Mục lục
Lời nói đầu
A. Vấn đề cần được nghiên cứu.
Chương I: Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế.
Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Các thể chế mà Việt Nam tham gia.
III. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cơ hội đối với nền kinh tế Việt Nam.
Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam.
Chương II. Sự tham gia afta của việt nam.
I. Sơ lược về sự hình t
13 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành của AFTA và thời gian gia nhập AFTA của Việt Nam.
Các giai đoạn dẫn đến sự ra đời của khu vực Mậu dịch tự do (AFTA).
Thời gian gia nhập AFTA của Việt Nam.
II. Nội dung chủ yếu của AFTA và thời hạn hoàn thành AFTA của các nước ASEAN.
Nội dung chủ yếu của AFTA.
Thời hạn hoàn thành AFTA của các nước ASEAN.
III. Lộ trình AFTA của Việt Nam.
Tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam
Thực tiễn thực hiện AFTA của Việt Nam.
Việt Nam tham gia AFTA vào năm 2003.
IV. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng khi tham gia AFTA.
Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia AFTA.
Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi Việt Nam thamgia AFTA.
Lời nói đầu
Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã phát triển ngày càng mạnh mẽ, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều Học giả mọi quốc gia trên thế giới. Đại hội IX của Đảng ta đã nêu rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực,vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế”. Trong bối cảnh đó, Đảng ta khẳng định cần phải: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, chúng ta đã từng bước hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới và đã thu được những thắng lợi quan trọng bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi, chúng ta còn nhiều hạn chế, bất cập trong hội nhập kinh tế quốc tế, cần nhanh chóng rút ra những bài học kinh nghiệm để có thể tiếp tục phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, đưa đất nước tiếp tục phát triển.
Với luợng kiến thức còn hạn chế trong phạm vi một bài tiểu luận ngắn, chắc chắn em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự góp ý kiến của các thầy, cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Chương I
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế
Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước vơí kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ dơn phương, song phương và đa phương.
2. Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế.
Ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế, cùng các thành viên đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối với thành viên của các định chế, tổ chức đó.
Tiến hành các công việc cần thiết ở trong nước để bảo đảm đạt được mục tiêu của quá trình hội nhập cũng như thực hiện các quy định, cam kết về hội nhập. Các nội dung cần được triển khai bên trong mỗi nước gồm:
Điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hoá và mở cửa, giảm và tiến tới rỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá dịch vụ đầu tư và sự luân chuyển vốn, lao động, kỹ thuật công nghệ giữa các nước thành viên ngày càng thông thoáng hơn.
Điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế (bao gồm cả cơ cấu sản xuất, kinh doanh, cơ cấu ngành và mặt hàng, cơ cấu đầu tư) phù hợp với quá trình tự do hoá và mở cửa nhằm làm cho nền kinh tế thích ứng và vận hành có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.
Tiến hành các cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội, đặc biệt là cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao năng lực canh tranh, nhằm đảm bảo quá trình hội nhập được thực hiện đưa lại hiệu quả cao.
Đào tạo và chuẩn bị nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ công chức, những người quản lý doanh nhgiệp và lực lượng công nhân lành nghề có thể đáp ứng tốt các đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Các thể chế mà Việt Nam tham gia.
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia các thể chế kinh tế quốc tế quan trọng gồm: ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998), và đang đàm phán gia nhập WTO.
Các thể chế này dù có mục đích và nội dung hoạt động chung là mở cửa tối đa về kinh tế, song do phạm vi và trình độ phát triển khác nhau nên nội dung hợp tác của từng thể chế cũng có những điểm khác nhau. So với WTO tập trung vào các vấn đề về tự do hoá thương mại, ASEM mới ở giai đoạnphát triển ban đầu, chỉ thảo luận những vấn đề thuận lợi hoá thương mại, đầu tư cùng với một số vấn đề văn hoá xã hội khác, và là một diễn đàn mang tính dự phòng nhằm đối trọng với các diễn đàn xuyên châu lục địa khác khi cần thiết. Trong khi đó, APEC thảo luận cả hai nội dung tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, đồng thời coi trọng hợp tác phát triển giũa các nền kinh tế thành viên. Ngoài các nội dung cơ bản về mở cửa thương mại và đầu tư tương tự như trên, ASEAN thảo luận các vấn đề về chính trị và an ninh mà khu vực cùng quan tâm.
