Lời nói đầu
Kể từ sau Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (năm 1986) nền kinh tế nước ta đã có một bước ngoặt lớn, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng quan hệ với bên ngoài.
Mục tiêu của công cuộc đổi mới kinh tế này là nhằm đưa đất nước ta thoát khỏi sự trì trệ, nghèo nàn, lạc hậu, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và tìm ra con đường ngắn nhất để phát triển nhanh nhất. Thực
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện chủ trương đổi mới đó, các chủ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau ở nước ta tích cực đổi mới các phương thức hoạt động kinh doanh đặc biệt là việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Điều đó đã góp phần tạo động lực thúc đẩy nền sản xuất phát triển. Thực tiễn kinh doanh chỉ ra rằng, phần lớn các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh đều có nguyên nhân từ vấn đề sử dụng vốn. Để có thể tồn tại, đứng vững và phát triển thì một trong những giải pháp quan trọng hiện nay là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng này, qua thờ gian thực tập tại Công ty Thắng Lợi, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Bạch Đức Hiển cùng với sự giúp đỡ tận tình của Phòng tài chính Công ty Thắng Lợi em đã hoàn thiện Chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài:
Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi.
Với vốn kiến thức lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế, không tránh khỏi những thiếu sót, qua chuên đề này em xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở công ty Thắng Lợi. Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô và các cô chú ở phòng kế toán để chuyên đề của em đưọc hoàn thiện tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Bạch Đức Hiển cùng các thầy cô trong khoa TCDN đã truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong thời gian em học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, phòng TC-KT của công ty Thắng Lợi đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập tại công ty.
Chương 1.
Vốn kinh doanh và tầm quan trọng phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1. Vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1-Vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
- Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Mục tiêu của doanh nghiệp: Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà có các mục tiêu khác nhau như: hoạt động công ích, hợp tác liên doanh giúp đỡ lẫn nhau... song mục tiêu chung nhất và quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đó là lợi nhuận.
1.1.1- Khái niệm về vốn:
- Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải luôn gắn liền với sự hoạt động của đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn phải biết vận động không ngừng phát triển đồng vốn đó. Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột của CNTB trong công thức T - H - SX... H' - T' của C.Mác thì có thể xem đây là một công thức kinh doanh: Chủ thể kinh doanh dùng vốn của mình dưới hình thức tiền tệ mua những TLSX để tiến hành quá trình sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá theo nhu cầu của thị trường rồi đem những thành phẩm hàng hoá này bán cho khách hàng trên thị trường để thu được một lượng tiền tệ lớn hơn số ban đầu bỏ ra.
Như vậy, theo quan điểm của Mác, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một tầm khái quát lớn, nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Mác đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nhà khoa học đại diện cho các trường phái khác nhau đã bổ sung các yếu tố mới cũng được coi là vốn. Nổi bật nhất là Paul. A.Samuelson - Nhà kinh tế học theo trường phái "Tân cổ điển" đã thừa kế các quan niệm của trường phái "cổ điển" về yếu tố sản xuất để phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành 3 bộ phận là đất đai, lao động và vốn. Theo ông vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản xuất mới. Sau đó David Begg đã bổ sung thêm cho định nghĩa vốn của Samuelson, theo ông vốn bao gồm có vốn hiện vật (các hàng hoá dự trữ, để sản xuất ra hàng hoá khác) và vốn tài chính (tiền, các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp). Nhìn chung cả Samuelson và Begg đều có một quan điểm chung thống nhất cơ bản là các vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy vậy quan điểm này cho thấy vốn vẫn bị đồng nhất với tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Như vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất được khái quát theo sơ đồ sau:
VKD của doanh nghiệp
Dùng cho hoạt động và khai thác
Dùng cho đầu tư trung và dài hạn
Đóng góp cho xã hội
Thanh toán tiền lương.
Nộp thuế phí, lệ phí
Trả tiền cho người cung ứng
Bảo đảm các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp
SX tốt hơn
Các đầu tư về TLSX
SX nhiều hơn
Các năng lực về sản xuất
Tiếp tục SX:
- Thay máy cũ
- Mua máy mới
- Giải quyết khủng hoảng
Vai trò của vốn kinh doanh đã được C.Mác khẳng định: "Tư bản đứng vị trí hàng đầu vì tư bản là tương lai". Đồng thời C.Mác còn nhấn mạnh: "Không một hệ thống nào có thể tồn tại nếu không vượt qua sự suy giảm về hiệu quả tư bản".
1.1.2- Những đặc trưng cơ bản của vốn:
- Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản: điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: Nhà xưởng, máy móc, thiết bị, đất đai, bằng phát minh, sáng chế... Do đó mộtlượng tiền phát hành đã thoát ly khỏi giá trị thực của hàng hoá để đưa vào đầu tư, nhưng khoản nợ mà không có khả năng thanh toán thì không được coi là vốn.
- Vốn luôn vận động để sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để trở thành vốn thì đồng tiền phải được đưa vào hoạt động kinh doanh để sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị - là tiền. Đồng vốn đến điểm xuất phát mới với giá trị lớn hơn. Đó cũng là nguyên tắc đầu tư, sử dụng và bảo toàn và phát triển vốn. Nói một cách khác, vốn kinh doanh trong quá trình tuần hoàn luôn có ở mọi giai đoạn của quá trình tái sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác. Các giai đoạn này được lặp đi lặp lại theo một chu kỳ, mà sau mỗi một chu kỳ vốn kinh doanh được đầu tư nhiều hơn. Chính yếu tố này đã tạo ra sự phát triển của các doanh nghiệp theo quy luật tái sản xuất mở rộng.
- Trong quá trình vận động vốn không tách rời CSH: Trong nền kinh tế thị trường không thể có một đồng vốn vô chủ. Nếu tách rời thì đó là những đồng vốn lãng phí, không hiệu quả. Ngược lại, chỉ có xác định rõ CSH thì đồng vốn mới được sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả. Cần phải phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, đó là 2 quyền năng khác nhau. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người có quyền sở hữu và người có quyền sử dụng đồng nhất hoặc riêng rẽ. Song dù trong trường hợp nào thì người sở hữu vốn vẫn được quyền ưu tiên đảm bảo quyền lợi và được tôn trọng quyền sở hữu của mình. Đây là một nguyên tắc để huy động và quản lý vốn.
- Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng: Để tiến hành hoạt động và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh vốn phải được tích tụ thành khoản lớn. Do đó doanh nghiệp không chỉ khai thác tiềm năng về vốn trong doanh nghiệp mà còn phải tìm cách huy động, thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như: góp vốn liên doanh, liên kết, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay nợ...
- Vốn có giá trị về mặt thời gian: Trong điều kiện kinh tế thị trường cần phải xem xét về yếu tố thời gian của đồng vốn vì nó ảnh hưởng đến sự biến động giá cả thị trường, lạm phát, ... nên sức mua của đồng tiền ở mỗi thời kỳ là khác nhau.
