Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Phạm Đình Dương
Vốn huy động tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh quảng nam
Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số : 60 31 01
Luận văn thạc sĩ kinh tế
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bạch Đình Ninh
Hà Nội - 2006
Mục lục
Mở đầu
Chương 1: Vốn huy động và vai trò của nó trong việc phát triển kinh tế - xã hội
1.1. Vốn huy động, các hình thức thu hút vốn huy động
1.2. C
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - Xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác yếu tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động
1.3. Vai trò của vốn huy động trong việc phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2 : Thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên phước, tỉnh Quảng nam trong những năm vừa qua
2.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
2.2. Quá trình hình thành, phát triển của chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tiên Phước
2.3. Thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhỏnh Ngõn hàng Nụng nghiệp và Phỏt triển Nụng thụn huyện Tiờn Phước
Chương 3: Mục tiêu, phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên phước, tỉnh Quảng nam
3.1. Mục tiêu, phương hướng
3.2. Quan điểm và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đến năm 2010
kết luận
danh mục tài liệu tham khảo
Trang
1
5
5
17
21
25
25
28
33
62
62
66
93
95
Danh mục các chữ viết tắT
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
HĐBT Hội đồng Bộ trưởng
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTW Ngân hàng trung ương
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNo Ngân hàng nông nghiệp
NHNo&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
TCTD Tổ chức tín dụng
XHCN Xã hội chủ nghĩa
Danh mục các bảng biểu
Số hiệu Tên bảng
2.1 So sánh tình hình sử dụng vốn với nguồn vốn huy động
2.2 Kết quả hoạt động tín dụng qua các năm
2.3 Kết quả công tác thanh toán
2.4 Kết quả thu chi tiền mặt
2.5 Kết quả tài chính
2.6 Nguồn vốn huy động qua các năm
2.7 Cơ cấu nguồn tiền gửi không kỳ hạn
2.8 Cơ cấu tiền gửi có kỳ hạn theo thời gian
2.9 Cơ cấu nguồn tiền gửi trong dân cư
2.10 Cơ cấu vốn huy động theo thành phần kinh tế
2.11 Một số chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp huyện Tiên phước từ năm 2001 đến 2005
2.12 Số lượng đàn gia súc qua các năm
2.13 Giá trị sản xuất công nghiệp
2.14 Số hộ, tỷ lệ hộ đói nghèo tù 2001 - 2005
Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện Tiên phước đến năm 2010
3.2 Chiến lược tăng trưởng nguồn vốn huy động đến năm 2010
3.3 Chiến lựơc tăng trưởng dư nợ đến năm 2010
Trang
35
36
37
37
38
44
45
46
47
48
50
53
54
56
63
67
80
Danh mục các biểu đồ
Số hiệu Tên biểu đồ
2.1 Nguồn vốn huy động qua các năm
2.2 Dư nợ qua các năm
2.3 Doanh số cho vay và thu nợ
Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt
Doanh số thu chi tiền mặt
Thu nhập, chi phí
Trang
35
36
38
39
39
40
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta sau những năm đổi mới đã đạt được nhiều kết quả rất to lớn. Đất nước đã vượt qua những khó khăn, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã tạo ra những điều kiện, tiền đề quan trọng ban đầu đưa nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đó là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu: “... Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [9, tr. 76].
Để đạt được mục tiêu đó, đòi hỏi cần phải có vốn. Vốn là một trong những yếu tố quyết định của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, với chức năng trung tâm tài chính, các Ngân hàng thương mại đã thực hiện tốt phương châm “ Đi vay để cho vay”, nổ lực thu hút nhiều nguồn vốn nhàn rỗi để cung ứng vốn cho các dự án đầu tư, cho vay các doanh nghiệp, hộ gia đình, góp phần kích thích sản xuất, lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trước xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới và nhu cầu tăng trưởng kinh tế của đất nước đã đặt các Ngân hàng thương mại cần phải nổ lực, cải tiến hơn nữa để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được đặt ra.
Thực tiễn công tác huy động và quản lý, sử dụng nguồn vốn trong hệ thống Ngân hàng đang là vấn đề bức xúc trên nhiều mặt đòi hỏi cần phải được củng cố, từng bước có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu nhằm huy động, quản lý, sử dụng nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả.
Tiên Phước là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, có nhiều tiềm năng, nhiều thế mạnh cho phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại và dịch vụ, đặc biệt là điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng rất phù hợp cho việc phát triển kinh tế vườn, trang trại, chăn nuôi, phát triển ngành nghề... do đó nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế - xó hội của huyện là rất lớn.
Vì vậy việc chọn đề tài “Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam” có ý nghĩa hết sức cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế được nhiều nhà kinh tế trên thế giới quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận bàn trong nhiều tác phẩm.
ở nước ta vấn đề nguồn vốn nói chung, thu hút vốn huy động và quản lý, sử dụng vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong hệ thống ngân hàng nói riêng được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Một số công trình nghiên cứu của các tác giả đã được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng... như:
- Năm 1997, Ngân hàng nhà nước Việt Nam xuất bản “Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, với nhiều tác giả đề cập đến các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút mọi nguồn vốn vào ngân hàng để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Hà Thị Sáu: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn trong dân”, Tạp chí Ngân hàng tháng 7/2002, đã đưa ra một số vấn đề để tăng cường công tác huy động vốn trong khu vực dân cư.
- Đề án huy động vốn trong dân cư (Ngày 08/6/2004) của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam về thực trạng, mục tiêu và giải pháp huy động vốn trong dân cư giai đoạn 2004 - 2010.
- Nguyễn Văn Lâm: “Vốn và đầu tư vốn của các tổ chức tín dụng phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”, Tạp chí Ngân hàng tháng 2/2006.
- Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Đức Thuấn về Huy động vốn để phát triển kinh tế ở Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp, Hà Nội, 1998. Mục tiêu của luận án là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc huy động vốn để đề xuất một số giải pháp huy động các nguồn vốn tiền tệ cho phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật ở Đà Nẵng, để Đà Nẵng thực sự là thành phố trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.
Những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài tuy phong phú, đa dạng nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống và trùng lắp với đề tài: “Vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam”
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, là người trực tiếp tham gia công tác trong Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, bản thân tôi lựa chọn đề tài này để đi sâu nghiên cứu, góp phần làm rỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong công tác thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trờn cơ sở nghiờn cứu thực trạng thu hỳt vốn huy động tại Chi nhỏnh Ngõn hàng nụng nghiệp và phỏt triển nụng thụn huyện Tiờn Phước, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rỏ khái niệm về vốn huy động và vai trò của nó đối với việc phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu vốn huy động tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Số liệu được tính từ năm 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các quan điểm của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam, của huyện Tiên Phước về vốn và huy động vốn nói chung, huy động vốn để phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, coi trọng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, hệ thống, kết hợp với phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn và kinh nghiệm về vấn đề huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn để phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
6. Những đóng góp của luận văn
Góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về vốn huy động và vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình hiện nay.
Phân tích thực trạng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Vốn huy động và vai trò của nó
trong việc phát triển kinh tế - xã hội
1.1. Vốn huy động, các hình thức thu hút vốn huy động
Như chúng ta đã biết, muốn tiến hành quá trình sản xuất thì phải có vốn, vốn là điều kiện quyết định để tạo ra của cải vật chất và tiến bộ xã hội. Vốn có vai trò to lớn đối với phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế, vốn là một trong những điều kiện có ý nghĩa quyết định đế thực hiện CNH, HĐH đất nước. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, chất lượng hàng hoá sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố tài nguyên và lao động. Vốn trở thành nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.1 Khái niệm về vốn
Vốn là phạm trù kinh tế, đã được các nhà kinh tế học đề cập từ lâu với nhiều quan niệm thể hiện trong các học thuyết kinh tế khác nhau. .
Theo quan niệm của kinh tế học Mác xít, trong bộ “Tư bản” Các Mác đã nghiên cứu và khái quát phạm trù vốn thông qua nghiên cứu phạm trù tư bản. Nguồn gốc chủ yếu của tư bản (vốn) là lao động. Để tái sản xuất mở rộng đòi hỏi phải tích luỹ vốn. Các Mác đã chỉ ra rằng: Thực chất của tư bản tích luỹ là việc chuyển hoá một phần ngày càng lớn giá trị thặng dư thành tư bản và sử dụng phần đó vào quá trình tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình vận động, bất kỳ tư bản nào cũng vận động trải qua ba giai đoạn: mua - sản xuất - bán hàng hoá, tương ứng với mỗi giai đoạn, tư bản mang một hình thái: Tư bản tiền tệ - tư bản sản xuất - tư bản hàng hoá. Ba hình thái tư bản này sắp xếp kề nhau trong không gian và vận động liên tục trong thời gian. Bộ phận thứ nhất tồn tại dưới dạng tiền và luôn sẳn sàng đi vào lưu thông để mua các yếu tố của sản xuất, bộ phận thứ hai gồm sức lao động và tư liệu sản xuất theo quan hệ tỷ lệ thích hợp sẳn sàng đi vào quá trình sản xuất, bộ phận thứ ba là những hàng hoá sẳn sàng đem ra thị trường bán để thu tiền về và tiếp tục chu trình mới.
Từ những luận điểm Các Mác về tuần hoàn của tư bản, có thể rút ra kết luận: Vốn là những đại lượng giá trị tồn tại dưới ba hình thái kế tiếp nhau: tiền, các yếu tố của quá trình sản xuất, hàng hoá. Sự vận động của vốn là sự chuyển hoá của các hình thái từ hình thái này sang hình thái kế tiếp.
Ngày nay, do yêu cầu cao của sự phát triển, vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng của hầu hết các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. Vì vậy, phạm trù vốn trong phát triển kinh tế vẫn được các nhà kinh tế học tiếp tục nghiên cứu và tiếp cận nó trên nhiều bình diện khác nhau.
Như vậy, vốn là những đại lượng giá trị, là kết tinh lao động xã hội. Tiền giấy do Nhà nước phát hành là những ký hiệu của giá trị. Nó chỉ trở thành một hình thức của vốn khi được bảo đảm bằng giá trị tài sản thật. Tiền được phát hành đưa vào lưu thông trên thị trường, chúng ta không thể phân biệt đâu là tiền được bảo đảm bằng tài sản thật, đâu là tiền không được bảo đảm bằng tài sản thật, điều đó đã tạo ra cơ hội cho lạm phát, làm cho sức mua đồng tiền giảm sút.
Quá trình phát triển lưu thông hàng hoá làm xuất hiện nhiều hình thức tiền tệ. Có thể nói tiền tệ là toàn bộ các phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán (tiền mặt, séc, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán) và phương tiện cất trữ. Khái niệm tiền tệ theo nghĩa hẹp chỉ là tiền mặt, và theo nghĩa rộng là bao gồm toàn bộ các phương tiện nói trên thực hiện một số chức năng của tiền tệ, trong đó kể cả chứng khoán. Tiền chỉ trở thành vốn khi thoả mản hai điều kiện:
Thứ nhất, tiền phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản thực.
Thứ hai, tiền phải vận động trong môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.
