Lời nói đầu
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính toàn cầu, được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Mở rộng phát triển kinh tế tạo việc làm là một trong những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2005 và 2010 của nước ta.
ở Việt Nam trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới kinh tế của Đảng - nhà nước, cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư từng bước được điều chỉnh, nền kinh tế chuyển dần sang kinh tế
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Việc làm & giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiềm năng lao động từng bước được giải phóng. Đặc biệt, từ năm 1992, thực hiện nghị quyết 120/ HĐBT về việc giải quyết việc làm, nhà nước đã tiến hành đầu tư hàng trăm tỉ đồng hình thành quỹ quốc gia về giải quyết việc làm và triển khai mạnh chương trình quốc gia, xúc tiến việc làm, đã giải quyết cho hàng triệu người có việc làm.
Tuy nhiên, Việt Nam nói chung là nước nghèo nàn và chậm phát triển, có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế mất cân bằng và chưa ổn định, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu vốn lớn, công nghệ lạc hậu, dân số chưa kiểm soát chặt chẽ nên tỷ lệ tăng dân số và lao động còn ở mức cao, quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển còn hạn hẹp, đất nước còn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu xa so với các nước trong khu vực, kéo theo là hậu quả nghiêm trọng về công ăn việc làm và vấn đề xã hội khác.
Cho đến nay, việc làm vẫn đang là vấn đề xã hội cơ bản lâu dài, cấp bách cần được quan tâm.
Tỉnh Hoà Bình phải tập trung sức người, sức của, lao động mọi nghành mọi cấp mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, tạo việc làm cho người lao động.
Trong bối cảnh chung của cả nước, là một tỉnh miền núi, đặc biệt lại chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của “ Hậu Sông Đà” nên ở Hoà Bình, vấn đề về lao động thiếu việc làm khá cao. Những năm qua, vấn đề về giải quyết việc làm ở Hoà Bình đã được tỉnh uỷ, UBND các ngành chức năng đặc biệt quan tâm nên đã có được những kết quả nhất định nhưng vẫn là vấn đề nan giải, đang tồn tại và đòi hỏi phải có các giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn, có hiệu quả hơn.
Chính vì vậy, qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế tại địa bàn tỉnh Hoà Bình cùng với những kiến thức được trang bị mà em lựa chọn đề tài “ Việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Hoà Bình”.
Kết cấu bài
Phần một:
Cơ sở lý luận về việc làm và giải quyết việc làm ở tỉnh Hoà Bình.
Phần hai :
Hiện trạng việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.
Phần ba :
Phương hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn Tỉnh Hoà Bình.
PHần một: cơ sở lý luận về việc làm
và giải quyết Việc làm trên địa bàn
tỉnh hoà bình.
I-khái niệm cơ Bản
1-Khái niệm việc làm
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, nhà nước bố trí việc làm cho người lao động từ A đến Z. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ... Ngày nay, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan niệm về việc làm thay đổi một cách căn bản. Trên cơ sở vận dụng khái niệm việc làm của tổ chức lao động quốc tế ( viết tắt là ILO ) và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta có thể hiểu được khái niệm việc làm mới được nhiều người đồng tình: người có việc làm là người đang làm việc trong lĩnh vực ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội.
Với khái niệm nêu trên sẽ cho nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng giải quyết việc làm cho người lao động. Điều này thể hiện trên hai góc độ sau:
- Thị trường việc làm đã được mở rộng rất lớn bao gồm tất cả các thành phần kinh tế ( quốc doanh, tập thể, tư nhân... )trong mọi hình thức và cấp độ của tổ chức sản xuất kinh doanh ( kinh tế hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác tự nguyện, doanh nghiệp... ) và sự đan xen giữa chúng. Nó cũng không bị hạn chế về mặt không gian, vùng trong và ngoài nước, các tầng sinh thái...
- Người thuê lao động được tự do hành nghề, tự do kinh doanh liên kết, tự do thuê mướn lao động theo pháp luật và theo sự hướng dẫn của nhà nước để tự tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường lao động.
Chính từ quan niệm trên về việc làm trong cơ chế thị trường, trong bộ luật lao động của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1994 đã được quốc hội phê duyệt, khẳng định: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” ( Điều 13 Bộ luật lao động-nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ) .
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm cần làm sáng tỏ khái niệm việc làm đầy đủ và thiếu việc làm.
Từ khái nịêm việc làm của nước ta thì có thể hiểu người có việc làm là người làm việc trong lĩnh vực ngành nghề hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội. Tuy nhiên, việc xác định người có việc làm theo khái niệm trên chưa phản ánh đầy đủ quá trình sử dụng lao động xã hội vì chưa đề cập đến số lượng và chất lượng của việc làm. Trên thực tế có nhiều người đang làm việc nhưng chỉ làm việc nửa ngày, làm việc cho năng suất thấp và cho mức thu nhập dưới mức thu tối thiểu ( 210000 đồng / tháng ) ở nước ta nói chung số lượng việc làm ít hơn so với nhu cầu làm việc, đồng thời chưa có chế độ trợ cấp thất nghiệp thì việc làm có chất lượng thấp là khá phổ biến. Để tồn tại, nhiều người phải chấp nhận đủ mọi công việc để kiếm sống tạm thời. Do vậy, cần phải chia ra:
* Việc làm đầy đủ: là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm. Bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói cách khác, việc làm đầy đủ là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm được việc làm trong thời gian ngắn. ( Nguồn: Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam-Trần Đình Hoan-Lê Mạnh Khoa - NXB Sự thật, trang 23)
Đương nhiên, để đảm bảo đạt được mức độ việc làm đầy đủ phải có một quá trình nhất định. Quá trình đó ngắn hay dài phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh khác nhau của mỗi nước. Một nước có điểm xuất phát càng thấp, trong quá trình phát triển, vấn đề đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động càng khó khăn và cấp bách.
* Thiếu việc làm, để hiểu được là việc làm không tạo điều kiện ( không đòi hỏi ) cho người lao động sử dụng hết thời gian lao động theo chế độ và mang lại mức thu nhập dưới mức tối thiểu, muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Thiếu việc làm có thể hiểu là trạng thái trung gian giữa có việc làm đầy đủ và thất nghiệp.
Tình trạng thiếu việc làm được chia thành hai loại:
- Thiếu việc làm hữu hình: khi thời gian làm việc thấp hơn mức bình thường.
- Thiếu việc làm vô hình: khi thời gian sử dụng cho sản xuất kinh doanh không có hiệu quả dẫn đến thu nhập thấp, ngưòi lao động muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Tình trạng thiếu việc làm ( hữu hình hay vô hình ) là khá phổ biến ở nước ta hiện nay. Vì vậy cần từng bước tạo việc làm đầy đủ cho người lao động, góp phần cải thiện đời sống cho người lao động.
Việc làm đầy đủ chủ yếu nói lên sự có việc làm về mặt số lượng, còn việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Do vậy, việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Tuy nhiên, khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì có việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Đối với các nước kinh tế phát triển, có điều kiện phát triển sản xuất là có hạn, nguồn lao động dồi dào dẫn đến một bộ phận lao động muốn làm việc nhưng không có việc làm, nghĩa là thất nghiệp.
2- Khái niệm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là nâng cao chất lượng việc làm và tạo ra việc làm để thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc làm không chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà còn phải nâng cao chất lượng việc làm. Đây là vấn đề còn ít được chú ý khi đề cập đến vấn đề giải quyết việc làm.
Tại sao phải đặt ra vấn đề giải quyết việc làm ?
Do nhiều lý do khác nhau nên số lượng việc làm luôn luôn bị hạn chế. Trong xã hội thường có số lượng nhất định người không có việc làm. Điều này gây ảnh hưởng không chỉ đến bản thân người không có việc làm mà cả đến xã hội. Họ không những không có đóng góp cho xã hội mà ngược lại, xã hội phải trợ cấp cho họ. Tình trạng không có việc làm còn tạo ra sự căng thẳng về mặt xã hội, một trong những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy, giải quyết việc làm là một nhiệm vụ quan trọng không chỉ của các cơ quan quản lí kinh tế, quản lí xã hội, mà của mỗi con người.
Mặc dù giải quyết việc làm là rất quan trọng nhưng khả năng giải quyết việc làm chỉ có giới hạn. Do tiềm năng sản xuất của xã hội là có hạn, do bản chất của các chế độ kinh tế khác nhau nên số lượng việc làm không thể thu hút những nguời có khả năng lao động. Vấn đề này sẽ được giải quyết kỹ hơn trong phần hiện trạng việc làm và giải quyết việc làm.
II- các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm và giải
quyết việc làm trên địa bàn tỉnh hoà bình
1- Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm
1.1- Chất lượng việc làm
Một việc làm được gọi là có chất lượng cao nếu nó đem lại thu nhập cao cho người có việc làm và đem lại phần đóng góp lớn cho xã hội. Chất lượng việc làm và chất lượng lao động không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Một người có việc làm, có thu nhập cao chưa chắc đã trên cơ sở lao động có hiệu quả. Vì vậy, nhìn chung toàn bộ xã hội, chất lượng việc làm phải dựa trên cơ sở chất lượng lao động. Việc nhận thức đúng đắn về việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao mức sống cho người lao động.
Khi đề cập đến việc giải quyết việc làm thì điều quan trọng không chỉ tạo thêm việc làm, mà còn là nâng cao chất lượng việc làm cho người lao động.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng việc làm. Trước hết, phải kể đến hiệu quả lao động, chất lượng lao động. Ngoài ra, chất lượng lao động còn phụ thuộc vào chế độ phân phối tính chất của công việc, tình trạng ứng dụng khoa học kỹ thuật nói chung của xã hội, hiệu quả các chính sách kinh tế của chính phủ. Đó là những yếu tố tích cực ảnh hưởng đến chất lượng việc làm.
1.2- Số lượng việc làm
Trong một nền kinh tế nhất định, do các yếu tố của toàn bộ lao động xã hội có hạn, cũng như hạn chế của chế độ tổ chức lao động xã hội nên số lượng việc làm là có hạn.
Có người cho rằng, lao động của một người có thể chia cho nhiều người làm, do đó khả năng giải quyết việc làm ( giả định chế độ tổ chức lao động xã hội cho phép ) của xã hội là vô hạn, nhưng khi phân chia như vậy thì hiệu quả lao động giảm, thu nhập của người lao động giảm, dẫn đến phá vỡ nguyên tắc thu nhập đảm bảo cuộc sống của bản thân, gia đình và một phần đóng góp của xã hội. Chính vì vậy, đối với một xã hội nhất định trong một thời kỳ nhất định, số lượng việc làm luôn luôn là hữu hạn.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến số lượng việc làm trong xã hội Trước hết phải kể đến những nguồn lực hiện có trong nền kinh tế. Nếu các nguồn lực dồi dào thì khả năng tạo ra việc làm lớn. Chẳng hạn những nước giàu giải quyết việc làm dễ hơn các nước nghèo. Thứ nữa, phải kể đến tính hiệu quả tổ chức lao động xã hội. Cùng với các điều kiện tài nguyên thiên nhiên và con người như nhau, nước có tổ chức lao động hợp lí hơn sẽ có nhiều việc làm hơn. Các yếu tố như sự gia tăng dân số, quy mô dân số, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, sự biến đổi lao động và dân số đều ảnh hưởng đến việc làm trong xã hội.
2- Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm cho người lao động là một việc làm hết sức khó khăn, đồng thời nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Việc làm là một phạm trù kinh tế tổng hợp, nó liên kết các quá trình phát triển kinh tế xã hội và nhân khẩu với nhau. Ta có thể biểu thị mối quan hệ giữa việc làm với một số nhân tố cơ bản qua hàm số sau: y = f ( C, V, X,. ...)