Ngoài các thể chế trên, Việt Nam cũng là thành viên của những thể chế đa phương về tài chính, ngân hàng như: Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Từ lâu Việt Nam cũng đã tham gia những diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực phi hoặc bán chính phủ như Hội đồng Hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (PECC), Hội đồng Hợp tác kinh tế lòng chảo Thái Bình Dương (PBEC)...
III. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Có thể sơ lược về cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh quốc tế như sau:
Về cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế đẩy mạnh sự phát triển kinh tế và thu nhập của Việt Nam bằng cánh chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có năng suất cao hơn so với các sản phẩm khác.
Thu hút được đầu tư nước ngoài và phát triển các ngành của doanh nghiệp.
Học tập được kinh nhiệm quản lý hiện đại trên thế giới.
Nâng cao khả năng cạnh tranh các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường quốc tế, mở rộng thị truờng giúp cho sản phẩm có thể từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Về thách thức
Dưới áp lực của hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam phải tiến hành điều chỉnh chính sách và các hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực kinh tế, xã hội và các quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng tự do hoá và mở cửa nhiều hơn. Thách thức này đối với Việt Nam là hết sức lớn.
Hội nhập tạo ra tình trạng kẻ được lợi và người bị thiệt thòi. Phản ứng tự nhiên của những người thua thiệt là chống lại nguyên nhân làm cho họ bị thua thiệt, đó là mở cửa tự do hoá và đòi có sự bảo hộ. Thách thức chủ yếu ở đây là làm sao thực hiện được lợi ích chung lớn hơn của mở cửa tự do hoá, mặc dù có những thiệt hại của những người bị tác động bởi sự cạnh tranh tăng lên của hàng nhập khẩu. Giải quyết thoả đáng lợi ích của những người bị thiệt hại do tác động mở cửa, đặc biệt là của những người ít khả năng đối phó nhất với những tác động tiêu cực của hội nhập là một vấn đề của chính sách công. Đó là những sơ lược về cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở nhận thức về cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, em xin đi sâu nghiên cứu về cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình gia nhập AFTA.
Chương I
Sự tham gia AFTA của Việt nam
I.Sơ lược về sự hình thành của AFTA và sự gia nhập của Việt nam vào AFTA.
1. Các giai đoạn dẫn đến sự ra đời của Khu vực Mậu dịch tự do (AFTA).
Hiệp hội các nước Đông Nam á (gọi tắt là ASEAN) được thành lập vào ngày 8/8/1967 tại Băng Cốc – Thái Lan. Năm nước thành viên sáng lập ra Hiệp hội là Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, và Xingapo. Năm 1984, tổ chức có thêm thành viên mới là Brunei. Từ khi ra đời đến nay, cơ cấu tổ chức ASEAN đã được cải tổ qua 3 thời kỳ với 4 Hội nghị Thượng đỉnh:
*Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ nhất được tổ chức tại Bali của Inđônêxia với hai văn kiện được thông qua.
- Văn kiện thứ nhất “Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam á” hay còn gọi là Hiệp ước Bali.
Văn kiện thứ hai “Tuyên bố hoà hợp ASEAN”
* Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ hai được tổ chức tại Kuala Lumbu vào tháng 8 năm 1977.
Hội nghị lần này đánh dấu 10 năm thành lập của Hiệp hội và thảo luận những vấn đề quan trọng liên quan đến Việc đưa hợp tác ASEAN đi vào thực tiễn (chủ yếu là hợp tác kinh tế).
* Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ ba được tổ chức tại Malina của Philippin vào tháng 12 năm 1988.
Tuyên bố Manila nói rõ một cách công khai là hợp tác chính trị.
* Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ tư được tổ chức tại Xingapo vào tháng giêng năm 1992.
Hội nghị không chỉ đánh dấu 25 năm trưởng thành của Hiệp hội mà quan trọng hơn là mở đầu cho một chương trình hợp tác và liên kết sâu rộng đặc biệt là liên kết kinh tế trên quy mô toàn khu vực.