Tiền đem ra tiêu dùng hằng ngày hay đưa vào cất trữ thì không phải là vốn. Việc đưa tiền vào cất trữ chẳng những làm mất lợi nhuận do nó đem lại, mà còn không tạo ra sự phát triển của nền kinh tế. Vốn đưa vào hoạt động, dù lĩnh vực kinh doanh nào thì điểm xuất phát vốn đều tồn tại dưới hình thức tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức vận động của tiền với tư cách là vốn do phương thức đầu tư cụ thể quyết định. Trên thực tế, sự vận động của vốn có ba hình thức:
a) T - H...SX...H’ - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp sản xuất. Thực chất, đó cũng chính là mô hình tái sản xuất xã hội nói chung.
b) T - H - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp thương mại - dịch vụ.
c) T - T’: Đây là hình thức vận động của vốn trong các tổ chức tài chính trung gian.
Trong đó:
T: Lượng tiền ứng ra để đầu tư phát triển.
H: Hàng hoá với tư cách là tư liệu sản xuất, sức lao động, hàng hoá dự trữ...
SX: Quá trình sản xuât - kinh doanh.
H’: Hàng hoá thu được sau quá trình sản xuất - kinh doanh.
T’: Lượng tiền thu được khi kết thúc chu kỳ kinh doanh [T’>T và T’= T+Dt] ( Dt là lượng giá trị tăng thêm).
Hình thức bề ngoài sự vận động của vốn ở các lĩnh vực kinh doanh tuy có khác nhau, song sự vận động của vốn các tổ chức tài chính trung gian, của các doanh nghiệp thương mại - dịch vụ chỉ là những hình thái đặc thù được tách ra từ sự vận động của vốn các doanh nghiệp sản xuất. Sự vận động của vốn trong các hình thức kinh doanh trên đây có điểm giống nhau là qua vận động, vốn trở về điểm xuất phát và “lớn lên” sau một chu kỳ vận động. Vì vậy, từng doanh nghiệp, từng ngành, từng địa phương và chung cho cả nền kinh tế phải tìm mọi giải pháp làm cho vốn luôn hoạt động.
Xét về mặt cụ thể, vốn được biểu hiện rất phong phú, đa dạng và còn được bao gồm tài sản hữu hình, tài sản vô hình.
Tài sản hữu hình là những tài sản tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, tài sản hữu hình bao gồm hai bộ phận:
Một là, những tài sản hữu hình phục vụ trực tiếp sản xuất, như: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, công cụ, nguyên - nhiên vật liệu, bán thành phẩm... Về thực chất, những tài sản hữu hình này chính là sự cụ thể hoá năng lực sản xuất của một đơn vị kinh tế cơ sở hay xét trên phạm vi rộng lớn: toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tới hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Hai là, những tài sản hữu hình phục vụ gián tiếp cho sản xuất, như: trụ sở văn phòng, trang bị nội thất văn phòng, phương tiện đi lại, nhà ở...Mặc dù những tài sản hữu hình này là cần thiết cho hoạt động sản xuất - kinh doanh nhưng chỉ tác động gián tiếp đến việc gia tăng sản lượng đầu ra, đóng vai trò gián tiếp đối với hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Việc phân biệt rõ hai loại tài sản hữu hình như trên cho ta phương pháp luận đúng đắn khi huy động, sử dụng chúng đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội.
Tài sản vô hình là những tài sản không tồn tại dưới dạng cụ thể của vật chất, bao gồm những sản phẩm trí tuệ, như: bằng phát minh, sáng chế, bản quyền; thương hiệu sản phẩm, uy tín kinh doanh, vị trí kinh doanh; chi phí đào tạo nguồn nhân lực (kỷ năng lao động, tri thức quản lý).v..v. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, giá trị tài sản vô hình càng trở nên quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư. Bởi lẽ, khi đã huy động được những tài sản vô hình vào phát triển kinh tế, sử dụng chúng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận, thậm chí là siêu lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn Nhật Bản là một điển hình thành công khi tạo bước đột phá trong khai thác giá trị tài sản vô hình để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Người Nhật Bản không ngần ngại trả giá cao cho những phát minh, sáng chế mới của các nhà khoa học trên khắp các châu lục, đồng thời đem những tài sản - trí tuệ đó ứng dụng vào sản xuất - kinh doanh, nhờ đó nền kinh tế Nhật Bản cất cánh thật ngoạn mục. Nếu như sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế Nhật bị kiệt quệ, lạm phát phi mã, thất nghiệp gia tăng...thì chỉ trong vòng hai mươi năm, Nhật Bản đã trở thành một siêu cường kinh tế thế giới, chỉ đứng sau Mỹ và liên minh châu Âu (EU), thành công đó có sự đống góp không nhỏ của việc khai thác tốt yếu tố vô hình - sản phẩm trí tuệ của loài người vào phát triển kinh tế.
Như vậy, về mặt nhận thức, có thể thấy rằng, vốn tồn tại dưới nhiều hình thái cụ thể, nhưng hình thái giá trị - tiền tệ với tư cách vốn là loại vốn linh hoạt, biến hoá nhất trong nền kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi để vốn bộc lộ khả năng sinh lời của chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích cuối cùng của việc đầu tư kinh doanh đồng vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động với quy mô ngày càng được mở rộng ở chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Sự vận động của vốn trên thị trường tuân thủ quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Song, với khả năng nhận thức, con người có thể nắm bắt, vận dụng quy luật khách quan, tạo ra những kênh huy động vốn một cách có hiệu quả, đáp ứng mục đích sản xuất - kinh doanh của mình.
Vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả, cung ứng vốn đầy đủ và kịp thời cho nền kinh tế là một trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, trong mỗi quyết định đầu tư cụ thể lại đòi hỏi không chỉ lượng vốn đủ lớn mà còn yêu cầu một hay nhiều loại vốn khác nhau. Thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu phân chia và xác định rõ từng loại vốn để có giải pháp huy động, sử dụng và quản lý vốn có hiệu quả.
Tuỳ theo cách tiếp cận và đặc điểm vận động của vốn trong quá trình đầu tư sản xuất - kinh doanh, mà có các tiêu thức phân loại vốn khác nhau.
- Căn cứ vào biên giới lãnh thổ quốc gia, vốn chia thành hai loại, đó là: vốn trong nước và vốn ngoài nước.
- Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn, có vốn cố định và vốn lưu động.
- Căn cứ vào quan hệ sở hữu trong quá trình sử dụng vốn, người ta phân chia vốn hoạt động thành hai loại: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn vay (huy động từ bên ngoài).
+ Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc quyền quản lý, sử dụng của một hoặc nhiều chủ thể sở hữu. Chẳng hạn, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước được hình thành trên cơ sở ngân sách nhà nước cấp và vốn tự bổ sung; vốn chủ sở hữu của công ty cổ phần được hình thành thông qua huy động vốn góp của cổ đông; vốn chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn được hình thành thông qua vốn góp của các thành viên...
+ Vốn vay là vốn huy động được từ bên ngoài để bổ sung, làm tăng lượng vốn của chủ thể kinh doanh, đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quá trình sản xuất. Vốn vay có thể huy động từ vay trong nước và vay ngoài nước. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vay vốn ngoài nước để phát triển kinh tế không phải là công việc quá khó đối với các nước đang phát triển. Song, vấn đề quan trọng là quản lý và sử dụng vốn vay ngoài nước đảm bảo có hiệu quả vẫn còn là vấn đề nan giải đối với các nước nghèo và kém phát triển.
- Căn cứ vào thời gian tham gia của vốn vào quá trình hoạt động gồm có vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn.
Ngoài ra, còn có một số cách thức phân loại khác như: vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp; vốn với mục đích sinh lời trực tiếp và vốn để đảm nhiệm các dịch vụ công cộng; vốn thực (tư bản thật), vốn ảo (tư bản giả)...
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi cách tiếp cận khác nhau cho ta những quan niệm khác nhau về vốn, song, nhận thức về vốn, xét về bản chất là thống nhất. Việc phân chia vốn thành nhiều loại khác nhau nhằm mục đích hiểu rõ bản chất của phạm trù vốn - vốn là hình thái giá trị, là thứ hàng hoá đặc biệt, có mối liên hệ mật thiết với thời gian. Cùng với việc hiểu rõ bản chất của vốn còn nhận thức được tính đa dạng, nhiều vẻ và rất phức tạp của vốn trong nền kinh tế thị trường. Đó là những căn cứ khoa học giúp các chủ thể kinh doanh nắm bắt kịp thời và chủ động trong kế hoạch huy động, quản lý, sử dụng các loại vốn, đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Các hình thức thu hút vốn huy động
1.1.2.1. Khái niệm về vốn huy động
Nguồn vốn của NHTM bao gồm vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, các nguồn vốn khác.
- Vốn tự có: Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt, vì vậy quan niệm vốn tự có của ngân hàng cũng có điểm khác với các tổ chức kinh doanh khác. Có thể hiểu vốn tự có của ngân hàng theo hai cách tiếp cận sau:
Về khía cạnh kinh tế, vốn của ngân hàng là vốn do các chủ sở hữu đóng góp và vốn được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận được giữ lại. Theo pháp luật Việt Nam, vốn ngân hàng trong trường hợp này được gọi là vốn chủ sở hữu hay còn gọi là vốn điều lệ và các quỹ dự trữ.
Về khía cạnh quản trị, vốn tự có của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn thặng dư và các tài sản nợ khác có thể coi như vốn tự có. Luật các Tổ chức tớn dụng quy định: “Vốn tự có gồm giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng” [19, tr.6].
Vốn điều lệ: là vốn riêng do các chủ sở hữu đóng góp được ghi trong điều lệ ngân hàng, vốn điều lệ tối thiểu phải bằng vốn pháp định (vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định).
Đối với các NHTMQD, vốn điều lệ là vốn đã được ngân sách cấp dưới hình thức bằng tiền và trái phiếu chính phủ; đối với các NHTM cổ phần, vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp; đối với các tổ chức tín dụng hợp tác là vốn do các xã viên đóng góp...
Vốn khác: gồm lợi nhuận giữ lại, chênh lệch do đánh giá lại tài sản( chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, chênh lệch giá vàng, kim khí quý, đá quý); Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, trái phiếu hùn vốn.
Nguồn vốn tự có ở các NHTM ổn định nhưng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, chủ yếu được dùng để xây dựng trụ sở văn phòng, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh và bù đắp rủi ro nhưng không vượt 50% vốn tự có, mức độ tăng trưởng vốn tự có thể hiện thế và lực của NHTM trên thị trường. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc bảo đảm các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy, quy mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và quy mô tài sản có.
- Vốn huy động là những phương tiện tiền tệ do NHTM huy động được bằng nghiệp vụ nhận tiền gửi và cỏc nghiệp vụ khỏc của ngõn hàng để làm vốn kinh doanh. Cỏc khoản tiền gửi tạm thời nhàn rỗi này khụng thuộc quyền sở hữu của NHTM, nhưng NHTM được quyền sử dụng chỳng. Đây là nguồn vốn lớn nhất, chủ yếu nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thường chiểm khoảng trên 80% trong tổng cơ cấu hoạt động của ngân hàng. NHTM dùng nguồn vốn nầy để cấp tín dụng hay đầu tư vào các nghiệp vụ sinh lợi trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vỡ vậy, khi sử dụng NHTM luụn phải dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toỏn, chi trả. Vốn huy động của NHTM bao gồm cỏc loại tiền gửi và cỏc nguồn vốn huy động khỏc.