- Vốn là loại hàng hoá đặc biệt: Những người sẵn có vốn có thể đưa vào thị trường, người cần vốn thì vay. Nghĩa là người đi vay được quyền sử dụng vốn của người cho vay. Người đi vay phải mất một khoản tiền trả cho người cho vay. Đây là một khoản chi phí sử dụng vốn mà người đi vay phải trả cho người cho vay hay nói một cách khác chính là giá của quyền sử dụng vốn. Khác với các loại hàng hoá thông thường khác, "hàng hoá vốn" khi bán đi sẽ không mất quyền sở hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Việc mua bán này diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán tuân theo quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường.
- Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình như: Vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu, bản quyền, phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ... Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì khoa học kỹ thuật, công nghệ cũng phát triển mạnh mẽ. Điều này làm cho tài sản vô hình ngày càng đa dạng phong phú, đóng góp một phần không nhỏ trong việc tạo ra khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Từ những đặc trưng này cho phép ta phân biệt giữa tiền và vốn: giữa một số quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp và vốn. Vốn kinh doanh được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh tức là cho mục đích tích luỹ chứ không phải mục đích tiêu dùng như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được ứng ra cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh và phải được thu về khi chu kỳ đó kết thúc. Và lại được ứng cho chu kỳ tiếp theo. Vì vậy kinh doanh không thể "tiêu dùng" như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Mất vốn kinh doanh đồng nghĩa với nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Ngoài ra muốn có vốn thì phải có tiền song có tiền chưa hẳn là đã có vốn.
Tiền được coi là vốn phải thoả mãn những điều kiện sau:
+ Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, tức là phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá nhất định có thực.
+ Tiền phải được tập trung, tích tụ thành 1 khoản nhất định đủ sức đầu tư cho 1 dự án kinh doanh nào đó. Nếu tiền rải rác, không gom thành khoản thì không làm được gì.
+ Khi đã đủ về lượng, tiền phải vận động nhằm mục đích sinh lời, cách thức, hình thái vận động của tiền phụ thuộc vào phương thức kinh doanh. Ngoài những đặc trưng cơ bản trên tiền còn có một số đặc trưng nữa mang tính riêng biệt như:
+ Là nguồn duy nhất sáng tạo ra giá trị mới.
+ Vừa là chủ thể quản lý vừa là đối tượng quản lý.
+ Tiềm ẩn trong mọi người, phụ thuộc vào tư tưởng, tình cảm, môi trường..., chỉ biểu hiện khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
1.1.3- Phân loại vốn kinh doanh.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ... hay hoạt động bất cứ ngành nghề gì các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Số vốn kinh doanh đó được biểu hiện dưới dạng tài sản. Trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, quản lý vốn kinh doanh và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả là nội dung quan trọng nhất có tính chất quyết định đến mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Do vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ta cần phải nắm được vốn có những loại nào, đặc điểm vận động của nó ra sao... Có nhiều cách phân loại vốn kinh doanh nhưng ở đây chúng ta chỉ đi sâu vào cách phân loại vốn kinh doanh căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu chuyển của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Theo cách phân loại này vốn kinh doanh được chia thành 2 loại chính là vốn lưu động và vốn cố định.
1.1.3.1- Vốn cố định của doanh nghiệp:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động được gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là TSCĐ. Vì vậy, khi nghiên cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở tìm hiểu về tài sản cố định. Tư liệu sản xuất được chia thành 2 bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Đặc điểm của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó mặc dù tư liệu sản xuất bị hao mòn nhưng chúng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng bị hư hỏng hoàn toàn hoặc không còn lợi ích kinh tế thì khi đó chúng mới bị thay thế.
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động có giá trị lớn tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp qua nhiều chu kỳ sản xuất. Còn giá trị của nó được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất. Một tư liệu lao động để thoả mãn là tài sản cố định phải có đồng thời 2 tiêu chuẩn cơ bản sau: - Phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ 1 năm trở lên.
- Phải đạt một mức tối thiểu nhất định nào đó về giá trị (tiêu chuẩn này thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ). Hiện nay ở nước ta quy định là > 5 triệu đồng.
Nếu phân loại theo hình thái vật chất thì tài sản cố định có 2 loại là tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
+ Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái biểu hiện là vật chất cụ thể như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, đất đai, vật tư... + Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể như: bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, bản quyền, chi phí sáng lập doanh nghiệp, lợi thế thương mại... Trong nền kinh tế thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh của việc đầu tư tài sản cố định vô hình là rất quan trọng. Những chi phí đó cũng được quan niệm như giá trị của một tài sản cố định và phải được thu hồi dần để mua sắm tài sản cố định mới.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của tài sản cố định có những đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá trình sản xuất kinh doanh và nó bị hao mòn dần, bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Nói một cách khác, giá trị sử dụng sẽ giảm dần cho đến khi tài sản cố định vị loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh.
- Về mặt giá trị: giá trị của tài sản cố định được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm mà nó tạo ra trong quá trình sản xuất.
Đặc điểm về mặt hiện vật và giá trị của tài sản cố định đã quyết định đến đặc điểm chu chuyển của vốn cố định. Song quy mô của vốn cố định lại được quyết định bằng quy mô của tài sản cố định. Qua mối liên hệ đó ta có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh như sau:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này là do tài sản cố định có thể phát huy trong nhiều kỳ sản xuất, vì vậy hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất tương ứng.
- Vốn cố định luân chuyển dần dần, từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất, giá trị sử dụng của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định cũng tách thành 2 phần: một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Phần còn lại của vốn cố định được "cố định" trong đó. trong các chu kỳ sản xuất kế tiếp, nếu như phần vốn luân chuyển dần dần được tăng lên thì phần vốn cố định lại giảm đi tương ứng với mức suy giảm dần về giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc sự biến thiên nghịch chiều đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố định cũng hoàn thành 1 vòng luân chuyển.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả ta phải nghiên cứu các phương pháp phân loại và kết cấu của tài sản cố định.
- Theo hình thái biểu hiện:
+ Tài sản cố định hữu hình: nhà xưởng, máy móc, thiết bị...
+ Tài sản cố định vô hình: bằng phát minh sáng chế,...
- Theo nguồn hình thành:
+ Tài sản cố định tự có: được đầu tư bằng vốn ngân sách cấp hoặc vốn CSH.
+ Tài sản cố định đầu tư bằng vốn vay, thuê ngoài...
- Theo công dụng kinh tế:
+ Tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh cơ bản + Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản.
- Theo tình hình sử dụng:
+ Tài sản cố định đang sử dụng.
+ Tài sản cố định chưa sử dụng.
+ Tài sản cố định không cần sử dụng.
Mỗi cách phân loại có các ý nghĩa khác nhau giúp nhà quản trị đánh giá được tình hình tài sản cố định và từ đó có biện pháp tác động để sử dụng vốn cố định có hiệu quả hơn.
Vốn cố định được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: nguồn ngân sách cấp, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn vay; liên doanh, liên kết, nguồn khác.