Phần quan trọng nhất của Hội nghị là thông qua văn kiện tuyên bố Xingapo, tuyên bố khẳng định quyết tâm của ASEAN nâng cao tính hiệu quả của hợp tác kinh tế và chính trị, nhằm tạo ra bước ngoặt trong tiến trình liên kết khu vực. ý nghĩa quan trọng nhất của Hội nghị đã cam kết lập Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với thời hạn thực hiện nó là 15 năm kể từ 1/1/1993. ý nghĩa thứ hai không kém phần quan trọng là đưa văn kiện chương trình nghị sự về hợp tác chính trị – an ninh trong tình hình mới.
Có thể nói rằng, việc thành lập AFTA đã tạo ra bước chuyển biến mới về chất trong hợp tác và liên kết ASEAN nói chung và kinh tế nói riêng.
2. Thời gian gia nhập AFTA của Việt nam.
Ngày 28/7/1995 , Việt nam trở thành viên chính thức thứ 7 của Hiệp hội các nước Đông Nam á - ASEAN. Sự kiện trọng đại này đánh dấu một thành công to lớn của chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt nam, đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình hội nhập của Việt nam vào cộng đồng quốc tế và liên kết kinh tế quốc tế.
II. Nội dung chủ yếu của AFTA và thời hạn hoàn thành AFTA của các nước ASEAN.
Nội dung chủ yếu của AFTA.
Kế hoạch thuế ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) là trụ cột chính để thành lập AFTA. Theo CEPT, các nước thành viên sẽ đưa ra lịch trình giảm dần thuế quan nội bộ khu vực đối với toàn bộ hàng hoá chế tạo. Các hàng hoá có thể được đặt vào lịch trình nhanh hoặc thông thường. Các nước ASEAN đã đưa ra 15 nhóm sản phẩm giảm thuế nhanh với mức thuế ưu đãi phải đạt 0 – 5% trong thời gian dài nhất là 7 năm (5 năm đối với hàng hoá chịu thuế thấp). 15 nhóm sản phẩm đó bao gồm:
Đồ nhựa Sản phẩm gốm và thủy tinh
Sản phẩm cao su Đá quý và đồ trang sức
Sản phẩm da Cực âm đồng
Bột giấy Hàng điện tử
Hàng dệt Nội thất bằng gỗ và mây
Dầu thực vật Hoá chất
Xi măng Dược phẩm
Phân bón
Đối với nhóm giảm thông thường, tốc độ giảm chậm hơn và những hàng hoá chịu thuế cao thì việc giảm có thể thực hiện trong 15 năm. Ban đầu, người ta dự định áp dụng CEPT cho tất cả các hàng hoá chế tạo nhưng cho phép thực hiện ngoại lệ đối với sản phẩm các ngành dễ bị tổn thương và có tính cạnh tranh trực tiếp. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp hạn chế buôn bán là cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia, sức khoẻ và truyền thống văn hoá, việc loại bỏ ra khỏi CEPT các sản phẩm chỉ mang tính tạm thời. Một nước thành viên loại bỏ tạm thời một sản phẩm thì sẽ không còn tư cách để hưởng sự xâm nhập ưu đãi cho sản phẩm đó vào thị trường các quốc gia thành viên khác. Việc đình chỉ ưu đãi phải phù hợp với điều XIX của GATT (hành động khẩn cấp về nhập khẩu các sản phẩm đặc biệt).
Năm1994, ASEAN đồng ý với tiến trình giảm thuế như sau:
Đối với hàng hoá theo thời gian thực hiện bình thường:
- Thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 1/11/1998 và sau đó xuống còn 0 – 5% vào 1/1/2003.
Thuế suất đã ở dưới mức 20% sẽ được giảm còn 0 – 5% vào 1/1/2002.
Đối với hàng hoá theo thời gian thực hiện nhanh:
- Thuế suất trên 20% sẽ đượcgiảm xuống 0 – 5% vào 1/1/2000.
- Thuế suất đã ở mức dưới 20% sẽ được giảm còn 0 – 5% vào 1/1 1998.
Danh sách các hàng hoá tạm thời không thuộc CEPT sẽ bị loại bỏ. Những sản phẩm hiện đang nằm ngoài CEPT sẽ được đặt dần vào danh sách CEPT theo chu kỳ thời gian bắt đầu từ 1/1/1995.
Những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến bây giờ sẽ đựơc đưa vào CEPT. Trước đây loại sản phẩm này nằm trong kế hoạch mậu dịch ưu đãi (PTA).
Sẽ thành lập một đơn vị AFTA trong Ban thư ký ASEAN và trong tất cả các nước thành viên để đảm bảo một sự phối hợp giải quyết tốt hơn những vấn đề CEPT.