Trong đó: y: Số lượng việc làm được tạo ra
C: Vốn đầu tư
V: Sức lao động
X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm
Ta nhận thấy rằng khối lượng việc làm tạo ra tỷ lệ thuận với các yếu tố trên. Chẳng hạn như vốn đầu tư để mua sắm thiết bị máy móc, nhà xưởng, mở rộng qui mô sản xuất là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn; khi vốn đầu tư tăng, quy mô sản xuất được mở rộng đòi hỏi phải có thêm nhân công tức là đã tạo ra được nhiều chỗ làm việc mới và ngược lại, đầu tư ít quy mô bị thu nhỏ lại kéo theo sự giảm đi về số lượng việc làm cần được tạo ra.
Mặt khác, thị trường tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề giải quyết việc làm. Nếu sản phẩm sản xuất đưa ra thị trường đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, giá thành được thị trường chấp nhận và tiêu thụ nhiều sẽ là điều kiện tạo ra nhiều chỗ làm mới tức là đã giải quyết được công ăn việc làm cho lao động. Bởi vì sản phẩm tiêu thụ sẽ làm lợi nhuận tăng cao, vốn đầu tư tăng lên, có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất và cầu về lao động cũng tăng theo. Ngược lại, khi cầu về hàng hoá giảm sẽ làm ngừng trệ sản xuất, làm cho lao động không có việc làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp.
Ngoài ra, cũng còn một số các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến giải quyết việc làm: như các chính sách kinh tế của nhà nước có tác dụng quan trọng vì khi chính sách kinh tế phù hợp sẽ tạo điều kiện khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển làm cho cầu về lao động tăng lên, đồng nghĩa với việc tạo việc làm cho lao động.
Một yếu tố nữa ảnh hưởng tới vấn đề giải quyết việc làm là bản thân người lao động có nhận thức rõ được vai trò của mình trong quá trình tạo việc làm hay tự kiếm việc làm hay không. Nếu như người lao động hiểu rằng lao động là hoạt động không thể thiếu được của con người, nó có ý nghĩa rất to lớn trong cuộc sống, có lao động thì con người mới tồn tại và phát triển được. Như thế, trong lúc thiếu việc làm, họ sẽ tự mình mong muốn và tạo ra việc làm, làm giảm bớt gánh nặng giải quyết việc làm cho xã hội. Còn ngược lại, giải quyết việc làm luôn là một sức ép gay gắt đến sự phát triển của nền kinh tế xã hội.
iii - ý nghĩa của giải quyết việc làm TRÊN ĐịA BàN
TỉNH HOà BìNH
1- Vê mặt kinh tế
Việc làm và giải quyết việc làm có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển của một nền kinh tế, bởi vì sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định sự phát triển đó.
Như chúng ta đã biết, “ việc làm” có liên quan mật thiết với phạm trù “ lao động”. Theo định nghĩa trên thì việc làm là mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm, còn lao động là hoạt động có mục đích của con người, hoạt động diễn ra giữa con người và thế giới tự nhiên. Trong khi lao động, con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng công cụ của mình để tác động vào thế giới tự nhiên, biến đổi những vật chất đó làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống của mình. Đây chính là thực chất của quá trình sản xuất.
Hiệu quả kinh tế phụ thuộc vào số lượng và chất lượng người lao động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, do đó muốn nền kinh tế phát triển thì phải huy động sức lao động của toàn dân. Sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất trong quá trình lao động. Nó phát động và đưa ra các tư liệu lao động vào hoạt động sản xuất để sáng tạo ra sản phẩm. Nếu coi sản xuất là một hệ thống gồm 3 phần hợp thành: các nguồn lực, các quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá thì sức lao động là một trong những nguồn lực khởi đầu của sản xuất để tạo ra các sản phẩm hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Nói cách khác, con người làm việc trước hết để thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình của họ, qua đó góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, muốn tạo ra động lực phát triển kinh tế thì trước hết phải tạo động lực trong lao động. Việc làm phù hợp với khả năng của từng người chính là động lực tạo ra hứng thú trong lao động, thúc đẩy quá trình sản xuất, tạo đà cho sự phát triển kinh tế.
Giải quyết việc làm cho người lao động chính là việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của con người. Trong toàn bộ sự phát triển của xã hội, con người luôn luôn tồn tại với 2 tư cách: Vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu trong hoạt động của mình. Với tư cách là chủ thể, con người thực hiện sự phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất. Với tư cách là mục tiêu con người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, vì vậy giải quyết việc làm cho người lao động tức là đảm bảo đồng thời 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động. Ngược lại, nếu không có việc làm thì người lao động không tạo ra thu nhập, không cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, cản trở sự phát triển của kinh tế.
Do đó trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang được thừa nhận là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế tại hội nghị lần 2 của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 8 (12/ 1996 ) khẳng định: Để thực hiện mục tiêu chiến lược mà đại hội 8 đã đề ra cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, vai trò quyết định nhất. Đường lối của Đảng đã tạo ra một bước ngoặt đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong việc khai thác và phát huy của con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giải quyết việc làm cho người lao động giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất, là yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế. Bất kỳ một khu vực nào, một đất nước nào, nếu vấn đề việc làm cho người lao động được giải quyết tốt thì khu vực đó, đất nước đó nhất định có nền kinh tế phát triển nhanh chóng mặc dù khu vực quốc gia đó có nhiều điều kiện không thuận lợi như: ít tài nguyên thiên nhiên, chiến tranh tàn phá, hay bị thiên tai đe dọa. Ta có thể lấy một ví dụ cụ thể, đó là Nhật Bản từ một nước bại trận trong chiến tranh thế giới lần II, đã vươn lên thành cường quốc kinh tế thứ 2 trên thế giới tư bản chỉ trong vòng 2 thập kỷ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trung bình đạt 9% trong các năm 1955 -1960; gần 10% trong các năm 1960- 1965 và 11,6% trong các năm 1965-1970. Nhật Bản luôn luôn coi trọng nguồn lực con người trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, giải quyết tốt việc làm cho người lao động để từ đó tận dụng triệt để cả thể lực và trí lực con người cho công cuộc phát triển kinh tế.
Trong thời đại khoa học ngày nay, giải quyết việc làm càng có ý nghĩa quan trọng, sống còn đối với một nền kinh tế. Giải quyết việc làm cho người lao động là biện pháp hữu hiệu nhất để đẩy lùi nạn thất nghiệp. Bởi xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn chặt với nghèo đói, tỷ lệ thất nghiệp cao không những gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế mà còn gây nhiều khó khăn cho cuộc sống cá nhân người lao động. Những người thất nghiệp tuy không sản xuất ra sản phẩm nhưng vẫn phải tiêu dùng. Giả sử một người thất nghiệp đều tiêu dùng ở mức tối thiểu, tương ứng mức lương tối thiểu 210.000đ/ tháng như hiện nay thì một năm tiêu thụ hết ít nhất hai triệu tỉ đồng. Nếu số người thất nghiệp là một triệu người thì mỗi năm số người thất nghiệp này tiêu thụ ít nhất là 2000 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 1% tổng sản phẩm quốc dân GNP của cả nước. Giả sử, số người thất nghiệp đó nếu có được việc làm họ sẽ tạo ra được một lượng giá trị tối thiểu mà họ tiêu dùng (thực tế còn nhiều hơn ) thì mỗi năm nhà nước không phải gánh chịu thiệt hại về mặt kinh tế hàng nghìn tỉ đồng do thất nghiệp gây ra.
Số tiền đó có thể được dùng để đầu tư phát triển sản xuất hay đầu tư phát triển cho giáo dục, y tế nhằm nâng cao chất lượng và sức khoẻ nguồn nhân lực. Ngay cả những nước tư bản phát triển nhất, nạn thất nghiệp vẫn là nguy cơ tiềm tàng đối với sự tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ người thất nghiệp này càng tăng cùng với những mâu thuẫn chưa được giải quyết trong bản thân nền kinh tế phát triển ở trình độ cao cũng đang đặt ra nhu cầu bức bách phải tìm kiếm giải pháp để giải quyết việc làm cho người lao động. Như thế cũng có nghĩa là càng ngày người ta càng nhận rõ hơn việc làm là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là động lực của sự phát triển ấy.
Tại Đại hội đại biểu Toàn quốc của Đảng lần thứ VII năm 1991,Đảng ta đã chỉ rõ: “ Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đáp ứng nhu cầu đa dạng, chất lượng ngày càng cao, phục vụ tốt tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tăng thêm nhiều việc làm cho người lao động”.
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 vấn đề giải quyết việc làm đặc biệt được nhấn mạnh “ Phương hướng quan trọng nhất là nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và chương trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế. Giải quyết việc làm cho người lao động, tức là ta đã tận dụng được sức mạnh của nguồn lực con người vào trong công cuộc phát triển kinh tế.
2 -Về mặt chính trị xã hội
Việc làm cho người lao động có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển xã hội. Giải quyết việc làm cho người lao động, tức là xã hội đã tạo ra cho họ cơ hội thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó quyền cơ bản là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia đình. Thông qua việc làm, con người thực hiện quyền sống và mưu cầu hạnh phúc, con người được đảm bảo những quyền tự nhiên chính đáng, được tạo điều kiện sống (ăn, ở, mặc, bảo vệ sức khoẻ, đi lại. .. vv ) và cơ hội để phát triển năng lực nghề nghiệp, năng lực sáng tạo.
Giải quyết việc làm cho người lao động thực sự là công cụ quan trọng cuả Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang đặt ra đối với con người, kích thích người lao động sáng tạo và mang lại cuộc sống tốt đẹp cho họ, đảm bảo công bằng xã hội.
Muốn đạt được sự công bằng thực sự hoàn toàn giữa người với người trên phạm vi toàn xã hội thì người ta trước hết phải được công bằng hoàn toàn với nhau về phương diện kinh tế. Chỉ có phương diện công bằng về kinh tế mới có thể có công sự công bằng trên phương diện khác. một xả hội chỉ có thể đạt được sự công bằng khi mọi người đều có việc làm, có thu nhập một cách chính đáng. Và xã hội ấy sẽ đặt mọi người trước thời cơ và vận hội như nhau.
Việc làm và thu nhập cũng tạo cho mọi người đều có điều kiện như nhau trong việc chăm sóc sức khoẻ, phát triển giáo dục và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần. Với trình độ tri thức hiểu biết xă hội người lao động sẽ biết khắc phục hạn chế của mình, phát huy năng lực lao động, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Mặt khác, khi có trình độ tri thức thì cơ hội có việc của người lao động cũng tăng lên. việc làm đầy đủ sẽ thu hẹp khoảng cách giữa người giầu và người nghèo.
Nếu xét từ góc độ xã hội, việc làm đầy đủ đảm bảo cho người dân quyền tự do và bình đẳng. Như vậy, giải quyết việc làm cho người lao động của nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường có ý nghĩa to lớn đối với việc điều chỉnh lợi ích, đảm bảo lợi ích cho từng thành viên xã hội,thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho người lao động. Từ đó tạo ra một cơ cấu xã hội mới, năng động, từng bước đảm bảo công bằng xã hội, tìm ra động lực phát triển, xoá bỏ sự cách biệt quá xa giữa người giầu và người nghèo, xây dựng môi trường thuận lợi cho người phát triển toàn diện, có nhân cách.
Vì vậy, để xây dựng chế độ xã hội công bằng văn minh, mục tiêu trước sau của chúng ta vẫn là giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tìm kiếm việc làm có thu nhập chính đáng, cùng với chủ trương tiếp tục khuyến khích làm giầu hợp pháp chúng ta phải đồng thời mở rộng và đẩy mạnh cuôc vận động xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và thành thị.