1.1.3.2- Vốn lưu động của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình tái sản xuất: dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Đây chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản cố định chú ý nằm trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là các đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ phận chú ý của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo lên thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hoa phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ giá trị của chúng được dịch chuyển 1 lần vào giá trị sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá.
Bên cạnh một số tài sản cố định nằm trong quá trình lưu thông, thanh toán, sản xuất... thì doanh nghiệp còn có một số tư liệu lao động khác như vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu...
Từ đó, ta có thể rút ra, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lao động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện một cách thường xuyên liên tục.
Như vậy, dưới góc độ tài sản thì vốn lưu động được sử dụng để chỉ các tài sản lưu động. Vốn lưu động chịu sự chi phối bởi tính luân chuyển của tài sản lưu động, vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái vật chất khác nhau và chuyển hoá phần lớn vào giá trị của sản phẩm, phần còn lại chuyển hoá trong quá trình lưu thông. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên liên tục nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng và mang tính chu kỳ. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải có đủ vốn lưu động để đầu tư vào các tư liệu lao động khác nhau, đảm bảo cho các tư liệu lao động tồn tại một cách hợp lý, đồng bộ với nhau trong một cơ cấu. Do đặc điểm của vốn lưu động là trong quá trình sản xuất kinh doanh luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục đã quyết định sự vận động của vốn lưu động - tức hình thái giá trị của tài sản lưu động là:
+ Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. ở giai đoạn này vốn đã thay đổi hình thái từ vốn tiền tệ sang vốn vật tư (T - H).
+ Tiếp theo là giai đoạn sản xuất, các vật tư được chế tạo thành bán thành phẩm, thành phẩn. ở giai đoạn này vốn vật tư chuyển hoá thành thành phẩm và bán thành phẩn. (H - SX... - H').
+ Kết thúc vòng tuần hoàn, sau khi sản phẩm được tiêu thụ vốn lưu động lại chuyển hoá sang hình thái vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu (H' - T'); (T' > T).
Trong thực tế, sự vận động của vốn lưu động không diễn ra một cách tuần tự như mô hình lý thuyết trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được liên tục tuần hoàn và chu chuyển.
Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan trọng. Muốn quản lý tốt vốn lưu động các doanh nghiệp phải phân biệt được các bộ phận cấu thành của vốn lưu động để trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp quản lý phù hợp với từng loại. Trên thực tế vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm những bộ phận sau:
+ Tiền mặt và chứng khoán có thể bán được: Tiền mặt bao gồm tiền trong quỹ của doanh nghiệp và các khoản tiền gửi không có lãi. Chứng khoán bán được thường là thương phiếu (kể cả thương phiếu ngắn hạn).
+ Các khoản phải thu: trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là không thể tránh khỏi, và đây cũng là một chiến lược trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Các hoá đơn chưa được trả tiền này thể hiện quan hệ tín dụng thương mại và hình thành lên các khoản phải thu. Tín dụng thương mại có thể tạo nên uy tín, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường đồng thời cũng có thể dẫn đến rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Khoản dự trữ: Việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Sự tồn tại này trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan.
Để quản lý và sử dụng tốt vốn lưu động cần phải nghiên cứu các biện pháp phân loại vốn lưu động cũng như tỷ trọng của từng loại vốn trong tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động được phân loại như sau: các căn cứ để phân loại vốn lưu động trong doanh nghiệp).
- Căn cứ vào quá trình tuần hoàn vốn:
+ Vốn dự trữ sản xuất: nguyên vật liệu.
+ Vốn sản xuất: sản phẩm dở dang
+ Vốn lưu thông: tiền mặt, thành phẩm.
- Căn cứ vào nguồn hình thành:
+ Vốn tự có: ngân sách cấp
+ Vốn liên doanh, liên kết + Vốn vay tín dụng, TDTM.
- Căn cứ vào hình thái biểu hiện:
+ Vốn phát hành chứng khoán
+ Vốn vật tư hàng hoá
+ Vốn tiền tệ
- Căn cứ vào phương pháp xác định:
+ Vốn lưu động định mức.
+ Vốn lưu động không định mức.
Tuỳ theo mỗi cách phân loại mà nhà quản trị sẽ đưa ra những quyết định cụ thể trong việc quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả nhất.
Từ những đặc điểm trên ta có thể phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa vốn lưu động và vốn cố định.
Tên vốn
Chức năng
Tính chất tham gia vào quá trình sản xuất
Hình thức chuyển hoá giá trị
Vốn cố định
Tư liệu lao động
Nhiều lần
Chuyển dần nhiều lần
Vốn lưu động
Đối tượng lao động
Một lần
Chuyển toàn bộ 1 lần
1.2- Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.1- Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, điều trước tiên là phải có vốn; vốn đầu tư ban đầu và vốn đầu tư bổ xung để mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, cơ bản là những nguồn sau:
+ Nguồn vốn do chủ kinh doanh đầu tư: đây là nguồn hình thành vốn ban đầu còn gọi là vốn điều lệ. Nguồn vốn này là cơ sở xác định quyền CSH đối với doanh nghiệp. ở doanh nghiệp nhà nước vốn này là do nhà nước đầu tư được hình thành từ quỹ ngân sách nhà nước và được dùng vào mục đích phát triển kinh tế. ở các công ty cổ phần, nguồn vốn này được hình thành từ số cổ phần mà các cổ đông đóng góp.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: là vốn được hình thành từ lợi nhuận để lại từ vốn vay sau khi đã trả hết nợ và lãi suất tiền vay, từ các quỹ của doanh nghiệp được bổ sung vào vốn.
+ Nguồn vốn liên doanh, liên kết: là vốn do các đơn vị khác tham gia liên doanh, liên kết với doanh nghiệp. Vốn này được đóng góp theo tỷ lệ của các chủ đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận.
+ Nguồn vốn tín dụng: là các khoản vốn mà doanh nghiệp vay dài hạn, ngắn hạn của ngân hàng, các khoản vay của các tổ chức: Công ty Tính chất, Công ty BH, NHTM, các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước, vay bằng phát hành chứng khoán...
1.2.2- Phân loại nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp thì vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia làm 2 loại.
+ Vốn CSH: là phần vốn thuộc quyền sở hữu của CSH bao gồm: vốn điều lệ do CSH đầu tư, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận và các quỹ của doanh nghiệp. Vốn do nhà nước tài trợ (nếu có). Vốn CSH được xác định là phần vốn còn lại trong tài sản của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả.
+ Nợ phải trả: là khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như: nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, tiền vay từ phát hành chứng khoán, khoản phải trả cho nhà nước, cho người bán, cho công nhân viên.
Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả 2 nguồn vốn: CSH và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn, có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành 2 loại:
+ Nguồn vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định, dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một phần tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồn các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngăn hạn khác.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành 2 loại.
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy động được bên trong doanh nghiệp từ các hoạt động của bản thân doanh nghiệp, bao gồm: tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại, các khoản dự trữ, dự phòng.
+ Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn huy động được từ bên ngoài như vay ngân hàng, vay của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, vay bằng phát hành chứng khoán, các khoản nhận vốn góp liên doanh liên kết, các khoản nợ phải trả cho người cung cấp, nợ khác.
- Thông qua việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn kinh doanh cho thấy: Doanh nghiệp cần phải tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả các đồng vốn hiện có và đa dạng hoá các kênh huy động vốn.
2- Tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
2.1- Hiệu quả sử dụng vốn:
Trước đây, trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp, quan hệ giữa nhà nước với doanh nghiệp dựa trên nguyên tắc thu đủ, chi đủ. Nhà nước giao kế hoạch mang tính pháp định về mặt hàng kinh doanh chú ý về nguồn cung cấp, tiêu thụ, doanh thu... vì vậy các doanh nghiệp không có tính sáng tạo, chủ động trong sản xuất kinh doanh. Do đó, quan điểm về sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh được xác định dựa trên cơ sở: mức độ thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh, sự tiết kiệm trong giá thành sản phẩm, khối lượng giá trị sử dụng mà doanh nghiệp cung cấp cho nền kinh tế. Đây chính là sự lẫn lộn giữa chỉ tiêu kết quả và chỉ tiêu hiệu quả. Điều này đã làm cho các nhà đầu tư, quản lý đánh giá sai về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đây cũng là nguyên nhân làm cho tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp bị lãng phí, không hiệu quả dẫn đến tình trạng "mất" dần vốn và không còn khả năng duy trì sản xuất kinh doanh.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tuân theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh "đầu vào" và "đầu ra" được quyết định bởi thị trường. Xuất phát từ nhu cầu của thị trường, từ lợi ích của doanh nghiệp do đó đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải tính đến các yếu tố sản xuất cái gì, sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? Vì vậy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt để khẳng định được vị trí của mình trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đều lấy hiệu quả kinh doanh làm thước đo cho mọi hoạt động. Hiệu quả là lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp hết các khoản chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh. Như vậy hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó.
Thể hiện qua công thức:
Hiệu quả =
Qua công thức trên ta thấy hiệu quả chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố đó là doanh thu và chi phí.
Hiệu quả tăng lên khi:
- Doanh thu tăng và chi phí không đổi. - Chi phí giảm và doanh thu không đổi.
- Doanh thu và chi phí cùng tăng nhưng tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí.
Điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường là phải sử dụng vốn kinh doanh sao cho có hiệu quả. Sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả là phải bảo toàn và không ngừng phát triển vốn, tức là phải tạo ra được sức sinh lời của đồng vốn càng cao càng tốt.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là phải đi tìm các biện pháp làm sao cho chi phí về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ít nhất mà đem lại hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh doanh, phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn kinh doanh trong việc tối đa hoá kết quả lợi ích và tối thiểu hoá lượng vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện vì nguồn lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
2.2- Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn hướng tới 3 mục tiêu cơ bản đó là:
- Lợi nhuận
- Tăng trưởng thế lực.
- Đảm bảo an toàn.
3 mục tiêu này phản ánh lại chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn không có hiệu quả, không bảo toàn được vốn, không làm cho nó sinh lời thì doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại được trong nền kinh tế thị trường.
Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề cấp bách đặt ra cho các doanh nghiệp vì nó là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, nó quyết định yếu tố đầu ra, quyết định đến giá thành sản phẩm.
- Trong q._.uá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh vận động liên tục và có những đặc điểm khác nhau giữa từng loại vốn. Sau mỗi quá trình, số vốn bỏ ra không được để hao hụt, mất mát mà phải sinh sôi nảy nở. Đồng vốn phải có khả năng sinh lời, đây là vấn đề cốt từ liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy sử dụng vốn có hiệu quả là một yêu cầu khách quan đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải tính mục tiêu quan trọng nhất đó là lợi nhuận, lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan đến tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì điều kiện tiên quyết đó là doanh nghiệp phải tạo ra được lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đem lại lợi nhuận cao hơn, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là tất yếu trong điều kiện hiện nay. Nó góp phần nâng cao khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, tăng nhanh tốc độ hoạt động và khả năng sinh lời của đồng vốn nhằm đem lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp và góp phần tăng trưởng, ổn định nền kinh tế xã hội.
2.3- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
- Vòng quay toàn bộ vốn. Chỉ tiêu này cho biết vốn của doanh nghiệp trong một kỳ quay được bao nhiêu vòng.
= =
Đây là hệ số phản ánh hiệu suất sử dụng vốn hay tài sản của doanh nghiệp trong kỳ. Vòng quay càng lớn thể hiện suất sử dụng vốn càng cao.
- Doanh lợi tổng vốn:
Doanh lợi tổng vốn =
Đây là chỉ tiêu đo lường mức sinh lời của đồng vốn. Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn bình quân được sử dụng trong kỳ tạo ra mấy đồng lợi nhuận thuần.
Chỉ tiêu này rất quan trọng, nó cho thấy hiệu quả trong việc quản lý và sử dụng vốn sản xuất của doanh nghiệp.
Trên đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nói chung mang tính chất tổng quát. Để đánh giá chính xác hơn người ta đi đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại vốn.
2.3.1- Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Để kiểm tra đánh giá tính hiệu quả về sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp người ta thường sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu gồm: Các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích.
* Các chỉ tiêu tổng hợp.
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Trong đó số vốn cố định bình quân được tính theo phương pháp bình quân số học giữa vốn cố định VCĐđk và VCĐck
- Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định.
Hàm lượng vốn cố định =
- Chỉ tiêu TSLN Vốn cố định: Phản ánh 1 đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế TNDN.
Tỉ suất lợi nhuận VCĐ = x100%
* Các chỉ tiêu phân tích:
- Hệ số hao mòn tài sản cố định: Phán ánh mức độ hao mòn của tài sản cố định trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Hệ số hao mòn TSCĐ =
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Phản ánh 1 đồng tài sản cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần tuý.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
- Hệ số trang bị tài sản cố định cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất: phản ánh giá trị tài sản cố định bình quân trang bị cho 1 công nhân trực tiếp sản xuất.
Hệ số trang bị TSCĐ =
- Kết cấu tài sản cố định của doanh nghiệp: Phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, hoặc tài sản cố định trong tổng số tài sản cố định của doanh nghiệp ở thừi điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá được mức độ hợp lý trong cơ cấu tài sản cố định được doanh nghiệp trang bị.
Qua một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định trên ta thấy rằng: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có nghĩa là khai thác triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế máy móc thiết bị, tận dụng tối đa giờ máy... để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho kết quả thu được trên 1 đồng chi phí về tài sản cố định (vốn cố định) ngày càng cao.
2.3.2- Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong các doanh nghiệp có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau.