Phạm vi áp dụng CEPT:
CEPT áp dụng cho tất cả các hàng hoá chế tạo là ASEAN bao gồm: Tư liệu sản xuất, nông sản chế biến và những sản phẩm phi nông nghiệp khác. Một hàng hoá đạt tiêu chuẩn của ASEAN nếu ít nhất đạt 40% nguyên vật liệu của nó xuất xứ từ bất kỳ một nước thành viên ASEAN nào. Trên thực tế, yêu cầu này thấp hơn yêu cầu hàm lượng địa phương của hầu hết các khối mậu dịch tự do khác như 50% giá trị tăng thêm địa phương trong khối AFTA và trong Hiệp định New Zealand – Australia, NAFTA yêu cầu giá trị vật tư và chi phí chế biến trực tiếp phải suất phát từ khối.
Theo quyết định thông qua năm 1994, những nông sản thô hoặc chưa qua chế biến cũng sẽ phải đáp ứng tiêu chuẩn trên, dịch vụ được loại ra khỏi CEPT. Nguyên tắc xuất xứ của ASEAN có nghĩa là nhất trí chuyển hướng mậu dịch và đầu tư sang nông nghiệp, công nghiệp chế tạo và các ngành khác.
Những hàng rào phi thuế quan (NTBs), hạn chế số lượng (QRs)và các biện pháp khác.
CEPT chỉ là một bộ phận của AFTA đã phát sinh hiệu lực, tuy nhiên thuế không phải là cản trở duy nhất và quan trọng nhất đối với buôn bán khu vực. Cần gạt bỏ hàng rào phi thuế quan và hạn chế số lượng.
Mục tiêu kinh tế của AFTA.
Tự do hoá thương mại trong ASEAN thông qua việc giảm dần thuế quan nội bộ khu vực và NTBs.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vao khu vực bằng cách mở ra một thị trường phối hợp rộng hơn.
Làm thích ứng với điều kiện kinh tế đang thay đổi, đặc biệt quá trình thành lập các khối thương mại trên thế giới.
Danh mục sản phẩm theo chuơng trình CEPT của Việt nam
Danh mục này được chia làm 3 loại:
- Danh mục cắt giảm các mặt hàng thuế theo 2 kênh nhanh và thông thường.
- Danh mục loại trừ tạm thời và loại trừ chung.
- Các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm.
2.Thời hạn hoàn thành AFTA của các nước ASEAN.
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được thành lập với thời hạn thực hiện nó là 15 năm kể từ 1/1/1993 và hoàn thành vào năm 2008. Tiếp sau đó , Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 tổ chức tại Chiềng Mai (Thái Lan) đã quyết định đẩy thời gian thực hiện AFTA xuống còn 10 năm tức tức là hoàn tất vào năm 2003. Tuy nhiên, thời gian 2003 cũng chưa phải là nhanh nhất. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ 28, tại Brunei ngày 29/7/1995, Quốc vương Brunei kêu gọi các nước ASEAN hãy rút ngắn thời hạn này xuống vào năm 2000. Các quốc gia ASEAN đã thảo luận đề xuất này của Brunei và nhiều quốc gia đồng tình là cố gắng hoàn thành AFTA vào năm 2000 nhưng điều này chưa được quyết định. Nhưng một điểm đã được khẳng định là các quốc gia ASEAN sẽ đưa tối đa các mặt hàng có thuế suất 0% vào năm 2003 thay cho mức 0 –5% như quy định tại Hiệp định CEPT. Hơn nữa, số mặt hàng tham gia CEPT tăng lên, nhiều mặt hàng nông sản chưa chế biến cũng được đưa vào danh mục giảm thuế. Đối với Việt nam,thời hạn hoàn thành AFTA là năm 2006, chậm hơn 3 năm so với các nước thành viên ASEAN. Liệu Việt nam có thể hoàn thành đúng thời hạn hay không?
Tuy nhiên, trước những tiến triển nhanh chóng của tự do hoá thương mại trong khuôn khổ WTO, của NAFTA, của APEC, cộng với sự biến đổi nhanh chóng của các nền kinh tế Trung Quốc, Đông Âu, ấn Độ, các nước ASEAN nhận thấy rằng cần phải nỗ lực cao thì AFTA mới không thể tụt hậu so với các khu vực Mậu dịch tự do khác.Vậy cùng các nước thành viên ASEAN, Việt nam có thể hoàn thành AFTA vào năm 2003 thậm chí 2000 được hay không? Để trả lời những câu hỏi này ta hãy đi sâu vào nghiên cứu lộ trình AFTA của Việt nam.