Đặc biệt cùng với quá trình giải quyết việc làm cho người lao động, tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống. Xét về mặt xã hội, thất nghiệp gây nên những hậu quả nặng nề. Do tính chất quyết định của kinh tế, đời sống kinh tế gia đình họ gặp nhiều khó khăn, tác động đến mọi mặt của cuộc sống gia đình. Đây chính là nguyên nhân và nguồn gốc của những phức tạp xã hội, là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Khi tiến hành điều tra xã hội học người ta nhận thấy tỷ lệ những người thất nghiệp tham gia một cách đáng kể vào các tệ nạn xã hội như: Ma tuý, trộm cướp, mại dâm. Trong lúc con đường khác để tạo việc làm một cách chính đáng bị khép lại thì con đường đến với tệ nạn xă hội mở rộng và khó bị kiểm soát, ngăn chặn. Thất nghiệp đẩy con người đến sự lựa chọn bắt bụôc: Hoặc chịu ngồi chết đói, hoặc phải tìm cách làm bất cứ công việc gì kể cả tham gia vào tệ nạn xã hội. Mặt khác, khi thất nghiệp con người trở nên nhàn dỗi cộng với tâm lý bi quan, chán nản, càng đưa họ đến cờ bạc rượu chè, nghiện hút, trộm cướp, mại dâm...
Một hiện tượng xã hội nhức nhối nữa, xẩy ra khi người lao động không có việc làm đó là: Thất nghiệp không chỉ tác động đến người lớn mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ em. Số trẻ em phải bỏ học đi lang thang trên đường phố kiếm sống gia tăng cùng với sự gia tăng của thất nghiệp. Những đứa trẻ này làm đủ mọi việc: Ăn xin, nhặt phế liệu, phế thải, bán báo, bán hàng rong, quét dọn thuê, bốc vác, đánh giầy, khi cần thì ăn cắp hoặc sau một thời gian lang thang đã trở thành ăn cắp chuyên nghiệp. Và đau đớn hơn có một số trẻ em gái làm nghề bán dâm để nuôi sống bản thân mình.
Tệ nạn xã hội, tất yếu dẫn đến tình trạng xã hội rối ren, mất ổn định, cản trở sự phát triển của xã hội. Vì thế thất nghiệp gây khó khăn phức tạp cho công tác quản lý xã hội, làm đảo lộn nhiều nếp sống lành mạnh và ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của một dân tộc. Thất nghiệp còn tác động đến tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của người lao động, gây cho người lao động tâm lý luôn luôn lo lắng, bị đe doạ bởi thất nghiệp, làm mất niềm tin của họ vào sự tốt đẹp của tương lai, nhất là đối với tầng lớp thanh niên, những người từng tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, những người thương bệnh binh. .. Vì vậy, giải quyết việc làm cho người lao động có thu nhập, giảm tệ nạn xã hội, làm cho xã hội càng văn minh, phát triển hơn.
Tóm lại, giải quyết việc làm cho người lao động chính là động lực thúc đẩy quá trình sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển. Tạo ra khả năng to lớn trong việc sử dụng tiềm năng cho con người. Chính sách giải quyết việc làm đúng đắn và môi trường xã hội thuận lợi là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến tiềm năng sáng tạo của con người, thúc đẩy họ lao động tìm tòi hết sức mình cống hiến cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ngược lại, chính sách giải quyết việc làm đúng đắn và khả thi sẽ trở thành một động lực to lớn đoàn kết được toàn dân, ổn định vững chắc xã hội, phát huy mọi tiềm lực vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp có khả năng khắc phục từng bước nguy cơ tụt hậu về kinh tế giảm tệ nạn xã hội.
Phần hai: Hiện trạng việc làm và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.
I -Đặc điểm tình hình chung của tỉnh Hoà Bình
1- Đặc điểm tự nhiên.
Hoà Bình là tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc, tiếp giáp với sáu tỉnh: Phía Bắc giáp tỉnh Phú Thọ; phía Đông Nam giáp tỉnh Ninh Bình; phía Đông giáp tỉnh Hà Tây; phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Thanh Hoá. Toàn tỉnh có 9 huyện, 1 thị xã ( trong đó có 197 xã, 6 phường, 11 thị trấn).
Địa hình toàn tỉnh được chia làm hai vùng rõ rệt: Vùng núi cao ( phía tây bắc ) có diện tích là 212.740 ha, chiếm 46% diện tich toàn tỉnh và vùng núi thấp ( phía đông nam ) có diện tích là 253.512 ha, chiếm 54% diện tích toàn tỉnh.
Về khí hậu: khí hậu Hoà Bình là khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông lạnh ít mưa; mùa hè nóng, nhiều mưa. Lượng mưa trong năm đạt trị số khá coa: 1535 mm, độ ẩm trung bình 83%, nhiệt độ trung bình là 24,7oC. Khí hậu Hoà Bình có sự mưa nắng không theo quy luật như ở phía bắc Việt Nam. Tóm lại, khí hậu Hoà Bình tưong đối thuận lợi cho phát triển sản xuất nông -lâm nghiệp.
Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là: 446.6252,86 ha. Trong đó:
-Diện tích đất nông nghiệp là 66758,92 ha, thích hợp với nhiều loại cây trồng cho năng suất cao.
-Diện tích đất lâm nghiệp 194.310,23 ha, thích hợp với các cây công nghiệp quý như trẩu, chè, quế. ..
-Diện tích đất chuyên dùng là 29.361,96 ha.
-Diên tích đất khu dân cư là 5806,77 ha.
-Diện tích đất chưa sử dụng là 170.014,97 ha.
Đặc biệt Hoà Bình có mạng lưới sông, suối phân phối khắc các huyện thị, là nguồn thuỷ điện, thuỷ lợi dồi dào như: Sông Đà (151 km ), Sông Bôi
(125 km ), Sông Bưởi ( 55 km), Sông lạng ( 30 km), Sông Bùi ( 32 km),... hồ Sông Đà ( 8000 ha ) , Hồ Đồng Chanh ( 45 ha), Đầm Quỳnh Lâm ( 90 ha). ..
Hoà Bình có những khoáng sản ( than đá, cát, đá, quặng. .. ) là nguồn nguyên liệu tại chỗ cho phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp một cách đa dạng và thuận lợi.
Rừng Hoà Bình có nhiều loại lâm sản quý vừa có giá trị kinh tế cao, vừa là cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp với hệ sinh thái phong phú, đa dạng hấp dẫn khách du lịch.
Hoà Bình có tiềm năng du lịch lớn với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như lòng hồ, chùa tiên(Lạc Thuỷ), suối khoáng (Kim bôi), Bản lác (Mai châu)...
Tóm lại, hoà bình có nhiều tài nguyên khoáng sản, đất đai phong phú đa dạng là tỉnh tạo nguồn tiền năng kinh tế dồi dào, khả năng cho phép khai thác, sử dụng còn lớn. Nếu đầu tư thoả đáng sẽ tạo nên sự phát triển kinh tế cân đối giữa nông lâm-công nghiệp, thu hút được nhiều lao động có việc làm, tạo nhiều sản phẩm cho xã hội.
2- Đặc điểm kinh tế xã hội.
2.1- Đặc điểm về kinh tế
Cũng xuất phát từ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội. với bản chất lao động cần cù, chịu khó cùng sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, những năm gần đây nền kinh tế Hoà Bình ._.đã có những khởi sẵc khác biệt giữa các khu vực khác nhau.
Bảng 1: Tăng trưởng GDP
1991-1995
1996-2000
1991-2000
Thực hiện
QH
GDP Tỉnh Hoà Bình
12,2
6,7
11,6
9,4
Nông lâm ngư nghiệp
7,1
5,1
9,5
5,6
Công nghiệp - XD
10.9
8,7
15,5
12,1
Dịch vụ
16,8
8,2
13,5
11,2
Vùng Tây Bắc
9,3
5,8
12,1
7,6
Cả nước
8,2
6,8-7
9-10
7,5-7,6
Nguồn: Phòng thống kê Tỉnh Hoà Bình
Qua số liệu ở bảng trên có thể nhận thấy rằng:
Trong thời kỳ 1991-2000 nhịp độ tăng GDP của tỉnh khá cao đạt 9,4%
Thời kỳ 1991-1995, nhịp độ tăng GDP trung bình đạt 12.2% với xu hướng tăng dần.
Thời kỳ 1996-1995, nhịp độ GDP trung bình đạt 6,7% nhưng với xu hướng giảm dần.
Nhịp độ tăng GDP của tỉnh cao là do sự đóng góp của công nghiệp và dịch vụ - Trong các năm gần đây do phát triển công nghiệp chế biến nông lâm như. đường, xi măng, gạch tuy nen và đầu tư xây dựng tăng nhanh.
GDP của toàn tỉnh năm 2000 ước đạt 1511 tỷ đồng gấp 2,35 lần năm 1991, GDP bình quân đầu người năm 2000 đạt 178 USD cao hơn trung bình vùng tây bắc khoảng 26% nhưng chỉ bằng 56% so với cả nước, bằng 71% so với quy hoạch.
GDP danh nghĩa/người khu vực thành thị tăng trung bình 7%/năm cao hơn khu vực nông thôn 5,6%/năm. Vì vậy khoảng cách GDP/người giữa thành thị và nông thôn có xu hướng xa hơn.
Để phản ánh cụ thể hơn ta đi vào xem xét tình hình phát triển kinh tế qua các mặt:
2.1.1- Về sản xuất công nghiệp- thủ công nghiệp
Điện: Tổng sản lượng điện của Hoà Bình năm 1999 đạt 7 tỷ KW/h ngoài nhà máy thuỷ điện Hoà Bình còn có một số trạm thuỷ điện nhỏ, máy phát diện mini, điện pin mặt trời bước đầu được sử dụng tại vùng lòng hồ sông Đà. Số hộ sử dụng diện toàn tỉnh chiếm 59,8% số hộ toàn tỉnh. Số lượng điện tiêu thụ trong tỉnh năm 1999 bình quân đầu người khoảng 100KW/người.
Cơ khí: chủ yếu sản xuất công cụ cơ khí nhỏ máy tuốt lúa 270 chiếc, máy sát gạo 15 chiếc giá trị sản lượng đạt 3,81 tỷ đồng.
Vật liệu xây dựng: ngành vật liệu xây dựng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và một phần cung cấp cho Hà Nội. Trên địa bàn có 3 nhà máy sản xuất xi măng lò đứng với tổng công suất 24 vạn tấn/năm, 1 nhà máy sản xuất gạch tuy nen công suất 20 triệu viên năm, xí nghiệp vôi đá và các lò gạch, ngói, vôi thủ công. Số lượng sản xuất sản phẩm năm 1999 như sau: Xi măng 14,47 vạn tấn; Gạch xây dựng 73 triệu viên; ngói lợp 1,5 triệu viên; vôi 31,6 ngàn tấn; cát sỏi 130 ngàn m3; đá khai thác 397,8 ngàn m3.
Công nghiệp chế biến: chủ yếu là chế biến gỗ lâm sản, sản xuất đồ mộc, có xí nghiệp ván ép tre thanh, nhà máy đường công suất 700 tấn mía cây/ngày
Thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống: Các ngành nghề thủ công chưa phát triển, chủ yếu là xản xuất công cụ cầm tay, may mặc, xay xát, cơ khí nhỏ, dệt thổ cẩm của các đồng bào dân tộc. Giá trị sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp toàn tỉnh là 245,78 tỷ. Trong đó
-Chế biến nông sản 15,76 tỷ
-Vật liệu xây dựng 182,37 tỷ
-Ngành nghề khác 47,65 tỷ
Giá trị sản xuất công nghiệp - thủ công nghiệp năm 2000 là 322,7 tỷ đồng tăng trung bình khoảng 25,4%. Trong đó kinh tế quốc doanh trung ương tăng 12,4%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 5,7%
Sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành này theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, một số cơ sở sản xuất công nghiệp được xây dựng mới và mở rộng: xây dựng nhà máy đường công nghiệp 7000 tấn mía/ngày, nhà máy gạch tuy nen 20 triệu viên/năm, nhà mày xi măng lò đứng 8,8 vạn tấn/năm, dây truyền may xuất khẩu may xuất khẩu 200 máy...Trên địa bàn tỉnh đang hình thành những cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp như Lương Sơn, khu công nghiệp bờ trái Sông Đà-Thị xã Hoà Bình.
2.1.2 - Về Hoạt động thương mại dịch vụ.
