Vốn cho Đầu tư tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây

Lời nói đầu Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định chính trị và xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền kinh tế kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp , cơ sở hạ tầng thấp kém về mọi mặt do vậy để phát triển chúng ta cần phải có vốn. Đảng và nhà nước ta đã xác định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “ vốn trong nước là quyết định , vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vốn cho Đầu tư tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triệt trong quản lý kinh tế quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho việc lưu chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn cho các công cuộc đầu tư góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm qua ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh tế, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng....Chính vì vậy đã góp phần quan trong vào công cuộc đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc đô cao, kiềm chế lạm phát và ổn định đời sống nhân dân. Song bên những thành công và kết quả đạt được thì hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng đang còn tồn tại nhiều yếu kém đó là nguồn vốn huy động có thời gian dài cho đầu tư còn thiếu, công tác huy động còn nhiều bất cập. Trong khi đó hoạt động cho vay đầu tư thì tỷ lệ nợ quá hạn đang ở mức báo động, vốn cho vay ra bị sử dụng lãng phí, không hiệu quả do vậy hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư ngày càng giảm sút...Chính vì vậy: tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển trong các ngân hàng nói chung và đặc biệt là ngân hàng đầu tư phát triển nói riêng đang là vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà làm chính sách, các nhà quản lý đầu tư và ngân hàng... Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây, được tiếp cận với các hoạt động của ngân hàng, em đã chọn đề tài nghiên cứu với nội dung: “Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây. Bài viết được chia làm ba phần: Phần I. Lý luận chung về đầu tư, nguồn vốn đầu tư và hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư phát triển. Phần II. Thực trạng và đánh giá thực trạng về huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây. Phần III. Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và vận dụng phương pháp thống kê - tổng hợp, toán học và đồ thị trong phân tích số liệu của ngân hàng nhằm làm rõ thực trạng hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng. Từ đó đưa ra biện pháp tích cực và những kiến nghị đối với ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây và các cơ quan ban ngành có liên quan nhằm tăng cường khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển . Để hoàn thành bài viết này đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ: Nguyễn Hồng Minh đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn, cùng các thầy cô giáo và các cán bộ phòng Nguồn vốn kinh doanh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây đã giúp đỡ trong quá trình thực hiện. Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2001. Sinh viên thực hiện: Nguyễn Việt Cường Phần I. lý luận chung về đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư và hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đâù tư phát triển. I. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư phát triển: I. 1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển. I. 1.1. Khái niệm đầu tư Thuật ngữ “đầu tư” được hiểu với nghĩa chung nhất là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện tại ( tiền, của cải vật chất, sức lao động, trí tuệ...) nhằm đạt được các kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Đó có thể là các mục tiêu kinh tế , xã hội, văn hoá,chính trị... Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có dữa các cá nhân, các tổ chức, không phải là đầu tư với nền kinh tế. Còn trong hoạt động kinh doanh, đầu tư là sự bỏ vốn( tiền, nhân lực, nguyên liệu, công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây được xem như bản chất cơ bản của các hoạt động đầu tư. Kinh doanh cần nghiên cứu đầy đủ các khía cạnh khác nhau của hoạt động đầu tư như : bản chất, đặc điểm, phân loại, vai trò... để có những đối sách thích hợp đối với các đối tác đầu tư khác nhau. Mặt khác, có thể hiểu đầu tư là việc đưa ra một khối lượng lớn vốn nhất định vào qúa trình hoạt động kinh tế nhằm thu được một khối lượng lớn hơn sau một khoảng thời gian nhất định. Khái niệm đầu tư còn được hiểu theo quan niệm tái sản xuất mở rộng, đầu tư thực tế là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực tái sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình sản xuất. Đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên của nền kinh tế ... Với đầu tư phát triển thì đây là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Loại đầu tư này, người có tiền bỏ tiền ra để xây dựng , sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng nguồn nhân lực thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này. Hoạt động đầu tư này nhằm nâng cao năng lực hiện có của các cơ sở sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng, tạo ra năng lực sản xuất mới. Đây là hình thức tái sản xuất mở rộng. Hình thức đầu tư này tạo việc làm mới, sản phẩm mới và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tóm lại, hoạt động đầu tư vốn là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm cung cấp dich vụ đáp ứng nhu cầu cá nhân và xã hội. I. 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển có những điểm khác biệt so với đầu tư tài chính và đầu tư thương mại ở các điểm sau: Thứ nhất : Tiền, vật tư, lao động cần cho công cuộc đầu tư là rất lớn. Thứ hai : Thời gian cần thiết cho công cuộc đầu tư dài, do đó vốn ( tiền, vật tư, lao động ) đầu tư phải nằm khê đọng, không tham gia vào quá trình chu chuyển kinh tế và vì vậy, trong suốt thời gian này không sinh lời cho nền kinh tế. Thứ ba : Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ lượng vốn đã bỏ ra hoặc thanh lý tài sản do vốn tạo ra cần và có thể thường là vài năm, có khi hàng chục năm và có nhiều trường hợp là hoạt động vĩnh viễn. Thứ tư : Nếu thành quả đầu tư là các công trình xây dựng thì nó sẽ được sử dụng ngay tại nơi nó tạo ra. Thứ năm : Các kết quả là hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố không ổn định trong tự nhiên, trong hoạt động kinh tế xã hội như các điều kiện địa lý, khí hậu, chính sách, nghiên cứu thị trường và quan hệ quốc tế. Vì vậy, độ mạo hiểm của loại hình này cao. Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao, trước khi tiến hành đầu tư phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư và mọi công cuộc đầu tư phải tiến hành theo dự án. I.1.3 Vai trò của đầu tư phát triển: Lý thuyết kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Nó thể hiện các mặt sau: Trên giác độ nền kinh tế: -Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu : Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trong lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn, tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung dài hạn tăng lên. -Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định và phát triển kinh tế : Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cần các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá trị các hàng hoá liên quan tăng đến mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao động khó khăn... Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tệ nạn xã hội. Còn khi giảm đầu tư thì tác động ngược lại với hai chiều hướng trên. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tù 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. ICOR = Vốn đầu tư / Mức tăng GDP. Từ đó suy ra : Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. - Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vì các ngành nông, lâm, ngư nghiệp bị hạn chế về đất đai và khả năng sinh học. Do đó chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế, chính trị... -Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất nước: Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước.Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ của nước ta hiện nay. Như chúng ta đã biết có 2 con đường cơ bản để công nghệ là nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài vào cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị... và thực hiện chi phí khác với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất, kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại : sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng. Để duy trì hoặc đổi mới cũng có nghĩa là đầu tư. Như vậy, đầu tư có vai trò rất lớn không chỉ với nền kinh tế mà còn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, khi đầu tư ta thường đặt câu hỏi : vốn đầu tư lấy từ đâu ra và sử dụng vốn như thế nào ? Có rất nhiều cách và con đường để có vốn và sử dụng vốn em xin đề cập ở phần sau. I. 2.Vốn và nguồn vốn đầu tư: I. 2.1.Nguồn vốn đầu tư: Trong nền kinh tế mở nguồn vốn đầu tư được hình thành từ 2 nguồn đó là nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. -Nguồn vốn trong nước: đó là nguồn vốn được hình thành và huy động trong nước nó bao gồm 3 bộ phận: tiết kiệm của nhà nước (Sg), tiết kiệm của các tổ chức doanh nghiệp ( Sc), tiết kiệm của khu vực dân cư ( Sh). + Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Đó là phần còn lại của thu ngân sách sau khi đã trừ đi các khoản chi thường xuyên củ nhà nước: Sg= T - G. Trong đó: Sg là tiết kiệm của nhà nước. T là tổng thu ngân sách nhà nước. G là các khoản chi thường xuyên của nhà nước. +Nguồn vốn từ các tổ chức doanh nghiệp: Đó là nguồn vốn được tạo ra từ các tổ chức doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm lợi nhuận để lại doanh nghiệp ( lợi nhuận sau khi đã trừ đi các khoản thuế và các khoản phải nộp khác ) và quỹ khấu hao của doanh nghiệp. Sc = Dp + Pr. Trong đó : Sc : là tiết kiệm của các doanh nghiệp. Dp: là quỹ khấu hao của doanh nghiệp. Pr : là lợi nhuận để lại doanh nghiệp. +Nguồn vốn từ khu vực dân cư : Đó là nguồn vốn được hình thành từ thu nhập sau thuế của dân cư sau khi đã trừ đi các khoản chi phí thường xuyên. Sh = DI - C. Trong đó : Sh : là tiết kiệm từ khu vực dân cư. DI : là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư. C : là chi thường xuyên của khu vực dân cư. -Nguồn vốn nước ngoài: Bao gồm 2 hình thức chính là vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. + Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đó là nguồn vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam trong đó người bỏ vốn và người sử dụng vốn là một chủ thể . Hình thức này hình thành các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiêp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. + Vốn đầu tư gián tiếp (Ví dụ: ODA): Đó là nguồn viện trợ phát triển chính thức, là nguồn tài chính mang tính chất hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của các nước hiện nay các tổ chức tài chính quốc tế cho các nước thuộc thế giới thứ ba. Trong đó các tổ chức, các quốc gia bỏ vốn không trực tiếp sử dụng vốn đầu tư . Các hình thức của đầu tư gián tiếp nước ngoài là viện trợ kinh tế không hoàn lại và viện trợ có hoàn lại với lãi suất ưu đãi. I.2.2. Vốn và vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế . -Vốn đầu tư: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới hoặc được đổi mới, nâng cấp hiện đại hoá đồng thời tạo ra các tài sản lưu động lần đầu tiên gắn liền với các tài sản cố định mới tạo ra hoặc được đổi mới. -Vai trò của vốn đầu tư với sự phát triển kinh tế: Vốn là yếu tố quan trọng nhất trong qúa trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.