Trong nghiệp vụ huy động vốn, các NHTM cung cấp nhiều sản phẩm tiền gửi khác nhau, chẳng hạn như: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng...Mỗi loại sản phẩm lại có những đặc điểm riêng phù hợp với những nhu cầu đa dạng của khách hàng. Hiện nay, các NHTM đang áp dụng các loại huy động tiền gửi là: tiền gửi thanh toán, tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá. Luật pháp cũng quy định rừ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng trong việc nhận tiền gửi. Theo luật các TCTD Việt Nam: “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức tiền gửi khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và được hoàn trả cho người gửi tiền” [19, tr.6].
Việc duy trì và mở rộng tiền gửi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh và gia tăng lợi nhuận của ngân hàng. Vì lý do đó, các ngân hàng đã tập trung mọi nỗ lực trong việc khai thác thường xuyên mọi nguồn vốn trong xã hội nhằm gia tăng nguồn vốn huy động của mình.
- Vốn vay các ngân hàng : Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các NHTM có thể thiếu vốn trong thanh toán hoặc thiếu vốn đáp ứng các nhu cầu tín dụng của nền kinh tế thì có thể đi vay của NHTW hoặc các NHTM và các TCTD khác.
Các nguồn vốn khác: Ngoài các nguồn vốn chủ yếu trên, NHTM còn có thể có những khoản vốn khác như vốn trong thanh toán, vốn phát sinh từ nghiệp vụ đại lý, nghiệp vụ uỷ nhiệm..., NHTM có thể sử dụng tạm thời các khoản vốn này vào hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.2.2. Các hình thức huy động vốn
* Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi không kỳ hạn của các cá nhân, doanh nghiệp và các tổ chức khác gửi tiền vào tài khoản của mình tại ngân hàng để sử dụng bất kỳ lúc nào để chi trả cho các nghiệp vụ trong tương lai hoặc các nghiệp vụ phát sinh trước đó.
Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản chi trả phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, thông qua đó được hưởng các dịch vụ tiện ích mà ngân hàng có thể cung cấp cho họ, khách hàng không có ý định để dành và không chú trọng đến tiền lãi. Tuy nhiên, ngân hàng có thể không trả lãi hoặc trả lãi (tính theo phương pháp tích số) cho khách hàng hằng tháng với lãi suất theo quy định, đồng thời phải đáp ứng kịp thời, chính xác khi khách hàng có yêu cầu chi trả bất cứ lúc nào.
Ngân hàng theo dõi tiền gửi thanh toán trên hai tài khoản; tài khoản tiền gửi thông thường và tài khoản vãng lai.
Tài khoản tiền gửi thanh toán có những đặc điểm sau:
+ Tiền gửi thanh toán là nguồn vốn có chi phí rẻ nhất của ngân hàng. Chi phí cho việc huy động nguồn tiền gửi này ngoài lãi suất còn có chi phí quản lý tài khoản, chi phí in ấn xử lý séc, nhưng do ngân hàng không phải trả lãi hay chỉ phải trả với mức lãi suất thấp nên có chi phí thấp hơn nhiều so với tiền gửi các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm. Ngoài ra, ngân hàng còn thu thêm được khoản phí dịch vụ khi khách hàng thực hiện thanh toán chi trả qua ngân hàng. Do đó, ngân hàng nào có số dư tiền gửi thanh toán lớn thì sẽ có thu nhập cao hơn ngân hàng có số dư tiền gửi thanh toán ít.
+ Bản chất của loại tiền gửi thanh toán không có tính ổn định cao, tuy nhiên, nếu xét trong một thời gian nào đó, các nhu cầu rút tiền của khách hàng thường diễn ra không đồng thời, nên tại thời điểm đó số dư tổng tiền gửi thanh toán vẫn đủ lớn, tạo nên nguồn vốn ổn định cho ngân hàng. Mặt khác, nếu người thụ hưởng cũng có tài khoản tại ngân hàng thì tiền vẫn không ra ngoài hệ thống ngân hàng, khả năng sử dụng vốn của ngân hàng sẽ cao hơn.
+ Do khả năng chuyển đổi của loại tiền gửi thanh toán sang tiền mặt rất nhanh, vì vậy các NHTM phải chấp hành một tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của ngân hàng trung ương theo từng thời kỳ nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng.
* Tiền gửi các tổ chức kinh tế (hay tiền gửi của pháp nhân)
Tiền gửi các tổ chức kinh tế là loại tiền gửi được ký thác vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng với ngân hàng. Đối tượng chủ yếu gửi vào tài khoản này là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội có thu nhập tạm thời chưa sử dụng trong một thời gian nhất định có thể gửi vào ngân hàng dưới hình thức ký thác có kỳ hạn
Đối với loại tiền gửi này được ngân hàng trả lãi theo mức lãi suất do ngân hàng ấn định cố định trong suốt thời gian gửi. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế có nhiều kỳ hạn khác nhau; tiền gửi có kỳ hạn càng dài, lãi suất sẽ càng cao; ngân hàng có thể dùng tiền gửi tương đối ổn định này để cho vay và có lợi tức cao hơn các loại tiết kiệm và phát hành trái phiếu do chi phí huy động vốn loại tiền gửi này tương đối thấp. Vì vậy, các ngân hàng rất chú trọng đến việc nâng cao tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn trong cơ cấu nguồn vốn huy động của mình.
Về nguyên tắc, khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra khi đến hạn như đã thoả thuận trước. Trên thực tế, do nhu cầu vốn cho thị trường ngày càng cao và do cạnh tranh để thu hút khách hàng, các ngân hàng vẫn chấp thuận cho khách hàng rut tiền trước thời hạn, đồng thời khách hàng phải chấp nhận hưởng một mức lãi suất thấp hơn so với mức lãi suất thoả thuận ban đầu (thường được trả bằng mức lãi suất tiền gửi thanh toán).
- Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết ki._.ệm là khoản tiền để dành của dân cư được gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong tương lai, người gửi được hưởng lãi từ khoản tiền đó và đáp ứng nhu cầu an toàn về tài sản.
Tiền gửi tiết kiệm gồm những loại sau:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: giống với tiền gửi thanh toán, người gửi được quyền gửi vào và rút tiền ra bất kỳ lúc nào, được ngân hàng trả lãi, chỉ khác ở chổ là khách hàng không được sử dụng các phương tiện thanh toán của ngân hàng. Mục đích của loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn nhằm khuyến khích những người có thu nhập ít nhưng tương đối ổn định, muốn tích luỹ dần những khoản tiền nhỏ để đáp ứng nhu cầu tiết kiệm hoặc chi tiêu trong tương lai.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Về cơ bản giống tiền gửi có kỳ hạn, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi và an toàn tài sản. Lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Đây là nguồn vốn ổn định, giúp cho ngân hàng hàng chủ động lập kế hoạch đầu tư cho vay với thời hạn dài mang lại lợi nhuận cao.
- Tiền gửi tiết kiệm khác: Đây là loại tiền gửi ngoài mục đích tích luỹ còn đi kèm với mục đích của người sử dụng và của người gửi. Ví dụ như: Tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm để mua nhà ở, tiết kiệm giáo dục... người gửi tiền, ngoài mục đích hưởng lãi còn được ngân hàng hỗ trợ để thực hiện mục tiêu đã định. Ngoài ra, để thu hút, khuyến khích khách hàng gửi tiền, tạo lợi thế cạnh tranh, các ngân hàng còn đưa ra những sản phẩm khác mới hơn như tiền gửi tiết kiệm bậc thang, khách hàng có thể chọn lựa một kỳ hạn ban đầu dài hạn, nhưng nếu vì lý do cần chi tiêu đột xuất thì ngân hàng có thể chi trả cho người gửi theo các kỳ hạn ngắn hơn với mức lãi suất thoả thuận.
- Phát hành giấy tờ có giá
Để chủ động thực hiện huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư theo kế hoạch trong từng thời kỳ, các NHTM có thể phát hành các loại giấy tờ có giá bán cho công chúng. Giấy tờ có giá là một loại giấy nhận nợ của ngân hàng như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu, được phát hành từng đợt với lãi suất thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm thông thường nên có sức hấp dẫn lớn đối với người gửi tiền. Các ngân hàng có thể ngưng phát hành các loại giấy tờ có giá khi đã huy động đủ số vốn theo nhu cầu của mình. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy nợ thường được thực hiện theo hai phương thức sau:
- Phát hành theo mệnh giá: Người mua giấy nợ trả tiền theo mệnh giá đã được ghi trên giấy nợ. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng vốn gốc (mệnh giá) và phần lãi được hưởng ghi trên giấy nhận nợ.
- Phát hành dưới hình thức chiết khấu: Người mua giấy nợ sẽ trả tiền bằng mệnh giá trừ đi số tiền chiết khấu và khi đến hạn thanh toán ngân hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng theo đúng mệnh giá (hay nói một cách khác ngân hàng trả lãi trước khi khách hàng đến gửi, tức là ngân hàng chỉ thu về số tiền bằng mệnh giá trừ đi tiền lãi phải trả, khi đến hạn thanh toán ngân hàng chỉ phải thanh toán phần gốc theo đúng mệnh giá).
Đối với hình thức chiết khấu, khách hàng được lợi hơn vì lãi suất thực tế mà họ được hưởng cao hơn lãi suất danh nghĩa ghi trên giấy nợ. Vì vậy, hình thức này thu hút được khách hàng hơn, nhưng đối với ngân hàng thì chi phí thực tế phải trả cho việc sử dụng vốn cao hơn. Do đó, các ngân hàng chỉ sử dụng hình thức này trong trường hợp cần huy động vốn trong một thời gian nhất định để phục vụ cho kế hoạch kinh doanh của mình.
1.2. Các yếu tố ảnh hưỏng đến thu hút vốn huy động
Trong nền kinh tế thị trường, các ngân hàng phải đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi và rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung, cũng như hoạt động huy động vốn nói riêng. Khi một ngân hàng gặp rủi ro, điều đó có thể đi đến phá sản, hoặc sẽ bị thiệt hại về thu nhập, mất uy tín với khách hàng . Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản trị ngân hàng là hoạch định được một cơ chế, chiến lược và biện pháp kinh doanh phù hợp nhằm hạn chế mức độ rủi ro, giảm thiểu hậu quả đến mức thấp nhất có thể chấp nhận được.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thường chịu tác động bởi những nhân tố tài chính đặc thù như thanh khoản, lãi suất, rủi ro tín dụng và nhiều yếu tố khác, trong đó yếu tố thanh khoản và lãi suất mang tính quan trọng hơn cả.
1.2.1. Thanh khoản
Vấn đề chủ yếu mà các ngân hàng phải đương đầu trong quá trình hoạt động của mình là xác định nhu cầu thanh khoản và làm thế nào để đáp ứng được nhu cầu đó một cách hiệu quả nhất. Cái khó ở đây là phải xử lý mối quan hệ giữa rũi ro và lợi nhuận, tức là phải đáp ứng nhu cầu thanh toán kịp thời cho người gửi tiền với chi phí thấp nhất. Một ngân hàng có đủ vốn, chất lượng tín dụng tốt nhưng nếu không quan tâm xây dựng chiến lược và phương pháp quản trị thanh khoản tốt hoặc xây dựng thanh khoản không hợp lý, không kiểm soát được khả năng thanh khoản sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản.