Mạng lưới thương mại thương mại dịch vụ trong địa bàn trong thời gian qua liên tục phát triển sâu rộng và đa dạng, đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội và sản xuất. Bình quân số cơ sở thương mại, khách sạn, nhà hàng và dịch vụ là 6252 và 8382 người lao động doanh thu hàng năm là 271,128 triệu đồng.
Số hộ kinh doanh thương nghiệp ( năm 1999): 4703 hộ số lao động tham gia là 4800 người.
Bảng 2: Hoạt động thương mại dịch vụ
1991
1995
2000
Tổng mức bán lẻ
137,4
440
485
Quốc doanh
73
143
159
Tập thể
5,7
15,5
27
Tư nhân
58,7
281,5
299
Nguồn: Niên giám thống kê- Cục Thống kê Tỉnh Hoà Bình
Nhìn vào bảng trên nếu ta tính theo giá hiện hành, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng từ 137,4 tỷ đồng năm 1991 lên 485 tỷ đồng năm 2000 nhịp độ tăng trưởng thời kỳ 1991-2000 là 10,8% trong đó thời kỳ 1991-1995 là 19,1% nhưng giảm xuống còn 4,6 giai đoạn 1996-2000. Tỷ trọng thương mại quốc doanh giảm thương mại tư nhân tăng và thương mại tập thể tăng không đáng kể.
Năm 1991 tỷ trọng thương mại của các trành phần kinh tế là: Quốc doanh: 53%, tập thể 4% và tư nhân: 43% đến năm 2000 cơ cấu trên là 33,55 và 61,5%
Dịch vụ vận tải đạt mức tăng trưởng khá đã đáp ứng được nhu cầu vận chuyển phục vụ sản xuất và đi lại của nhân dân. Doanh thu vận tải tăng trung bình 7,5%/năm trong thời kỳ 1991-2000 trong đó thời kỳ 1991-1995 đạt tốc độ tăng trưởng cao 28,2% thời kỳ 1996 đạt 1,62%
Về cơ cấu vận chuyển giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngoài quốc doanh. Năm 1991 cơ cấu giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh theo tỷ lệ là 42% và 58% năm 1999 tỷ lệ này là 12,4% và 87,6%. Cơ cấu giữa vận tải đường bộ và đường sông ổn định theo tỷ lệ 90% và 10%. Nếu phân theo tính chất vận tải thì tỷ trọng hàng hoá tăng còn tỷ trọng vận tải hành khách và bốc xếp giảm năm: 1991 tỷ lệ trên là 42,4%; 51,1%; 2,5% đến năm 1999 sự chuyển dịch theo tỷ lệ 80,6%; 16%; 2,6%
Du lịch Hoà Bình rất phát triển có nhiều cảnh quan du lịch như vùng lòng hồ Sông Đà các hang động như:Lạc Sơn, Lạc Thuỷ, suối nước nóng Kim Bôi. ..ước tính doanh thu của du lịch năm 2000 đạt 2,46 triệu USD tăng gấp 10 lần so với 1995.
2.1.3- Về sản xuất nông - lâm nghiệp.
Nông nghiệp giữ vị trí quan trọng trong kinh tế tỉnh Hoà Bình. Hoà Bình có 114511 hộ nông nghiệp, số lao động tham gia sản xuất năm 2000 là 297243 lao động, diện tích đất nông nghiệp và lâm nghiệp là 293,342ha. Giá trị sản xuất là 691891 triệu đồng, sản lượng quy thóc là 196417 tấn bình quân đầu người trên 300 kg. Nếu tính chi tiết cho một số loại cây trồng ta có bảng sau:
Bảng 3: Một số loại cây trồng chủ yếu qua năm 1999 và 2000 như sau:
Đơn vị
1999
2000
Diện tích lúa
ha
39618
41046
Diện tích khoai lang
ha
4674
4700
Diện tích sắn
ha
8790
9840
Diện tích mía
ha
7107
7000
Diện tích lạc
ha
4191
4200
Diện tích đậu tương
ha
2660
2870
Diện tích cây ăn quả
ha
9200
11000
Diện tích chè
ha
2800
2650
Nguồn: Niên giám thống kê - Tỉnh Hoà Bình
Nhìn chung trồng lúa năm 2000 có cao hơn năm 1999 và nó là loại cây
trồng phổ biến nhất.
Còn về chăn nuôi:
Bảng 4: Dự kiến phát triển chăn nuôi.
Đơn vị 1000 con
Chỉ tiêu
1999
2000
Đàn trâu
126,665
130
Đàn lợn
277,632
2837
Đàn bò
47,368
48,8
Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Hoà Bình
Số liệu trên cho ta thấy: Chăn nuôi có chiều hướng phát triển tốt Năm 2000so với năm 1999 tăng một cách đáng kể
Thuỷ sản có diện tích nuôi trồng là 1229 ha sản lượng đạt 2224 tấn
(nuôi thuỷ sản 1774 tấn; khai thác tự nhiên 450 tấn).
Lâm nghiệp: Do vị trí địa lí ở Hoà Bình là vùng núi cao cho nên chủ
yếu là phát triển trồng rừng. Tổng diện tích rừng toàn tỉnh năm 2000
theo thống kê nhà đất là 196308 ha.
2.1.4-Về xây dựng cơ bản - Giao thông- Bưu điện
Những năm qua tranh thủ được sự ủng hộ của tỉnh và trung ương để đầu tư vào các công trình xây dựng cơ sở phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Nhiều công trình đã được hoàn thành và đưa vào sử dụng như cầu Hoà Bình nối liền giữa bờ trái và bờ phải Sông Đà, bể bơi của tỉnh, làng SOS, trại cai nghiện...
Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản khu vực nhà nước là 108,808 triệu đồng. Lao động tham gia ngành xây dựng cơ bản-vận tải-bưu điện là 2514 người, doanh thu vận tải là 41,722 triệu đồng, ngành bưu điện là 8521 triệu đồng.
2.2 - Đặc điểm về văn hoá-xã hội.
2.2.1- Về mức sống dân cư
Trong thời kỳ 1991-2000, mức sống của nhân dân trong tỉnh được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. GDP bình quân đầu người năm 2000 gấp 2,2 lần năm 1990; so với năm 1995 gấp 1,3 lần.
Tuy nhiên so sánh với cả nước GDP/người của tỉnh Hoà Bình đạt khoảng 56% vào năm 2000. Sản xuất lương thực tăng, năm 2000 đạt 23,5 vạn tấn lương thực quy thóc, bình quân đầu người đạt 300 kg. Giá cả thị trường ổn định, vì vậy thu nhập thực tế của nhân dân các dân tộc tăng dần.
Một số chỉ tiêu khác phản ánh mức sống của nhân dân trong tỉnh đó là: năm 2000, số hộ có nhà kiên cố và bán kiên cố đạt 60%; tỷ lệ dân số được nghe đài tiếng nói việt nam tăng từ 75% năm 1990 lên 95% năm 2000; số hộ có tivi là 15%(1990) tăng lên 60% (2000)
2.2.2 - Về giáo dục:
Toàn tỉnh có 363 trường, 3995 phòng học,6557 lớp và tổng số 8330 giáo viên. Trong 10 năm qua toàn ngành giáo dục tỉnh đã phát huy nội lực, tăng cường trật tự kỷ cương, nề nếp. Thực hiện tốt chính sách khuyến khích giáo viên lên công tác vùng cao, thực hiện đưa lớp đến từng thôn bản. Hệ thống trường chuyên lớp chọn được duy trì và củng cố. Giáo dục hướng nghiệp cũng được mở rộng đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và trang bị ngành nghề cho lao động.
Cho đến nay đã có 100% số xã có trường tiểu học, 100% huyện có tường (PTTH). Tuy vậy, năm 2000 còn 6 xã chưa có trường PTTH cơ sở các lớp bổ túc văn hoá được duy trì và phát triển góp phần nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên.
Cơ sở vật chất được hoàn thiên và mở rộng, đã chấm dứt tình trạng học 3 ca một ngày do đó chất lượng học sinh khá giỏi ngày một tăng.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho giảng dạy còn thiếu, giáo viên PTTH chưa đồng bộ, khuyến khích vật chất cho giáo viên vùng cao chưa thoả đáng, việc triển khai thi hành luật giáo dục còn chậm.
2.2.3-Y tế-kế hoạch hoá gia đình.
Công tác y tế kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn tỉnh được tiến hành thường xuyên. Điều này có nhả hưởng rất lớn tới sức khoẻ của người dân trong tỉnh, đặc biệt là người trong độ tuổi lao động. Giúp cho chất lượng lao động của tỉnh ngày càng nâng cao đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm việc làm. Sau đây em xin đưa ra một vài số liệu để nói lên tình hình y tế - Kế hoạch hoá gia đình của Tỉnh trong giai đoạn 1996-2000:
Bảng 5: Tình hình công tác y tế tỉnh Hoà Bình (2000)
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
Số giường bệnh/1vạn dân ( giường)
11
11
11
11,25
11,25
Số bác sĩ/1 vạn dân ( người)
3,2
3,33
3,33
3,5
3,5
Chi phí giường bệnh/năm ( 1000đ)
13304
15559
16000
1700
1800
Tỉ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng(%)
45
43
41
38
35
Số hộ ở thành thị dùng nước máy ( hộ)
6924
7733
9679
11000
12000
Nguồn: Báo cáo kết quả của Sở Y tế tỉnh.
Mạng lưới y tế của Tỉnh hoạt động có nề nếp, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên, công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân hoàn thành tốt. Công tác vệ sinh phòng dịch vệ sinh an toàn thực phẩm tiến hành thường xuyên. Tỷ lệ tiêm chủng được mở rộng đạt bình quân hàng năm 99%; tiêm phòng viêm gan B đạt 99.55 %; tiêm an toàn cho phụ nữ có thai đạt 86 đến 92%. Công tác thông tin giáo dục tuyên truyền thực hiện chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình được tiến hành thường xuyên với nhiều nội dung đổi mới sáng tạo.
2.2.4 -Thực hiện chính sách xã hội.
Các chính sách xã hội được thực hiện tốt đối với các gia đình liệt sỹ, thương binh, những người có công với nước. 100% bà mẹ anh hùng được phụng dưỡng. Các gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, người già và trẻ em tật nguyền không nơi nương tựa được quan tâm giúp đỡ. Đời sống của dân từng bước cải thiện. Tỷ lệ hộ khá, hộ giàu tăng. Tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm giảm 3,5%, cho đến nay tỉnh còn 14,5% hộ nghèo.
3.Đặc điểm dân số của tỉnh Hoà Bình
Mức độ gia tăng dân số của Hoà Bình những năm gần đây tuy có giảm đáng kể nhưng vẫn ở mức cao. Dân cư của Hoà Bình phần lớn tập trung ở thị xã, thị trấn và dọc theo đường quốc lộ. Do đó mật độ dân số, tỷ lệ phát triển dân số ở các huyện, thị không đồng đều. Vấn đề này được thể hiện qua các bảng biểu sau:
Bảng 6: Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1997-2001.
Đơn vị %
Đơn vị
1997
1998
1999
2000
Toàn tỉnh
2,38
2,12
2,00
1,88
Thị xã Hoà Bình
1,66
1,82
1,70
1,55
Huyện Đà Bắc
2,58
2,76
2,40
2,29
Huyện Mai Châu
1,76
1,79
1,72
1,65
Huyện Tân Lạc
2,35
2,27
2,11
1,95
Huyện Lạc Sơn
2,51
2,26
2,10
1,95
Huyện Kỳ Sơn
2,30
2,00
1,96
1,82
Huyện Lương Sơn
2,55
1,98
1,92
1,83
Huyện Kim Bôi
2,32
2,29
2,17
2,07
Huyện Lạc Thuỷ
2,24
2,24
1,90
1,75
Huyện Yên Thuỷ
2,14
1,76
1,75
1,70
Nguồn: Niên giám thống kê 2000 cục thống kê tỉnh Hoà Bình.
Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng: Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 2,38 năm 1997 xuống còn 1,88 năm 2001, nhưng mức đọ tăng dân số vẫn cao chỉ số so sánh với năm 1999, dân số cũng đã gia tăng 14,118 người tương đương với số dân của 2 xã trung bình trong tỉnh.