- Tốc độ luân chuyển vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết tốc độ luân chuyển vốn lưu động trong kỳ nhanh hay chậm. Nó biểu hiện của việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm vốn lưu động. Vốn lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động được đo bằng 2 chỉ tiêu là số lần luân chuyển (số vòng quay vốn) và kỳ luân chuyển vốn (số ngày của 1 vòng quay vốn).
+ Số lần luân chuyển vốn lưu động: phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong một thời kỳ nhất định, thường tính là 1 năm. Ký hiệu là (L).
L = =
+ Kỳ luân chuyển vốnlưu động: phản ánh số ngày để thực hiện 1 vòng quay vốn lưu động. Ký hiệu là (K)
K = hay K =
Vòng quay vốn nhanh thì kỳ luân chuyển vốn càng được rút ngắn và chứng tỏ vốn lưu động càng được sử dụng có hiệu quả.
- Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển: được biểu hiện bằng 2 chỉ tiêu là mức tiết kiệm tuyệt đối và mức tiết kiệm tương đối. +Mức tiết kiệm tuyệt đối: Với mức luân chuyển vốn không đổi song do tăng tốc độ luân chuyển nếu doanh nghiệp cần số vốn ít hơn.
Vtktđ = ( x K1) - VLĐ0 = VLĐ1 - VLĐ0
Vtktd: Vốn lưu động tiết kiệm tuyệt đối.
VLĐ1, VLĐ0: là vốn lưu động bình quân kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch
M0, M1: Tổng mức luân chuyển kỳ báo cáo và kỳ kế hoạch.
K1, K0: Kỳ luân chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch, và kỳ báo cáo.
+ Mức tiết kiệm tương đối: là do tăng tốc độ luân chuyển vốn nên doanh nghiệp có thể tăng thêm tổng mức luân chuyển vốn song không cần tăng thêm hoặc tăng không đáng kể về quy mô vốn lưu động.
VTKtgđ = (K1 - K0)
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Phản ánh một đồng vốn lưu động có thể làm ra bao nhiêu đồng DT hoặc DTr
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động =
- Hàm lượng vốn lưu động (mức đảm nhiệm vốn lưu động). Là số vốn lưu động cần có để đạt được 1 đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ.
Hàm lượng vốn lưu động =
- Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động(mức doanh lợi vốn lưu động): Phản ánh một đồng vốn lưu động trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế thu nhập doanh nghiệp.
Doanh lợi vốn lưu động = x 100
2.4- Phương hướng chủ yếu để tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
2.4.1- Nguyên tắc quản lý vốn:
Hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc rất nhiều vào công tác quản lý vốn. Thực hiện tốt công tác quản lý vốn các doanh nghiệp phải triệt để tuân theo các nguyên tắc sau.
- Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý TC - TD và ngoại hối của nhà nước.
- Kết hợp chặt chẽ sự vận động của tiền tệ và hàng hoá trong lưu thông.
- Thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất; thưởng, phạt nghiêm minh đối với công tác quản lý vốn.
2.4.2- Phương hướng - biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vận dụng và phát huy tối đa tiềm năng sẵn có của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một số tiềm năng phán ánh thực lực của doanh nghiệp trên thị trường. Đánh giá đúng tiềm năng của doanh nghiệp, cho phép xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh, tận dụng tối đa thời cơ, giảm chi phí để mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn.
- Luôn vận động để thích ứng tốt với môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường vĩ mô - đó là những nhân tố không thể kiểm soát được. Do vậy, doanh nghiệp phải tự điều chỉnh và đáp ứng các nhân tố đó. Môi trường vĩ mô bao hàm các nhân tố chính trị, pháp luật, kinh tế, kỹ thuật công nghệ, các nhân tố văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên, cơ sở hạ tầng... Có như vậy doanh nghiệp mới tránh được rủi ro, bảo toàn và phát triển vốn.
- Lựa chọn phương án đúng đắn, tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có thể áp dụng một số phương pháp sau:
Một là, đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác. Trong nền kinh tế thị trường giá cả thường xuyên biến động, hiện tượng hao mòn vô hình xảy ra rất đa dạng và nhanh chóng làm cho nguyên giá tài sản cố định và giá trị còn lại của nó bị phản ánh sai lệch. Việc đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định là cơ sở cho việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao hợp lý nhằm thu hồi vốn nhanh, bảo toàn được vốn và tránh được việc gây ra biến động lớn về giá thành và giá bán sản phẩm.
Hai là, lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp. Yêu cầu đặt ra là tuỳ từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà sử dụng phương pháp tính khấu hao như thế nào để vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh, bảo toàn vốn lại vừa đỡ gây ra biến động lớn trong giá thành và D sản phẩm.
Ba là, sau mỗi kỳ kế hoạch phải phân tích, đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định, vốn cố định qua các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng. Từ đó có thể cân nhắc, đưa ra những quyết định đầu tư, điều chỉnh quy mô, cơ cấu sản xuất cho phù hợp, khai thác được những tiềm năng sẵn có và khắc phục được những tồn tại trong quản lý.
Bốn là, tiến hành duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định nhằm đảm bảo, duy trì khả năng hoạt động bình thường cho tài sản cố định...
Năm là, xác định một kết cấu hợp lý cho tài sản cố định sẽ giúp cho doanh nghiệp khai thác có hiệu quả tài sản cố định của doanh nghiệp.
Sáu là, lập phương án sử dụng, thanh lý tài sản cố định một cách hợp lý, tăng nhanh khối lượng hàng hoá sản xuất và hàng hoá kinh doanh, xác định hiệu quả của vốn ngay từ khâu đầu tư...
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động cùng một lúc được phân phối trên các giai đoạn luân chuyển và được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau. Do vậy, nhiệm vụ quản lý vốn lưu động chính là kiểm tra thường xuyên, xác định nhu cầu và tình hình tổ chức các nguồn vốn, phương thức cấp phát vốn, các khoản nợ, các khoản phải thu... nhằm đảm bảo đủ vốn cho mọi khâu của quá trình tái sản xuất, không dư thừa, không ứ đọng cũng như không thiếu hụt. Đây chính là yêu cầu, phương hướng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này doanh nghiệp cần phải có biện pháp quản lý cụ thể.
Một là, tính toán chính xác nhu cầu vốn lưu động ở từng khâu luân chuyển nhằm tiết kiệm được vốn lưu động đồng thời không để có tình trạng thiếu hụt vốn cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, tăng tốc độ luân chuyển hàng hoá cho phép mà không cần tăng thêm vốn lưu động sẽ làm cho nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Doanh nghiệp cần áp dụng những quy trình công nghệ mới, rút ngắn thời gian gián đoạn, phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, quy định những mức chi tiêu cụ thể, hợp lý để tránh thất thoát lãng phí vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. Lập kế hoạch mua sắm cung ứng vật tư hợp lý, phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường. Kế hoạch cung ứng phải hoàn chỉnh cả về số lượng, chất lượng, chủng loại... giảm thiểu lượng dự trữ vượt mức. Trong hoạt động tiêu thụ phải theo dõi chặt chẽ khâu thanh toán với khách hàng, có chính sách TD-TM hợp lý. Ngoài ra phải thường xuyên kiểm tra, theo dõi, đôn đốc các khoản nợ quá hạn để có biện pháp thu hồi vốn kịp thời, tránh bị chiếm dụng vốn...