Rủi ro thanh khoản phát sinh khi ngân hàng có sự thiếu hụt về ngân quỹ để đáp ứng nhu cầu chi trả cho người gửi tiền, thanh toán các khoản nợ đến hạn mà ngân hàng đã vay hay giải ngân cho các hợp đồng tín dụng đã thoả thuận.
Những nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro thanh khoản, đó là:
- Ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận nên đầu tư vào những tài sản sinh lời quá mức, chưa quan tâm đến công tác quản trị thanh khoản.
- Xuất hiện những biến cố bất thường như khách hàng mất niềm tin vào khả năng chi trả của ngân hàng hay do những tin đồn thất thiệt có dụng ý xấu.
- Do hiệu ứng dây chuyền, một ngân hàng phá sản, khách hàng của ngân hàng khác sẽ đổ xô đến ngân hàng để rút tiền.
- Do ảnh hưởng trực tiếp của các loại rủi ro khác như rủi ro tín dụng, ngoại hối, thị trường...
Trong các loại nguồn vốn huy động thì tiền gửi thanh toán có độ rủi ro lớn nhất, tiền gửi không kỳ hạn có rủi ro cao hơn tiền gửi có kỳ hạn và các loại giấy tờ có giá. Nếu khối lượng các loại tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn càng lớn thì nguy cơ rủi ro là rất cao. Do ngân hàng không biết trước được khách hàng sẽ gửi bao nhiêu cũng như không biết khi nào sẽ chi trả cho khách hàng và chi trả bao nhiêu. Khi khách hàng đến rút tiền gửi không kỳ hạn, ngân hàng không được quyền từ chối, nếu vào thời điểm đó ngân hàng không dự trữ đủ tiền, ngân hàng sẽ gặp rủi ro trong thanh khoản.
Việc ngân hàng mất khả năng thanh khoản, bị phá sản có ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế, đến đời sống xã hội và cả chế độ chính trị của mỗi quốc gia. Vì vậy, trong luật lệ ngân hàng của các nước đều được quy định rất cụ thể, chặt chẽ các yêu cầu về đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. ở Việt Nam, Luật các TCTD quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn và buộc các TCTD phải duy trì, trong đó có tỷ lệ về khả năng chi trả. Luật các TCTD quy định: “Khả năng chi trả được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “Nợ” phải thanh toán tại một thời điểm nhất định của tổ chức tín dụng” [19, tr.22].
1.2.2. Lãi suất
Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng diễn ra vừa đa dạng, vừa phức tạp và quyết liệt; không chỉ giữa các NHTM mà còn có các định chế tài chính khác; không chỉ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ sản phẩm tài chính mà còn trong yếu tố lãi suất (mặc dù lãi suất không phải là yếu tố cạnh tranh). Lãi suất là một trong những yếu tố của chi phí huy động vốn (ngoài các chi phí khác như tuyên truyền, quãng cáo, quản lý...); các ngân hàng đặc biệt quan tâm đến chi phí huy động vốn, bởi vì trong các khoản mục chi phí thì đây là loại chi phí lớn nhất đối với hầu hết các ngân hàng. Tuy nhiên, việc xác định chi phí đối với nguồn vốn huy động sẽ giúp cho nhà quản trị nguồn vốn có cơ sở để định giá các dịch vụ tài chính, bao gồm xác định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay. Nếu chi phí huy động vốn cao thì khả năng sinh lời sẽ giảm nhưng nguồn vốn sẽ ổn định và tăng; ngược lại, nếu chi phí huy động vốn thấp thì khả năng sinh lời tăng nhưng khả năng thu hút và duy trì nguồn vốn ổn định lại thấp. Việc xác định một chính sách huy động vốn hấp dẫn, linh hoạt và hợp lý là hết sức cần thiết, có ý nghĩa quyết định đến quy mô nguồn vốn để đảm bảo khả năng sinh lời tăng, đảm bảo sự tăng trưởng và ổn định của nguồn vốn huy động.
1.2.3. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra khi có sự sai hẹn của người đi vay trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng (bao gồm cả gốc và lãi).
Rủi ro tín dụng không tác động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng mà tác động một cách gián tiếp thông qua việc tác động đến khả năng thanh khoản. Nếu các khoản nợ quá hạn tồn đọng cao, tổn thất tín dụng cao sẽ làm giảm nguồn thanh khoản của ngân hàng và tất nhiên việc đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi có thể không thực hiện được. Ngân hàng huy động vốn là để cho vay, nếu cho vay không hiệu quả, không thu được nợ vay thì ngân hàng sẽ không có tiền để chi trả cho những khoản tiền gửi khi khách hàng đến rút.
Bên cạnh việc mở rộng cho vay nhằm đem lại lợi nhuận thì các ngân hàng cũng có chính sách tín dụng thích hợp, cố gắng phân tán giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay bằng cách: sàng lọc và giám sát khách hàng vay, quy định các mức cho vay, thế chấp và hạn chế tín dụng... Ngoài ra, NHTW còn có quy định cho phép các NHTM được trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp cho các khoản tín dụng tổn thất, mua bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền. Các giải pháp trên đã giúp cho các ngân hàng hạn chế rủi ro tín dụng, góp phần bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền, tao được niềm tin của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng.
Đối với các nhà quản trị ngân hàng, vấn đề khó khăn là lựa chọn nguồn vốn để huy động. Chi phí huy động vốn và rủi ro của nguồn vốn huy động tương quan tỷ lệ nghịch với nhau, nguồn vốn huy động có chi phí cao có thể có rủi ro thấp và ngược lại những nguồn vốn huy động có chi phí thấp lại có thể có rủi ro cao cho ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng cần xem xét tính chất rủi ro của từng loại nguồn vốn để huy động, vừa đáp ứng đủ trong việc đầu tư cho vay và có lợi nhuận, vừa đảm bảo yêu cầu thanh khoản và nhu cầu chi trả kịp thời cho người gửi tiền.
1.2.4. Các yếu tố khác
- Cơ sở vật chất, mạng lưới của ngân hàng: cơ sở vật chất là yếu tố đầu tiên để khách hàng đặt niềm tin vào ngân hàng. Một trụ sở khang trang, bề thế, có trang bị tiện nghi hiện đại tạo cho dân chúng một hình ảnh giàu có của ngân hàng. Các ngân hàng có nhiều chi nhánh được bố trí thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch sẽ tạo điều kiện thu hút khách hàng yên tâm gửi tiền vào ngân hàng ngày càng nhiều hơn.
- Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: phong phú, đa dạng, có nhiều tiện ích đáp ứng nhu cầu của khách hàng sẽ khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều hơn.
- Đội ngũ nhân viên ngân hàng: Đội ngũ nhân viên trực tiếp giao dịch với khách hàng phải trung thực, niềm nở, có trình độ không chỉ trong lĩnh vực ngân hàng mà còn phải có kiến thức tổng hợp, biết các lĩnh vực khác để tư vấn, thuyết phục khách hàng là cần thiết. Song, sự quen biết, thân thích với khách hàng bao giờ cũng rất quan trọng, khách hàng có thể đem tiền của mình đến gửi cho ngân hàng và khách hàng cũng có thể rút vốn khỏi ngân hàng, làm giảm uy tín, hình ảnh của ngân hàng.
- Các chính sách cơ bản của ngân hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Các ngân hàng phải đưa ra được những mục tiêu kinh doanh nhất quán, lâu dài; xây dựng chiến lược, chính sách cơ bản của mình (chính sách con người, chính sách khách hàng, chính sách tín dụng...), vấn đề là các chiến lược, chính sách đó có phù hợp hay không và được thực hiện như thế nào trong quá trình kinh doanh.
Một chính sách cho vay năng động, hiệu quả với nhiều phương thức cho vay, lãi suất đa dạng, thủ tục nhanh gọn tạo thuận lợi cho khách hàng là điều kiện thu hút vốn vào ngân hàng, bởi vì những người gửi tiền sẽ trở thành những người vay tiền của ngân hàng hay ngược lại, khi những ý tưởng và ham muốn kinh doanh của họ hình thành.
Chính sách khách hàng phải luôn được các ngân hàng quan tâm từ việc tiếp cận, thu hút khách hàng ban đầu đến việc duy trì và phát triển lâu dài đối với khách hàng truyền thống của mình. Việc khai thác các khía cạnh tâm lý việc thu hút khách hàng trong quan hệ giao dịch đến trong cuộc sống đời thường của khách hàng có tác dụng rất lớn; do đó các khó khăn, vướng mắc giữa khách hàng và ngân hàng sẽ được giải quyết có tình, có lý, vừa đạt ý muốn của ngân hàng vừa làm vừa lòng khách hàng.
1.3. Vai trò của vốn huy động trong việc phát triển kinh tế - xã hội
1.3.1. Vốn tiền tệ là điểm xuất phát của mọi hoạt động kinh doanh
Khi nghiên cứu về quá trình lưu thông của tư bản, Các Mác đã đưa ra công thức vận động của tư bản công nghiệp
- TLSX
T - H ... SX...H’ - T’
- SLĐ
ở tuần hoàn này, điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’(T’>T). T (vốn tiền tệ) là phương tiện ứng ra trong lưu thông, T’ là mục đích đạt được trong lưu thông của tư bản tiền tệ, còn sản xuất chỉ là khâu trung gian. Như vậy, trong kinh tế hàng hoá vận động của vốn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng đều lấy tiền tệ làm điểm xuất phát của sự biến hoá. Qua đây chúng ta thấy rằng: hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ là phương thức vận động của vốn tiền tệ trong nền sản xuất hàng hoỏ nói chung chứ không phải chỉ riêng trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là, vốn tiền tệ trong nền sản xuất hàng hoỏ vận động theo tuần tự: trước tiên, vốn tiền tệ phải là điểm xuất phát, được ứng ra với tư cách là giá trị trong hình thái tiền dùng để chuyển hoá thành giá trị dưới hình thái các yếu tố của quá trình sản xuất.