III. Lộ trình AFTA của Việt nam.
Tiến trình hội nhập AFTA của Việt nam.
Việt nam có nền kinh tế kém phát triển nhất trong khối AFTA thể hiện ở thu nhập bình quân đầu người thấp , công nghệ lạc hậu.... Vì vậy, tiến trình hội nhập AFTA của Việt nam nhanh hay chậm phụ thuộc quá trình cải cách kinh tế trong nước. Tuy vậy, tiến trình hội nhập này cần coi trọng những điểm chủ yếu sau đây:
Trong giai đoạn đầu của sự hội nhập, Việt nam cần chú trọng đến xuất nhập khẩu những mặt hàng, những sản phẩm tạo điều kiện bổ sung kinh tế giữa các quốc gia như xuất khẩu gạo, dầu mỏ, thiếc và nhập khẩu các loại linh kiện điện tử, lắp ráp ô tô...
Thực hiện cắt giảm thuế nhanh các mặt hàng trong quan hệ mậu dịch của khối vì tỷ trọng xuất nhập khẩu của Việt nam còn nhỏ bé cả với thế giới và trong khối.
Tích cực tiến hành cải cách hệ thống thuế trong nước để thu lại phần thuế thất thu. Cải cách thuế cần thực hiện một cách “ráo riết” và Việt nam nên thực hiện cắt giảm thuế nhanh sau khi đã áp dụng hệ thống thuế mới từ 3-6 tháng. Cần chú trọng thích đáng đến việc áp dụng thuế giá trị gia tăng (VAT) thay cho thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng nhập khẩu như thuốc lá, rượu, bia, ôtô, hàng điện tử, xăng, dầu. Việt nam cần áp dụng thuế tiêu dùng để khắc phục phần giảm thu do cắt giảm thuế.
Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đặc biệt là việc ban hành “Quy chế đầu tư ra nước ngoài” để các doanh nghiệp Việt nam chủ động đầu tư ra nước ngoài trước hết là trong khối AFTA. Đồng thời tích cực khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thu hút công nghệ của các thành viên AFTA dưới hình thức liên doanh, kiên kết nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ cũng như từng bước tạo ra nền tảng công nghệ, hiện đại hoá hệ thống doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Việc đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng nên được coi trọng và “tăng tốc”.
Cải cách thủ tục hành chính gắn liền với tiến trình hội nhập vào AFTA đặc biệt là thủ tục hải quan trên cơ sở “Quy tắc hoạt động Hải Quan”. Gắn với quá trình này là từng bước đào tạo lại đội ngũ cán bộ để tham gia quá trình hội nhập có hiệu quả bao gồm việc đào tạo cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh và cán bộ kỹ thuật trên cơ sở khai thác sự hỗ trợ của các nước trong khối AFTA.
Không ngừng mở rộng quan hệ các nước ngoài khối AFTA đê tạo ra sự cân đối trong quan hệ giữa các nước trong khối với các nước ngoài khối và bảo đảm “sự đối trọng” lâu dài của Việt nam trong việc xử lý các mối quan hệ trong nội bộ khối.
Thực tiễn thực hiện AFTA của Việt nam.
Tại Hội nghị Hội đồng AFTA ngày 10.12.1995, Việt nam đã công bố các danh mục và lộ trình cắt giảm thuế cho toàn bộ quá trình 1996 – 2000 gồm 1633 nhóm mặt hàng, chiếm 50,1% tổng các nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu của Việt nam. Mặc dù, danh mục này của Việt nam chiếm tỷ lệ thấp hơn so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ bắt đầu thực hiện CEPT (trung bình 85%), nhưng đây là biện pháp an toàn nhất để Việt nam có thời gian nghiên cứu kỹ thêm và rút ra những bài học kinh nghiệm trong những năm đầu tham gia CEPT, từ đó có đối sách cho những năm tiếp theo.