Trên đây là những phương hướng và biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình thông suốt, do đó doanh nghiệp phải sử dụng các biện pháp một cách đồng bộ, tổng hợp thì mới có tác dụng nâng cao được hiệu quả tổ chức về sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp.
Chương 2.
Thực trạng về vốn và tình hình quản lý sử dụng vốn ở công ty đầu tư thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi
Công ty ĐT-TM và DV Thắng Lợi (Tên giao dịch: Victoria Invesment Trade and Service Company - VIC). Địa chỉ: 62 đường Giảng Võ - Quận Đống Đa - Hà Nội) được thành lập theo quyết định 778/QĐUB của UBND thành phố Hà Nội ngày 8/4/1995.
Công ty ĐTTM và Dịch vụ Thắng Lợi là một doanh nghiệp thương mại quốc doanh trực thuộc Hội đồng Trung ương liên minh các HTX VN. Công ty tiến hành hạch toán độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng tại ngân hàng, có quyền hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với ngân sách nhà nước, với cấp trên và với người lao động trong công ty.
Công ty chính thức đi vào hoạt động theo giấy phép kinh doanh số 200752 do UB kế hoạch thành phố Hà Nội cấp ngày 15/4/1995.
Chức năng chính của công ty là kinh doanh thương mại và dịch vụ tổng hợp, với tổng số vốn ban đầu là 3.600.000.000 (đ) Việt Nam.
Trong đó: Vốn cố định: 2.000.000.000 (đ)
Vốn lưu động: 1.600.000.000 (đ).
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của công ty là 128 người (trong đó: trong biên chế là 46 người và 82 người làm hợp đồng). Dưới sự điều hành của giám đốc, các phó giám đốc qua hệ thống 4 phòng ban.
- Phòng tổ chức hành chính - Phòng kế toán - tài chính
- Phòng kinh tế thị trường
- Phòng đầu tư và du lịch.
Mặc dù mới được thành lập còn gặp nhiều khó khăn như tiền vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cạnh tranh của các công ty trong cùng ngành nhưng công ty vẫn tồn tại và phát triển mạnh, dần dần khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Điều đó cho thấy công ty đã không ngừng vươn lên trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường. Qua đó, ta thấy được công lao to lớn của ban lãnh đạo và các cán bộ công nhân trong công ty.
Công ty đã không ngừng đổi mới cả về chất và lượng, điều này được thể hiện qua một số mặt như: Cải tiến bộ máy quản lý, điều hành, xây dựng cơ cấu tổ chức cho công nhân viên một cách hợp lý cho từng thời kỳ chiến lược, không ngừng đổi mới trang thiết bị, máy móc, công nghệ... và đặc biệt là trong việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong công ty. Chính vì vậy đã làm lên một công ty lớn mạnh như ngày hôm nay giống như các tên mà công ty đã lựa chọn đó là Thắng Lợi.
1- Khái quát diễn biến và sử dụng vốn ở công ty Thắng Lợi.
Vốn là yếu tố không thể tách rời của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vậy nhiệm vụ của các doanh nghiệp là phải tổ chức, huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tài chính, tín dụng và chấp hành luật pháp về việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình biến động vốn và nguồn vốn sẽ giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy được thực trạng cũng như các nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Khi phân tích tình hình biến động, phân bố vốn và nguồn vốn cần phải xem xét đánh giá các biến động về tài sản để trên cơ sở đó đánh giá khả năng chú động vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ số liệu trên bảng cân đối kế toán qua các năm 1999-2000 của công ty Thắng Lợi, ta lập bảng phân tích biến động tài sản.
Bảng 1. Tình hình biến động tài sản của công ty Thắng Lợi
(Đơn vị tính: Đồng)
Chỉ tiêu
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
A. TSLĐ và ĐTNH
3.954.542.599
61,23
3.917.320.727
50,74
4.230.156.874
53,29
1. Vốn bằng tiền
1.454.455.191
22,52
723.021.065
9,37
142.586.472
1,80
2. Đầu tư TC ngắn hạn
-
-
-
-
3. Các khoản phải thu
1.821.050.712
28,20
1.949.573.303
25,25
2.347.568.000
29,57
4. Hàng tồn kho
318.207.581
4,93
967.954.100
12,54
1.248.164.596
15,72
5. TSLĐ khác
360.829.115
5,58
276.772.259
3,58
491.837.806
1,20
B. TSCĐ và ĐTDH
2.503.465.475
38,77
3.813.520.096
49,26
3.707.819.444
46,71
1. TSCĐ
2.503.465.475
38,77
3.803.520.096
44,26
3.707.819.444.46,71
+ Nguyên giá
2.610.162.600
40,42
3.975.422.343.
53,11
4.100.693.600
51,66
+ Giá trị hao mòn LK*
(106.697.125)
1,65
(171.902.247)
3,85
(392.874.318)
4,95
6.458.008.074
100
7.720.840.823
100
7.937.976.318
100
Qua bảng trên ta thấy tổng số tài sản của công ty năm 2000 tăng so với năm 99 là (7.937.976.318 - 7.720.840.823) = 217.135.495 (đ), năm 99 tăng so với năm 98 là (7.720.840.823 - 6.458.008.074) = 1.262.832.749 (đ) và số tương đối tăng lên lần lượt là: x 100%) = 2,81% và ( x 100%) = 19,55%.
Điều đó chứng tỏ tài sản của công ty vẫn liên tục tăng lên qua các năm, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1998 đến năm 1999.
- Tài sản cố định của công ty năm 99 so với năm 98 tăng lên là (3.803.520.096 - 2.503.465.475) = 1.300.054.621 (đ) với số tương đối tăng lên là ( x 100%) = 51,93% chứng tỏ cơ sở vật chất, kỹ thuật của công ty được tăng cường, quy mô, năng lực kinh doanh được mở rộng, thể hiện xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của công ty đang có chiều hướng tốt. Mặc dù vậy sang năm 2000 tổng giá trị tài sản cố định lại giảm so với năm 99 là (3.707.819.444 - 3.803.520.096) = 95.700.652 (đ) với số tương đối giảm là ( x 100%) = -2,52%. Tuy nhiên việc giảm tỷ trọng vốn cố định mà giá trị tổng tài sản vẫn tăng thì không có nghĩa là hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của công ty bị giảm sút. Trong trường hợp này, an toàn của công ty tăng lên vì khi tổng tài sản tăng lên mà giá trị tài sản cố định lại giảm xuống, tức là tổng giá trị tài sản lưu động tăng lên, chứng tỏ phần lớn tài sản lưu động được nguồn vốn thường xuyên tài trợ.