Quá trình sản xuất là quá trình tiêu dùng tư liệu sản xuất và sức lao động tạo ra sản phẩm hàng hoá (làm tăng giá trị), cuối cùng bán sản phẩm hàng hoá để thu về một lượng tiền lớn hơn lượng tiền ứng ra ban đầu. Nhưng nếu xét theo một khía cạnh khác thì lưu thông hàng hoá ( bao gồm tư liệu sản xuất, sức lao động và hàng hoá thành phẩm) quyết định lưu thông vốn tiền tệ. Ngược lại, lưu thông của vốn tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến lưu thông hàng hoá, nghĩa là lưu thông tiền tệ có thể làm cho lưu thông hàng hoá trôi chảy, do đó cũng làm cho vòng tuần hoàn vốn nhanh hơn, nhưng nó cũng có thể làm cho lưu thông hàng hoá bị ách tắc bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trong quá trình sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất, sức lao động là hai nhân tố quyết định trực tiếp đến việc chế tạo ra sản phẩm hàng hoá, trong đó việc bảo tồn giá trị của tư liệu sản xuất và tạo giá trị mới lớn hơn là do lao động sống quyết định. Trên thực tế, dù kinh doanh ở bất kỳ ngành nào thuộc lĩnh vực nào, các nhà đầu tư hoặc phải ứng trước một lượng vốn tiền tệ do tích luỹ được, hoặc phải huy động vốn tiền tệ từ các nguồn khác nhau trong xã hội, trên cơ sở đó mới tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Vốn huy động có tính quyết định đến phát triển kinh tế - xã hội
Vốn là một trong những yếu tố có tầm quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế quốc dân, là điều kiện quan trọng nhất góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM huy động được dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Ngân hàng là một lĩnh vực không thể tách rời với tổng thể chung của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng gắn bó hết sức mật thiết, hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển. Nghiệp vụ huy động vốn giữ vai trò rất quan trọng không chỉ đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn có vai trò to lớn trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Vốn là một trong những tiền đề quan trọng trong tái sản xuất mở rộng, là điều kiện tiên quyết để tiến hành sản xuất trong từng doanh nghiệp cũng như trong toàn nền sản xuất xã hội. Sự tích tụ, tập trung một lượng tiền tương ứng với quy mô đầu tư sản xuất hàng hoá là điều kiện để tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Sản xuất phát triển đạt hiệu quả cao, đến lượt nó, lại là cơ sở vững chắc cho quá trình tích luỹ vốn dồi dào. Trong các kênh tập trung và đầu tư vốn cho nền kinh tế, NHTM là kênh chu chuyển vốn hiệu quả nhất, ít tốn kém nhất. Thông qua NHTM, những đồng vốn riêng lẻ, nhàn rỗi trong xã hội sẽ được tập trung thành nguồn vốn lớn, đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất , lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế - xã hội cụ thể như:
- Cho vay các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình để phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn đã làm nảy sinh nhu cầu vốn. Có thể nói nguồn vốn ngân hàng có sức lan toả rộng vào mọi tầng lớp dân cư, đã đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn và hình thành nên thị trường vốn trong nền kinh tế thị trường. Nguồn vốn của ngân hàng cho các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình vay đã tác động tích cực đến việc khai thác các thế mạnh, tiềm năng của đất nước, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân góp phần xoá được đói, giảm được nghèo, đồng thời vươn lên làm giàu, tạo động lực nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Cho vay phục vụ đời sống, tiêu dùng, cho vay đi lao động nước ngoài
Nguồn vốn của ngân hàng còn tạo điều kiện giúp cho các cá nhân và hộ gia đình vay vốn để giải quyết các nhu cầu về đời sống, học hành, tiêu dùng như mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia đình, sửa chửa nhà ở...nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, đồng thời còn giải quyết cho vay đi lao động nước ngoài góp phần giải quyết công ăn, việc làm và tăng nguồn thu nhập từ nước ngoài chuyển về.
Với đường lối đổi mới và chính sách mở cửa của Đảng, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trong cả nước, nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, đòi hỏi các ngân hàng phải có nguồn vốn lớn tương xứng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường, góp phần phục vụ quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội một cách ổn định và vững chắc.
Chương 2
thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên phước, tỉnh Quảng Nam trong những năm vừa qua
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Tiên Phước là một huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm cách trung tâm tỉnh lỵ thành phố Tam Kỳ 25km về phía Tây, phía Bắc giáp với huyện Thăng Bình và Quế Sơn, phía Nam giáp huyện Bắc Trà My, phía Đông giáp huyện Phú Ninh, phía Tây giáp huyện Hiệp Đức.
Huyện Tiên phước có 14 xã và 01 thị trấn, trong đó có 14 xã miền núi. Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện: 45.322ha, trong đó đất nông nghiệp 7.760ha, đất lâm nghiệp 20.694ha, đất phi nông nghiệp 4.611ha, đất chưa sử dụng 12.239ha.
Địa hình toàn huyện mang nét đặc trưng của địa hình đồi núi, phức tạp và có độ chia cắt lớn, bao gồm 03 dạng địa hình cơ bản sau:
- Địa hình đồi núi: chiếm 55% diện tích tự nhiên của huyện, phân bổ chủ yếu ở phía Tây, Tây Nam và phía Bắc của huyện, nằm ở khu vực tiếp giáp với huyện Hiệp Đức và huyện Bắc Trà My trên địa bàn các xã Tiên Lãnh, Tiên Ngọc, Tiên Hiệp, Tiên Cảnh.
- Địa hình gò đồi: dạng địa hình này chiếm khoảng 25% diện tích tự nhiên, địa hình phổ biến là những dãy đồi thấp, bát úp hoặc lượn sóng, có độ cao trung bình từ 100 - 200m, tập trung ở các khu vực tiếp giáp với địa hình đồi núi. Phần lớn diện tích các khu vực gò đồi đã được sử dụng trồng các loại cây lâu năm như quế, tiêu và các loại cây ăn quả khác.
- Địa hình bậc thang thấp trũng: chiếm khoảng 20% diện tích tự nhiên, bao gồm các khu vực địa hình bậc thang nhỏ hẹp và phân tán, càng về phía trung tâm huyện và phía đông, địa hình bậc thang thấp có xu hướng mở rộng và tập trung hơn, độ dốc cũng giảm dần, phần lớn diện tích này đã dược sử dụng trồng hoa màu và lúa nước.
Về khí hậu, thời tiết: ngoài ảnh hưởng chung của khí hậu nhiệt đới, gió mùa, huyện Tiên Phước còn có những nét đặc trưng riêng, đó là: một năm chia làm hai mùa khá rõ rệt, mùa khô bắt đầu từ tháng 3, kết thúc vào tháng 8, nhiệt độ cao nhất vào các tháng 5, 6, 7. Tháng 7 thường có gió Tây - Nam khô nóng. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9, kết thúc vào tháng 11, mưa lớn thường xảy ra vào tháng 10, 11. Từ tháng 12 đến tháng 2 là thời kỳ chuyển tiếp giữa mùa mưa và mùa khô, hai tháng này thường có gió bấc rét lạnh, rồi chuyển sang khô hanh vào cuối tháng 2. Nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 26,5 độ, lượng mưa khoảng 3.070mm, độ ẩm không khí trung bình từ 82 - 85%.
Về hệ thống thuỷ văn: trên địa bàn có 04 sông chính là sông Tranh, sông Khang, sông Tiên, sông Trạm và một số sông suối nhỏ khác.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Toàn huyện có 15.961 hộ, 74.779 người, trong đó dân số khu vực nông thôn là 67.401 người, chiếm 90,13%, dân số khu vực đô thị là 7.378 người, chiếm 9,87%. Số lao động trong độ tuổi là 36.534 người, trong đó có khả năng lao động là 29.063 người, không có khả năng lao động là 7.471 người. Mật độ dân số trung bình 164 người/km2, tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị với mật độ 887 người/km2.
Kết quả trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng của huyện là 8%, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp là 132.373 triệu đồng, tăng 4,8%, trồng rừng hằng năm 700ha, cải tạo vườn tạp 200ha, giá trị ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 11.375 triệu đồng, tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng 15%.
Với cơ cấu kinh tế của huyện là nông - lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ. Trong những năm gần đây, trên địa bàn huyện kinh tế vườn, kinh tế trang trại được phát triển rộng khắp, người dân đã chú trọng việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đã tiến hành đầu tư những cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả cao như: trồng cỏ kết hợp chăn nuôi bò, nuôi cá nước ngọt, trồng cây lấy gỗ và các loại cây có giá trị như tiêu, quế, bòn bon... và các dự án đầu tư trên lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo công ăn việc làm và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân trong huyện.
Với những đặc điểm về tự nhiên - kinh tế - xã hội nêu trên đã tạo nên những thuận lợi và khó khăn đến quá trình hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, đặc biệt là việc thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyệnTiên Phước, tỉnh Quảng Nam:
* Những thuận lợi:
Nhìn chung, vị trí địa lý của huyện tương đối thuận lợi do nằm ở vùng tiếp giáp với thành phố tỉnh lỵ Tam Kỳ, là đầu mối giao lưu kinh tế, hàng hoá quan trọng giữa vùng đồng bằng và miền núi phía Tây, có hệ thống giao thông thuận lợi. Điều kiện khí hậu, đất đai phù hợp với nhiều loại cây trồng và vật nuôi, đặc biệt là phát triển các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như quế, tiêu, bòn bon, các loại cây ăn quả, sản xuất lâm nghiệp và phát triển trang trại.
Có lực lượng lao động dồi dào, chịu khó. Các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh bằng cơ chế, chính sách thích hợp. Đời sống của các tầng lớp dân cư trong huyện ngày càng được cải thiện, số hộ đói nghèo ngày càng giảm, số hộ sản xuất kinh doanh giỏi ngày càng tăng.
Từ đó có điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội một cách vững chắc, đảm bảo thực hiện tốt sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn, tạo động lực thúc đẩy công tác huy động vốn của ngân hàng.
* Những hạn chế ảnh hưởng công tác huy động vốn
Địa hình chia cắt phức tạp gây khó khăn trong việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và bố trí sản xuất. Địa hình đồi núi, độ dốc lớn, mức độ chia cắt mạnh gây nên những hiện tượng xói lỡ, bào mòn nghiêm trọng. Đồng ruộng nhỏ hẹp, manh mún, đất đai nghèo dinh dưỡng khó khăn cho sản xuất cơ giới hoá trong nông nghiệp cũng như phát triển hệ thống thuỷ lợi.
Do địa hình của huyện miền núi, kết cấu hạ tầng còn yếu kém, tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy cao, song điểm xuất phát quá thấp, quy hoạch phát triển vùng kinh tế trọng điểm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, năng suất chưa cao, việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật chưa đồng đều. Tiềm năng về đất đai, lao động, nghề truyền thống, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chưa được đầu tư khai thác có hiệu quả. Vai trò của công nghiệp tác động, thúc đẩy nông nghiệp phát triển còn hạn chế, còn bị động trong việc tiêu thụ nông sản phẩm.
Những khó khăn trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở rộng quy mô hoạt động, khả năng thu hút vốn huy động để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.
2.2. Quá trình hình thành, phát triển của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên phước, tỉnh Quảng Nam
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, là đơn vị trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam, là NHTMQD chủ lực trên địa bàn, trong thời gian qua hoạt động của Chi nhánh đã có nhiều đóng góp đáng kể cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Có thể nhận xét sự trưởng thành và phát triển của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam được thể hiện tóm tắt qua các giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ 1975 đến 1987: Nhiệm vụ chủ yếu của chi nhánh là thu chi tiền mặt, thực hiện công tác thanh toán, huy động tiền gửi để cho vay, chủ yếu là cho vay đối với các đơn vị kinh tế quốc doanh, tập thể và tập trung ưu tiên cho vay thu mua nông sản thực phẩm, hàng xuất khẩu, trong giai đoạn này chức năng kinh doanh của ngân hàng chưa chú trọng đúng mức mà chỉ quan tâm đến chức năng quản lý, đặc biệt là quản lý tiền mặt.
- Thời kỳ từ 1988 đến 1990: Đây có thể nói là giai đoạn đầu phát triển của ngân hàng nông nghiệp huyện Tiên Phước, kể từ khi có Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của HĐBT (nay là Chính Phủ), chính thức chuyển hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh, hạch toán kinh tế độc lập, trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp. Trong giai đoạn này hệ thống ngân hàng đã từ bỏ cơ chế bao cấp sang tập dượt kinh doanh đã tạo điều kiện từng bước phục hồi nền kinh tế.