Danh mục các mặt hàng tham gia cắt giảm thuế quan ngay của Việt nam chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có thuế suất 5%, do vậy lịch trình cắt giảm thuế không có tác động mạnh đến thuế nhập khẩu vàg theo cách này không làm giảm đáng kể thu ngân sách từ thuế nhập khẩu của Việt nam.
Việt nam đã xác định Danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời 1168 mặt hàng, chiếm 36% danh mục hàng nhập khẩu của Việt nam. Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm chưa được Việt nam đưa ra.
Về tiến trình cắt giảm thuế: Phù hợp với các yêu cầu của ASEAN, căn cứ vào tình hình đặc thù Việt nam, Việt nam nhìn chung không áp dụng tiến trình cắt giảm nhanh. Tuy nhiên, đối với những sản phẩm hiện đang có thuế suất 0 – 5% tức là đã thoả mãn mục tiêu của CEPT, ta có thể xếp vào loại thực hiện tiến trình cắt giảm thuế nhanh.
Trong 2 năm 1996 – 1997, Việt nam sẽ không thực hiện cắt giảm mà chỉ đưa ra các sản phẩm đạt mục tiêu của CEPT (có thuế suất từ 5% trở xuống) vào thực hiện Hiệp định. Đối với những sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong danh mục cắt giảm thuế quan, hướng thực hiện bước cắt giảm đầu tiên thực tế chỉ bắt đầu từ năm 1998 để đảm bảo cho nguồn thu và hỗ trợ một phần cho sản xuất trong nước.
Trong 2 năm 1996 – 1997, Việt nam thực hiện bước hai cải cách thuế, trong đó, đối với chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt nam sẽ thực hiện phân tích hai loại thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng (hiện là thuế doanh thu) hiện cũng đánh trên hàng nhập khẩu ra khỏi thuế nhập khẩu hiện nay, trước khi tiến hành cắt giảm thuế nhập khẩu thực sự từ năm 1998. Do đó, mức thuế nhập khẩu phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại sẽ là thấp so với mức phải giảm nêú không có sự phân tích hai loại thuế trên.
Về các biện pháp phi thuế quan thì ở Việt nam còn rất đơn giản, chỉ là giấy phép và hạn ngạch. Để thực hiện được việc giảm thuế và bỏ hàng rào phi thuế quan, Việt nam đang phối hợp với các nước ASEAN để thống nhất các danh mục biểu thuế, có định giá hải quan, quy trình thủ tục hải quan,....
Có thể nói, việc Việt nam hoàn thành AFTA vào 2006 là hoàn toàn khả thi. Kết luận này căn cứ vào lộ trình AFTA của Việt nam do các cơ quan nhà nước đã tính toán, kết hợp với chương trình cải cách thuế và các chính sách thương mại tro ng nước.Tuy nhiên, nếu hoàn thành AFTA vào 2006 Việt nam sẽ bỏ lỡ mất thời cơ thu hút FDI vào công nghiệp chế biến hướng vào xuất khẩu.
3. Việt nam tham gia AFTA vào năm 2003.
Tại sao Việt nam phải cố gắng hoàn thành CEPT vào năm 2003?
Trong thực hiện CEPT, hàng xuất khẩu của Việt nam chủ yếu là hàng nông sản, nguyên liệu chưa chế biến chỉ mang tính chất bổ sung cho các nước ASEAN, do vậy nguồn lợi từ giảm thuế không có vì hầu hết các mặt hàng này lại không bị giảm thuế. Việt nam chỉ có lợi khi xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến. Nhưng ngành công nghiệp chế biến Việt nam còn nhỏ, lại phải cạnh tranh dữ dội với các hàng công nghiệp chế biến nhập khẩu từ ASEAN. Do vậy, quy mô lợi ích Việt nam thu được từ giảm thuế theo CEPT hơn là thiệt hại do cạnh tranh gây ra. Điều này, đòi hỏi Việt nam phải nỗ lực phát triển công nghiệp chế biến để xuất khẩu sang ASEAN. Điều này chỉ có thể trở thành hiện thực khi tận dụng được tất cả các nguồn lực đặc biệt là FDI để nhanh chóng thu hút công nghệ, kinh nghiệm nước ngoài vào xây dựng các cơ sở công nghiệp chế biến. Vì vậy, nếu Việt nam hoàn thành CEPT vào năm 2003 thì Việt nam sẽ có được thời cơ thu hút FDI vào công nghiệp chế biến hướng xuất khẩu. Vì vào năm 2003 các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các nước ASEAN, các nước ASEAN sẽ được hưởng những lợi ích do EPT mang lại, có được một thị trường xuất khẩu 400 triệu dân với thuế suất 0-5%. Nếu đầu tư vào Việt nam thì phải đợi thêm 3 năm nữa, bằng một chu kỳ vòng quay của vốn cố định trong công nghiệp chế biến, và mất đi những lợi ích to lớn thu được từ CEPT.