ở Việt nam, để đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát triển đạt 7-8% trong gia đoạn tới, vốn đầu tư là một trong các yếu tố hết sức quan trọng. Theo tính toán của các nhà kinh tế , nguồn vốn cho đầu tư phát triển gia đoạn 2001-2005 phải đạt ít nhất 58-59 tỷ USD : trong đó nguồn vốn trong nước chiếm tỷ trọng 60%, cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư phát triển bao gồm vốn đầu tư từ ngân sách, vốn đầu tư tín dụng, vốn đầu tư của doanh nghiệp, vốn đầu tư dân cư và vốn đầu tư nước ngoài. Dự tính trong vòng 5 năm tới vốn của các doanh nghiệp tự đầu tư chiếm tỷ trọng 14-15% tổng số vốn đầu tư xã hội, chủ yếu đầu tư vào đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài ra theo tính toán của các nhà kinh tế trong giai đoạn 2001-2005, đòi hỏi tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt đến 25-26% GDP, trong đó tiết kiệm từ khu vực ngân sách khoảng 6%, tiết kiệm từ khu vực dân cư và doanh nghiệp là 19-20% GDP.Nguồn vốn huy động từ tiết kiệm trong nước để cho đầu tư đạt 75% tổng tiết kiệm. Theo kinh nghiệm phát triển của thế giới, các nước có đạt mức tăng trưởng kinh tế cao đều có mức huy động vốn đầu tư so với GDP khá lớn. Nói cách khác là đều có tỷ lệ đầu tư phát triển trong GDP lớn hơn những nước có tốc độ phát triển bình thường và chậm biểu sau đây có thể minh hoạ ý kiến trên. Quốc gia Thời kỳ Mức tăng GDP bình quân năm % Tỷ lệ đầu tư phát triển /GDP% Số năm tăng tốc độ cao Nhật Bản 1964-73 9,28 35,17 10 Singapore 1965-93 8,80 38,32 29 Mỹ 1964-73 3,95 19,18 10 Canada 1964-74 5,55 23,74 10 Thái Lan 1964-90 7,64 25,58 27 Nguồn : Tổng cục thống kê thời báo kinh tế Việt nam. Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Harrad và Domar thì sự phụ thuộc giữa mức tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP và hiệu quả và sử dụng vốn được hiểu theo công thức sau: G x K= I/K trong đó: G - Tốc độ tăng trưởng / năm. K - Hệ số ICOR ( vốn tăng thêm, hiệu quả vốn đầu tư). I/K - Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP. Như vậy, vốn đầu tư là một nhân tố quan trọng thiết yếu trong quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ đặt ra đối với các ngân hàng, các tổ chức tín dụng là làm thế nào để có thể huy động và sử dụng có hiệu quả được các nguồn vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế. Đối với Ngân hàng đầu tư nhiệm vụ này càng quan trọng và khó khăn hơn vì hoạt động chính của Ngân hàng là huy động và cho vay các nguồn trung, dài hạn là chủ yếu trong khi ngân hàng vẫn phải đảm bảo giữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình và hoạt động đầu tư phát triển. I. 3.Vai trò hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho phát triển kinh tế. I.3.1. Vai trò của hoạt động huy động vốn: Như trên đã phân tích vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế, không những nó tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, mà còn đưa đất nước phát triển theo hướng ổn định, cân đối giữa các ngành nghề. Do vậyđể phát triển kinh tế ta phải có vốn đầu tư, vậy vốn đầu tư lấy ở đâu và lấy bằng cách nào ? Câu hỏi này đã được trả lời một phần ở trên ( bao gồm vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài ). Muốn có nguồn vốn này, ta phải huy động. Mặt khác mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khi thành lập, không phải lúc nào cũng có đủ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những tình huống thiếu vốn thì họ phải huy động để đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên, để có thể huy động được số vốn mong muốn thì các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải có các chiến lược huy động phù hợp với từng tình huống cụ thể, từng thời kỳ ... Tóm lại hoạt động huy động vốn là rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung và đầu tư phát triển nói riêng, nó đẩy nhanh quá trình Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới. Trong hoạt động huy động này thì hệ thống ngân hàng đóng góp một phần quan trọng đặc biệt là ngân hàng đầu tư và phát triển ngân hàng với nhiệm vụ chủ yếu là cung cấp vốn cho vay đầu tư phát triển. I.3.2 Vai trò của hoạt động sử dụng vốn: Như đã trình bày ở trên vốn và hoạt động huy động vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội đất nước là rất quan trọng. Nhưng một phần cũng không kém phần quan trọng đó là hoạt động sử dụng vốn huy động này sao cho có hiệu quả để đảm đem lại lợi ích và hiệu quả cao nhất. Nếu chúng ta sử dụng vốn hiệu quả thì các nguồn lực dành cho đầu tư xẽ phát huy được tối đa lợi ích cho chủ đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung và ngược lại nếu chúng ta sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả thì các kết quả của những đồng vốn mà chúng ta bỏ ra sẽ không phát huy được tối đa cho nền kinh tế. Để làm được vấn này đòi hỏi chúng ta phải làm tốt các chiến lược sử dụng vốn cho đầu tư như: quản lý đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư, cũng như các công tác thẩm định dự án và quản lý dự án đầu tư. II. Ngân hàng đầu tư trong quá trình huy động vốn và sử dụng cho vốn đầu tư phát triển. II.1.Vai trò và định hướng của ngân hàng đầu tư trong công cuộc đầu tư phát triển kinh tế . II.1.1.Vai trò của ngân hàng đầu tư. Ngân hàng đầu tư là một thể chế tài chính nhằm thu hút, tập trung các nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Mục tiêu của ngân hàng không phải chỉ là lợi nhuận mà chủ yếu vẫn là :” hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế “. Từ những đặc điểm này ngân hàng đầu tư ở Việt Nam và các ngân hàng đầu tư ở các nước khác có một số nét khác biệt cơ bản như: Trong hoạt động huy động vốn: Được nhận, vay từ các nguồn tài trợ của chính phủ, các tổ chức nước ngoài, ngân hàng ĐTTW ... Hoạt động sử dụng vốn cũng chủ yếu tập trung vào các dự án kinh tế, kỹ thuật có tầm chiến lược, then chốt của quốc gia, chủ yếu là các lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức đầu tư như: Giao thông, năng lượng, xây dựng thông tin... Vấn đề đặt ra là ngân hàng đầu tư có nên thụ động dựa vào các nguồn tài trợ từ ngân sách và các tổ chức quốc tế hay chủ động mở rộng hoạt động tìm cách tạo nguồn vốn cho mình. Ngoài ra, trong hoạt động sủ dụng vốn ngân hàng đầu tư cần phải chủ động nâng cao nghiệp vụ, sức cạnh tranh và uy tín để thực hiện chiến lược phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế ngày càng hiệu quả hơn. II.1.2. Định hướng của ngân hàng đầu tư: - Đối với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển: Ngân hàng đầu tư và phát triển chủ trương coi khâu tạo vốn là khâu mở đường, tạo ra một nguồn vốn vững chắc cả VNĐ và ngoại tệ, Đa dạng các hình thức, biện pháp, các kênh huy động từ mọi nguồn và xác định “ nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng ”. Với định hướng không ngừng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ đầu tư phát triển. Thông qua huy động dưới các hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu và tiền tiết kiệm có thời hạn dài. Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn nước ngoài thông qua chức năng ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều vốn từ các nguồn tài trợ, cộng tác đầu tư từ các quỹ, các tổ chức quốc tế, các chính phủ và phi chính phủ cho đầu tư phát triển. - Đối với hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển: Ngân hàng đầu tư phát triển coi việc phục vụ trong sự nghiệp đầu tư phát triển là một định hướng chính thể hiện vai trò ngân hàng đầu tư của mình. Trong hoạt động cho vay đầu tư ngân hàng chú trọng quá trình tìm chọn dự án hiệu quả, thực hiện tốt công tác thẩm định và quản lý dự án sau khi cho vay cũng như thực hiện công tác tư vấn đầu tư giúp các chủ đầu tư hoạt động tốt nhằm đảm bảo nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Như vậy định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là các bước đi và giải pháp cụ thể . Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự nghiên cứu hệ thống hoá có lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều năm để phục vụ tốt hơn cho đầu tư phát triển. II.2. Hoạt động huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Ngân hàng đầu tư phát triển. II. 2.1.Sự cần thiết của công tác huy động vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển. Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ chốt của Ngân hàng đảm bảo cho ngân hàng có thể tồn tại và thực hiện chức năng của một trung gian tài chính trong nền kinh tế, bởi chức năng hoạt động chủ yếu của ngân hàng là “ đi vay để cho vay ”. Như chúng ta đã biết, một ngân hàng muốn thành lập phải có đủ vốn ban đầu nhất định do ngân hàng nhà nước quy định. Nhưng số vốn tự có chiếm khoảng 10% vốn hoạt động. Do vậy huy động vốn là điều kiện cần cho hoạt động của ngân hàng. Đối với ngân hàng đầu tư kể từ khi thực hiện chức năng như một ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì để có vốn cho vay các dự án đầu tư đòi hỏi Ngân hàng phải huy động được vốn. Phần vốn tự có của Ngân hàng chỉ đảm bảo năng lực pháp lý và năng lực thị trường cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Pháp lệnh ngân hàng quy định một ngân hàng được phép huy động một lượng vốn tối đa bằng 20 lần vốn tự có của mình. II.2.2. Các nguồn vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển cho đầu tư phát triển : Nguồn vốn huy động của NH bao gồm : Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngân hàng để có thể đóng góp vào hoạt động đầu tư phát triển thì lượng vốn huy động đòi hỏi phải là vốn trung và dài hạn (hay có thời hạn trên 1 năm). Nguồn vốn ngắn hạn chỉ có vai trò là vốn lưu động đảm bảo các khoản cho vay ngắn hạn, và chỉ được dùng một phần nhỏ để cho vay dài hạn khi lượng vốn ngắn hạn đủ lớn và ổn định. Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì các nguồn vốn sau đây ở Ngân hàng mới có đóng góp chính vào đầu tư phát triển. +Các khoản tiền tiết kiệm và tiền gửi có thời hạn đến 1 năm. +Các kỳ phiếu, trái phiếu có thời hạn dài, phát hành trên thị trường trong nước và quốc tế. +Các khoản đi vay trung hạn và dài hạn của các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài. +Các khoản thu nợ của các dự án cũ. + Một phần huy động ngắn hạn có thể cho vay trung và dài hạn. + Các khoản thu nhập dành cho cho vay đầu tư phát triển khác(lợi nhuận,tiền thu bảo lãnh...) Như vậy trên cơ sở các nguồn vốn này để Ngân hàng đầu tư có thể huy động được vốn cho đầu tư phát triển ta phải có được những giải pháp để phát triển các nguồn vốn này. II.2.3.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng. Nhằm đánh giá hiệu quả huy động vốn cho đầu tư phát triển( chủ yếu là vốn trung và dài hạn ) tại Ngân hàng thì cần có các chỉ tiêu. Sau đây là các chỉ tiêu chính phản ánh hiệu quả công tác này: Chỉ tiêu 1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định: -Vốn huy động cho đầu tư ( chủ yếu là trung và dài hạn ) có sự tăng trưởng ổn định về mặt số lượng. Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( vốn năm sau lớn hơn vốn năm trước ), thoả mãn nhu cầu tín dụng đầu tư. -Tuy nhiên, nguồn vốn này phải ổn định về mặt thời gian ( đảm bảo tránh rủi ro về mặt thời gian ) .Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn cho đầu tư nhưng không ổn định thường xuyên, khối lượng vốn dành cho đầu tư, cho vay sẽ không lớn nhi đó ngân hàng thường xuyên đối đầu với vấn đề thanh toán, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Do đó, hiệu quả huy động vốn sẽ không cao. Chỉ tiêu 2. Chi phí huy động: Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, lãi suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra, đồng thời cũng thông qua chi phí phát hành. Nếu ngân hàng giảm chi phí huy động bằng cách hạ lãi suất huy động thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Do vậy khó có thể thực hiện. Ngược lại nếu lãi suất huy động càng cao thì lãi suất cho vay càng cao gây khó khăn cho người vay tiền và có thể gây ứ đọng vốn cho Ngân hàng, khi đó ngân hàng cần phải trả lãi cho người gửi tiền trong khi khoản vốn ứ đọng không sinh lãi. Vì vậy ngoài việc tăng giảm lãi suất để có lợi cho người gửi tiền và người vay tiền có thể giảm chi phí khác như : Chi phí in ấn phát hành, chi phí quảng cáo, tiếp thị, trả lương cán bộ huy động, thuê địa điểm huy động ... Chỉ tiêu 3 : Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động và nhu cầu vay vốn vốn đầu tư phát triển ( chủ yếu là vốn trung dài hạn ) và các nhu cầu khác. Từ đó xác định nguồn vốn có thể huy động được là bao nhiêu và nguồn vốn cần phải huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu đó. Để đạt đựơc mục tiêu này, Ngân hàng phải đặt ra cơ cấu huy động vốn trung và dài hạn một cách hợp lý ( kỳ phiếu bao nhiêu ? trái phiếu lấy bao nhiêu?... ). Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn đồng thời cũng đảm bảo cho ngân hàng huy động được nguồn vốn này với chi phí thấp nhất có thể. * Chỉ tiêu khác : Ngoài các chỉ tiêu trên hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển ở NH đầu tư còn được phản ánh qua các chỉ tiêu sau: -Thời gian, mệnh giá huy động vốn cho đầu tư hợp lý. -Mức độ thuận tiện cho khách hàng : Đánh giá qua các thủ tục nhận tiền và làm các dịch vụ kèm theo. -Thời gian hoàn thành số lượng vốn so với quy định. -Số vốn bị rút trước hạn, hệ số sử dụng vốn. Tóm lại, khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn nói chung và huy động vốn cho đầu tư phát triển nói riêng thì một chỉ tiêu không thể phản ánh đầy đủ mà phải kết hợp nhiều chỉ tiêu đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn. II.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn. II.2.4.1.Nhân tố chủ quan: Các hình thức huy động vốn: Đây là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư xẽ tăng và vốn ngân hàng huy động được xẽ nhiều hơn. Chính sách lãi xuất cạnh tranh: lãi suất là yếu tố quan trọng khiến hành động gửi tiền của dân chúng và ngân hàng, hay gửi từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hoặc chuyển từ tiết kiệm sang đầu tư do vậy lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến huy động vốn của ngân hàng. Chính sách khách hàng: Nếu ngân hàng có chính sách khách hàng tốt thì khách hàng xẽ gửi tiền vào ngân hàng xẽ càng cao và ngược lại. Công tác cân đối dữa huy động và cho vay: Chiến lược sử dụng vốn đúng đắn và phù hợp còn phù thuộc vào chiến lược sử dụng vốn nếu sử dụng vốn không hiệu quả thì ngân hàng cũng xẽ hạn chế khả năng huy động vốnvà ngược lại. Công nghệ ngân hàng: Trong cạnh tranh NH không ngừng cải tiến công nghệ, bởi lẽ các dịch vụ đặc biệt về chuyên môn NH xẽ đa dạng đổi mới ngày càng tốt hơn đáp ứng nhu câù khách hàng. Chính sách cán bộ: Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn được đặt đúng chỗ , luôn tạo nền tảng thành công của một tổ chức. Nói chung người ta muốn giao dịch kinh doanh với một hãng có bề dày kinh nghiệm và có đội ngũ cán bộ công nhân viên lịch thiệp và tận tình. Chính sách quảng cáo: Không thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng cáo hiện nay. Ngân hàng nếu làm tốt công tác nay thì có khả năng huy động được nhiều vốn hơn. II.2.4.2. Nhân tố khách quan: Nhân tố tiết kiệm của nền kinh tế: Nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn của dân cư, tổ chức kinh tế, ... do vậy nếu các đơn vị này có tỷ lệ tiết kiệm cao thì nguồn vốn huy động được xẽ cao. Nhân tố thu nhập của dân cư: Nếu thu nhập của dân cư càng cao thì khả năng có thể tiết kiệm càng cao và khi đó họ có tiền gửi vào các tổ chức tài chính và mua các giấy tờ có giá sẽ càng cao và ngược lại. Nhân tố tâm lí tiêu dùng: Tiết kiệm và tiêu dùng là hai nhân tố đối lập nhau nên tiêu dùng tăng thì tiết kiêm giảm và ngược lại . Do vậy nếu tâm lí thích tiêu dùng của dân cư tăng thì tiền gửi vào ngân hàng xẽ giảm. Môi trường pháp lí: Nếu môi trường pháp lí ổn định cụ thể là cơ sở pháp lí cho hoạt động của ngân hàng dược đảm bảo thì người dân xẽ an tâm gửi tiền vào ngân hàng... II.3.Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư phát triển. II.3.1.Vai trò của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn như về vốn cho đầu tư của các dự án và các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao chất lượng của sử dụng vốn đối với các dự án và sử dụng vốn đầu tư của các doanh ngiệp đang đòi hỏi cấp bách. Để cung cấp vốn cho các dự án này và các doanh nghiệp thì n._.gân hàng đầu tư có một vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các đơn vị này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án và các doanh nghiệp mặt khác hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng cũng giúp cho bản thân ngân hàng có thể hoạt động được bởi hoạt động của ngân hàng là đi vay để cho vay. Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc cung cáp vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế mặt khác hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng cũng góp phàn cho việc hoạt động của các doanh nghiệp và các dự án đầu tư hiệu quả hơn bởi khi tài trợ vốn cho các doanh nghiệp và các dự án ngân hàng đã thực hiện rất kĩ khâu thẩm định, quản lí vốn vay để đảm bảo cho dự án hoạt động hiệu quả. II.3.2 Các loại hình cho vay và đặc điểm của hoạt động của hoạt động cho vay vốn dầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư. II.3.2.1 Các loại hình cho vay của NH. Ngân hàng có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau sau đây: * Theo mục đích sử dụng : -Cho vay bất động tài sản. -Cho vay công nghiệp và thương nghiệp. -Cho vay nông nghiệp. -Cho vay tiêu dùng. * Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng : -Cho vay có bảo đảm. -Cho vay không bảo đảm. * Theo thời hạn cho vay. -Cho vay ngắn hạn : Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cá nhân. -Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 1 năm và dưới 5 năm. Loại cho vay này thường được dùng để mua sắm tài sản cố định, mở rộng hoặc xây dựng công trình nhỏ. -Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm được sử dụng để cấp vốn xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. Đối với đầu tư phát triển thì hoạt động cho vay trung hạn và dài hạn mới có tác dụng chủ yếu. Do vậy để tăng cường khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu quan tâm đến 2 nguồn này. II. 3.2.2 Đặc điểm khác biệt của hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển so với cho vay ngắn hạn. Sự khác biệt của hoạt động cho vay đầu tư với cho vay ngắn hạn được thể hiện qua các đặc điểm sau: -Về thời hạn cho vay : Cho vay ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm, cho vay đầu tư thường có thời hạn dài hơn ít nhất là trên 1 năm. -Về độ rủi ro : Với thời hạn cho vay dài hạn nên hoạt động cho vay đầu tư có độ rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn. -Về lãi suất: Do thời gian vay dài độ rủi ro của hoạt dộng cho vay đầu tư có độ rủi ro cao hơn nên lãi suất của hoạt động cho vay đầu tư cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. -Về mục đích: Hoạt động cho vay đầu tư dùng để đầu tư mở rộng sản suất mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng... nói khác hơn là để đầu tư vào những dự án chưa thể sinh lời trong thời gian ngắn. Còn mục đích của vay ngắn hạn là để phục vụ chỉ tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương...tức là đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn. -Nguồn trả nợ : Nguồn trả nợ của hoạt động cho vay đầu tư là nguồn từ khấu hao và lợi nhuận để dành trước khi bước vào giai đoạn lạc hậu về công nghệ. Còn nguồn để trả nợ cho vay ngắn hạn là nguồn từ vốn lưu động. II.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển. II. 3.3.1. Nhân tố chủ quan: Trong thực tế quá trình hoạt động của Ngân hàng, chúng ta thấy trong cùng một thời gian, cùng một thị trường nhưng có những ngân hàng chất lượng cao tổn thất ít. Nhưng cũng có những ngân hàng gặp nhiều khó khăn, tổn thất cho vay lớn. Như vậy nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng cho vay chủ yếu ngay bên trong ngân hàng. Chúng ta xem xét một số nhân tố chủ yếu sau: a.Công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển: Ngân hàng với tư cách “ bà đỡ “ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp và dự án đầu tư, thường xuyên thực hiện công tác thẩm định để ngoài việc đánh giá hiệu quả dự án còn nhằm đảm bảo cho sự an toàn cho các nguồn vốn ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp và các dự án. Thẩm định là một khâu quan trọng nhất trong quy trình cho các dự án đầu tư của Ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định sẽ góp phần quyết định trong việc nâng cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro của ngân hàng, góp phần thúc đẩy sản suất phát triển. Thật vậy, công tác thẩm định chính là xem xét, đánh giá các yếu tố về tư cách pháp lý của người vay, năng lực tài chính của người vay, và xem xét tính khả thi của dự án vay vốn. Qua đó ngân hàng có được những nét cơ bản về khách hàng vay vốn và dự án vay vốn từ đó có được các kết quả để quyết định cho vay và nâng cao được hiệu quả vay vốn... Có thể khái quát công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển tập trung vào các vấn đề như sau: * Ngân hàng thẩm định tư cách pháp lí của đơn vị vay vốn. Người vay có đủ năng lực pháp lí theo quy định trong quan hệ vay vốn của ngân hàng hay không. Người vay có thuộc đối tượng vay vốn theo quy định hiện hành của các chế độ, thể lệ cho vay không. Tư cách của người đứng ra vay vốn: Khả năng quản lí, trình độ học vấn... Uy tín của đơn vị vay vốn : Chất lượng, giá cả hàng hoá, khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm trên thị trường, các quan hệ kinh tế tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và các ngân hàng. * Tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn: Đánh giá chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp của đơn vị vay vốn nhằm xác định sức mạnh tài chính. Khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng trả nợ của người vay. Trong phân tích tài chính doanh người ta thường áp dụng phương pháp tỷ lệ bởi ưu điểm của nó là. + Việc tính toán các chỉ tiêu là tương đối dễ dàng, có thể lập trình cho máy tính để tính một loạt các chỉ tiêu một cách nhanh chóng qua đó rút ngắn thời gian thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp. + Các chỉ tiêu có thể được tính theo từng năm hoặc từng giai đoạn. Do đó nó có thể so sánh đối chiếu với nhau để thấy được sự thay đổi theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực cũng như su hướng trong tương lai. + Phương pháp này chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính, Đây là nguồn thông tin sẵn có mà hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có. Nếu các báo cáo tài chính có độ chính xác cao thì thì kết quả tính toán theo phương pháp này có thể chấp nhận được. Tuy vậy phương pháp này đòi hỏi phải đề ra các ngưỡng, các định mức làm cơ sở để so sánh các giá trị tỷ lệ tính được của doanh nghiệp làm tham chiếu. Các tỷ lệ dùng để tính toán thường là 4 nhóm chỉ tiêu sau. Tỷ lệ khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ của doanh nghiệp. + Tỷ lệ thanh toán hiện hành: Cho biết khả năng thanh toán của các khoản nợ thường xuyên. Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn. ( Hệ số này nên lớn hơn hoặc bằng 1) Tài sản lưu động có + Tỷ lệ: Tài sản lưu động nợ Thông thường tỷ lệ này bằng 2/1 hoặc 4/1 thì đảm bảo tính khả thi. - Tỷ lệ khả năng cân vốn: Đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp. + Tỷ lệ nợ trong tổng tài sản : Xác định nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh nghiệp đối với chủ nợ trong việc góp vốn vào dự án. Tổng số nợ Hệ số nợ = Tổng tài sản Đây là tỷ lệ mà ngân hàng rất quan tâm vì tỷ lệ nợ cao thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ gảm sút . Thông thường tỷ lệ nợ này không quá 50%. + Tổng tài sản nợ trên tổng vốn sở hữu: Xác định khả năng trả nợ của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu. - Tỷ lệ khả năng hoạt động: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị vay vốn. + Hiệu xuất sử dụng tài sản cố định: Cho biết một đồng tài sản cố định đem lại bao nhiêu đồng doanh thu( Tài sản cố định tính theo giá còn lại tại thời điểm báo cáo) Tổng doanh thu của doanh nghiệp Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Giá trị tài sản cố định + Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu: Doanh thu tiêu thụ Doanh thu tiêu thụ sản phẩm = Tổng tài sản Tỷ lệ khả năng sinh lãi: Phản ánh hiệu quả quản lí xản suất kinh doanh và khả năng tiêu thụ sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh nghiệp. + Khả năng sinh lời của tài sản. + Doanh lợi thu từ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế / Doanh thu tiêu thụ. + Tỷ suất sinh lợi vốn đầu tư = Lợi nhuận trước thuế và lãi( hoặc lợi nhuận sau thuế) / Tổng tài sản. + Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có * Tính pháp lí của dự án. + Dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển và có được pháp luật cho phép không. + Về quản lý dự án có thể thực hiện được không. + Về mặt môi trường có hợp lí không... * Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Một dự án làm ăn không hiệu quả, rủi ro lớn thì khả năng hoàn trả lại món nợ cho ngân hàng là rất khó khăn. Chất lượng của hoạt động cho vay vốn các dự án đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án xét trên quan điểm ngân hàng xem xét trên các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu thu nhập thuần(NPV): Dùng để đánh giá quy mô lợi ích của dự án. Thường tính tổng thu nhập thuần về mặt bằng hiện tại hoặc mặt bằng tương lai. Chỉ tiêu này đánh giá quy mô lợi nhuận của dự án. Bi : Thu nhập năm i của dự án: Ci : Chi phí năm i của dự án: Sử dụng: - NPV được dùng để đánh giá hiệu quả của một dự á, dự án được chấp nhận khi NPV> 0. - Trong so sánh dự án đầu tư: Đối với dự án độc lập thì dự án được chọn là dự án có NPV>0. Còn đối với nhiều dự án lựa cho chọn dự ns có NPV max trong trường hợp dự án có tuổi thọ và đời dự án là như nhau. Hạn chế: Chỉ tiêu này không thấy được lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra và nó phụ thuộc rất lớn vào tỷ suất triết khấu. Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn(T): Thời gian thu hồi vốn là thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi đủ vốn bỏ ra. Thường ưu tiên cho những dự án có thời gian thu hồi vốn ngắn nếu các yếu tố khác như nhau. Chỉ tiêu này được xem xét trên hai góc độ: + Thời gian thu hồi vốn đầu tư từ lợi nhuân thuần: Theo phương pháp cộng dồn: Lợi nhuận hàng năm của dự án Doanh thu hàng năm của dự án. Chỉ tiêu doanh lợi vốn = x 100% Chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng sinh lợi của dự án càng cao. Điểm hoà vốn: Khả năng sinh lời và mức độ hoạt động an toàn của các dự án thường được diễn đạt bằng việc phân tích điểm hoà vốn. Trị số của các chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ dự án khả năng hoà vốn( hoặc bắt đầu có lãi ở mức độ sản lượng hoặc doanh thu thấp). Có nghĩa là dự án có khả năg sinh lời và mức độ an toàn trong hoạt động cao. Tổng vốn vay Khả năng trả nợ của dự án = x Tỷ lệ vốn vay trong tổng vốn + Khấu hao Lợi nhuận dành cơ bản để trả nợ từ dự án Khả năng trả nợ càng cao chứng tỏ dự án hoạt động càng an toàn và càng hiệu quả. Tổng tích luỹ từ dự án ( Lợi nhuận + KHCB) Các khoản nợ dài hạn phải trả hàng năm. Tỷ số trả nợ của dự án = Tỷ số này lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng trả nợ càng cao. Trên đây là 4 vấn đề quan trọng cần xem xét để quyết định cho vay vốn hay không. Ngoài ra ngân hàng cần phải xem xét một số yếu tố khách quan khác có tác động đến đơn vị vay vốn và dự án như: Những rủi ro tiềm ẩn của dự án có thể sảy ra trong tương lai. Môi trường kinh tế xã hội, môi trường pháp lý. Tài sản thế chấp... Khi cho vay và sau khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét đơn vị vay vốn sử dụng khoản vốn đó như thế nào, có đúng mục đích hay không, có hiệu quả không, trong quá trình sử dụng vốn doanh doanh nghiệp có gặp gì bất trắc hay không bản thân doanh nghiệp có ý đồ lừa đảo hay không... Và cuối cùng việc khánh hàng hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng ra sao, có đúng thời hạn không. Để làm được điều này đòi hỏi ngân hàng phải có các biện pháp hữu hiệu và sự hợp tác của khách hàng. Tóm lại: thẩm định là khâu đầu tiên và quan trọng nhất để đem lại hiệu quả của các công cuộc tài trợ vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện tốt khâu này thỉ dự án ngân hàng tài trợ mới có thể thu hồi được nợ và lãi đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. b.Công tác quản lý món vay. Thẩm định là khâu đầu tiên nhằm phân tích, đánh giá được các đơn vị vay vốn, hiệu quả kinh tế của các dự án vay vốn, khả năng trả nợ.Tuy nhiên trong giai đoạn thẩm định cũng chỉ là dựa trên những cơ sở pháp lý dự đoán kết quả, của mục tiêu tài trợ là công trình phát huy hiệu quả, trả được nợ cho ngân hàng lại phụ thuộc vào tình hình thực hiện thi công có đúng mục đích ban đầu hay không, có đúng quy định không. Do đó trách nhiệm của Ngân hàng không chỉ dừng ở việc ký kết hợp đồng mà phải có trách nhiệm theo dõi, quản lý món vay trong suốt thời gian khách hàng sử dung vốn của khách hàng vay vốn . Nếu sau khi cho vay ngân hàng không theo dõi quản lí món vay thì trong thời gian dài khách hàng sử dụng vốn thực hiện dự án sẽ không thể chắc chắn khoản tiền vay đó đã sử dụng đúng mục đích. Do vậy việc quản lí món vay không chỉ giúp ngân hàng bảo toàn vốn , có lợi nhuận mà còn giúp đơn vị vay vốn tránh được những rủi ro đáng tiếc. Chính việc quản lí thường xuyên , chặt chẽ món vay xẽ giúp cho ngân hàng phát hiện ra những sai lệch trong quá trình vận hành và quản lí dự án đó. Từ đó ngân hàng xẽ tư vấn cho doanh nghiêp, cùng với doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn để hạn chế tối đa tình huống không tốt sảy ra . Công tác quản lí món vay sẽ bắt đầu từ khi cho vay đến khi kết thúc hợp đồng cho vay. c. Chất lượng thông tin. Chất lượng thông tin cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng. ở đây phải được xem xét tổng hoà trên ba khía cạnh tính chính xác, tính kịp thời và tính đầy đủ của thông tin. Thật vậy: để tiến hành công tác thẩm định dự án vay vốn, việc đầu tiên là phải thu thập các thông tin liên quan cần thiết nói về tư cách pháp lí của khách hàng, thông tin về năng lực tài chính, thông tin về hiệu quả dự án vay vốn. Sau khi cho vay để xem xét quản lí món vay, cũng cần phải có thông tin, phải thu thập thông tin về việc sử dụng vốn vốn vay của đơn vị vay vốn có đúng mục đích hay không, hiệu quả không. Thông tin về những thuận lợi và khó khăn mà đơn vị vay vốn đang gặp phải, thông tin về tính chung thực của khách hàng, về thu nợ, thu nợ như thế nào... như vậy thông tin có chất lượng cao xẽ là đầu vào hoàn hảo cho mọi quá trình tiếp theo.Tuy nhiên, cũng chưa thể khẳng định rằng cứ có chất lượng thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời là có được những quyết định đúng đắn vì nó còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như việc sử lí thông tin có hiệu quả hay không. Nhưng chúng ta phải thừa nhận thông tin chính là một công cụ hiệu quả để đảm bảo cho hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng hiệu quả. d. Nguồn vốn huy động: Đầu tư vốn tín dụng là nhu cầu khách quan của nền kinh tế. Nguồn vốn để cho vay đầu tư của mỗi ngân hàng có thể từ các nguồn khác nhau nhưng có thể nói nguồn vốn huy động là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất. Để tiến hành hoạt động cho vay thì điều trước tiên là phải có nguồn vốn , do vậy hoạt động cho vay vốn cho đầu tư phát triển phụ thuộc vào nguồn vốn huy động. Nếu trong cơ cấu có nguồn vốn có thời gian dài cao thì trong cơ cấu sẽ cho vay xẽ có nguồn vốn cho vay có thời gian dài cho đầu tư phát triển xẽ ổn định. Ngân hàng xẽ có thể chủ động hơn về kì hạn cho vay, việc thực hiện rót vốn theo lịch trình được thực hiện đúng tiến độ, ngân hàng chủ động chi trả các khoản tiền gửi của khách hàng , vốn ngắn hạn với một tỷ lệ nhất định có thể cho vay dài hạn . e. Nhân tố con người. Bất cứ một khâu công việc nào trong hoạt động của ngân hàng nói chung và các hoạt động sử dụng vốn nói chung cho đầu tư phát triển của ngân hàng đều do con người thực hiện, con người đưa ra và quyết định. Con người chính là chủ thể của mọi hoạt động. Mọi quyết định về đường lối, chính sách về hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc thu thập thông tin, sử lý thông tin, quyết định cho vay, quản lý món vay, tiến hành thu nợ đều do con người đảm nhiệm. Do vậy chất lượng sản phâm trước tiên sẽ phụ thuộc vào người làm nó. Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng cũng không nằm ngoài lệ. f. Các nhân tố khác: * Khách hàng vay vốn. Một khi người vay vốn hoạt động xản xuất không hiệu quả, sản phấm sản xuất ra không tiêu thụ được , kinh doanh không có lãi, tình trạng thua lỗ sẽ là một nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến các khoản tín dụng không được thực hiện đúng và đủ. Trong trường hợp khách hàng vay vốn bị phá sản thì mất vốn của ngân hàng xẽ nghiêm trọng hơn “ Thành công của khách hàng cũng chính là sự thàng công của ngân hàng “. Như vậy chất lượng của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển không chỉ phụ thuộc vào bản thân ngân hàng mà nó còn phụ thuộc vào khách hàng vay vốn. Trong quản lý hoạt động của ngân hàng đối với khách hàng vay vốn ta chú ý đến các yếu tố sau đây. Tư cách pháp lý của người vay và năng lực của người vay. * Ngoài ra hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng còn chịu tác động của các yếu tố sau đây: Chính sách kinh tế vĩ mô, những biến động về thị trường, điều kiện tự nhiên... Để có thể đề ra được các giải pháp cho huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng ta đi xem xét và phân tích cụ thể tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây . Phần II Thực trạng và đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại Ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Tây: I. Tổng quan về ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây: Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là một trong những chi nhánh của ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam. Tiền thân của nó là phòng đầu tư và phát triển Hà Sơn Bình được thành lập ngày 1-6-1990. Cũng giống như các chi nhánh khác trực thuộc ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam, toàn bộ hệ thống ngân hàng Đầu tư & phát triển bên cạnh việc kinh doanh tổng hợp như những ngân hàng thương mại khác còn tham gia vào cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước đề ra. Chính vì vậy, để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư và phát triển không chỉ căn cứ vào lợi nhuận mà còn phải căn cứ vào các đóng góp của nó thông qua việc cho vay đầu tư phát triển đối với kinh tế địa phương. Kể từ năm 1998 đến nay, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã cho vay trên dự án đầu tư với tổng số vốn là 389.968 triệu đồng. Hầu hết các dự án đầu tư do ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây cho vay đều đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Điển hình trong những dự án phát huy hiệu quả tốt có các dự án của công ty xi măng Tiên Sơn, công ty thực phẩm Hà Tây, nhà máy cơ khí Sơn Tây, công ty du lịch Ao Vua... I.1. Mô hình tổ chức của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây: Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây có bộ máy gọn nhẹ, tinh giảm nhìn chung đủ các phòng ban cần thiết đảm bảo thực hiện những nhiệm vụ và chức năng của mình. Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là 85 người, trong đó bao gồm một chi nhánh trực thuộc và tám phòng nghiệp vụ, hai phòng giao dịch với các bàn tiết kiệm ở thị xã Hà Đông và thị xã Sơn Tây. Trụ sở chính của ngân hàng đóng tại 197 đường Quang Trung - thị xã Hà Đông - tỉnh Hà Tây. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây như sau: Ban giám đốc Khu vực Sơn Tây ( phòng chức năng) Phòng tổ chức hành chính Phòng huy động (các bàn giao dịch) Phòng kiểm soát nội bộ Phòng kế toán tài chính Phòng tín dụng 2 Phòng tín dụng 1 Phòng nguồn vốn, kho quỹ I.2. Những thuận lợi và khó khăn hiện nay đối với ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây: I.2.1. Thuận lợi: - Trung tâm giao dịch thanh toán của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây nằm ở thị xã Hà Đông gần sát thủ đô Hà Nội - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Đây là môi trường rất thuận lợi cho ngân hàng hoà nhập với nhịp điệu và cơ chế mới trong hoạt động kinh doanh của cả nước đồng thời dễ dàng trang bị cho mình những thiết bị công nghệ mới, học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý kinh doanh cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn đến giao dịch tại hội sở. Cũng do gần trung ương nên ngân hàng luôn nhận được sự chỉ đạo sát sao và chặt chẽ của cấp chủ quản. - Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây là đơn vị thành viên của một ngân hàng thương mại quốc doanh lớn và có truyền thống lâu đời, ngân hàng có thể học hỏi, tiếp nhận những kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây có trình độ tương đối cao, phẩm chất đạo đức tốt, nhiệt tình với công việc... Tính đến thời điểm 31-12-2000 trong số 85 cán bộ công nhân viên của ngân hàng thì trên 60% là có trình độ đại học. I.2.2. Khó khăn: Bên cạnh những mặt thuận lợi như trên, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây cũng đang phải đối đầu với không ít khó khăn thử thách mà cụ thể là: - Nhu cầu đòi hỏi về vốn đầu tư để tăng trưởng phát triển kinh tế rất lớn nhưng việc chuẩn bị được các dự án khả thi còn ít; doanh nghiệp yêu cầu vốn vay trong thời gian dài, lãi suất thấp nhưng việc huy động vốn trung - dài hạn lại gặp nhiều khó khăn. Để huy động được nguồn vốn đó thì phải đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền (lãi suất phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn). Huy động dài hạn với lãi suất cao nhưng cho vay đầu tư với lãi suất cao thì doanh nghiệp lại không chấp nhận. Đây là một khó khăn thử thách rất lớn đối với ngân hàng để giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo trong phục vụ đầu tư phát triển. - Ngân hàng hoạt động sát bên địa bàn Hà Nội, do vậy chịu sự cạnh tranh rất mạnh mẽ từ phía các ngân hàng thương mại khác cả về nội dung hoạt động cũng như nguồn nhân lực. - Tình hình kinh tế nước ta nói chung và tỉnh Hà Tây nói riêng vẫn đang gặp phải những khó khăn thử thách hết sức gay gắt, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn chưa được cải thiện nhiều, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm. Điều này ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cũng như vay ngân hàng để đầu tư. - Từ năm 1980 đến 1995 ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây luôn có sự biến động về mô hình tổ chức, tách ra rồi lại sát nhập nhiều lần. Điều này gây tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm của đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng cũng như tác động không tốt đến các khách hàng có quan hệ thường xuyên với chi nhánh. - Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây nhìn chung còn ở quy mô nhỏ bé, thiếu dự án hiệu quả để đầu tư. - Hệ thống pháp luật, chính sách còn nhiều bất cập, cụ thể là cơ chế chính sách về đầu tư phát triển và tiền tệ tín dụng còn thiếu đồng bộ, chế độ về đầu tư xây dựng cơ bản bị sửa đổi bổ xung nhiều lần gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Nhận thức được những khó khăn và thuận lợi của mình, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã đề ra nhiều biện pháp để thực hiện tốt kinh doanh như tạo điều kiện thuận lợi ở mức có thể tối đa cho khách hàng, có ưu tiên đặc biệt đối với các khách hàng truyền thống của mình, mở rộng cho vay đối với các khách hàng ngoài quốc doanh, đổi mới phong cách phục vụ... Mặt khác chi nhánh luôn bám sát định hướng phát triển của ngành, thực hiện nghiêm túc các quy định, quy tắc, nghiệp vụ của ngành và thận trọng trong ký duyệt cho vay để đề phòng rủi ro trong cơ chế thị trường, phục vụ tốt hơn công tác đầu tư phát triển. II. Thực trạng và đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây. II.1. Thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn nói chung của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây. Hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn là hai vấn đề không thể rời nhau, sử dụng vốn là cơ sở và động lực cho công tác huy động vốn và huy động vốn lại thúc đẩy sự mở rộng, phát triển việc sử dụng vốn. Vì vậy, ngân hàng trong quá trình hoạt động của mình luôn cố gắng thực hiện tốt hơn công tác huy động vốn nhằm đáp ứng cho việc sử dụng vốn. Việc huy động vốn phải dựa trên kết quả xác định nhu cầu vốn và thực hiện đáp ứng yêu cầu đó. Tuy nhiên trong phần sử dụng vốn thì việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả và có lợi cho ngân hàng và nền kinh tế . Ví dụ việc cho vay vốn đầu tư tại ngân hàng không chỉ sử dụng nguồn vốn huy động có thời hạn dài cho đầu tư mà còn sử dụng vốn ngắn hạn, việc đó là đúng theo quy định của nhà nước ( được phép lấy 20% vốn ngắn hạn cho vay đầu tư .).Đây chỉ là giải pháp tình thế nhằm tạo vốn cho nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tóm lại huy động vốn và sử dụng vốn như thế nào là hợp lí để vừa đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với ngân hàng. Bởi nếu sự cân đối dữa huy động và cho vay không tốt sẽ có thể ảnh hưởng sấu đến hoạt động của ngân hàng. Đối với ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây để thấy rõ mối quan hệ dữa huy động và cho vay nói chung được thể hiện qua bảng 1: Thực trạng huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây . Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu Năm 1998 Năm1999 Năm 2000 Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng Giá trị Tỷ trọng I. Huy động vốn 234.729 100% 339.785 100% 386.961 100% 1. Vốn huy động ngắn hạn 126.854 54% 242.232 71% 295.321 76% 2. Vốn huy động trung và dài hạn 69.013 29% 61.203 18% 58.369 15% 3. Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư. 38.862 17% 36.35 11% 33.279 9% II. Sử dụng vốn. 207.025 100% 239.944 100% 286.529 100% 1. Cho vay ngắn hạn 91.884 44% 134.123 56% 172.214 60% 2. Cho vay trung và dài hạn 74.879 36% 75.608 32% 78.456 27% 3. Tài trợ uỷ thác đầu tư. 40.262 20% 30.213 12% 35.859 27% III. Phần dư trưng và dài hạn và tài trợ -7.266 -8.268 -22.675 Theo số liệu bảng 1 ta thấy, nguồn vốn huy động của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây tăng lên rõ rệt, năm 1999 tăng ( 44,7%) so với năm 1998 và năm 2000 tăng (13,9%) bằng 386.916 triệu. Tuy nhiên tỷ trọng vốn trung và dài hạn so với tổng nguồn lại giảm, cụ thể qua ba năm 1998 – 2000 tưng ứng là 29%,18%,15%. Về số tuyệt đối năm 1999 là 61.203 triệu đến năm 2000 chỉ còn 58.369 triệu. Điều này cho thấy việc nguồn vốn tăng mạnh là do sự tăng lên của nguồn vốn huy động ngắn hạn . Đây cũng là tình trạng chung của nhiều ngân hàng thương mại khác trong những năm gần đây, nhiều ngân hàng thừa nhiều vốn ngắn hạn từ huy động, gây nên tình trạng “ ứ đọng vốn ngắn hạn” song lại thiếu vốn trung và dài hạn cho đầu tư của nền kinh tế. Tiếp theo ta thấy tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Tây có su hướng giảm, ,Năm 1998 tỷ lệ này là 36%, đến năm 1999 và năm 2000 tỷ lệ này còn tương ứng là 32% và 27%.Mặc dù tổng cho vay trung và dài hạn chủa ngân hàng từ năm 1998 đến năm 2000 co sự tăng về giá trị tuyệt đối từ năm 1998 đến năm 2000 có giá trị tương ứng là 74.879 triệu đồng, 75.608 triệu đồng và 78.456 triệu đồng. nhưng ta thấy mức tăng này chưa đáng kể và tương xứng với ngân hàng đầu tư một ngân hàng có nhiệm vụ chủ yếu là cho vay trung và dài hạn cho các dự án đầu tư .Mặt khác nếu xét riêng tốc độ tăng trưởng các khoản cho vay trung và dài hạn ta thấy rằng từ năm 1998 đến năm 2000 cũng đã có sự tăng trưởng nhưng tỷ lệ tăng trưởng không cao cụ thể tốc độ tăng trưởng của nguồn này tương ứng là 0,9%, 3,76%.