty, chúng ta lần lượt xem xét tình hình sử dụng và hiệu quả của từng loại vốn kinh doanh. 3.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Là một doanh nghiệp sản xuất hàng hoá nên vốn cố định của Công ty thường chiếm một tỷ trọng lớn. Việc sử dụng vốn cố định có hiệu quả hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh cuả Công ty. Để thấy rõ tình hình và hiệ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docX0116.doc