Tuy nhiên do hậu quả nặng nề của thời kỳ bao cấp, sự non kém của ngân hàng chuyên doanh đã làm cho hệ thống ngân hàng bị suy yếu và mất uy tín nghiêm trọng. Chính sách tiền tệ mới chưa được định hướng rõ ràng và những công cụ thực hiện chính sách đó hầu như chưa có. Môi trường pháp lý chung cho hoạt động của ngân hàng chưa đảm bảo. Các phương thức, sản phẩm tín dụng và nghiệp vụ kinh doanh của các ngân hàng chưa được đổi mới, đa dạng và triển khai thực hiện có hiệu quả. Các công cụ giám sát, thanh tra, kiểm soát hoạt động của ngân hàng hết sức yếu kém, không đảm bảo an toàn cho người gửi tiền và kể cả an toàn cho hệ thống ngân hàng.
Giai đoạn này biên chế của Chi nhánh có đến 51 cán bộ - công nhân viên, nhưng đến năm 1990 giảm xuống còn có 38 cán bộ - công nhân viên. Nguồn vốn huy động đến cuối năm 1990 chỉ có 317 triệu, dư nợ cho vay 487 triệu đồng, trong đó đó nợ quá hạn chiếm đến 78%, rủi ro tín dụng rất lớn, nhiều món vay mất khả năng thu hồi, phần lớn các khoản vay là của các đơn vị kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể.tín dụng tư nhân cá thể chiếm tỷ trọng rất ít.
- Giai đoạn từ tháng 11 năm 1990 đến tháng 10 năm 1996:
Tháng 5 năm 1990, HĐNN đã công bố hai pháp lệnh: Pháp lệnh về NHNN và Pháp lệnh về Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính, có hiệu lực từ tháng 10 năm 1990.
Ngày 14 tháng 11 năm 1990, NHNo Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 400/CT của Chủ tịch HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ), trên cơ sở đó NHNo huyện Tiên Phước cũng được hình thành, bên cạnh đó đó sự ra đời của kho bạc nhà nước huyện đã làm cho chức năng kinh doanh, vai trò tín dụng của ngân hàng được thể hiện rõ nét hơn trước. Đặc biệt, trong giai đoạn này có hai sự kiện đã củng cố, tạo đà phát triển cho hoạt động của NHNo huyện Tiên Phước và làm tăng thêm uy tín cho Chi nhánh, đó là:
+ Chỉ thị 202/CT ngày 28 tháng 6 năm 1991 Chủ Tịch HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc cho vay trực tiếp kinh tế hộ, làm cơ sở để NHNo Việt Nam ban hành văn bản số 499 A-TDNT ngày 02 tháng 9 năm 1993 quy định biện pháp cho vay hộ sản xuất.
+ Năm 1994, NHNo huyện Tiên Phước đã tiến hành thực hiện nghiệp vụ cho vay xoá đói giảm nghèo, tạo tiền đề cho Ngân hàng phục vụ người nghèo (nay là Ngân hàng chính sách xã hội) hình thành và đi vào hoạt động để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách thiếu vốn sản xuất.
Giai đoạn này kinh tế huyện Tiên Phước đã bắt đầu có chuyển biến tích cực theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, phá bỏ dần thế thuần nông, độc canh bằng việc xây dựng và đưa vào thực hiện sâu rộng đề án “Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi”, từ đó đời sống của nhân dân trong huyện từng bước được cải thiện.
Việc ra đời chính sách cho vay hộ sản xuất, phát triển nông - lâm - ngư - diêm nghiệp và kinh tế nông thôn đã thực sự là chiếc cầu nối giữa NHNo với nông dân, NHNo đã giúp nông dân và nông dân đã giúp NHNo.
- Giai đoạn từ năm 1997 đến nay;
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ mới của NHNo&PTNT trước yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, ngày 15 tháng 10 năm 1996 Thống đốc NHNN Việt Nam đã có quyết định số 280/QĐ-NH5 về việc thành lập NHNo&PTNT Việt Nam trên cơ sở NHNo Việt Nam, cùng thời điểm này, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ) được chia thành hai địa giới hành chính là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam trực thuộc trung ương. Ngày 02 tháng 6 năm 1998, Thống đốc NHNN Việt Nam có quyết định số 198/1998/NHNN-15 về việc thành lập lại các Chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam.
Trong thời gian này, môi trường kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam ngày càng hoàn thiện hơn, số lượng cán bộ viên chức trong đơn vị cũng được tinh gọn, đảm bảo chất lượng và hiệu quả hơn, năm 1997 có 10 cán bộ viên chức, đến nay là 12 cán bộ viên chức, trong đó có 03 cán bộ hợp đồng.
Về mô hình tổ chức bộ máy của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước:
Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiờn Phước
Giỏm đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng
Giao dịch
Phòng
Tín dụng
Phòng
Kế toán ngân quỹ
Phòng
Hành chính nhân sự
Chi nhánh cấp 3
Căn cứ quy chế tổ chức hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam._.a sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia đình... góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho các hộ gia đình và cá nhân trên địa bàn huyện. Bên cạnh đó, trong 34 trường hợp đi lao động nước ngoài từ năm 2004 đến nay, Chi nhánh đã giải quyết cho 25 trường hợp vay số tiền 387 triệu đồng. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn cần tiếp tục mở rộng, đẩy mạnh triển khai thực hiện để góp phần tạo việc làm cho người lao động, thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu, đồng thời còn tăng thêm lượng tiền từ nước ngoài chuyển về cho người nhà để trả nợ vay ngân hàng và gửi tiết kiệm thông qua dịch vụ chi trả tiền Westem Union.
Cùng với với việc mở rộng quy mô tín dụng, Chi nhánh cần tăng cường công tác quản lý và không nâng cao hiệu quả của nguồn vốn vay trên cơ sở thường xuyên coi trọng công tác thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi vay vốn đảm bảo cho việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng đối tượng, trả lãi, gốc đúng kỳ hạn được quy định.
Quan hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương (nhất là cấp xã), các tổ chức, đoàn thể để quản lý vốn tín dụng, lập hồ sơ kinh tế, xác định mô hình đầu tư, bám sát quy hoạch cỏc dự ỏn của địa phương để chủ động đề ra kế hoạch đầu tư, đẩy mạnh công tác xã hội hoá hoạt động tín dụng, kịp thời giải quyết, xử lý dứt điểm những vướng mắc trong hoạt động tín dụng.
Huy động vốn và cho vay có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, huy động vốn tốt ngân hàng sẽ có đủ nguồn lực để đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu vay vốn phát triển kinh tế trên địa bàn, ngược lại việc quản lý, sử dụng vốn đảm bảo có hiệu quả là cơ sở để gia tăng quy mô thu hút vốn huy động vào ngân hàng. Thực tế cho thấy, ngân hàng giải quyết cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế vay vốn để sản xuất - kinh doanh, khi làm ăn có hiệu quả thì ngoài việc thanh toán các khoản nợ gốc, lãi, nếu có điều kiện sẽ tiếp tục gửi vào ngân hàng và thực hện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng.
Như vậy, các hoạt động cho vay, huy động vốn, thanh toán...có sự gắn kết với nhau, một khi khách hàng làm ăn có hiệu quả thì họ sẽ gắn kết với ngân hàng hơn, đồng thời ngân hàng khai thác được nhiều nguồn vốn để hoạt động có hiệu quả hơn.
3.2.2.5.Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng giữ vai trò quyết định đến dự phát triển bền vững của hoạt động ngân hàng. Đây là đội ngũ tiếp xúc trực tiếp, thường xuyên với khách hàng, góp phần tạo nên uy tín và hình ảnh của ngân hàng. Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên càng cao, có trình độ, tâm huyết với nghề sẽ quyết định đến chất lượng và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao, cần đẩy mạnh thực hiện chuẩn hoá cán bộ theo hướng đa năng, có kế hoạch tuyển chọn những người có phẩm chất và năng lực, bố trí hợp lý để họ phát huy hết khả năng, sở trường chuyên môn của họ. Thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao tay nghề, vừa tập trung vào các nghiệp vụ truyền thống, vừa tập trung vào công nghệ ngân hàng hiện đại, nghiệp vụ mới của ngân hàng...
Ngân hàng cần có chính sách động viên tinh thần, khuyến khích vật chất đối với cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện cho họ gắn bó lâu dài và đóng góp hết mình cho những hoạt động của ngành. Có cơ chế chính sách về tiền lương, tiền thưởng, chế độ đãi ngộ xứng đáng với khả năng cống hiến, và những đóng mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh của ngân hàng.
Đối với những nhân viên làm công tác huy động vốn, phong cách phục vụ giữ vai trò rất quan trọng có thể làm ảnh hưởng đến việc khách hàng quyết định bỏ đi hay tiếp tục đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng. Nếu được phục vụ tốt, khách hàng sẽ hài lòng và có thiện cảm với ngân hàng, thậm chí họ còn giới thiệu cho bạn bè, người thân đến với ngân hàng. Ngược lại, nếu để khách hàng mất lòng tin, họ sẽ ngừng giao dịch và chuyển sang ngân hàng khác có phong cách phục vụ tốt hơn, điều đó sẽ làm cho uy tín của ngân hàng bị giảm sút.
Ngoài tiêu chuẩn không thể thiếu là có trình độ chuyên môn cao, trung thực, thật thà, thao tác nhanh chóng, chính xác, nhân viên làm công tác huy động vốn cần phải có khả năng giao tiếp, thái độ hoà nhã, vui vẻ, lịch thiệp với khách hàng, có ngoại hình dễ nhìn, giọng nói rõ ràng, nhiệt tình giúp đỡ cho khách hàng trong các trường hợp cần tư vấn các thông tin hay hướng dẫn cho khách hàng ghi đầy đủ các yếu tố trên chứng từ, giải thích các thắc mắc...giúp cho khách hàng lựa chọn đúng các loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu.
Khách hàng là đối tượng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, khách hàng vừa tham gia trực tiếp vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng, vừa sử dụng và hưởng thụ các sản phẩm dịch vụ. Nhận thức thức rõ vai trò của công tác khách hàng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và coi đó là công cụ quan trọng để tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Đây là mối quan hệ đối tác trong kinh doanh, có lợi cho cả hai bên: ngân hàng thu hút được lượng tiền nhàn rỗi để cho vay đem lại lợi nhuận, mở rộng các hoạt động ngân hàng, người gửi tiền vừa có lợi tức và tài sản được ngân hàng bảo quản an toàn.
Để có được lợi ích bền vững và lâu dài, ngân hàng cần phải chủ động trong việc không ngừng nâng cao uy tín, duy trì và phát triển mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng của mình.
Ngân hàng cần phải tổ chức phân loại khách hàng để lựa chọn thị trường mục tiêu của mình, từ đó xác định được nhu cầu, thị hiếu và cách thức lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Thường xuyên coi trọng và không ngừng đẩy mạnh giáo dục công tác khách hàng trong toàn thể cán bộ, nhân viên ngân hàng, phân công, phân nhiệm cụ thể cho từng cán bộ, nhân viên, nhất là những nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng để huy động vốn. Tăng cường chính sách ưu đãi đối với những khách hàng gửi tiền có quan hệ tốt, thường xuyên và lâu dài với ngân hàng như giảm lệ phí chuyển tiền, quà tặng...Đồng thời, ngân hàng cần phải quan tâm đến việc mở rộng quan hệ với những khách hàng mới bằng cách phân loại và có chính sách ưu đãi riêng, cung ứng nhiều loại sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, có thái độ phục vụ lịch sự, tận tình, chu đáo tạo sự tin cậy lẫn nhau, hoà đồng lợi ích của cả ngân hàng và khách hàng.