Điều đó cho thấy việc cho vay trung và dài hạn cũng gặp nhiều khó khăn , một phần có thể về phía khách hàng không giám vay do làm ăn không hiệu quả về phía ngân hàng có thể không cho vay được vì các dự án đưa ra có thể không mang tính khả thi, hay ngân hàng không thể huy động được nhiều nguồn vốn này... Xem xét mối quan hệ dữa huy động và cho vay trung và dài hạn và tài trợ cho đầu tư phát triển ta thấy trong 3 năm từ 1998 đến năm 2000 số dư phần trênh lệch này kết âm tương ứng là( -7.266, -8.268,-22.675 triệu đồng.) . Như vậy ta thấy nguồn vốn trung và dài hạn và tài trợ uỷ thách đầu tư của ngân hàng chua đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Mặt khác cũng nhìn vào tỷ lệ âm này ta thấy ngân hàng đã có một sự cân đối trong cho vay ngắn hạn để lấy một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn cho đầu tư phát triển, theo dúng chỉ thị 12/CT-NH. của ngân hàng nhà nước , đây là một giải pháp tình thế ngân hàng nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được phép lấy 20% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn cho nền tế trong điều kiện các ngân hàng thương mại đang thừa vốn ngắn hạn. Do vậy dự nợ cho vay trung và dài hạn của ngân hàng lớn hơn mức huy trung và dài hạn và tài trợ uỷ thách đầu tư.Tuy nhiên ngân hàng sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho nay trung và dài hạn các dự án đầu tư sẽ làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Do vây nếu khai thác được có hiệu quả nguồn vốn có thời gian dài hơn nữa thì ngân hàng sẽ có thể cho vay đầu tư phát triển nhiều hơn nữa. điều này ngân hàng nhận thức rõ vấn đề và cố gắng trong việc tìm kiếm nguồn vốn có thời gian dài để cho vay đầu tư phát triển. Trong tương lai , theo su hướng chung thì công tác huy động vốn có thời gian dài cho đầu tư phát triển xẽ đựoc chú trọng , bởi nhu cầu về nguồn vốn có thời gian dài trong các doanh nghiệp đang có đòi hỏi rất lớn do các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới các trang thiết bị , xây dựng mới các nhà xưởn... để nâng cao trình độ sản xuất phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Do vậy ngân hàng cần phải đáp ứng nhu cầu của các doạn nghiệp và cần đảm bảo an toàn và hiệu quả . Mặt khác đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải nỗ lực phấn đấu để làm ăn hiệu quả và có thể đảm bảo chi trả đúng hạn cho các khoản nợ của ngân hàng. Có như vậy ngân hàng mới tồn tại và phát triển được. Tóm lại : Việc cân đối dữa huy động nguồn và sử dụng vốn nói chung và vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng là rất khó cho sự đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Do vậy đòi hỏi ngân hàng phải đề ra đựoc những giải pháp hưu hiệu trong cả huy động vốn và sử dụng vốn nhằm phục vụ tốt hơn cho đầu tư phát triển. Để thấy rõ hơn và đề ra những giải pháp cho huy động vốn và sử dụng vốn cho đàu tư và phát triển đòi hỏi ta phải xem xét cụ thể thực trạng tình hình huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư và phát triển của ngân hàng. II.2. Thực trạng và đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng. II.2.1. Thực trạng huy._.ể chấp nhận được, bởi nó phù hợp với mong muốn, tâm lý của người Việt Nam. + Hình thức tiết kiệm bảo đảm bằng vàng hay USD hoặc hình thức huy động bằng vàng: Hình thức này tránh được tâm lý sợ mất giá trị tài sản của mình. Hình thức huy động này đã tác động vào tâm lý đó và họ thấy rằng việc gửi tiền tiết kiệm như vậy không những bảo đảm được tài sản của mình mà còn nhận được một khoản lãi từ phía ngân hàng. Ngoài ra có thể sử dụng tiết kiệm có quay số mở thưởng theo định kỳ. Tuy nhiên tất cả các hình thức trên còn rất mới đối với các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây. Do đó, ngân hàng muốn tiến hành các hình thức huy động này sẽ gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm cũng như thiếu điều kiện để thực hiện. Song để thực hiện được các hình thức này trong một tương lai gần thì ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây cần phải có sự chuẩn bị chu đáo. Hy vọng rằng ngân hàng sẽ sử dụng những hình thức trên để bổ xung thêm nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế. * Đối với kỳ phiếu, trái phiếu: - Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có thể chiết khấu và chuyển đổi: Ngân hàng nên thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, trái phiếu nhằm tạo tính lỏng cho công cụ nợ này, hoặc phát hành những trái phiếu có khả năng chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường. Các trái phiếu này có thể bán lại cho các cá nhân, các doanh nghiệp, các ngân hàng và cho bất kỳ tổ chức cơ quan nào có khả năng tài chính để mua nó. Ngân hàng cũng nên có các loại trái phiếu khác nhau: vô danh, ghi danh, ghi sổ... hay với các thời hạn khác nhau, hình thức trả lãi khác nhau... để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có mục đích: Để nâng cao hiệu quả huy động vốn có thời hạn dài cho đầu tư thì một vấn đề đáng quan tâm trong huy động vốn là ngân hàng phải lấy tư cách của nhà nước hoặc địa phương để huy động vốn đầu tư cho các công trình kinh tế trọng điểm công cộng. Nên chăng ngân hàng mở rộng hình thức huy động dưới dạng phát hành trái phiếu có mục đích và khi đó sẽ được sự tin tưởng và ủng hộ của mọi người. Do đó, ngân hàng sẽ thu hút được nhiều vốn, tốn ít chi phí cho việc cổ động, tuyên truyền, và vì mục đích chung nên kể cả trong trường hợp lãi suất không cao lắm nhưng vẫn được sự tham gia nhiệt tình của mọi người dân nước ta. II.1.2. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt hợp lý: Lãi suất là một công cụ quan trọng để ngân hàng huy động nguồn vốn hiện có nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức khác. Bởi khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi tiết kiệm hay mua các công cụ của ngân hàng đều nhằm mục tiêu lãi suất là hàng đầu. Do đó một sự biến động nhỏ về lãi suất cũng có thể thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm hay nhà đầu tư chuyển vốn của họ sang tiết kiệm hoặc đầu tư cho một tổ chức hoặc công ty khác, đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ. Để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho đầu tư thì ngân hàng cần tăng lượng vốn huy động và giảm chi phí huy động, điều đó không có nghĩa là tăng lãi suất huy động. Do đó, nếu tăng lãi suất huy động thì ngân hàng làm tăng chi phí của mình hoặc giảm thu, lại hạn chế công tác cho vay. Vì vậy, ngân hàng cần đưa ra mức lãi suất hợp lý để kích thích được khách hàng, giảm tối đa chi phí của ngân hàng và cho vay dễ dàng hơn. Tuy nhiên ngân hàng cần duy trì mức lãi suất ổn định nhằm tạo sự an tâm cho khách hàng. Bởi lãi suất biến động mạnh làm cho họ sợ thiệt nhất là khi lãi suất giảm, và khi đó khách hàng không muốn gửi tiền. Ngược lại, lãi suất huy động cao thì lãi suất cho vay cao, trong khi việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, do đó ngân hàng không muốn huy động. Đây là bài toán hóc búa với tất cả các ngân hàng thương mại, chứ không riêng ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây. Em xin đề xuất một số giải pháp sau: Chính sách lãi suất nhằm đạt được chi phí hợp lý: Ngân hàng muốn nâng cao vốn có thời hạn dài cho đầu tư phát triển nhưng lại muốn giảm thiểu chi phí huy động, để làm được điều đó ngân hàng cần nâng lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn, tiết kiệm chi phí không cần thiết (thuê địa điểm hoặc quảng cáo, in ấn và cần sử dụng cơ sở vật chất và cán bộ sẵn có). Ngân hàng cũng không nên khi đến đợt huy động thì quảng cáo rầm rộ, tốn kém mà nên có sự chuẩn bị trước nhằm tiết kiệm các khoản chi phí không cần thiết. Mặt khác ngân hàng có thể hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn để đảm bảo chi phí huy động trung bình không bị tăng lên, đảm bảo vẫn có lãi trong hoạt động ngân hàng. Điều đó cũng đảm bảo nguyên tắc: lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dài cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ngắn, tạo được “độ chênh” về lãi suất nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài. Đối với nhiều nước phát triển thì tiền gửi không kỳ hạn không được hưởng lãi mà được hưởng các tiện ích của ngân hàng như thực hiện thanh toán và một dịch vụ khác của ngân hàng. Còn ở Việt Nam hiện nay, chúng ta vẫn trả lãi suất nhằm thu hút nguồn vốn ngắn hạn nhưng trong tương lai, theo em cùng với việc hoàn thiện công tác thanh toán qua ngân hàng từ dân cư, tổ chức kinh tế và phát triển các dịch vụ khác của ngân hàng thì tiền gửi này không trả lãi hoặc trả lãi thấp nhằm tập trung cho công tác huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế. Như vậy, lãi suất huy động vốn cho đầu tư cần được xử lý linh hoạt theo hướng thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao (tạo được khoảng cách lãi suất giữa kỳ hạn ngắn và kỳ hạn dài) phản ánh được quan hệ cung cầu về vốn (lãi suất đầu ra quy định lãi suất đầu vào) đảm bảo cho lãi suất thực dương. b. Chính sách thưởng lãi suất đối với khách hàng duy trì số dư trên tài khoản với thời hạn dài hơn so với thời hạn ban đầu: Đối với khách hàng rút tiền trước hạn thì ngân hàng thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của kỳ hạn ban đầu. Vậy thế thì trong trường hợp ngược lai, ngân hàng có thể khuyến khích người gửi tiền trên tài khoản với thời hạn dài hơn so với kỳ hạn ban đầu. Đây là việc nên làm bởi vì ở Việt Nam người dân thường gửi kỳ hạn thấp như 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng vì sợ có việc đột xuất xảy ra như ốm đau, cưới xin, xây nhà... nhưng có khi không rút tiền trong thời hạn 2 năm, 3 năm... Vậy thì ngân hàng có thể thưởng thêm một tỷ lệ phần trăm nào đó cho những trường hợp dài hạn. Ví dụ: lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng là 12%/năm còn lãi suất huy động loại 2 năm là 14%/năm thì ngân hàng có thể thưởng tương ứng 0.5%, 1% cho khách hàng trong 2 năm. Điều đó sẽ thu hút được thêm khách hàng có tiền nhàn rỗi nhưng chưa xác định được thời gian dùng đến, họ sẽ ít bị thiệt thòi hơn. Mặt khác, ngân hàng cũng có một khoản vốn với thời hạn dài hơn để đầu tư với chi phí thấp. c. Chính sách hợp lý đối với khoản tiền rút trước hạn: Bản thân khách hàng không bao giờ muốn rút tiền trước hạn, nhất là trong trường hợp họ gửi tiền và đầu tư với kỳ hạn dài. Song do những việc đột xuất nên họ đành phải rút tiền trước hoặc thanh toán trước thời hạn. Về nguyên tắc thoả thuận là không được nhưng để khuyến khích khách hàng thì ngân hàng vẫn nên đồng ý cho rút trước và cho hưởng mức lãi suất tuỳ theo thời hạn gửi so với kỳ hạn ban đầu. Thực ra việc rút trước thời hạn gây khó khăn cho ngân hàng về vốn, nhất là họ rút với khoản tiền lớn trong khi đó ngân hàng đã đầu tư vào những công trình, dự án có thời gian dài mà không thể rút lại được. Nếu khách hàng cảm nhận và đứng trong hoàn cảnh đó họ sẽ không cảm thấy mình bị "bóp chẹt" trong lúc khó khăn. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần cố gắng tối đa để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng mặc dù một số thoả thuận không có. Ví dụ như khi khácg hàng mua trái phiếu 5 năm (lãi suất trả trước) thì khách hàng được trả lãi trước hàng năm và mệnh giá được trả năm cuối cùng nhưng hàng năm khách hàng không đến lấy lãi và đến năm cuối cùng mới lĩnh. Tất nhiên lãi suất không được nhập với gốc và nếu những năm cuối mới lĩnh và nếu những năm sau lãi suất giảm thì ngân hàng vẫn cho khách hàng hưởng lãi suất như năm đầu. Trong trường hợp năm cuối quá 2 tháng thì số tiền gốc đó cho hưởng lãi suất không kỳ hạn. Điều này thể hiện chính sách lãi suất có sự linh hoạt và hợp lý. II.1.3. Các biện pháp khác: II.1.3.1. Thực hiện bảo hiểm tiền gửi: Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn có sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, lạm phát... khiến cho hoạt động ngân hàng trở nên vô cùng mạo hiểm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đặc biệt đối với những khoản tiền gửi dài hạn thì khả năng rủi ro khó có thể lường trước được. Do vậy ngân hàng cùng với khách hàng nên thực hiện việc bảo hiểm các khoản tiền gửi dài hạn này để đảm bảo thua thiệt cho khách hàng và ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra. II.1.3.2. Thực hiện công tác tư vấn cho người gửi tiền: Có thể giúp khách hàng nên gửi tiền theo hình thức nào, thời hạn bao lâu để đáp ứng nhu cầu của họ trong hoạt động gửi tiền tạo sự yên tâm cho khách hàng. II.2.Giải pháp đối với hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng: II.2.1. Nâng cao hiệu quả khâu thẩm định dự án vay vốn: Trong toàn bộ quy trình cho vay khâu thẩm định được xem là khâu quan trọng nhất quyết định khả năng thu được nợ và lãi của ngân hàng, nếu khâu thẩm định làm không tốt thì các bước tiếp theo sẽ gặp nhiều khó khăn, là nguyên nhân dẫn tới nợ quá hạn và nợ khó đòi. Nên trong bước này đòi hỏi ngân hàng phải có một đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ, có khả năng nắm rõ khách hàng. Việc thẩm định dự án cho vay ngoài việc thông qua một số phương pháp truyền thống như xác định chỉ tiêu IRR, NPV để xác định hiệu quả tài chính của dự án còn có một số phương pháp khác như phương pháp hệ số tin cậy, phân tích độ nhạy của các chỉ tiêu hiệu quả đang được các ngân hàng hiện đại trên thế giới áp dụng. Ngân hàng nên học tập kinh nghiệm, sử dụng càng nhiều phương pháp để thẩm định thì đọ chính xác sẽ càng cao và khả năng cho vay an toàn càng được đảm bảo. Ngoài việc xem xét kỹ các điều kiện cần đã được quy định trong các thể lệ cho vay, cần kiểm tra kỹ các điều kiện đủ sau đây: * Phải biết rõ khách hàng: Khách hàng vay vốn là các pháp nhân hay thể nhân, thuộc thành phần kinh tế nào, cơ quan chủ quản nào ra quyết định thành lập. Giấy phép hành nghề hoạt động, trụ sở làm việc, địa chỉ giao dịch, tài khoản ngân hàng giao dịch, kết quả kinh doanh của khách hàng (cả hiện tại và quá khứ), việc chấp hành các nghĩa vụ đối với Nhà nước và bạn hàng làm ăn của đơn vị vay vốn có chính đáng hay không về khả năng tài chính... Tóm lại: phải nhận biết và đánh giá đúng bản chất và khả năng của khách hàng cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trên cơ sở đó xác định mức độ khách hàng tốt, xấu hay trung bình để có sự phân biệt về chế tài tín dụng thích hợp đối với khách hàng vay vốn. Đánh giá khách hàng thường mắc sai lầm lớn nhất là không nắm bắt hết các thông tin chính xác về khách hàng, không tìm hiểu kỹ để biết được mặt mạnh, mặt yếu và dự báo những rủi ro tiềm ẩn. * Phải biết rõ hiệu quả kinh tế đích thực của các khoản vay, dự án vay: Tổ chức thẩm định qua một đầu mối là hội đồng tín dụng để tìm ra hiệu quả đích thực của khoản vay, dự án vay. Tránh trường hợp dự án lập ra chỉ là giấy vẽ với đầy đủ cấp có thẩm quyền ký duyệt hợp lệ, hợp pháp nhưng không khả thi và chỉ nhằm mục đích lợi dụng mọi kẽ hở của cơ chế chính sách, lừa đảo để vay vốn ngân hàng. Hiệu quả kinh tế của dự án vay, dưới góc độ ngân hàng, nó là toàn bộ số tiền khấu hao và số tiền là lợi nhuận thu được của dự án, sau khi trừ thuế trừ các quỹ trích lập theo chế độ quy định. * Phải biết rõ khả năng vay trả của khách hàng: Dự án vay vốn trả được nợ ngân hàng là dự án có hiệu quả kinh tế đích thực, còn dự án thể hiện hiệu quả kinh tế trên giấy tờ mới chỉ là khả năng tính toán, giữa tính toán với thực hiện vẫn còn khoảng cách nhất định. Vì vậy điều kiện vay trả của dự án phụ thuộc vào các yếu tố như thời hạn vay trả, mức độ vay trả theo từng kỳ hạn nợ tương ứng với khả năng nguồn vốn dùng để trả nợ trong tương lai của doanh nghiệp (như nguồn tiền tiêu thụ sản phẩm, thu dịch vụ, thu khác...). Cần hết sức chú ý quy định rõ trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng về thời hạn vay, thời hạn trả nợ, lịch trả nợ, trong đó thể hiện rõ mức trả nợ của dự án vay vốn theo phương án tốt, trung bình hoặc xấu nhất. Nếu mức trả nợ của dự án vay vốn rơi vào phương án trả nợ xấu nhất thuộc về nguyên nhân khách quan nhưng doanh nghiệp có đủ các nguồn vốn khác và cam kết trả nợ vay ngân hàng (hoặc có hợp đồng bảo hành trả nợ thay) thì ngân hàng có thể cho vay. Việc định kỳ hạn nợ phải trên cơ sở căn cứ vào chu kỳ sản xuất, hoặc khả năng vay trả, theo thông lệ quốc tế kỳ hạn nợ thường là 6 tháng/kỳ hạn. * Phải biết rõ năng lực quản trị điều hành của khách hàng: Nhân tố về năng lực, phẩm chất quản trị điều hành của người chủ dự án quyết định mọi sự thành công của việc trả nợ ngân hàng. Chính chủ dự án là người trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm về tiến độ và chất lượng khi công trình khởi công đến khi kết thúc nghiệm thu đưa công trình vào khai thác sử dụng và trả nợ vốn vay ngân hàng. Nếu người lãnh đạo dự án không đủ năng lực quản trị điều hành và thiếu cái "tâm", vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thì chắc chắn vốn ngân hàng cũng mất khả năng thu hồi và chịu ảnh hưởng tiêu cực. * Những điều kiện an toàn cho vay: Việc quyết định cho vay của ngân hàng cần đảm bảo nguyên tắc "Vốn vay phải có vật tư thế chấp tương đương làm đảm bảo". Tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vốn vay của ngân hàng tuy không phải là bùa hộ mệnh của ngân hàng nhưng đó là các khoản an toàn cuối cùng thường được áp dụng bắt buộc trong biện pháp an toàn tín dụng đối với các ngân hàng trên thế giới, nhằm giúp ngân hàng bắt nợ trong trường hợp khách hàng vay vốn có biểu hiện lừa đảo, chộp giật hoặc kinh doanh thua lỗ mất khả năng trả nợ. Ngân hàng phải trực tiếp thẩm định, đánh giá đúng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, và được các cơ quan định giá có thẩm quyền xác nhận, có công chứng. Đồng thời phải làm thành văn bản hợp đồng thế chấp cầm cố, bảo lãnh đúng quy định tránh tình trạng khi phát mại tài sản gặp phải sự tranh chấp về đồng sở hữu, về giá trị tài sản thế chấp hoặc bị vô hiệu hợp đồng kinh tế. Kinh nghiệm thực tế cho thấy trong việc ra quyết định cho vay vốn, ngân hàng phải trực tiếp kiểm soát chặt chẽ về khả năng vay trả của doanh nghiệp, về thực tế tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Tuyệt đối không coi” tài sản thế chấp là bùa hộ mệnh”, mà phải coi trọng hiệu quả kinh tế của dự án vay vốn và khả năng vay trả đích thực của dự án, của doanh nghiệp là điều kiện quyết định toàn bộ chất lượng tín dụng trong cơ chế thị trường. II.2.2. Giám sát khách hàng vay: Việc giám sát khách hàng trong và sau khi cho vay là rất quan trọng, nhằm khắc phục việc định lượng rủi ro không rõ ràng và làm ảnh hưởng tới khả năng thu nợ của ngân hàng. Cho nên ngân hàng sau khi cho vay vốn cần phải theo dõi, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tiền vay của khách hàng. Nếu có những biểu hiện sử dụng vốn sai mục đích, hoặc xảy ra những sự cố có thể dẫn tới không hoàn trả được vốn vay. Ngân hàng cần có những biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp thời. Trong qua trình giám sát ngân hàng cần chú ý tới các dấu hiệu khả năng các khoản vay khó thu hồi. Mặc dù không có một mô hình chuẩn để xác định khoản vay khó hoàn trả, tuy nhiên ngân hàng cũng có thể nắm bắt được thông qua các biểu hiện: * Doanh nghiệp chận trễ trong việc nộp các báo cáo tài chính về tình hình kinh doanh, công việc này đôi khi bị bỏ qua hoặc nếu có cũng rất chiếu lệ nhằm che đậy thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp. * Có biểu hiện trốn tránh hoặc khoái thác khi ngân hàng tới kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp. * Doanh nghiệp có sự gia tăng bất thường hàng tồn kho, các khoản bán chịu chưa thu tiền, có sự gia tăng các khoản nợ chưa thanh toán, rút séc vượt số dư tiền gửi. * Có những lộn xộn trong nội bộ doanh nghiệp: sự thay đổi ban lãnh đạo, giám đốc từ chức hoặc bỏ trốn, xuất hiện sự đình công, bãi công của công nhân. Doanh nghiệp chứa đựng những nguy cơ giải thể hoặc phải sát nhập... * Các rủi ro do thiên tai gây ra, có ảnh hưởng tới hoạt động của * Doanh nghiệp hay tiến trình thực hiện dự án... Qua quan sát những dấu hiệu này, có thể giúp ngân hàng kiểm soát tốt các khoản vay và có các biện pháp kịp thời hạn chế các rủi ro về tín dụng đầu tư. Khi có dấu hiệu các khoản vay có vấn đề ngân hàng cần nhanh chóng có những biện pháp để bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Trong quá trình giám sát nếu khách hàng có những biểu hiện gian dối, sử dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng phải kiên quyết thu hồi nợ trước hạn. II.2.3. Thực hiện các biện pháp hạn chế nợ quá hạn: Trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ vay trả và việc chiếm dụng vốn lẫn nhau là không thể tránh khỏi. Nó được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như bán chịu hàng hóa, sử dụng các thương phiếu... Các mối quan hệ này tồn tại một cách khách quan. Ngay cả đối với ngân hàng hoạt động chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, nhận tiền gửi của người này, đem cho người khác vay để thu lợi nhuận. Việc tồn tại nợ quá hạn là hoàn toàn không thể tránh khỏi, kinh nghiệm cho thấy trong lịch sử hoạt động ngân hàng luôn tồn tại nợ quá hạn khó đòi và họ sẽ còn phải tiếp tục làm như vậy trong tương lai. Nhưng tỷ lệ nợ quá hạn bao nhiêu là hợp lý, để vừa đảm bảo khả năng thanh toán vừa đảm bảo khả năng thu được lợi nhuận của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao là một khó khăn đối với ngân hàng, không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn trực tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Để hạn chế nợ quá hạn, ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây đã có những giải pháp thiết thực từ khâu thẩm định đến khâu quản lý tiền vay, giám sát khách hàng vay để có biện pháp xử lý kịp thời. Ngoài ra ngân hàng có thể sử dụng thêm các biện pháp sau: * Gia tăng cho vay đối với những khách hàng có những phương án phục hồi sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao, tư vấn cho khách hàng phương án kinh doanh hiệu quả. Giải pháp này chỉ có hiệu quả thực sự khi cả ngân hàng và doanh nghiệp đều cố gắng vực doanh nghiệp đi lên. Nếu không có sự cố gắng đó chắc chắn doanh nghiệp sẽ khó có khả năng trả nợ cho ngân hàng. * Ngân hàng có thể đề nghị doanh nghiệp tăng thêm tài sản thế chấp để đảm bảo cho các khoản vay mới, hoặc giúp đỡ doanh nghiệp tìm kiếm các bạn hàng tốt, tư vấn khuyến khích doanh nghiệp bán giảm giá hàng hóa, giúp tiêu thụ nhanh hàng hóa, cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn. * Khi các khoản vay không còn cách nào để thu hồi, ngân hàng cần nhanh chóng làm các thủ tục cần thiết để đảm bảo thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố hoặc yêu cầu người bảo lãnh trả nợ cho ngân hàng để đảm bảo lợi ích của ngân hàng và xoá nợ cho khách hàng. II.2.4. Tổ chức và xây dựng cơ cấu vốn cho vay đầu tư hợp lý: Để có thể mở rộng cũng như nâng cao hiệu quả cho vay đầu tư, đòi hỏi ngân hàng phải có các kênh thu hút vốn và xây dựng mặt bằng vốn ổn định. Đặc trưng của tín dụng đầu tư là thời gian sử dụng vốn kéo dài, nếu ngân hàng không có kế hoạch tổ chức tốt nguồn vốn thì hiệu quả của sử dụng vốn cũng bị ảnh hưởng. Để tổ chức xây dựng cơ cấu tốt ngân hàng cần làm tốt các công tác sau; Trước