- Vốn bằng tiền của công ty năm 99 giảm so với năm 98 là: (723.021.065 - 1.454.455.191) = 31.434.126 (đ). Năm 2000 giảm so với năm 99 là: (142.586.472 - 723.021.056) - - 850.434.584 (đ). Điều nà làm giảm khả năng thanh toán hiện thời của công ty. Tuy nhiên, tiền mặt trong quỹ bản thân nó không sinh lời, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt trong quỹ của công ty là quan trọng.
Các khoản phải thu năm 2000 so với năm 99 tăng là 397.994.696 (đ) (s. 347.568.000 - 1.949.573.303) với số tương đối tăng là ( x 100%) = 20,41%, năm 1999 so với năm 98 là (1.949.573.303 - 1.821.050.712) = + 128.522.591 (đ) với số tương đối tăng là ( x 100%) = 7,06%. Điều này phản ánh công ty đang gặp khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ phải thu.
- Hàng tồn kho của công ty năm 99 tăng so với năm 98 là 149.746.519 = (967.954.100 - 818.207.581) và năm 2000 tăng so với năm 99 (280.210.496 = (1.248.164.596 - 967.954.100) tương ứng với số tương đối lần lượt là ( x 100%) = 18,3% và ( x 100%) = 28,95%.
Việc gia tăng các khoản nợ phải thu và hàng tồn kho nếu không giải quyết tốt có thể làm ứ đọng vốn, đồng nghĩa với việc sử dụng vốn kém hiệu quả, tuy vậy cùng với việc tăng tổng tài sản thì đây có thể là một dấu hiệu của sự tăng trưởng. Trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là vấn đề không thể tránh khỏi, nó có thể tác động đến việc tăng doanh thu cho công ty. Còn việc tồn kho quá lớn sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn tốn kém, nhiều chi phí nhưng nếu dự trữ ít có thể sẽ làm cho việc hoạt động kinh doanh của công ty bị gián đoạn.
Ngoài việc xem xét tình hình phân bổ vốn doanh nghiệp cần phải phân tích tình hình biến động nguồn vốn và tỷ trọng của từng loại chiếm trong tổng vốn cũng như xu hướng biến động của chúng. Nếu nguồn vốn CSH chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nguồn vốn thì doanh nghiệp có đủ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và tính độc lập của doanh nghiệp đối với chủ nợ là cao. Ngược lại, nếu công nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng số nguồn vốn thì khả năng đảm bảo về mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp.
Tình hình biến động nguồn vốn của công ty Thắng Lợi được tóm tắt qua bảng 2.
Bảng 2. Tình hình biến động nguồn vốn ở công ty Thắng Lợi
(Đơn vị tính: đồng)
Chỉ tiêu
Năm 1998
1999
2000
A. Nợ phải trả
2.472.803.060
2.748.926.229
2.846.622.140
I. Nợ ngắn hạn
2.472.803.060
2.748.926.229
2.846.622.140
1. Phải trả cho người bán
1.974.115.500
2.301.319.774
2.173.295.061
2. Thuế và các khoản phải nộp nhà nước
46.390.328
68.451.773
77.360.769
3. Các khoản phải trả, phải nộp khác
452.297.232
379. 154.628
409.534.15 6
4. Phải trả đơn vị nội bộ
-
-
186.432.154
B. Nguồn vốn CSH
3.985.205.014
4.971.914.594
5.091.354.178
I. Nguồn vốn quỹ
3.985.205.014
4.971.914.594
5.091.354.178
1. Nguồn vốn kinh doanh
3.958.659.335
4.964.017.759
5.066.016.142
2. Lãi chưa phân phối
26.545.679
7.896.835
25.388.036
Tổng cộng nguồn vốn
6.458.008.074
7.720.840.823
7.937.976.318
Qua số liệu tại bảng 2 cho thấy, nguồn vốn CSH của công ty Thắng Lợi là nguồn vốn cơ bản nhất và thường xuyên có tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của công ty (luôn vượt trội 50%). Năm 98 tăng so với năm 97 là (4.971.914.594 - 3.985.205.0140 = 986.709.580 (đ) với số tương đối là ( x 100%) = + 24,76%. Năm 2000 tăng so với năm 99 là (5.091.354.178 - 4.971.914.594) = 119.439.584 (đối tượng với số tương đối tăng là (x 100%) = 2,40%. Trong đó nguồn vốn kinh doanh năm 2000 tăng vượt năm 99 và năm 99 tăng vượt so với năm 98 với các số tuyệt đối (5.066.016.142 - 4.965.017.759) = 101.998.383; (4.964.017.759 - 3.958.659.335) = 1.005.355.424; Qua đó ta thấy trong năm 98 công ty có thể tự đảm bảo tài sản bằng vốn của mình là ( x 100%) = 61,71%. Nhưng đến năm 99 khả năng tự tài trợ này tăng lên con số ( x 100%) = 64,4% và đến năm 2000 là ( x 100%) = 64,14%.
Điều này cho thấy khả năng tự tài trợ của công ty ngày càng cao, phản ánh tình hình tài chính lành mạnh và khả quan.
Các khoản nợ phải trả, xét về giá trị tuyệt đối năm 2000 tăng so với năm 99 là (2.846.622.140 - 2.748.926.229) = 97.695.911 và năm 99 tăng so với năm 98 là (2.748.926.229 - 2.472.803.060) = 276.123.169. Ta thấy các khoản nợ này tăng giữa các năm song đã có xu hướng giảm xuống. Xét về giá trị tương đối từ ( x 100%) = 11,17% năm 99 đã giảm xuống ( x 100%) = 3,55%. Điều này chứng tỏ công ty đã rất cố gắng trong việc chấp hành tốt và nghiêm chỉnh kỷ luật tín dụng, thanh toán, giữ uy tín trên thị trường.
2- Tình hình đảm bảo vốn và nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của công ty Thắng Lợi
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có tài sản gồm: tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Để hình thành 2 loại tài sản này phải có các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Chênh lệch giữa tài sản lưu động với nguồn vốn ngắn hạn hay chênh lệch giữa tài sản cố định với nguồn vốn dài hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên.
Tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào vốn lưu động thường xuyên. Vốn lưu động thường xuyên cho biết 2 điều chính đó là:
+ Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không?
+ Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn hay không?
Bảng 3. Vốn lưu động thường xuyên tại công ty Thắng Lợi
Chỉ tiêu
Năm 98
Năm 99
Năm 2000
1. Tài sản cố định
2.503.465.475
3.803.520.096
3.707.819.444
2. Vốn CSH
3.985.205.014
4.971.914.594
5.091.354.178
3. Nợ dài hạn
-
-
-
4. Vốn lưu động thường xuyên
1.481.739.539
1.168.394.498
1.383.534.734
5. Tài sản lưu động
3.954.542.599
3.917.320.727
4.230.156.874
6. Nợ ngắn hạn
2.472.803.060
2.748.926.229
2.846.622.140
Trên cơ sở dữ liệu trên bảng cân đối kế toán có thể xác định được vốn lưu động thường xuyên của công ty Thắng Lợi trong 3 năm 98, 99, 2000 lần lượt là: 1.481.739.539 (đ); 1.168.394.498 (đ): 1.303.534.734 (đ). Các chỉ số này đều dương. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn dài hạn dư thừa cho việc đầu tư vào tài sản cố định, phần thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời tài sản lưu động lớn hơn nợ ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của công ty là rất tốt.
