Việt Nam - Cơ hội và thách thức trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế

VIỆT NAM - CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Hội nhập và liên kết kinh tế là một xu hướng tất yếu mang tính thời đại; bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tham gia của các quốc gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả. Bất kì một quốc gia nào khi tham gia

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Việt Nam - Cơ hội và thách thức trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia; tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng, áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết, dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Đối với từng tổ chức có nguyên tắc cụ thể riêng biệt. Nội dung của hội nhập: Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau,thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư: - Về thương mại hàng hoá: các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như QUOTA, giấy phép xuất khẩu..., biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận... - Về thương mại dịch vụ, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh, hiện diện - Về thị trường đầu tư: không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư... CƠ SỞ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế quốc tế Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình quốc tế hóa các lĩnh vực kinh tế, tạo ra các mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ kinh tế, không có khái niệm biên giới quốc gia cho dòng lưu thông hàng hóa,tiền tệ và tạo ra sự phân công lao động toàn cầu. Toàn cầu hóa hầu như được dùng để chỉ tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay tự do thương mại nói riêng. Quá trình đó làm nảy sinh các hình thức quan hệ kinh tế giữa các quốc gia và tạo ra sự phụ thuộc, sự thâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia, chuyển hóa thành nền kinh tế toàn cầu. Thực chất toàn cầu hóa kinh tế là sự quan hệ, gắn bó chặt chẽ giữa các quốc trên thế giới về lĩnh vực kinh tế trên cơ sở phân công lao động quốc tế và những quy tắc chung, thống nhất toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế là xu hướng khách quan trong tiến trình phát triển của LLSX mang tính quốc tế và quá trình quốc tế hóa kinh tế. Toàn cầu hóa chính là sự gia tăng nhanh chóng lẫn nhau ngày càng chặt chẽ của các nền kinh tế. Nước nào tận dụng được thời cơ thì phát triển rất nhanh và ngược lại thì sẽ tụt hậu và trở nên yếu kém cách xa các nước khác. Có thể nói toàn cầu hóa vừa là xu thế, thời cơ và thách thức của các nước trên thế giới Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng với sự ra đời của các thể chế toàn cầu và khu vực như WTO (Tổ chức thương mại thế giới), EU (Cộng đồng châu Âu), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương), NAFTA (Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ)…, thế giới ngày nay đang sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính, đầu tư cũng như các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường với các hình thức đa dạng và mức độ khác nhau. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ gắn bó, sự tuỳ thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại hết sức nhanh nhạy giữa các nền kinh tế. Thông qua quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá tạo ra những lợi thế mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các nước, góp phần khai thác tối đa lợi thế so sánh của các nước tham gia vào nền kinh tế toàn cầu. Quá trình toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các quốc gia, không chỉ giữa nước giàu và nước nghèo mà còn ngay cả giữa các nước giàu với nhau nhằm giành vị trí có lợi nhất cho mình trong phân công lao động và quan hệ kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá với mặt trái của nó là cuộc cạnh tranh gay gắt trên quy mô thế giới đã và đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội như thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo ngày một sâu thêm, đồng thời toàn cầu hoá cũng mở đường cho sự du nhập những văn hoá và lối sống không phù hợp truyền thống và bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia… Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nước vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hoà trong bối cảnh đó cùng với phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển", Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước và hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập ASEAN (7 - 1995), ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế với EU (7 - 1995), tham gia APEC (11- 1998) và đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đã và đang từng bước vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tính khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ những cơ sở kinh tế xã hội hiện thực của thời đại. Là yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý chí của 1 quốc gia nào. Tính khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện cụ thể như sau: Cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ đã phá vỡ địa giới các quốc gia: Xã hội loài người đã được chứng kiến những cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm thay đổi bộ mặt thế giới. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra vào nửa sau thế kỷ 20 đã làm cho khoa học trở thành LLSX trực tiếp, tạo ra bước ngoặt trong sự phát triển của LLSX. Trong điều kiện đó, tri thức khoa học và công nghệ, kỹ năng của con người trở thành LLSX hàng đầu. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã xóa nhòa khoảng cách địa lý, tác động sâu sắc và toàn diện đến mọi người, mọi quốc gia. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ đã phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Tuy nhiên chính cách mạng khoa học công nghệ đã đưa lại sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, hàng hóa dịch vụ của một quốc gia được xuất khẩu tới đâu thì biên giới quốc gia được mở rộng đến đó. Trong điều kiện thế giới ngày nay, mọi quốc gia đều phải tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để tồn tại, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phụ thuộc của phân công lao động quốc tế: Phân công lao động trong nội bộ các quốc gia trong những năm gần đây ngày càng mở rộng và sâu sắc, tạo ra thị trường lao động có sức thu hút lớn với các loại lao động ở trong và ngoài nước. Phân công lao động tạo ra sự phụ thuộc giữa các quốc gia trong toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ. Quốc gia sẽ phát triển nếu trở thành bộ phận của phân công lao động quốc tế lợi ích to lớn và ổn định khi tham gia vào quá trình hình thành chuỗi giá trị toàn cầu. Do đó Việt Nam không chỉ đẩy mạnh xuất khẩu lao động mà còn phải khơi thông dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài và hợp lưu được với dòng lưu chuyển hàng hóa tiền tệ quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế các công ty xuyên quốc gia đóng vai trò then chốt và thực sự chi phối nền kinh tế thế giới. Từ năm 2000 đến nay, nhiều công ty xuyên quốc gia lớn sát nhập với nhau hình thành các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia khổng lồ. Các công ty xuyên quốc gia cỡ lớn đều có 1 hệ thống kinh doanh lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng ra toàn cầu tạo thành mạng lưới kinh tế toàn cầu khổng lồ, bao trùm tất cả, che phủ các khu vực, các quốc gia trên toàn thế giới. Các công ty này sẽ mở cửa biên giới các quốc gia, tạo ra sự hội nhập tất yếu từ tế bào kinh tế Ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế trong nền kinh tế thế giới hiện nay, đã có sự tồn tại đồng thời của nhiều định chế khác ngoài lãnh thổ quốc gia và góp phần quyết định chính sách kinh tế. Các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế có uy tín đang chi phối hoạt động thực tiễn, làm thay đổi các chính sách kinh tế của quốc gia thành viên hoặc có nguyện vọng ra nhập. Đó là các liên kết kinh tế quốc tế như EU, ASEAN, APEC. Các định chế quốc tế như WB, IMF, WTO,… sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và các chính sách quy định của nó đã thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu hướng toàn cầu hóa. Các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế tham gia vào điều chỉnh quan hệ kinh tế, tài chính, thương mại thế giời. Thông qua các quy định của mình tác động điều chỉnh chính sách của các quốc gia theo chuẩn mực quốc tế. Các tổ chức này còn thúc đẩy các quốc gia phải xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế phù hợp. Xu hướng đối thoại, hợp tác đã thay thế cho đối đầu Sau khi Liên Xô sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, mở ra một giai đoạn mới của nền kinh tế thế giới. Xu hướng đối thoại, hợp tác đã thay thế cho đối đầu. Những tư tưởng đổi mới, mở cửa, cải tổ trở thành xu hướng tích cực của thời đại. Cánh cửa các nền kinh tế quốc gia đã rộng mở để giao lưu, liên kết kinh tế với khu vực và quốc tế. Liên kết và hợp tác kinh tế đã không ngừng mở rộng và phát triển trên quy mô toàn cầu. Đặc trưng chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế: Một là, tính thời sự: Toàn cầu hóa và hội nhập ktế quốc tế không còn là xu thế nữa mà đã trở thành 1 thực tế cuốn hút tất cả các nước. Hội nhập kinh tế quốc tế luôn là vấn đề thời sự nóng hổi đối với cả người dân, doanh nghiệp và những người lãnh đạo các cấp Hai là, sự phụ thuộc ngày càng lớn của thị trường trong nước vào thị trường thế giới Mọi sự thay đổi của thị trường thế giới đều tác động đến thị trường trong nước và ngược lại. Quan hệ phụ thuộc chặt chẽ giữa thị trường quốc gia và thị trường thế giới thông qua các hoạt động thương mại, đầu tư, tài chính ngày càng gia tăng mạng mẽ. Quá trình này bắt buộc các quốc gia đều tham gia nền kinh tế thế giới theo một kiểu thị trường thế giới thống nhất Thứ ba, các định chế quốc tế có khả năng chi phối lớn tới các quốc gia Hội nhập kinh tế thì mỗi quốc gia vẫn tồn tại với tư cách là quốc gia độc lập tự chủ, tự nguyện lựa chọn các lĩnh vực và tổ chức thích hợp để tham gia nhưng phải tuân thủ các nguyên tắc chung, phải thực hiện quyền lơi và nghĩa vụ của 1 thành viên, phải điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp luật chơi chung. Điều chỉnh chính sách cho phù hợp với các định chế quốc tế là điều kiện tối quan trọng để có thể hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Thứ tư, quan hệ kinh tế quốc tế bị các nước lớn lũng