Vì vậy, để đem lại hiệu quả cho công tác huy động vốn nói riêng và các mặt hoạt động của ngân hàng nói chung, ngân hàng cần đặc biệt chú trọng hoàn thiện cơ cấu tổ chức, sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ, nhân viên, tăng cường công tác giáo dục truyền thống, thực hiện chiến lược kinh doanh đảm an toàn, hiệu quả, phát triển bền vững gắn với xây dựng và phát triển thương hiệu, thực hiện văn hoá doanh nghiệp, quảng bá các sản phẩm dịch vụ tiên tiến cung ứng trên thị trường đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
Tiếp tục hiện đại hoá công nghệ ngân hàng mà trước hết là hiện đại hoá công nghệ thanh toán. Công nghệ ngân hàng, trong đó công nghệ tin học đối với Ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT nói riêng đang có vai trò đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán, góp phần thúc đẩy tốc độ chu chuyển vốn, vật tư, hàng hoá, dịch vụ, tăng hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Đầu tư cho lĩnh vực thanh toán thường đem lại hiệu quả rất lớn.
Ngân hàng phải cung ứng đủ các phương tiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng, từng bước hiện đại hoá các phương tiện thanh toán khi trình độ công nghệ của ngành ngân hàng cho phép. Không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư, cải tiến nghiệp vụ hạch toán, cải cách thủ tục giấy tờ thật đơn giản, thuận tiện, đa dạng hoá các mặt nghiệp tại chi nhánh và các điểm giao dịch, không nên chỉ đơn thuấn làm nghiệp vụ huy động vốn, phải hết sức tạo điều thuận lợi cho khách hàng khi gửi tiền, vay tiền và thanh toán, kích thích các tầng lớp dân cư tăng cường giao dịch với ngân hàng nhằm khai thác tối đa mọi tiềm năng còn tiềm ẩn trong dân cư để mở rộng công tác cho vay góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Thực tiễn rút ra yêu cầu hiện đại hoá công tác thanh toán là phải trang bị với công nghệ thích hợp theo bước đi phát triển của NHNo&PTNT phải vừa không gây ùn tắc vào giờ cao điểm, vừa tận dụng công suất tiềm tàng vào những thời gian còn lại. Điều đó được xem là vấn đề chủ đạo trong hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nói chung và công tác thanh toán nói riêng, phải đặt ưu tiên hàng đầu là thoả mãn những nhu cầu trước những khách hàng đa dạng, phức tạp, đòi hỏi cao về mức độ chính xác, an toàn và tốc độ xử lý nhanh, tránh mọi rủi ro.
3.2.2.6. Thực hiện chiến lược maketing và mở rộng mạng lưới hoạt động
Maketing ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các nổ lực hoạt động nhằm thoả mản các nhu cầu của khách hàng, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh hoạt động ngân hàng trên thị trường. Nhờ có hoạt động maketing mà các quyết sách đề ra trong kinh doanh có cơ sở khoa học vững chắc hơn, thông tin về thị trường đầy đủ hơn và các nhu cầu của khách hàng được thoả mãn cao hơn. Sự thâm nhập và vận dụng maketing của các ngân hàng hiện nay còn chậm và nhiều hạn chế, chưa nhận thức được tầm quan trọng của maketing trong lĩnh vực ngân hàng.
Chiến lược maketing ngân hàng được xây dựng trên cơ sở phân tích các yếu tố môi trường kinh doanh trên thị trường, tìm hiểu và đánh giá tiềm lực vốn, khả năng vay trả, nhu cầu sở thích, thu nhập của khách hàng...từ đó đưa ra những biện pháp phù hợp với đặc điểm, điều kiện hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ của ngân hàng. maketing còn nghiên cứu, dự báo những thay đổi của môi trường kinh doanh, chính sách tiền tệ trong tương lai, qua đó ngân hàng có thể tìm kiếm các cơ hội trong kinh doanh hay điều chỉnh những hạn chế nhằm giảm thiểu những rủi ro, tiết giảm chi phí đầu vào, tăng lợi nhuận.
Chiến lược maketing ngân hàng bao gồm các mục tiêu trên và năm nội dung sản phẩm, giá cả, phân phối, khuyếch trương - giao tiếp và con người. Năm nội dung trên vừa là chính sách, vừa là công cụ kỹ thuật maketing để ngân hàng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Trong phần này xin được đề cập đến công tác tuyên truyền quãng cáo trong hoạt động thu hút vốn huy động của NHNo&PTNT để góp phần phát triển kinh tế - xã hôi trên địa bàn.
Hiện nay, việc mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua việc khuyếch trương các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo là một việc làm hết sức cần thiết. Đối với hệ thống NHNo&PTNT, trong thời gian qua đã thực hiện tốt phương châm “Agribank mang phồn thịnh đến với khách hàng”, theo đó mọi khách hàng đều là bạn đồng hành của ngân hàng, đồng thời phải làm sao cho mọi người biết đến các mặt hoạt động và thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. Bởi vì, hiện nay khi nói đến ngân hàng nhiều người, nhất là ở khu vực nông thôn còn không biết được là khi họ gửi tiền vào ngân hàng sẽ được lãi suất bao nhiêu, được hưởng những lợi ích, ưu đãi gì. Cho nên , nhiều người còn ngần ngại khi muốn gửi tiền vào ngân hàng, do đó đòi hỏi ngân hàng phải đẩy mạnh việc đa dạng hoá các hình thức quảng cáo, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, điện thoại, thư, tờ rơi hướng dẫn cụ thể, rõ ràng mọi hoạt động, dịch vụ và các mức lãi suất và các ưu đãi của ngân hàng.
Quảng cáo mang tính khoa học thể hiện ở công tác tuyên truyền, quảng cáo cộng với uy tín của ngân hàng, do đó sẽ làm tăng thêm niềm tin nơi khách hàng. Hình thành đội ngũ nhân viên, cộng tác viên để thực hiện việc tuyên tuyến, quảng bá các mặt hoạt động của ngân hàng để nhiều người biết đến, biết rõ về ngân hàng. Cùng với hình thức quảng cáo, đó là khuyến mãi để góp phần đẩy mạnh thêm cho hoạt động quãng cáo thu hút vốn huy động vào ngân hàng. Các hình thức khuyến mãi đa dạng, phong phú, hấp dẫn sẽ tạo sự thích thú ở khách hàng thông qua các mức lãi suất được hưởng cũng như những dịch vụ do khuyến mãi đem lại.
Quảng cáo và khuyến mãi là biện pháp thu hút sự chú ý và gửi tiền của khách hàng, cũng như các đơn vị sản xuất kinh doanh khác. Để tạo ấn tượng tốt đẹp của khách hàng đối với ngân hàng, hay tạo mối quan hệ lâu dài với khách hàng gửi tiền trên cả phương diện công việc và tình cảm. Đây là một chiến lược rất quan trọng của các NHTM. Ngân hàng có thể áp dụng nhiều hình thức khuyến mãi như: tiền gửi trả lãi trước, tiền gửi có thưởng, tiền gửi có tặng quà, thăm viếng, chúc mừng nhân các dịp lễ, tết, sinh nhật...
Việc mở rộng mạng lưới hoạt động đặt ra cho ngân hàng cần giải quyết giữa việc tăng quy mô, mở rộng phạm vi hoạt động và những chi phí khi thành lập Chi nhánh mới để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh hiện tại và những tính toán lâu dài cho sự phát triển của ngân hàng thì việc mở rộng mạng lưới, xác định kênh phân phối hợp lý để trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng là rất cần thiết, bởi vì về lâu dài khi thu nhập của dân cư và của khu vực nông thôn tăng lên, tiềm lực của vùng này được khai thác thì rất cần đến các sản phẩm dịch vụ của NHTM.
Thực tế hiện nay, hoạt động huy động vốn trong dân cư vẫn còn nhiều hạn chế, tiền gửi dân cư vẫn còn chiếm tỷ trọng thầp hơn tiền gửi các tổ chức kinh tế - xã hội, do đó để khai thác hết tiềm năng và thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào ngân hàng, Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam cần mở rộng thêm mạng lưới giao dịch bằng cách thành lập các phòng giao dịch, các tổ huy động vốn lưu động, bố trí hợp lý tại điểm giao dịch thuận lợi, các khu vực đông dân cư ở nông thôn, các trường học, khu công nghiệp, khu đô thị mới... tạo điều kiện thuận tiện trong việc gửi tiền của các thành phần kinh tế và dân cư trên địa bàn.
3.2.2.7. Thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, tiền vay (rủi ro)
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng bao gồm: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro công nghệ và hoạt động, rủi ro hoạt động ngoại bảng...
Hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống các ngân hàng hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng có hiệu quả, kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động kinh doanh là điều không thể tránh khỏi. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là rủi ro đặc biệt, dễ gây ra phản ứng kinh tế - xã hội dây chuyền. Việc một ngân hàng đổ vỡ có thể tạo ra sự nghi ngờ của người gửi tiền về sự ổn định và khả năng thanh toán của toàn hệ thống ngân hàng và có thể tạo ra sự náo loạn, mất ổn định trong xã hội.
Xuất phát từ đặc điểm và sự phát triển mang tính hệ thống của các ngân hàng như trên đòi hỏi phải phát triển các hoạt động mang tính cộng đồng (có hoạt động điều phối, có nghĩa vụ cộng đồng theo cơ chế thị trường...). Theo đó ngoài việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, bảo hiểm tiền gửi cũng đã thực hiện được vai trò quan trọng đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam, đó là:
- Hoạt động bảo hiểm tiền gửi góp phần củng cố và tăng cường uy tín của các ngân hàng. Điều này được thực hiện bằng những hoạt động chức năng của bảo hiểm tiền gửi trong giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thông qua việc sử dụng có hiệu quả hai phương pháp là giám sát từ xa và kiểm tra tại chổ.
- Bảo hiểm tiền gửi góp phần củng cố tổ chức và hoạt động của ngân hàng, là công cụ hỗ trợ cho đổi mới, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, tăng cường kiểm soát của nhà nước đối với hoạt động ngân hàng.
- Cơ chế hỗ trợ tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi góp phần vào việc phòng chống rủi ro của hệ thống các tổ chức tín dụng sẽ mang tính tích cực cao hơn.
NHNo&PTNT đã thực hiện mua bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền. Trong quá trình thực hiện, Nghị định này đã bộc lộ một số bất cập. Ngày 24/8/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2005/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89 về bảo hiểm tiền gửi. Đây là cam kết của ngân hàng đối với khách hàng nhằm bảo đảm giá trị tiền gửi của khách hàng không bị mất giá trị. Thông qua mua bảo hiểm, các công ty bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm chi trả cho người gửi tiền. Bảo hiểm tiền gửi không chỉ giải quyết chi trả tiền gửi ngân hàng bị phá sản, mà ngay từ khi xuất hiện nguy cơ mất khả năng thanh toán, phải có giải pháp hỗ trợ kịp thời nhằm giải toả tâm lý hoảng loạn của người gửi tiền, ngăn chặn sự lây lan trong hệ thống NHTM và qua các NHTM khác.