Những lợi ích đối với Việt nam khi hoàn thành CEPT vao năm 2003.
Nếu Việt nam hoàn thành CEPT vào năm 2003 thì nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu không giảm nhiều so với nếu hoàn thành vào năm 2006. Mặt khác, việc giảm thuế sẽ làm hạ giá bán hàng ở Việt nam: người tiêu dùng có lợi, doanh nghiệp nhập nguyên liệu, máy móc có lợi, các nhà đầu tư thay vì xuất khẩu hàng vào Việt nam sẽ đầu tư trực tiếp vào đây để giữ thị phần. Tuy nhiên các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với hàng chế biến nhập từ ASEAN, buộc họ phải vươn lên nhưng các doanh nghiệp chủ động vươn lên trong cạnh tranh là điều tích cực đối với nền kinh tế Việt nam.
Nếu Việt nam hoàn thành CEPT vào 2003 thì đầu tư nước ngoài sẽ tăng rõ rệt, ngành công nghiệp chế biến Việt nam sớm hướng mạnh sang xuất khẩu sang ASEAN .Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam sẽ tính đến thị trường hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu vào thị trường ASEAN, để hưởng lợi từ ASEAN.
Tham gia vào thị trường AFTA vào năm 2003 cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt nam chuyển dịch cơ câú nhanh hơn, thị trường Việt nam hội nhập nhanh hơn vào thị trường khu vực, một thị trường chung về hàng công nghiệp chế biến hình thành.
IV.Cơ hội và thách thức của Việt nam nói chung và doanh nghiệp Việt nam nói riêng khi tham gia AFTA.
1.Cơ hội và thách thức đối với Việt nam khi tham gia AFTA.
Cơ hội.
Việt nam là thành viên chính thức của ASEAN là sự kiện đánh dấu bước phát triển mới của Việt nam trong quan hệ quốc tế để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời, đây cũng là một sự kiện chính trị quan trọng của Việt nam và các nước trong khu vực. Có Việt nam trong ASEAN sẽ góp phần quan trọng cho viễn cảnh của một Đông Nam á thống nhất là có thể thực hiện được trong một khối ASEAN sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Việt nam và các nước thành viên.
Việc tham gia vào chương trình CEPT là điều kiện thuận lợi để tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi các nước cắt giảm dần thuế thì hàng hoá của Việt nam sẽ có cơ hội tốt để xâm nhập vào khu vực thị trường rộng lớn.
Tham gia AFTA Việt nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA. Được hưởng ưu đãi đó, chúng ta có thể xuất khẩu hàng hoá của mình một cách thuận tiện hơn vào thị trường của các nước thành viên khác. Mặt khác, ASEAN còn là nhịp cầu để Việt Nam tiếp cận với thị trường thế giới, tăng lợi thế và nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng quốc tế và cũng từ đó Việt Nam ít bị phụ thuộc vào một số thị trường lớn như Nhật Bản và Tây Âu. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung lượng cung cầu hàng hoá của mình trên thị trường, tăng khả năng cạnh tranh về giá cả hàng hoá.
Tham gia vào AFTA, Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế.
Tham gia vào AFTA Việt Nam có cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài.
Thách thức.
Khu vực hoá và toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế của mình mà tham gia vào các lĩnh vực khác nhau, nước ta gia nhập ASEAN tiến tới tham gia AFTA bên cạnh những cơ hội còn gặp những khó khăn, thách thức chủ yếu sau đây:
Tham gia vào AFTA là thừa nhận tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu chuyển hàng hoá trong khu vực. Đây là những việc làm mà nước ta chưa thực hiện bao giờ. Bắt đầu tham gia AFTA Việt Nam đang ở trình độ kinh tế thấp, các chỉ tiêu kinh tế thấp hơn các nước khác. Các nước trong khối ASEAN đều đạt tốc độ tănh trưởng cao, do đó chúng ta phải cố gắng nhiều hơn so với các nước vẫn còn kém xa. Hiện tại, sức cạnh tranh của hàng hoá ViệtNam còn rất yếu, yếu toàn diện nếu so sánh về giá cả và chất lượng. Hàng nhập ngoại tràn vào sẽ xảy ra tình trạng rất nhiều ngành công nghiệp địa phương không cạnh tranh được, sản xuất ra không có ai tiêu thụ, tiêu biểu là các ngành dệt may, giày dép, điện gia dụng...