Về mật độ phân bố dân cư thẻ hiện qua bảng sau:
Bảng7: Diện tích, dân số trung bình mật độ dân số năm 1997 của tỉnhHoàBình.
Đơn vị hành chính
Diện tích tự nhiên (km2)
Dân số trung bình (người)
Mật độ dân số người/km2
Đơn vị hành chính cơ sở xã phường thị trấn
Toàn tỉnh
4749
753416
158,6
212
Thị xã Hoà Bình
132
74257
562,6
14
Huyện Đà Bắc
832
47698
57,3
21
Huyện Mai Châu
633
47412
70,9
2,4
Huyện Tân Lạc
537
75422
411,0
30
Huyện Lạc Sơn
571
128953
221,9
23
Huyện Kỳ Sơn
422
71758
170,0
18
Huyện Lương Sơn
360
74619
270,0
23
Huyện Kim Bôi
693
129908
187,4
35
Huyện Lạc Thuỷ
303
48279
159,3
14
Huyện Yên Thuỷ
257
55110
214,4
12
Nguồn: Niên giám thống kê 2000 cục thống kê tỉnh Hoà Bình.
Qua bảng 7 đã nói lên: Mật độ dân số ở thị xã, thị trấn ngày càng cao: Thị xã Hoà Bình có 562,6 người/km2; Mai Châu có 70,9 người/km2 nguyên nhân là ở thị xã có các doanh nghiệp thu hút một lượng lao động lớn, hơn nữa có nhiều người thích chuyển về sống ở thị xã, thị trấn ngày càng gia tăng
Bảng 8: tình hình phát triển dân số của toàn tỉnh Hoà Bình
Chỉ tiêu
Đơn vị
1996
1997
1999
2000
2001
Dân số trung bình
Người
739289
753416
766000
780000
800000
Nam
Người
361949
368861
376000
380000
390000
Nữ
Người
277349
384555
390000
400000
410000
Mật độ dân số
Người/km2
155
158,6
160
163
165
Tỷ lệ sinh
%
2,56
2,44
2,31
2,1
2,03
Tỷ lệ tử
%
0,56
0,56
0,55
0,54
0,53
Tỷ lệ tăng tự nhiên
%
2,55
2,38
2,12
2,00
1,88
Nguồn: Niên giám thống kê- tỉnh Hoà Bình.
Nhìn vào bảng 8: ta có thể có một cái nhìn tổng quát về tình hình phát triển dân số của tỉnh trong những năm qua:
Năm 1996 dân số trung bình là 739289 người năm 1997 con số nay là 753416 người tức là tăng thêm 14118 người. Đến năm 1999 tăng thêm 12594 người so với năm 1997 và năm 2000 dân số trung bình là 780000 người. Năm 2001 ước đạt là 800000 người tăng 20000 người so với năm 2000.
Qua đây ta thấy rằng dân số qua các năm tăng quá nhanh điều đó ảnh hưởng rất lớn tới việc làm cho người lao động nhưng được cái tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử khá ổn định. Tỷ lệ tăng tự nhiên có giảm nhưng không đáng kể.
II. Hiện trạng nguồn lao động việc làm trên
địa bàn tỉnh Hoà Bình
1. Quy mô nguồn lao động.
Ta biết rằng, dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô dân số và quy mô tại thời kỳ nào đó lại phụ thuộc vào sự biến đổi tự nhiên và biến đổi cơ học. Nguồn lao động của tỉnh được thể hiện trong bảng sau
Bảng 9: Quy mô nguồn lao động của tỉnh Hoà Bình.
Chỉ tiêu
1989
1996
1999
2000
2001
1.Dân số trung bình ( người)
678532
739289
766000
780000
800000
2.Dân số trong độ tuổi lao động ( người)
315478
434790
445610
452658
484654
+Số lao động có việc làm
293337
362679
366024
381758
413960
+Thất nghiệp
10365
3000
4064
8871
5635
+Đi học
9566
20200
42577
46003
49107
+Nội trợ
780
12310
30325
25895
487
+Không có khả năng lao động
920
1105
1346
22445
5465
+Tình trạng khác
510
1020
1274
9830
10000
3.Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ( %)
76,55
66,77
75,00
75,00
76,39
4.Tỷ lệ lao động qua đào tạo ( %)
5,09
9,09
9,7
9,7
10,70
5.Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ( %)
2,53
2,55
2,12
2,00
1,88
6.Tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động trên tổng dân số ( %)
46,5
58,81
58,17
58,04
60,58
Nguồn: Niên giám thống kê-tỉnh Hoà Bình
Qua bảng 9 ta phải nói rằng: Dân số của tỉnh không ngừng tăng lên qua các năm đã làm cho nguồn lao động của tỉnh tăng lên đồng thời số lao động có việc làm trong tỉnh cũng tăng lên đáng kể theo tỷ lệ thuận. Theo số liệ tổng điều tra về dân số năm 1989, tỉnh Hoà Bình có 678532 người trong đó dân số trong độ tuổi lao động là 315478 người chiếm 46,5% dân số. Sau sự kiện tách tỉnh, dân số tỉnh có sự đột biến do di dân kéo theo là sự tăng lên của số ngườ trong độ tuổi lao động. Đến năm 2001 con số này là 484654 người chiếm 60,58% dân số tỉnh. Dân số trong độ tuổi lao động. Số còn lại vì các lí do khác nhau như đi vào quá trình lao động. Chính vì thế mà chính quyền tỉnh gặp khó khăn trong vấn đề giải quyết việc làm và đảm bảo đời sống cho người lao động.
2- Cơ cấu nguồn lao động
2.1- Cơ cấu nguồn lao động phân theo nhóm tuổi và giới tính.
Được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 10: Lực lượng lao động theo tuổi và giới tính trên địa bàn
tỉnh Hoà Bình.
Nhóm
tuổi
1997
2000
Tổng
%
Trong đó
Tổng
%
Trong đó
Nữ
%
Nữ
%
15-24
143735
28.99
70362
48,95
150318
29,97
37720
49,04
25-55
281638
56,81
144698
51,83
279676
55,76
142535
37,88
26-60
19116
3,85
9703
50,76
21808
4,35
11527
52,87
60+
51332
10,35
30456
59,33
49751
9,02
29598
59,50
Tổng số
495821
100,00
255219
51,47
501443
100,00
257380
51,32
Nguồn: Báo cáo thực trạng việc làm lao động của tỉnh Hoà Bình.
Nhìn chung, cơ cấu lực lượng lao động qua các năm vừa qua không có sự biến động lớn năm1997 tổng số là 495821 người, trong đó nữ chiếm 51,47%; năm 2000 tổng số 501553 người, trong đó nữ chiếm 51,32%. Lao động nữ chiếm một tỷ lệ khá cao trong lực lượng lao động ( ằ52%)
Về nhóm tuổi: lao động trong độ tuổi từ 15-25 tuổi tại thời điểm điều tra lao động việc làm năm 1997 khá dồi dào với tổng số là 425373 người chiếm 56,46% tổng dân số và sau năm 2000 con số này tăng lên 429994 người chiếm 56,82% tổng dân số. Đây là lực lượng chủ yếu tham gia vào nguồn nhân lực của tỉnh lực lượng này luôn luôn có nhu cầu làm việc vì lực lượng lao động ở nhóm tuổi này vừa có sức khoẻ, vừa có trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật nhanh nhạy tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất vì vậy các cấp chính quyền cần phải có biện pháp thiết thực để tạo công ăn việc làm cho họ. Số người trên độ tuổi lao động năm 1997 chiếm 10,35% san năm 2000 giảm xuống còn 9,92 cũng cần phải có việc làm phù hợp với sức khoẻ bởi vì ở độ tuổi này chỉ là lao động phụ lúc này sức khoẻ giảm sút, tức là nếu trực tiếp tham gia vào lao động sản xuất thì hiệu quả không cao nhưng bù lại họ có những kinh nghiệm quý báu, là những người dẫn dắt truyền đạt cho thế hệ sau.
2.2 -Cơ cấu nguồn lao động chia theo trình độ văn hoá và chuyên môn
Bảng 11: Trình độ văn hóa của dân số từ 15 tuổi trở lên tại tỉnh Hoà Bình
Trình độ văn hóa
1996
2001
Số lượng ( người)
%
Số lượng ( người)
%
Số người không biết chữ
78190
19,91
10728
2,67
Tốt nghiệp cấp I
122690
31,23
180779
45
Tốt nghiệp cấp II
133079
33,88
158259
38
Tốt nghiệp cấp III
45499
11,58
52038
12,95
Tốt nghiệp đại học Cao đẳng
638
0,16
7232
1,8
Tốt nghiệp trung học
12750
3,24
13199
3,28
Tổng số
392810
100
401798
100
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động việc làm 1996-2001
Qua kết quả điều tra thì trình độ văn hoá còn thấp, năm 1996 số người chưa biết chữ là 78190 người chiếm 19,91% trong tổng số điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến cơ cấu của lao động theo trình độ chuyên môn của những năm sau đên năm 2001 con số này giảm xuống chỉ còn 2,67% đây là một con số rất đáng mừng. Tỷ lệ tôt nghiệp cấp I năm 1996 đạt 31,23% sang năm 2000 con số này tăng lên là 45%. Tỷ lệ tốt nghiệp cấp II cũng tăng lên từ 33,88 (1996) lên 38% (2001) tỷ lệ tốt nghiệp cấp III tăng từ 11,58% (1996) lên 12,16% (2001). Đặc biệt quan trọng hơn là số tốt nghiệp Cao đẳng đại học tăng lên từ 0,16% (1996) lên 1,8% (2001). Với tốc độ tăng như vậy thì vấn đề tạo công ăn việc làm cho người lao động có phần thuận lợi hơn đó là do người lao động được đào tạo, được rèn luyện phù hợp với công việc.
Ta có số liệu tổng kết trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động tỉnh Hoà Bình năm 2001 như sau.
Bảng 12: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của LLLĐ tỉnh Hoà Bình
Trình độ chuyên môn kỹ thuật
1996
2001
Lực lượng
%
Lực lượng
%
Không chuyên môn kỹ thuật
351747
89,50
396151
89,05
Có chuyên môn kỹ thuật
17408
4,43
15736
3,54
Trung cấp
17683
4,50
20603
4,63
Cao đẳng đại học
5898
1,50
6467
1,45
Đại học trở lên
62
0,016
5706
1,28
Khác
258
0,07
208
0,05
Tổng số
393058
100
444871
100
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra lao động việc làm của tỉnh Hoà Bình.
Qua số liệu bảng trên, ta thấy trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở trên địa bàn tỉnh còn thấp: số công nhân không có trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 1996 là 351747 người chiếm 89,5%; năm 2001 là 396151 người chiếm 89,05% ( giảm 0,45% ) số có trình độ chuyên môn kỹ thuật năm 1996 là 17408 người chiếm 3,54% ( giảm 0,89%). Trong khi đó số người có trình độ Cao đẳng, đại học và trên đại học là 10173 người chiếm 2,73% ( tăng 2,644%).
Với những lao động mà có trình độ CMKT thì nhu cầu việc làm của họ là rất cao. Nếu so sánh giữa năm 1996 và 2001 về số lượng lao động nó tăng lên 51813 người cần việc làm đòi hỏi các cấp các ngành của tỉnh cần có giải pháp để bố trí việc làm.
2.3- Cơ cấu nguồn lao động theo khu vực
Được phản ánh qua bảng sau:
Bảng 13: Dân số trong độ tuổi lao động theo khu vực thành thị nông thôn
Khu vực
1996
2001
Tổng
%
Trong đó
Tổng số
%
Trong đó
Nữ
%
Nữ
%
Thành thị
52304
14,52
27391
52,37
71884
15,7
36530
50,82
Nông thôn
307837
85,48
156672
50,89
386202
84,3
190766
49,40
Tổng số
360141
100
184063
51,1
452658
100
227296
49,62
Nguồn: Niên giám thống kê cục thống kê Hoà Bình.