- Nghiên cứu tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp ngoài việc xem xét nguồn vốn lưu động thường xuyên, người ta còn xem xét nhu cầu vốn lưu động thường xuyên để phân tích.
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần tài sản lưu động đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (tức là tài sản lưu động không phải dưới hình thái tiền tệ).
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
Bảng 4. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
của Công ty Thắng Lợi
Đơn vị tính: (đồng)
Chỉ tiêu
Năm 98
Năm 99
Năm 2000
1. Khoản phải thu
1.821.050.712
1.949.573.303
2.347.568.000
2. Hàng tồn kho
318.207.581
967.954.100
1.248.164.596
3. Nợ ngắn hạn
2.472.803.060
2.748.926.229
2.846.622.140
4. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
-1.873.544.767
+168.601.174
+749.1 10.456
Trong năm 98 nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty là: -1.873.544.767 tức là nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho việc sử dụng ngắn hạn của công ty vì vậy công ty không cần nhận thêm nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ nữa. Sang năm 99 và năm 2000 nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của công ty lần lượt là + 168.601.174 và + 749.110.456. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên dương tức là tồn kho và các khoản phải thu vượt trội nợ ngắn hạn. Do vậy công ty phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Để tránh tình trạng nà trong thời gian tới công ty cần nhanh chóng có biện pháp giải phóng hàng tồn kho và giả các khoản phải thu.
3- Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của công ty Thắng Lợi
3.1- Hiệu quả sử dụng vốn cố định ở công ty Thắng Lợi
Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phán ánh năng lực sản xuất hiện có, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật của dân tộc. Tài sản cố định, đặc biệt là MMTB sản xuất là điều kiện quan trọng và cần thiết để tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, giảm chi phí ... Bởi vậy việc phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định là hết sức quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
3.1.1- Cơ cấu tài sản cố định
Phân tích cơ cấu tài sản cố định là xem xét đánh giá tính hợp lý về sự biến động tỷ trọng của từng loại, từng bộ phận tài sản cố định để xây dựng theo một cơ cấu hợp lý nhằm phát huy hiệu quả sử dụng của chúng.
Bảng 5. Cơ cấu tài sản cố định ở công ty Thắng Lợi
Chỉ tiêu
Năm 98
Năm 99
Năm 2000
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
I. Tài sản cố định phục vụ mục đích kinh doanh
2.462.137.979
98,35
3.75 4.997.722
98,72
3.656.164.733
98,61
1. Tài sản cố định vô hình
-
-
-
2. Tài sản cố định hữu hình
2.462.137.979
98,35
3.75 4.997.722
98,72
3.656.164.733
98,61
+ Nhà cửa, vật kiến trúc
1.832.566.211
73,20
2.985.455.222
78,49
2.935.327.156
79,16
+ Máy móc thiết bị
11.473.379
0,46
14.599.354
0,38
13.741.233
0,37
+ Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn
607.314.213
24,26
735.271.080
19,33
687.363.474
18,54
+ Thiết bị, dụng cụ quản lý
5.329.455
0,21
7.923.841
0,21
7.642.534
0,2 1
+ Các loại tài sản cố định khác
5.454.721
0,22
11.758.225
0,31
12.090.316
0,33
II. Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng
41.327.496
1,65
48.522.374
1,28
51.654.711
1,39
2.503.465.475
100
3.803.520.096
100
3.707.819.444
100
Tổng tài sản cố định của công ty Thắng Lợi liên tục tăng lên từ năm 98 đến năm 2000. Trong đó chiếm đa số là nhà cửa, vật kiến trúc và phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn. Với hoạt động chủ yếu là kinh doanh hàng hoá, đại lý hàng hoá và du lịch thì cơ cấu tài sản cố định như vậy là hợp lý.
3.1.2. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định
Nhân tố cơ bản làm thay đổi hiện trạng của tài sản cố định là hao mòn. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định bị hao mòn dần và đến một lúc nào đó sẽ không còn sử dụng được nữa. Mặt khác quá trình hao mòn diễn ra đồng thời với quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy trong mỗi kỳ sản xuất kinh doanh người ta tính chuyển nhượng một lượng giá trị tương đương với phần hao mòn vào giá thành sản phẩm. Khi sản phẩm được tiêu thụ số tiền này được trích lập thành 1 quỹ nhằm để tái sản xuất mở rộng tài sản cố định, công việc đó là khấu hao tài sản cố định. ở công ty Thắng Lợi áp dụng phương pháp tính khấu hao bình quân theo thời gian, cơ sở để xác định độ hao mòn của tài sản cố định là việc tính hệ số hao mòn. Hệ số này càng gần tới 1 thì tài sản cố định càng cũ, còn hệ số này càng nhỏ hơn 1 thì chứng tỏ tài sản cố định của doanh nghiệp đã được đổi mới.
Bảng 6. Hao mòn và khấu hao tài sản cố định ở công ty Thắng Lợi
1998
1999
2000
Nguyên giá tài sản cố định
2.610.162.600
3.975.422.343
4.100.693.600
Tổng mức khấu hao tài sản cố định
106.967.125
171.902.247
392.874.156
Hệ số hao mòn tài sản cố định
0,04088
0,04324
0,09581
Qua số liệu trên ta thấy năm 98 tổng mức khấu hao tài sản cố định là 106.967.125 (đ) và hệ số hao mòn là 0,04088. Hệ số này rất thấp chứng tỏ tài sản cố định của công ty còn rất tốt. Sang năm 99 do yêu cầu của việc mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh, công ty đã huy động vốn để đầu tư mua sắm thêm tài sản cố định. Nâng tổng giá trị tài sản cố định tính theo nguyên giá lên con số: 3.975.422.343 (đ) vượt trội so với năm 98 là 1.365.259.734 (đ). Tuy vậy hệ số hao mòn của năm 99 so với năm 98 tăng không đáng kể (0,04324 - 0,04088) = 0,00236.
Sang năm 2000 công ty vẫn tiếp tục mua sắm, đổi mới tài sản cố định, nâng tổng tài sản cố định tính theo nguyên giá lên 4.100.639.600 (đ) và hệ số hao mòn là 0,09581.
Các số liệu trên cho thấy hiện trạng tài sản cố định của công ty Thắng Lợi là rất tốt và công ty luôn quan tâm chú trọng đến hoạt động đầu tư đổi mới, thay thế trang thiết bị nhà xưởng... nhằm phục vụ một cách tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.1.3. Hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Giá trị các loại tài sản cố định của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường chiếm khoảng 50-75% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định là mục đích của việc trang bị tài sản cố định trong các doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định chính là kết quả của việc cải tiến tổ chức lao động và t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- X0122.doc