Tham gia vào AFTA sẽ tác động trực tiếp đến giá cả hàng hoá. Hiện nay, giá cả hàng hoá của Việt Nam thường cao hơn rất nhiều so với giá cả hàng hoá các nước cùng loại. Như vậy, ưu thế về giá thuộc hàng hoá của các nước khác là thành viên của các nước ASEAN.
Để hội nhập về kinh tế và mậu dịch với các nước ASEAN một thách thức không nhỏ đặt ra cho Việt Nam xây dựng một chính sách quản lý Nhà nước thích hợp nhằm đảm bảo tự do hoá thương mại nhưng không làm mất đi chức năng quản lý Nhà nước về thương mại. Xoá bỏ thủ tục hành chính rườm rà, quan liêu không hiệu quả. Đơn giản hoá các thủ tục để hàng hoá tham gia vào CEPT có hiệu quả. Ngoài những khó khăn kể trên, còn rất nhiều vấn đề cần xử lý, quan hệ kinh tế thương mại với các thị trường khác như Nhật Bản, EU, và các nước NICs cũng chiếm tỷ trọng lớn.
Tham gia AFTA Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên đó thực sự là không ảnh hưởng lớn, nhưng sẽ tạo nên sự hẫng hụt trong ngân sách Nhà nước.
Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt nam.
Cơ hội.
Do các nước ASEAN có nền kinh tế mang tính chất bổ xung cho nhau nên ảnh hưởng của AFTA đến thương mại khu vực có phần khiêm tốn. Tuy nhiên việc gia nhập AFTA đều đặt mỗi nước trước những cơ hội và thách thức nhất định. Đối với Việt Nam, bên cạnh phải đối phó với những đe doạ do hàng hoá các nước ASEAN thâm nhập vào Việt Nam dễ dàng hơn, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam cũng có thể tận dụng những cơ hội to lớn do AFTA đem lại. Những cơ hội có tính chất lâu dài bao gồm:
Tham gia vào AFTA sẽ tạo sức ép buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự đổi mới và nâng cao hiệu qủa hoạt động sản xuất kinh doanh, tích cực áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ và cung cách làm ăn mới. Hơn nữa, gia nhập AFTA cũng bắt buộc và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tập trung vào những ngành được hưởng ưu đãi lớn và ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh tranh. Sức ép to lớn từ phía AFTA đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về chất lượng, mẫu mã, giá cả hàng hoá tronng vòng 5 – 8 năm, nếu không sẽ phá sản và trao thị trường Việt Nam cho các đối thử trong khu vực.
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được những nguyên vật liệu đầu vào rẻ hơn. Đây là cơ hội không dễ có được đối vớ bất cứ doanh nghiệp nào. Nhưng khó khăn do khan hiếm nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất sẽ bị loại bỏ khi gia nhập AFTA. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng được cơ hội này, họ có thể vươn lên cạnh tranh tốt với các đối thủ trong khu vực.
Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế. Những doanh nghiệp Nhà nước xưa nay làm ăn thua lỗ nhưng vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởi những doanh nghiệp nước ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng. Nền sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng nhanh hơn đối với các điều kiện quốc tế thay đổi.
Thách thức:
Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam đang sử dụng những công nghệ lạc hậu, cũ kỹ sẽ chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ các sản phẩm có công nghệ tương đối cao của ASEAN. Không loại trừ một số trường hợp, hàng hoá Việt Nam sẽ bị đánh bật ngay ngay trên thị trường Việt Nam. Các hàng hoá chịu sức cạnh tranh khốc liệt nhất sẽ là xi măng, sắt thép hoá chất, công nghiệp ô tô, điện tử,... và ngay cả những mặt hàng truyền thống của Việt Nam như gạo, cà phê,... cũng không tránh khỏi sức cạnh tranh ng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0164.doc