Qua bảng số liệu trên cho thấy dân số trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị lớn hơn dân số trong tuổi lao động ở khu vực nông thôn sở dĩ như vậy là vì ở thành thị người lao động dễ kiếm việc làm hơn và lại có thu nhập cao hơn so với ở nông thôn, do đó họ đổ xô lên thành thị với mục đích là kiếm được việc làm cho dù đi đạp xích lô hay hót rác, cửu vạn....còn hơn là ở nông thôn làm ruộng chân nấm tay bùn mà thu nhập chẳng đáng là bao. Vậy chính quyền các cấp các ngành phải quan tâm chú trọng đến vấn đề giải quyết việc làm cho loại lao động này, loại này chủ yếu là thanh niên vừa học xong không có công ăn việc làm.
3. Hiện trạng việc làm trên địa bàn tỉnh Hoà Bình
Do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cùng ảnh hưởng đến công trình nhà máy thuỷ điên Sông Đà nên tình hình lao động, việc làm trên địa bàn của tỉnh có nhiều biến động lớn. Để có cơ sở, biện pháp giải quyết việc làm, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ngày 6/6/1999 UBND tỉnh đã ra quyết định số 379 QĐ/UB thành lập ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm trong toàn tỉnh công việc điều tra tiến hành trên tổng số 49 địa bàn của 10 huyện, thị, bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp ở các hộ kết quả điều tra được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 14: Số lượng lao động có việc làm trên địa bàn tỉnh Hoà Bình
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Số lượng người trong tuổi lao động
434790
455610
445756
452695
484654
Số người có việc làm
397155
403293
397639
401243
413960
Nguồn: Phòng dậy nghề thuộc sở LĐTB-XH tỉnh Hoà Bình.
Qua số liệu ở bảng trên, năm 1997 số người có việc làm tại tỉnh Hoà Bình là 397155 người năm 1998 tăng thêm 6138 người và cho đến năm 2001 con số này là 413960 người. Điều này chứng tỏ việc làm cho người lao động ngày một tăng qua các năm và nó tăng tỷ lệ thuận với quá trình tăng dân số. Để rõ hơn ta xem xét tỷ lệ việc làm trong các ngành kinh tế.
Bảng 15 Cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế(2000).
Đơn vị :%
Ngành
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Thương mại dịch vụ
Khác
1999
69,4
4,4
5,6
14,2
2000
60
5,7
10,7
10,7
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hoà Bình.
Nhìn chung tỷ lệ việc làm của ngành nông nghiệp vẫn chiếm đa số 60%. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là do họ không có trình độ văn hoá, không có kinh nghiệm do đó không thể làm việc bằng trí óc được mà phải làm việc bằng tay chân nhất là ở Hoà Bình với điều kiện tự nhiên chủ yếu là đồi núi đi lại khó khăn vậy ngành nông nghiệp tỷ lệ việc làm chiếm đại đa số là đương nhiên. Tuy vậy trong những năm gần đây xu hướng phát triển mạnh ngành thương mại dịch vụ và ngành này góp một phần đáng kể về thu ngân sách của tỉnh đồng thời cần phải giảm bớt tỷ lệ viẹec làm trong ngành nông nghiệp
Việc sắp xếp việc làm theo ngành kinh tế ảnh hưởng tới chất lượng lao động trong khu vực. Nếu sắp xếp hợp lý với sự phát triển kinh tế chung của tỉnh thì lao động sẽ có cơ hội phát huy được sức sáng tạo tiếp cận được với công nghệ tiên tiến, nâng cao tay nghề. Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã chú trọng đến các hình thức khuyến khích sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, nhập nguyên liệu từ nước ngoài về gia công chế biến trong nước, đưa lao động và các chuyên gia ra nước ngoài làm việc học tập đó cũng là một hình thức giải quyết việc làm cho khoảng hơn 20000 người có công ăn việc làm có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình ưu điểm của ngành này không cần trình độ học vấn mà chỉ cần có sức khoẻ tốt là được.
Một đặc điểm quan trọng trong cơ cấu việc làm ở tỉnh Hoà Bình là cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế.
Bảng 16: Cơ cấu việc làm theo các thành phần kinh tế của tỉnh
Hoà Bình ( 2000)
Thành phần kinh tế
Việc làm
Số lượng việc làm
Tỷ lệ ( %)
Doanh nghiệp nhà nước
2500 việc làm
5,6 %
Hợp tác xã
2350 việc làm
5,3%
Tổ hợp tác
2300 việc làm
5,2%
Kinh tế tư nhân
9200 việc làm
20,8%
Kinh tế cá thể
2794 hộ
63,1%
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hòa Bình.
Bảng trên cho thấy: Cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế của tỉnh thể hiện rất rõ nét đặc điểm kinh tế của tỉnh. Số việc làm trong thành phần kinh tế tập thể hợp tác xã là 2300 do đặc thù kinh tế của tỉnh có các ngành tiểu thủ công nghiệp nhưng đặc biệt hơn cả là số việc làm trong các đơn vị kinh tế tư nhân là 9200 việc làm, hộ gia đình 27940 hộ.
Việc quan tâm chú ý tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đó là biện pháp theo đúng hướng phát triển kinh tế của tỉnh là việc cần nên làm, đó là biện pháp tối ưu để giải quyết việc làm cho người lao động.
ở tỉnh Hoà Bình những người lao động trẻ, chưa có kinh nghiệm chiếm tỷ trọng cao. Năm 1989 lao động ( tương đương với việc làm ) ở độ tuổi 16-34 chiếm 36,2% tổng dân số của tỉnh và 61,2% tổng số lực lượng lao động. Năm 2000 số đó chiếm 35,4% tổng dân số của tỉnh và 60,3% tổng số lao động số lao động thuộc nhóm tuổi trên 35 có số lượng lao động ở nhóm tuổi thnh niên và có xu hướng giảm theo độ tuổi cao. Những người ở độ tuổi dưới 35 mặc dù được đào tạo cơ bản có sức khoẻ có năng lực cùng sự năng động nhanh nhẹn của tuổi trẻ nhưng khi chuyển sang nền kinh tế thị trường trong cuộc cạnh tranh gay gắt trong tiêu thụ sản phẩm đầu tư, nâng cao chất lượng sản phẩm, trong quản lý... hầu hết các doanh nghiệp các chủ quản lý đều muốn thu hút các đơn vị mình những người có nhiều kinh nghiệm có khả năng đứng trước sóng gió thị trường. Đây cũng là vấn đề khúc mắc trong công tác việc làm có liên quan đến chất lượng người là lao động các doanh nghiệp có việc làm cần thu hút người lao động nhưng là lao đọng có tay nghề cao, lâu năm đã có kinh nghiệm thực tế thì số người lao động trẻ, có sự đào tạo nhưng chưa có kinh nghiệm là rất nhiều.
Về chất lượng lao động, nói chung ở trên địa bàn tỉnh là tương đối cao. Bản thân đối tượng tìm việc làm cũng có trình độ văn hoá cao hơn và ngày càng có xu hướng phát triển về trình độ, năng lực chuyên môn kỹ thuật. Lao động có trình độ từ trung cấp lên đến trên đại học chiếm gần 12%(1989) và 25%(2001) nếu kể cả cán bộ, công nhân kỹ thuật thì tỷ lệ đó cao hơn nhiều.
Tuy trình độ người lao động trên địa bàn tỉnh vào loại khá nhưng nguồn vào cách đào tạo còn chậm và nặng nề về lý thuyết sách vở thực tế ít. Hơn nữa lại được đào tạo theo công nghệ cũ, không theo kịp với các trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại.
Trong tình hình hiện nay, sự khác biệt giữa chất lượng việc làm và chất lượng lao động không chỉ thấy riêng ở tỉnh mà trên phạm vi rộng hơn có thể nói chất lượng việc làm hiện nay còn thấp, chỗ làm việc đem lại thu nhập cao cho người lao động, lao động có hiệu quả còn ít những nơi đem lại thu nhập cao cho người lao động chủ yếu là liên quan lĩnh vực kinh doanh trong lĩnh vực quốc doanh thuần tuý, nhìn chung thu nhập của người lao động còn thấp, thậm chí không đủ trang trải cuộc sống gia đình do sản xuất kinh doanh trên địa bàn miền núi nền kinh tế lại chưa phát triển, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều có quy mô nhỏ bé về vốn công nghệ cũ nên hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao do đó mặc dù lao động có việc làm ổn định nhưng tiền lương còn thấp cụ thể là: Một số doanh nghiệp thuộc ngành thương mại-dịch vụ do phải cạnh tranh với các thành phần kinh tế, lương thu nhập cho người lao động rất thấp, bình quân chỉ từ 200000 đến 250000đ/người/tháng số lao động dôi dư và không bố trí được việc làm còn cao
Mức thu nhập bình quân trong các doanh nghiệp nhà nước là 380000 đ/tháng. ở đây có nghịch lý phổ biến là thu nhập cao lại kkhông dựa trên cơ sở hiệu quả lao động cao. Thu nhập cao chủ yếu do tính đặc thù của chỗ làm việc nếu chỗ làm việc đó gắn với những ngành có thể bán tài nguyên quốc gia, gắn với nơi có khả năgn tham ô của công thì có thu nhập cao những người có tay nghề, có trình độ học vấn cao lại có thu nhập thấp hơn những người làm việc kém nghiêm túc hơn. Cũng tồn tại một nghịch lý khác nữ._.ện, thuỷ điện nhỏ, thuỷ điện mini.
2- Mục tiêu, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm ở Hoà Bình giai đoạn 2001-2005.
2.1.- Quan điểm giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động, giúp cho người lao động lập nghiệp tại quê hương. Triệt để sử dụng sức lao động nhằm khai thác tối đa tiềm năng nguồn lao động, kết hợp chặt chẽ giữa tiềm năng lao động với các loại hình kinh tế khác nhằm phát huy nội lực là chính.
Gắn liền giữa việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, lao động với phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng đầu tư hợp tác đối ngoại, tạo nhiều việc làm mới, giảm nhanh số lao động thất nghiệp và thiếu việc làm ở các khu vực và thành phần kinh tế trong toàn tỉnh. Đa dạng hoá các hình thức dạy nghề, có chính sách khuyến khích lao động thành thị cũng như nông thôn, mỗi người có ít nhất một nghề và sống bằng chính nghề đó.
Phát triển kinh tế hộ gia đình, hình thức này thực chất là sự khôi phục lại kinh tế hộ gia đình trong điều kiện phát triển hàng hoá nhiều thành phần và mở rộng quan hệ quốc tế. ở đây, người lao động chủ động tận dụng được vốn tư liệu sản xuất, thời gian lao động, kinh nghiệm truyền thống, mặt hàng để tạo ra việc làm đồng thời tạo ra sản phẩm tăng thu nhập cho người lao động.
Phát triển các doanh nghiệp vừa là nhỏ trên địa bàn tỉnh: đây là hình thức mới xuất hiện sau khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi cơ chế. Hình thức này mở rộng rất phù hợp với quá trình chuyển sang kinh tế thị trường nhiều thành phần. Đặc biệt, hình thức này rất phù hợp với điều kiện kinh tế của tỉnh nơi chỉ thích nghi với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó phù hợp với khả năng huy động vốn, kỹ thuật, công nghệ, trình độ quản lý. Mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần thuê 20 -30 lao động, song với nhiều doanh nghiệp như vậy sẽ giải quyết được một số lượng lớn lao động trong xã hội.
Hình thức tạo việc làm tại nhà: hình thức này rất phù hợp với điều kiện của tỉnh ta hiện nay, nếu hình thức này được đầu tư hợp lý thì các cơ sở có kiều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm việc làm góp phần vào công tác giải quyết việc làm tại nhà cho phần lớn lao động nữ, người đã quá tuổi lao động hay lao động thủ công thô sơ không có trình độ.