hết ngân hàng nên có văn bản quy định tổng phương hướng cho vay trong một thời gian tương đối dài nào đó, vài ba năm chẳng hạn. Trong đó xác định mục tiêu đầu tư, ví dụ như cho vay đối với các loại hình dự án nào, chủng loại hàng hoá , thiết bị máy móc..xây dựng danh mục khách hàng có thể đặt quan hệ tín dụng trong tương lai. Thường xuyên giám sát kiểm tra cân đối vốn cho đầu tư, tránh lạm dụng các nguồn vốn ngắn hạn để cho vay đầu tư trung và dài hạn , tránh tình trạng cho vay đảo nợ , vay nợ mới để trả nợ cũ, một dạng vi phạm nguyên tắc cho vay của Ngân hàng. Đa dạng hoá các hình thức tạo nguồn, đặc biệt quan tâm tới các khoản thu hồi từ các dự án đầu tư theo kế hoạch nhà nước trước đây, vì đây thường là các nguồn lớn có klãi xuât ưu đãi , đồng thời nên mở rộng các hình thức cho vay đồng tài trợ, kết hợp với các ngân hàng khác một mặt hạn chế được rủi ro và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. II.2.5. Thực hiện biện pháp hỗ trợ sau khi cho vay vốn. Để có thể thu hồi được nợ và lãi đúng hạn và giúp cho khách hàng làm ăn hiệu quả. Ngân hàng cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ sau khi cho vay vốn , công tác này ngoài việc gúp đỡ các khách hàng làm ăn hiệu quả để có thể trả nợ được nợ vay cho ngân hàng nó còn có thể đem lại cho ngân hàng một khoản thu nhập các biện pháp hô trợ mà ngânn hàng nên thực hiện đó là: Hỗ trợ về đầu tư, tư vấn thông tin: Trong dịch vụ này ngân hàng có thể hướng dẫn khách xây dựng dự án, lựa chọn sản phẩm sản xuất, tính toán các nguồn tài trợ cho dự án với lãi xuất tiền vay có lợi nhất. Trong lĩnh vực kinh doanh, thông tin là yếu tố coi trọng hàng đầu, vì vậy nếo có thông tin giá trị thì có thể đem bán được. Trong hoạt động kinh doanh hiện đại như ngày nay thông tin trở nên cực kỳ quan trọng. Ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây nên có bộ phận tư vấn riêng và có quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thông tin chuyên môn liên quan tới lĩnh vực hoạt động của khách hàng của mình để nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh và cung cấp cho khách hang các thông tin quan trọng, cần thiết. * Hỗ trợ tư vấn tài chính: Qua thực tế đã chứng minh rằng nhiều khi cùng phải giúp cho doanh nghiệp trong việc lập tài chính, phân tích tài chính... Do vậy, sự hỗ trợ dịch vụ này là rất cần thiết cho doanh nghiệp. * Hỗ trợ tư vấn về luật: Ngân hàng có thể giúp cho khách hàng của mình nắm rõ các quy định của pháp luật để thực hiện đúng như: luật công ty, luật kinh tế, luật doanh nghiệp Nhà nước... Vì nhiều khi doanh nghiệp còn chưa thực sự nắm vững được quyềnvà nghĩa vụ của mình, do vậy để xảy ra những lỗi đáng tiếc, chịu thiệt thòi trong quan hệ kinh tế. * Hỗ trợ đại lý thanh toán: Với nghiệp vụ này ngân hàng không cho khách hàng vay mà thực hiện nhiệm vụ phục vụ khách hàng trong khâu thanh toán, đòi nợ, bảo quản, giữ hộ , thực hiện các uỷ nhiệm về quyền thừa kế tài sản... Khi các công ty cổ phần, các doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán, kỳ phiếu đầu tư, trái khoán xí nghiệp... nhằm thu hút vốn thì thông thường ngân hàng làm trung gian phát hành và nhận được số tiền phí nhất định. II.3. Các giải pháp chung đối với hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng: II.3.1. Tổ chức tốt hệ thống thu thập thông tin về khách hàng: Một giải pháp quan trọng có thể giúp ích rất nhiều để nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đó là khâu tổ chức tốt hệ thống thông tin quản lý. Ngân hàng nên thiết lập nhiều kênh cung cấp thông tin, ngoài các thông tin thu thập trực tiếp từ khách hàng, ngân hàng nên chủ động tìm kiếm thoong tin về khách hàng thông qua bạn hàng của khách hàng, thông qua báo đài và các phương tiện thông tin đại chúng khác... Việc xử lý thông tin cũng là một khâu quan trọng đòi hỏi phải có sự chọn lọcvà phân loại thông tin hợp lý để khi cần có thể nhanh chóng tổng hợp lại, giúp cho việc ra quyết định đúng đắn chính xác. II.3.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng: Trong mọi hoạt động của ngân hàng thì nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Để nâng cao hiệu quả trong phục vụ đầu tư thì việc tổ chức tốt công tác nhân sự cũng là một biện pháp cần thực hiện. Để thực hiện tốt công tác nhân sự, ngân hàng cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: * Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình đọ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, giúp cán bộ ngân hàng có thể nắm bắt kịp thời các quy định của Nhà nước và của ngân hàng cấp trên, học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại khác và tiếp thu các kiến thức về nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. * Phải xây dựng chế độ khen thưởng kỷ luật rõ ràng, một mặt khuyến khích cán bộ ngyhg hoàn thành tốt công việc được giao, mặt khác hạn chế các biểu hiện tiêu cực, làm liều cốt lấy thành tích. Kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, mỗi cán bộ ngân hàng phải chịu trách nhiệm trước các quyết định và đề xuất của mình. * Tổ chức tốt các hoạt động đoàn thể, tạo điều kiện cho cán bộ ngân hàng có điều kiện nghỉ ngơi, giao lưu học hỏi kinh nghiệm của cá ngân hàng bạn. Cần xây dựng chế độ lương bổng hợp lý và có sự quan tâm tới cuộc sống gia đình của cán bộ ngân hàng, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác phát huy hết năng lực của mình. II.3.3 áp dụng công nghệ hiện đại: Trên thế giới đã bước vào một kỷ nguyên mới với xu hướng chung toàn cầu hoá với cuộc cách mạng mới: cách mạng công nghệ thông tin. Vấn đề này đang đặt ra thách thức lớn đối với ngành ngân hàng trong qua trình hội nhập. Do vậy ngân hàng Đầu tư & phát triển Hà Tây nên chú trọng đổi mới công nghệ ngân hàng, đặc biệt là trong công tác thanh toán, công tác thẩm định dự án đầu tư. Thực hiện tốt công tác này sẽ góp phần tăng độ chính xác, rút ngắn thời gian giao dịhc trong thời gian thanh toán cũng như trong thời gian thẩm định, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. II.3.4. Công tác thông tin quảng cáo: Việc mở rộng hoạt động của ngân hàng thông qua việc khuếch trương quảng cáo, tuyên truyền là một việc làm cần thiết. Với phương châm "Mỗi khách hàng là người bạn đồng hành của ngân hàng", "Chúng tôi chính là sự phát triển của bạn". Ngân hàng phải làm sao cho mọi người biết đến hoạt động của mình, cho khách hàng thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng. III. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp trên: Trên đây mới chỉ là một số những biện pháp từ phía ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, để hoạt động của ngân hàng có hiệu quả, nguồn vốn của ngân hàng cho vay ra thực sự có hiệu quả đối với nền kinh tế đối với nền kinh tế và ngân hàng có thể thu hồi vốn và lãi đúng thời hạn đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các ban ngành có liên quan sau đây: III.1. Kiến nghị đối với Nhà nước: * Hoàn thiện môi trường pháp lý: Nhà nước tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, ban hành các bộ luật, văn bản dưới luật có liên quan đến hoạt động kinh tế nói chung, đến hoạt động ngân hàng nói riêng tạo thành hành lang pháp lý cho các hoạt động của các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại đi đúng giới hạn cho phép và phân rõ trách nhiệm của người cho vay và người đi vay trong quan hệ tín dụng. * Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định: Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế định hướng đầu tư, tiếp tục kiểm tra lạm phát ở mức thấp, ổn định giá trị đồng tiền nội địa để khuyến khích đầu tư, thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp... tạo môi trường ổn định cho các doanh nghiệp hoạt động. Bên cạnh đó cũng phải tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khai thác tốt tiềm năng tài nguyên khoáng sản... giúp cho các doanh nghiệp phát huy khả năng của mình tạo ra sản phẩm chất lượng cao với chi phí thấp. Chính vì vậy môi trường kinh tế ổn định là tiền đề cho doanh nghiệp phát triển nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng với ngân hàng. * Có chính sách kinh tế hợp lí: Đặc biệt là những chính sách kích thích đầu tư hiệu quả: Một trong những gải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng và thúc đẩy khát vọng đầu tư của doanh nghiệpthì nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau: Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến đầu tư, công chứng và tài sản thế chấp, lệ phí đăng kí sở hữu tài sản, III.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước và ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam: * Đối với Ngân hàng nhà nước: Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng thưong mại, là ngân hàng của các ngân hàng. Nó đóng vai trò định hướng cho các ngân hàng thương mại trong các hoạt động của ngân hàng và có tác động rất lớn đến chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng nói chung và chiến lược huy động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng nói riêng. Do vậy ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ hợp lý nhằm khuyến khích người dân gửi tiền bằng các công cụ lãi suất thị trường mở và các công cụ khác để sử dụng vốn cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành luật và các văn bản khác được rõ ràng, chính xác để các ngân hàng thực hiện đúng pháp luật. * Đối với ngân hàng Đầu tư & phát triển Việt Nam cần thực hiện các biện pháp sau: - Ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển các hệ thống để thống nhất toàn hệ thống. - Hướng dẫn các văn bản cụ thể về tiêu chuẩn vay vốn, phương pháp thẩm định, quản lý tín dụng đầu tư để nhằm hỗ trợ cho chi nhánh. - Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn về nghiệp vụ huy động vốn và sử dụng vốn cho cán bộ của toàn hệ thống để có thể nâng cao hơn nữa các nghiệp vụ của cán bộ. Kết luận Một lần nữa phải khẳng định vai trò của hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển, và tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển là vấn dề xuyên suốt và quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng đầu tư nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Huy động vốn và sử dụng cho đầu tư phát triển là đòi hỏi khách quan của bất kỳ nền kinh tế nào. Đặc biệt là đối với nước ta hiện nay nhu cầu vốn va sử dụng vốn cói hiệu quả cho đầu tư phát triển đang là đòi hỏi cấp bách. Do vậy để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời phát huy hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Trong thời gian tới ngân hàng cần tập trung hơn nữa trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển . Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động huy động và sử dụng vốn cùng các giải pháp cho vấn đề này tại Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây tôi mong rằng trong thời gian tới Ngân hàng sẽ thu được kết quả tốt hơn đáp ứng cho nhu cầu cho đầu tư phát triển của nền kinh tế. Trong lời kết một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của Thạc sỹ: Nguyễn Hồng Minh cùng các Thầy cô giáo Bộ môn Kinh tế Đầu tư, các Anh chị phòng nguồn vốn kinh doanh ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây đã giúp em khắc phục được thiếu sót và hoàn thành bài viết này. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0133.doc