Theo Nghị định số 109/2005/NĐ-CP quyền lợi của các đối tác tham gia trực tiếp trong chính sách bảo hiểm tiền gửi đã được quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là quyền lợi của người gửi tiền, theo đó mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tối đa cho tiền gửi hiện nay tăng lên 50 triệu đồng, so với mức 30 triệu đồng theo Nghị định số 89 (bao gồm cả tiền gốc và lãi cho tất cả các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn) cho một người gửi tiền tại NHTM có tham gia bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp ngân hàng này bị chấm dứt hoạt động, đồng thời cũng quy định tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Từ những vấn đề trên, để thực hiện tốt chính sách bảo hiểm tiền gửi, vay, dự phòng những rủi ro có thể phát sinh, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm tuyên truyền và thông tin đầy đủ cho người dân về quyền lợi, hướng dẫn và hỗ trợ người dân thực hiện các thủ tục nhanh nhất để hưởng các quyền lợi về bảo hiểm tiền gửi, cần quan tâm thông tin về tổ chức huy động tiền gửi đã tham gia bảo hiểm tiền gửi và thông tin loại tiền gửi được bảo hiểm.
Cần xây dựng bộ máy bảo hiểm tiền gửi vững mạnh cả về nhân sự và tiềm lực tài chính, hỗ trợ cần thiết cho các tổ chức tín dụng gặp khó khăn tạm thời. Cần tạo điều kiện và cơ chế chính sách cho các công ty bảo hiểm sớm mạnh dạn mở rộng dịch vụ bảo hiểm đối hoạt động ngân hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là bảo hiểm cây trồng, bảo hiểm thiên tai... Đồng thời NHTM cần khai thác nguồn vốn nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm, mặt khác các công ty bảo hiểm được thoả mản các dịch vụ tiện ích của ngân hàng đối với những khách hàng bảo hiểm.
Đối với khách hàng vay vốn: tiến hành tuyên truyền, phổ biến các nghiệp vụ ngân hàng có liên quan đến khách hàng vay vốn để khách hàng thực hiện tốt các nguyên tắc sử dụng vốn vay có mục đích, có hiệu quả và đảm bảo khả năng trả nợ khi đến hạn; tích cực tham gia mua bảo hiểm rủi ro, thiên tai đối với sản phẩm, cây trồng, vật nuôi, máy móc thiết bị, nhà xưởng...đi đôi với hoạt động sản xuất - kinh doanh của khách hàng. Có thông tin đầy đủ, kịp thời về tình hình sản xuất - kinh doanh, thực trạng tài chính và những biến cố của khách hàng để xử lý kịp thời.
Địa bàn hoạt động của NHNo&PTNT chủ yếu là khu vực nông thôn, đối tượng vay vốn chủ yếu là hộ nông dân, trong quá trình đầu tư vốn cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi lượng vốn cho đầu tư phát triển rất lớn, thời gian dài, món vay nhỏ, chi phí hoạt động lớn, lại thường bị ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh hằng năm, cho nên việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro của NHNo&PTNT là hết sức cần thiêt và được tiến hành thường xuyên, trên cơ sở:
Về phân loại rủi ro, căn cứ Quyết định số 165/QĐ-HĐQT ngày 06 tháng 6 năm 2005 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về việc ban hành quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của NHNo&PTNT Việt Nam, theo đó các NHNo&PTNT nơi cho vay thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể như sau:
* Thực hiện phân loại nợ:
- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn).
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý).
- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn).
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ).
- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn).
* Về trích quỹ rủi ro:
Căn cứ vào phân loại các khoản vay, NHNo&PTNT nơi cho vay được trích rủi ro theo thông lệ của một số tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế (WB, ADB) và trên cơ sở Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam “Về việc ban hành quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng”, được cụ thể hoá tại Quyết định số 165/QĐ-HĐQT ngày 06/6/2005 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam quy định tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ như sau: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 5%; Nhóm 3: 20%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%. Riêng đối với nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, việc trích lập dự phòng rủi ro giao cho Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam quy định cụ thể hướng dẫn cho các Chi nhánh thực hiện.
Ngoài ra, cũng theo quy định trên, các Chi nhánh còn thực hiện trích lập dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Kết luận
Vốn có vai trò to lớn trong việc tạo ra của cải vật chất, đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Huy động vốn có hiệu quả, cung ứng đầy đủ và kịp thời vốn cho nền kinh tế là một trong những tiền đề quan trọng có ý nghĩa quyết định để thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Trong quá trình triển khai thực hiện các chiến lược phát triển của ngành, của địa phương, việc đẩy mạnh thu hút vốn huy động tại Chi nhánh NHNo&PTNT là hết sức cần thiết, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã trình bày những luận cứ khoa học và luận giải một cách có hệ thống các vấn đề sau:
Hệ thống hoá lý luận cơ bản về vốn, các hình thức thu hút, các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động, về vai trò của vốn trong việc phát triển kinh tế - xã hội.
Phân tích, khái quát thực tiễn hoạt động của NHTM trong việc huy động, sử dụng nguồn vốn, trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào công tác thu hút vốn huy động tại Chi nhánh NHNo&PTNT để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn để góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua, thông qua tình hình thực tế rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại, những tiềm năng chưa được khai thác và nguyên nhân.
Trên cơ sở mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, luận văn đã nêu lên những định hướng, quan điểm về tạo lập nguồn vốn của NHNo&PTNT và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc huy động vốn có hiệu quả, khai thác tối đa nguồn vốn tại địa phương cũng như nguồn vốn trong nước để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam bao gồm:
- Giải pháp về lãi suất.
- Đa dạng hoá các hình thức huy động.
- Phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay vốn để phát triển kinh tế - xã hội.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
- Thực hiện chiến lược maketing và mở rộng mạng lưới hoạt động.
- Thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, tiền vay (rủi ro).
Những nội dung nghiên cứu và những giải pháp đưa ra trong luận văn gúp phần tháo gỡ những bức xúc, khó khăn nhằm đẩy mạnh công tác thu hút vốn huy động tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam để phỏt triển kinh tế - xó hội của huyện.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam (7/2006) Báo cáo sơ kết hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm 2006, Tiên Phước.
2. Chi nhỏnh NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam (29/8/2006), Chương trình triển khai đề án cơ cấu lại NHNo&PTNT (giai đoạn 2006 - 2010), Tam kỳ.
3. Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam (25/6/2003) Quyết định số 165/HĐQT-KHTH về việc ban hành quy định các hình thức huy động vốn trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
4. Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam (24/12/2004), Quyết định số 454/QĐ/HĐQT-TCCB về việc ban hành quy chế về tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam, Hà nội.
5. Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam ( 06/6/2005) Quyết định 165/QĐ - HĐQT về việc Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của NHNo&PTNT Việt Nam, Hà Nội.
6. TS Hồ Diệu (2001), Tín dụng ngân hàng, Nxb Thống kê.
7. Trịnh Hữu Đản (1998), NHNo&PTNT với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Nghị quyết Trung ương IV (Khoá VIII) về vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
10. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (02/2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Công ty in Quảng Nam, Tam kỳ.
11. Đảng bộ huyện Tiên Phước (10/2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện khoá XIV nhiệm kỳ 2005- 2010, Công ty in Quảng Nam, Tam kỳ.
12. Dương Thu Hương (1998), Vấn đề tạo vốn và đảm bảo an toàn tín dụng ở khu vực nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Vũ Hiền (1998), Vốn cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhìn từ đồng ruộng tới làng xã, Nghị quyết Trung ương IV(Khoá VIII) về vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Ngô Hướng (1997), Giải pháp khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nhà in khoa học và công nghệ, Hà Nội.
15. TS Lê Hùng (2006), “Huy động vốn của các tổ chức tín dụng đầu tư phát triển kinh tể trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Ngân hàng, (11), tr.16-17.
16. Diệp Thành Kiệt (1997), Ngân hàng cần tạo nhiều tiện ích thực sự cho người gửi tiền, Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nhà in khoa học và công nghệ, Hà Nội.
17. TS Phạm Ngọc Long (1998), Một số vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển nông nghiêp, nông thôn ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Luật Ngân hàng nhà nước (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Luật các tổ chức tín dụng (2004), NxbTổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng NHNo&PTNT nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
21. Phạm Ngọc Minh (1997), Biện pháp tăng khả năng huy động vốn vào ngân hàng, Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nhà in khoa học và công nghệ, Hà Nội.
22. Nguyễn Như Minh (2006),” Vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đối với nền kinh tế”, Tạp chí Ngân hàng, (1+2), tr.95
23. C.Mác và Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam (08/6/2004), Đề án huy động vốn trong dân cư (số 125/NHNo-NVKHTH) từ 2001 đến 2010, Tam kỳ.
25. Niên giám thống kê huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
26. Trần Thị ánh Nguyệt (2005), Huy động vốn để xây dựng nhà ở trên địa bàn quận 4, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
27. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (16/4/1999), Công văn số 320/CV-NHNN-14, về việc thực hiện Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, Hà Nội.
28. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (26/4/1999), Văn bản 791/NHNo-06, về việc thực hiện một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Kiều Oanh, Lê Thị Nga (2006), “Tăng cường bảo vệ quyền lợi người gửi tiền”, Tạp chí Ngân hàng, tr.57-58.
30. Hà Thị Sáu (2002) “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn trong dân”, Tạp chí Ngân hàng, tr.9-10.
31. Hà Thị Sáu (2002) “Giải pháp huy động vốn trong dân thông qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu ở nước ta”, Tạp chí Ngân hàng, tr.53-54.
32. Thủ tướng Chính phủ (30/3/1999), Quyết đinh số 67/1999/QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, Hà Nội.
33. Thủ tướng Chính phủ (24/5/2006), Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
34. PTS Lê Văn Tề (Chủ biên), PTS Ngô Hướng, PTS Đỗ Linh Hiệp, Hồ Diệu, Lê Thẩm Dương, Nghiệp vụ NHTM, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Nguyễn Văn Thầy (1997), Một số giải pháp huy động vốn vủa Ngân hàng thương mại ở nước ta, Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nhà in khoa học và công nghệ, Hà Nội.
36. Trần Đức Thuấn (1998), Huy động vốn để phát triển kinh tế ở Đà Nẳng - Thực trạng và giải pháp, luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Hà Hữu Tính (2000), Huy động vốn cho ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước tỉnh Thanh hoá - Thực trạng và giải pháp, Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Tạ Thị Thoa (2006), “Bàn về chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn hiện nay từ thực tế một chi nhánh ngân hàng tỉnh”, Tạp chí Ngân hàng, (5), tr.35-36.
39. Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2006), “Rủi ro và những biện pháp hạn chế rủi ro đối với NHTM ở nước ta”, Tạp chí Ngân hàng, (15).
40. UBND huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam (7/2006), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm của huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, Tiên Phước.
41. Phan Hạ Uyên (1997), Về vấn đề huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước, Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nhà in khoa học và công nghệ, Hà Nội.
42. Đặng Ngọc Xương (1998), Về vai trò NHNo&PTNT trong giai đoạn mới, Nghị quyết trung ương IV (Khoá VIII) và vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
._.