Giải quyết việc làm cho các đối tượng đặc biệt. Đất nước ta đã trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc và lâu dài, tuy chiến tranh kết thúc đã lâu nhưng hậu quả của nó còn ảnh hưởng đến ngày nay. Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình có những đối tượng là thương binh, bệnh binh, tàn tật, con em gia đình thương binh liệt sỹ, người có công với cách mạng. .. hiện nay đang trong tuổi lao động hoặc hết tuổi lao động nhưng có nhu cầu việc làm vì lý do cuộc sống họ cũng cần được quan tâm, tạo điều kiện để xây dựng cuộc sống ổn định trong xã hội.
Phát triển các hiệp hội nghề nghiệp: như hội làm vườn, chăn nuôi, bốc xếp các hiệp hội nay đã hỗ trợ giải quyết các yếu tố là vốn, công nghệ góp phần tích cực vào việc mở mang ngành nghề, tạo thêm nhiều việc làm mới cho lao động.
2.2- Mục tiêu giải quyết việc làm.
Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16 đã khẳng: Trong điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, đời sống nhân dân và khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn yếu kém, vốn đầu tư cho sản xuất còn hạn chế trong lúc sức ép về nhu cầu việc làm lại là việc luôn đòi hỏi có tính cấp bách. Do đó, việc bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cũng như việc lựa chọn áp dụng các biện pháp tổ chức, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật cần phải được tiến hành theo phương châm đạt hiệu quả kinh tế và năng suất lao động lao động cao nhưng yêu cầu là đầu tư ít tốn kém và giải quyết được nhiều chỗ làm mới cho lao động.
Giải quyết việc làm gắn chắt với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mục tiêu của sự phát triển đặt ra là tập trung và phát triển kinh tế đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, chú trọng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn với công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiên đại, tạo ra những sản phẩm hàng hoá có hàm lượng chất xám cao.
Mục tiêu cụ thể về giải quyết việc làm thời kỳ từ năm 2002 đến năm 2005 cầngiải quyết việc làm cho khoảng 5-6 vạn lao đông, trong đó thanh niên đến tuổi lao động chiếm khoảng 80% còn lại là các đối tượng lao động khác và những người có việc làm ở những năm trước chuyển sang phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm cho 13 ngàn người lao động để đến năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị còn dưới 5%, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đạt 80% cơ bản không còn sức ép về việc làm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: << đảm bảo công ăn việc làm cho dân là một mục tiêu xã hội hàng đầu không thể để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên. Nhà nước chú trọng đầu tư tạo việc làm đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động tạo thêm chỗ làm việc, tự tạo việc làm, khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng nhà nước tổ chức dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề. Nhà nước với sự tham gia của công đoàn các tổ chức xã hội bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.
Vì vậy giải quyết việc làm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm đều có cơ hội có việc làm đặc biệt là thanh niên phụ nữ, người tàn tật, là trách nhiệm của mọi người, mọi ngành, mọi cấp của nhà nước và toàn xã hội.
Mục tiêu giải quyết việc làm phải được cụ thể hoá thành chỉ tiêu tạo chỗ làm việc mới trong kế hoạch nhà nước hàng năm và 5 năm trong các chương trình, dự án của các cấp các ngành, các tổ chức xã hội và đơn vị cơ sở. Trong đó phải khai thác mọi tiềm năng để bảo đảm những điều kiện tương xứng nhằm thực hiện mục tiêu đã được xác định.
2.3 - Phương hướng
Một là : xây dưng và hoàn thiên cơ cấu kinh tế của tỉnh theo định huớngcông nghiệp hoá, hiên đại hoá gắn với việc sử dụng lao động và giải quyết việc làm một cách có hiệu quả.
Quá trình phát triển kinh tế ở tỉnh, một mặt, phải đảm bảo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh nói riêng đồng thời theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước, mặt khác phải biết khai thác phát huy hiệu quả các ngành nghề truyền thống, về lực lượng lao động trên địa bàn.
Trước hết, phải phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế với cơ cấu công nghiệp thương mại dịch vụ nông nghiệp đẩy mạnh phát triển công nghiệp thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu tập trung vào một số ngành mũi nhọn với công nghệ tiên tiến, kỹ thuật hiên đại tạo ra những sản phẩm hàng hoá có hàm lượng chất xám cao.
Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh ở tầng thấp, phát huy ngành nghề truyền thống, tận dụng những khả năng về vốn, kỹ thuật, nguyên liệu sẵn có, đặc biệt khai thác sử dụng nhiều lao động, sản xuất ra nhiều sản phẩm tạo ra nhiều việc làm mới. Mở rộng khu vực thương mại thực hiện kế hoạch xây dựng khu thương mại tại các chợ Phương Lâm, Tân Thịnh, Thị xã. Phát triển ngành nghề trong nông thôn nhất là những nghề truyền thống ở các địa phương, phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế HTX. Đối với ngành nông lâm cần chú trọng phát triển theo hướng công nghiệp hoá để giải quyết việc làm. Phát triển nông nghiệp theo hướng tăng vụ ( chủ yếu vụ đông ) mở rộng diên tích lúa lai trên diên tích sẵn có, tăng cường ngô lai trên diện tích 2 vụ lúa để đảm bảo ổn định sản xuất.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh phải là sự chuyển dịch đồng bộ trên các mặt cả về cơ cấu ngành nghề tập trung vào các ngành công nghiệp - thương mại, dịch vụ, cả về trình độ kỹ thuật, toàn bộ 9 huyện thị của tỉnh, các thành phần kinh tế. Tất cả đều nhất quán theo hướng vừa đảm bảo sự phát triển tiên tiến, hiện đại vừa khai thác được thế mạnh tiềm năng sẵn có của tỉnh vừa tăng cường giải quyết việc làm cho người lao động.
Trong những năm tới, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục phát triển nhưng chủ yếu đầu tư theo chiều sâu, thiết bị công nghệ được trang bị hiện đại chủ yếu sử dụng số lao động kỹ thuật cao. Do đó phần lớn số lao động sẽ tập trung được thu hút vào các cơ sở sản xuất kinhdoanh thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Hàng năm riêng khu vực này có thể giải quyết được khối lượng lớn lao động trong đó chỉ riêng hộ kinh doanh tại nhà ( giải quyết việc làm tại chỗ ) khoảng gần 8000 người.
Hai là: Tạo vốn và phát triển quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm, đồng thời khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính khác.
Trong bất kể một công việc nào điều đầu tiên nghĩ đến trước khi làm là phải có vốn đó là yếu tố hàng đâù trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Theo các nhà chuyên môn đánh giá, để đầu tư tạo ra một chỗ làm việc mới ở tỉnh thời kỳ từ nay đến 2005 cần khoảng 5 triệu đồng /năm. Như vậy muốn giải quyết cho 4000-5000 lao động cần khoảng 25000 triệu đồng và giai đoạn từ 2005 đến 2010 thì đầu tư tạo một chỗ việc làm mới cần khoảng 6 triệu đồng cho mỗi người trong mỗi năm. Để giải quyết cho 8000 lao động cần khoảng 48000 triệu đồng,với một lượng vốn lớn như vậy đòi hỏi tỉnh phải có những chính sách, chương trình để huy động khai thác vốn từ nhiều nguồn khác nhau từ mọi thành phần kinh tế trong nước, ngoài nước và của kiều bào ta ở nước ngoài.
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, tập trung cho các chương trình lớn tổng thể cấp nhà nước và giải quyết việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng hỗ trợ đào tạo cán bộ công nhân. Đây là nguồn vốn đầu tư tạo môi trường thuận lợi.
Nguồn vốn từ quỹ quốc gia về giải quyết việc làm, từ ngân hàng công thương, ngân hàng nông nghiệp. .. tập trung vào công tác hỗ trợ các đơn vị và cá thể phát triển sản xuất, tạo việc làm tại chỗ cho người lao động.
Nguồn vốn vay nước ngoài, nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế tuỳ theo quy mô, tính chất của nguồn vốn có thể đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho vay phát triển sản xuất kinh doanh, cho đào tạo dạy nghề cho các dịch vụ xúc tiến việc làm
Nguồn vốn từ trong dân cần được huy động đến mức cao nhất bằng các chính sách biện pháp thích hợp. Một mặt để dân tự huy động, khắc thác vốn, tạo việc làm. Mặt khác, động viên nguồn vốn nhàn dỗi trong dân để đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Ba là: Thực hiện đồng bộ chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển toàn diện kinh tế -xã hội trong tỉnh.
Như chúng ta đã biết đặc điểm kinh tế của tỉnh là chủ yếu làm nông nghiệp. Chính vì vậy, chương trình xoá đói giảm nghèo, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh hoà bình chương trình này cần được triển khai trên phạm vi toàn tỉnh, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cấp, nhiều nghành từ trung ương đến địa phương, các biện pháp bao gồm:
Chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế xã hội những vùng còn mang nặng tính chất nông thôn, tạo ra sự phân công lao động theo hướng đẩy mạnh sản xuấn hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh sản xuất các lọai rau mầu, cây ăn quả, cây cảnh. .. Đa dạng hoá các loại sản phẩm từ nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. áp dụng các phương pháp kỹ thuật sinh học, vi sinh hiện đại vào các khu nông nghiệp, để sản xuất các loại rau quả sạch đáp ứng thị hiếu xã hội ngày càng cao hiện nay.
Đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, cả dịch vụ cho sản xuất và đời sống, phát triển mạnh các nghành nghề truyền thống của cha ông ngày xưa để lại, phát huy mạnh, khai thác tốt một số cơ sở văn hoá lịch sử làm khu du lịch để tạo việc làm cho người lao động.
Từng bước thực hiện hơn nữa quá trình đô thị hoá các khu nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh. Xây dựng mạnh hơn nữa các cụm kinh tế, xã hội dân cư theo hướng đô thị hoá giúp đời sống nhân dân ở khu vực đó ngày càng văn minh hiện đại hơn.
Bốn là: Phát triển mạnh các hình thức quan hệ kinh tế với các nước và xuất khẩu lao động.
Xu hướng mở rộng sự hợp tác, phân công quốc tế, ngày nay Việt Nam sẵn sàng mở rộng giao lưu quốc tế, làm bạn với tất cả các nước. Nhiều nước thiếu lao động, trong khi nguồn lao động của ta là rất lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển mạnh quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm giải quyết việc làm.
Những hình thức cơ bản gồm:
-Đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu.
-Nhận đầu tư,hợp tác sản xuấn, gia công, dịch vụ.
-Phát triển hoạt động dịch vụ, du lịch
-Xuất khẩu lao động sang các nước.
Mỗi hình thức trên đây đều có đòi hỏi riêng, đều có tác động trực tiếp đến giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Việc đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài cũng là hướng quan trọng vừa giải quyết việc làm cho người lao động, vừa góp phần nâng cao trình độ tay nghề, kiến thức của người lao động. Tuy vậy, đây không thể là hướng chiến lược lâu dài của công tác giải quyết việc làm của tỉnh mà đây chỉ là vấn đề trước mắt, ngắn hạn và tập trung vào việc nâng cao trình độ lao động.
Năm là: Các tổ chức dịch vụ và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động.
- Phát triển và giải quyết tốt các trung tâm dịch vụ xúc tiến việc làm để nâng cao hiệu quả làm dịch vụ của các trung tâm xúc tiến việc làm trên địa bàn tỉnh.
` Tiến hành sắp xếp, rà xoát lại các trung tâm xúc tiến việc làm trên địa bàn tỉnh, không để quá nhiều trung tâm làm nhiệm vụ giới thiệu việc làm trên cùng một địa bàn . Cần kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các trung tâm, những trung tâm làm việc không đạt kết quả có thể yêu cầu giải thể, nếu thấy khả năng tồn tại phát triển của nó thì có thể có biện pháp hỗ trợ đầu tư giúp đỡ về mặt tài chính, mặt quan hệ để trung tâm có thể làm việc có hiệu quả giúp tỉnh giải quyết thêm được việc làm.