đoạn và trở thành lá bài chính trị Hội nhập ktế không bao giờ có sự bình đẳng thực sự giữa các quốc gia. Các nước lớn sẽ mặc cả với nhau để lũng đoạn thị trường thế giới và Mỹ là người thống trị số 1. Các cường quốc và đặc biệt là Mỹ, đã sử dụng quan hệ hợp tác kinh tế là lá bài chính trị để chi phối các nước khác. Hình thức liên kết kinh tế quốc tế Liên kết kinh tế vi mô là hình thức liên kết của các công ty hay tập đoàn công ty của các nước khác nhau. Liên kết kinh tế vĩ mô ( hay liên kết kinh tế quốc gia) là những hình thức liên kết kinh tế quốc tế mà chính phủ các quốc gia ký kết với nhau các hiệp định để tạo ra khuôn khổ chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế giữa chúng với nhau Khu vực mậu dịch tự do: Các nước cùng nhau thỏa thuận giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó khi buôn bán với nhau, từ đó tiến tới hình thành 1 thị trường thống nhất về loại hàng hóa đó. Các nước thuộc khu vực mậu dịch tự do vẫn có quyền độc lập tự chủ trong việc thi hành chính sách thương mại riêng đối với các nước nằm ngoài khu vực. Liên minh thuế quan: Các nước thành viên không chỉ giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan mà còn cùng nhau thiết lập một biểu thuế quan chung áp dụng cho tất cả các nước thành viên khi buôn bán với các nước ngoài khối, thỏa thuận hoạch định chính sách ngoại thương thống nhất khi quan hệ mậu dịch với các nước ngoài khối. Các nước trong liên minh thuế quan không có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ mậu dịch với các nước ngoài khối Thị trường chung:Các nước thành viên cho phép lưu chuyển mọi loại hàng hóa lẫn nhau, kể cả vốn, lao động và dịch vụ. Đồng thời thực hiện các cam kết như liên minh thuế quan Liên minh tiền tệ: Các nước sẽ ấn định một tỷ giá hối đoái cố định trong một thời gian dài giữa các nước trong liên minh với nhau, hình thành ra một cơ quan duy nhất có trách nhiệm quản lý tiền tệ nói chung, ấn định mức lãi suất trong nước để cân đối với lãi suất bên ngoài, giảm thiểu các rủi ro trong thanh toán quốc tế giữa các nước thành viên với nhau Liên minh kinh tế: Đây là hình thức liên kết kinh tế quốc tế cao nhất. Các nước cùng nhau xây dựng 1 chính sách phát triển kinh tế chung cho toàn liên minh; xây dựng một chính sách đối ngoại chung; hình thành một đồng tiền chung thống nhất; quy định chính sách lưu thông tiền tệ thống nhất cho toàn liên minh, xây dựng một ngân hàng chung thay thế cho ngân hàng của các nước thành viên; xây dựng một chính sách quan hệ tài chính đối ngoại chung II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM 1. Những cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam: 1.1. Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là 1 trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới. Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ. Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa. Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập. Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếpxúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". 1.2 Thời cơ đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập: Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện choViệt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạo để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu. 1.2.1 Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam: Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Kim ngạch thương mại xuất nhập khẩu Việt Nam- ASEAN tăng trung bình  15,8% hàng năm Do vậy, hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Đối với các nước EU cũng vậy, tiềm năng mở rộng thị trường hàng hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ nhiên nước ta có bán được hàng ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, mẫu mã...hay nói cách khác là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao? Nếu hàng hoá Việt Nam có mẫu mã đẹp,chất lượng tốt, giá thành rẻ...thì việc chiếm lĩnh thị trường thế giới là tất yếu. Nhưng do hiện nay nước ta còn thiếu vốn, khoa học kĩ thuật chưa được cải tiếnđồng bộ, do đó chất lượng hàng hoá chưa cao, giá thành chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về thuế. Kết quả xuất khẩu năm 2008 (thời kỳ khủng hoảng kinh tế) vẫn đáng rất khích lệ, cho dù nền kinh tế toàn cầu có ảm đạm. Các số liệu 11 tháng đầu năm cho thấy kim ngạch xuất khẩu đã tăng ấn tượng ở mức 34%. 1.2.2 Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế: - Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Mấy năm qua, Việt Nam thu được kết quả khả quan trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là năm 2008 với con số kỷ lục FDI đạt 64 tỉ đô la vốn đăng ký và 11,5 tỉ đô la vốn giải ngân. - Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính củaViệt Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong năm 2009, Tổng mức ODA dành cho Việt Nam cam kết đạt 8,063.85 tỷ USD. Trong đó, Ngân hàng Thế giới (WB) trở thành nhà tài trợ lớn nhất với mức 2,498 tỷ USD. Nhật Bản công bố mức viện trợ 1,64 tỷ USD trong khi Liên minh châu Âu (EU) công bố mức hơn 1 tỷ USD, trong đó Pháp tiếp tục là nhà tài trợ lớn nhất trong khối này với 378,26 triệu USD. Trong khi đó, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dành 1,479 tỷ USD cho Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của việc sử dụng nguồn vốn ODA. - Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam: Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước 1.2.3. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh: - Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả . Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồngthời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới. Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó. Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến bộ kĩ thuật và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song vì nước ta còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn hẹp, kinh nghiệm tiếp cận thị trường bên ngoài chưa nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh với công nghện cao còn yếu cho nên còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp độ gia tăng thu hút đầu tư trực tiếp như những năm trước, qua đó tiếp nhân và chuyển giao công nghệ có hiệu quả hơn. - Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn được nâng cao. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600 cán bộ quản lý và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. 1.2.4. Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập. Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu, Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 quốc gia thuộc tất cả các châu lục (Châu Á - Thái Bình Dương: 33, Châu Âu: 46, Châu Mĩ: 28, Châu Phi: 47, Trung Đông: 16), bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU. Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003. Năm 2004, Việt Nam tổ chức Hội nghị cấp cao ASEM vào tháng 10. Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11. Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Ngày 16 tháng 10 năm 2007, tại cuộc bỏ phiếu diễn ra ở phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam chính thức được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. 1.2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước: Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. 2. Thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế là thách thức với mọi nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam. Thách thức này càng khắc nghiệt hơn khi chúng ta là một nước đang phát triển đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi. Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách khôn khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước. Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế. Song chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. - Tình trạng phổ biến hiện nay là nhiều sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nước ta nói chung còn thấp do trang thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 30 năm, cộng thêm những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh doanh (thủ tục hành chính chưa thông thoáng, chính phủ đầu tư quá cao so với các nước trong khu vực), hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại. - Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp thực sự đáng lo ngại: Dù được đánh giá là vẫn "ăn nên làm ra" trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song theo kết quả kiểm toán năm 2008 tổng số nợ của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn lên tới 181.000 tỷ đồng. Tính đến hết tháng 12/2007, tổng số nợ phải thu của các doanh nghiệp nhà nước được kiểm toán là 32.409 tỷ đồng. Tỷ lệ bình quân phải thu trên tổng tài sản là 10,8% và trên vốn chủ sở hữu là 29,03%. Và tính đến hết năm, tổng số nợ mà các doanh nghiệp Nhà nước phải trả là trên 181.000 tỷ đồng, trong đó tỷ lệ nợ phải trả trên tổng nguồn vốn bình quân hơn 60%. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ của nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới. Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Chi phí sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ có thể giảm chi phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ mới, thay đổi phương thức quản lý triệt để tiết kiệm. Song họ không thể ngăn chặn được sự gia tăng của chi phí đầu vào do sự leo thang giá cả của không ít loại vật tư, nguyên liệu, điện nước, cước phí giao thông, viễn thông. Nhất là cước phí của các ngành có tính độc quyền. Chẳng hạn như giá truy cập internet trực tiếp có mức cước cao hơn các nước trong khu vực là 139%...Thêm vào đó hầu hết các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu dùng đều phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu nên chi phí đầu vào cao. Đã vậy hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu còn phải chịu thuế VAT dù chưa có giá trị tăng thêm. Trong khi đó thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng lại chậm, do vậy làm khó khăn cho doanh nghiệp về vòng quay vốn, chịu lãi suất ngân hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chịu chi phí do sự sách nhiễu của một số cán bộ nhà nước thoái hoá biến chất. Hơn nữa sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh kiểm tra chồng chéo cũng làm tăng chi phí đầu vào của các doanh nghiệp. Do ch._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25507.doc
Tài liệu liên quan