Bên cạnh các trung tâm giới thiệu việc làm còn có các trung tâm dạy nghề có nhiệm vụ gần tương tự nhau. Vì vậy, đồng thời cũng tiến hành kiểm tra lại tính hiệu quả về chất lượng đào tạo, về hiệu quả công tác giải quyết việc làm có đáp ứng được yêu cầu của xã hội hay không. Đối với các trung tâm dạy nghề thì cấp tỉnh trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật, cán bộ có trình độ. ..
-Tăng cường hệ thống đào tạo, dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Thời gian qua, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã bộc lộ sự mất cân đối về cơ cấu chất lượng lao động, xảy ra hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu lao động hiện tại số người lao động chưa có việc làm ở tỉnh khá cao nhưng tập trung chủ yếu là lao động phổ thông, trong khi đó các công ty, doanh nghiệp lại đang cần người lao động nhưng vói yêu cầu có trình độ, chuyên môn cao. nghĩa là có nơi cần lao động mà vẫn cần có người không có việc làm, vấn đề là ở trình độ, chất lượng lao động.
Việc đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, nâng cao chất lượng nguồn lao động có vai trò khong những trong vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh mà còn góp phần thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển toàn diện kinh tế xã hội. Ngoài ra còn tạo điều kiện cho mỗi người có thể tìm được công việc phù hợp với mình, có thu nhập cao, nâng cao đời sống của bản thân và gia đình.
Sáu là: Thực hiện kiểm kê, kiểm soát nguồn lao động
Để có được công tác giải quyết việc làm thì điều trước tiên cần thiết là phải nắm bắt được vấn đề giải quyết việc làm. Đó là nhiệm vụ của công tác kiểm kê, kiểm soát nguồn lao động do sở lao động - thương binh đảm nhận.
Mặt khác muốn giải quyết việc làm đạt hiệu quả cao thì tỉnh phải có sự quản lý lao động, nguồn lao động, nắm bắt được số người chưa có việc làm và đang cần tìm việc làm trên địa bàn tỉnh, nắm được đặc điểm của từng loại đối tượng cụ thể.
Như vậy, việc thực hiện kiểm kê, kiểm soát nguồn lao động có ý nghĩa to lớn trong công tác việc làm và giải quyết việc làm. Nó không chỉ giúp cho các ngành, các cấp có chức năng nắm được tình hình lao động, việc làm trong tỉnh mà còn giúp có những chính sách, chiến lược, phương án cụ thể tạo việc làm một cách có hiệu quả và thiết thực.
2.4. Giải pháp giải quyết việc làm
Cần đánh giá lại quỹ đất đai chưa được sử dụng, kể cả đất của nông lâm trường không có khả năng sử dụng hết để có kế hoạch chuyển giao triệt để cho các hộ gia đình khai thác phát triển sản xuất theo hướng kinh tế trang trại. Kết hợp vốn của các chương trình kinh tế xã hội như 135; chương trình xoá đói giảm nghèo. ... đồng thời có chính sách hỗ trợ về vốn, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ và bao tiêu sản phẩm để khu vực nông thôn có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo thêm việc làm mới và tăng thêm việc làm cho người lao động.
Tạo môi trường thuận lợi, thu hút đầu tư bên ngoài đồng thời chú trọng phát triển các doanh nghiệp trong tỉnh nhằm giải quyết việc làm mới cho khoảng 5000 lao động trở lên.
Đẩy mạnh chương trình xuất khẩu lao động đi các nước, phấn đấu bình quân mỗi năm từ 500-1000 người đi làm việc ở nước ngoài, đồng thời chú trọng thị trường lao động trong nước, nhất là đối với các khu kinh tế phát triển; khu công nghiệp để mỗi năm đưa từ 1000-1500 lao động đi làm việc tại các khu vực này.
Giải quyết việc làm đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân lực, vật lực. Sự cần thiết phải đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, có kinh nghiệm và có tâm huyết để thực hiện chương trình. Mặt khác, phải tăng cường hệ thống quản lý để xây dựng và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, tiếp tục đổi mới, xắp xếp các doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa dạng hoá các hình thức sở hữu và quản lý có hiệu quả hơn. Tiếp tục chuyển đổi hợp tác xã theo luật HTX; có chủ trương thúc đẩy phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, tăng cường củng cố các nông - lâm trường, xây dựng mỗi nông - lâm trường thành trung tâm kinh tế khoa học kỹ thuật của vùng. Khuyến khích đầu tư phát triển các ngành nghề sản xuất kinh doanh dịch vụ. Mở rộng các mô hình hợp tác, liên doanh, liên kết của các thành phần kinh tế. Tỉnh cần có chính sách và cơ chế đầu tư thông thoáng, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước.
Tăng cường công tác dạy nghề cho người lao động, đặc biệt là lao động khu vực nông thôn, gắn dạy nghề với việc làm và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng vùng, từng địa phương trong tỉnh. Khuyến khích công nhân lao động nâng cao tay nghề, có biện pháp thu hút người có tay nghề cao đồng thời bồi dưỡng, hướng dẫn cho người nghèo tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật, trong đó ưu tiên con em các dân tộc trong tỉnh.
Coi trọng công tác dạy nghề kết hợp với chuyển giao công nghệ, đồng thời đa dạng hoá các hình thức dạy nghề và học nghề nhằm giải quyết việc làm tại chỗ là chính vì đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường lao động.
2.4.1- Những giải pháp về chủ trương chính sách
Căn cừ vào chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của Nghị quyết Đại hội tỉnh đảng bộ lần thứ 12 của tỉnh Hoà Bình phấn đấu đến 2005 như sau:
- Cơ cấu kinh tế nông- lâm- công nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu phát triển một cách đồng bộ
- Nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân từ 12-15% sản lượng lương thực quy thóc đạt 19,5-20 vạn tấn / năm trở lên.
- Thu nhập GDP bình quân đầu người là 3,3 triệu đồng / năm, tăng bình quân hàng năm là 12%.
- Giảm tỷ lệ sinh hàng năm là 1% trở lên.
- Xoá xong đói, giảm hộ nghèo từ 20% xuống 10%.
- Nâng độ che phủ rừng đạt 50%.
- Giảm tỷ lệ người thất nghiệp, giải quyết việc làm mới cho 15000-19000 lao động 2002. Tăng thời gian sử dụng làm nông nghiệp từ 70% lên 78-80%.
Để thực hiện tốt Nghị quyết trên thì cần một số giải pháp cụ thể như sau:
- Phải xây dựng hệ thống chính sách đó hướng vào sử dụng toàn bộ lao động trên cơ sở số lượng và chất lượng nguồn lao động ngày càng tăng
- Nhà nước hỗ trợ vốn thông qua tín dụng ưu đãi cho người lao động nông thôn để họ đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, mở mang các ngành nghề phi nông nghiệp nhằm tạo ra việc làm cho bản thân và tăng sản phẩm cho xã hội. Nhà nước xây dựng các chương trình phát triển kinh tế nông thôn bằng nguồn vốn ngân sách đầu tư xây dựng khu công nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Đây là hình thức mới xây dựng kinh tế nhà nước trên địa bàn nông thôn. Khâu chế biến sau thu hoạch là khâu cần sự hỗ trợ đầu tư lớn của nhà nước, vì hiện nay nông sản xuất khẩu của chúng ta chưa được tinh chế bằng công nghệ hiện đại nên xuất khẩu rất hạn chế, kể cả số lượng, chất lượng và giá cả. Nhà nước ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích các nhà đầu tư trong, ngoài nước và địa bàn nông thôn nhằm tạo thêm việc làm phát triển kinh tế nông thôn.
- Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ( đường,điện, nước ) ở nông thôn để tạo điều kiện thuận lợi thu hút các nhà đầu tư vào nông thôn, chính sách này nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và năng suất lao động, từng bước cải thiện đời sống cho cư dân trong tỉnh. Đồng thời cần cắt giảm các thủ tục hành chính rườm rà trong cấp giấy phép kinh doanh cho các nhà đầu tư về nông thôn, giảm thuế cho các nhà đầu tư vào các khu vực nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi trong cấp và cho thuê mặt bằng với giá ưu đãi cho các nhà đầu tư về nông thôn.
- Nhà nước cần điều chỉnh chính sách ruộng đất giúp giải quyết việc làm cho nông dân nghèo.
- Cần khuyến khích đầu tư và phát triển khoa học công nghệ ở nông thôn. Nhà nước có chính sách hỗ trợ và khuyến khích giao công nghệ vào nông thôn và nông nghiệp để thu hút lực lượng lao động qua đào tạo về nông thôn làm việc.
- Phát triển các trung tâm khoa học công nghệ về nông nghiệp và nông thôn như các trạm nghiên cứu cây trồng, vật nuôi để chuyển giao giống lúa mới cho người dân.
- Tổ chức lồng ghép và thực hiện tốt các chương trình và dự án phát triển nông nghiệp nông thôn, giải quyết việc làm xoá đói giảm nghèo cho người lao động, ổn định thu nhập, đời sống từng bước được nâng cao cho các hộ nông dân.
- Các giải pháp trên cần được tiến hành đồng bộ để bổ sung và hỗ trợ cho nhau nhằm phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động. Đồng thời cần nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về dịch vụ việc làm, chính sách vay vốn cần tạo việc làm, chính sách hỗ trợ tài chính giải quyết việc làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
2.3.2- Những giải pháp có tính chiến lược
Xây dựng quỹ giải quyết việc làm theo quyết định của thủ tướng chính phủ và Bộ Lao động - Thương binh xã hội trên cơ sở trích một phần ngân sách của tỉnh, sự tài trợ đóng góp của các cơ quan, xí nghiệp đóng tại địa bàn tỉnh kể cả các doanh nghiệp TW, các doanh nghiệp tư nhân và các cá nhân có điều kiện, các tổ chức quốc tế, các chương trình quốc gia về giải quyết việc làm đầu tư vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo đà cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng khả năng sử dụng nguồn nhân lực.
Mở rộng và đa dạng hoá hình thức đào tạo nghề và đào tạo lại nghề. Phải thấy được vai trò của nguồn nhân lực là cốt lõi của “ vốn con người”. Phát triển và mở rộng các trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm với phương trâm kết hợp nghề nghiệp và đào tạo lại cho phù hợp với sự phát triển và các chương trình kinh tế ở địa phương đã được phê duyệt.
Đầu tư xây dựng các mô hình phát triển kinh tế để tạo việc làm thực hiện tốt các chính sách của nhà nước về quyền và nghĩa vụ đối với người lao động. Phấn đấu giảm mức cung về lao động trên cơ sở làm tốt công tác kế hoạch hoá gia đình, tăng đầu tư và phát triển các cơ sơ kinh tế để thu hút lao động. Chỉ đạo thực hiện tốt các chương trình giải quyết việc làm như 120, 327, 747, chương trình phủ xanh đất trống, đồi trọc, chương trình vay vốn quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
2.4.3 - Những giải pháp cụ thể
Phát triển kinh tế:Theo nghị quyết của tỉnh uỷ Hoà Bình bình quân hàng năm tăng trưởng kinh tế từ 12- 15%, sản lượng lương thực quy thóc đạt 19,5 -20 vạn tấn / năm trở lên.Thu nhập GDP bình quân đầu người là 3,3 triệu đồng / năm trở lên. Xác định sự nghiệp lao động việc làm ở bất kỳ giai đoạn phát triển nào đều tuỳ thuộc chủ yếu vào mức tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế. Vì vậy, phát triển kinh tế Hoà Bình trên cơ sở tận dụng tiềm năng tự nhiên và nguồn nhân lực dồi dào phải coi là giải pháp cơ bản nhất, được tập trung ưu tiên nhất để trực tiếp tạo ra việc làm ở qui mô lớn. Coi trọng, củng cố, tăng cường hơn nữa các mối quan hệ giữa ban chỉ đạo chương trình việc làm, các tổ chức đoàn thể, tổ chức quần chúng, tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, gắn trách nhiệm chung về giải quyết việc làm cho người lao động là trách nhiệm của các lớp, các ngành. Thực hiện chiến lược kế hoạch hoá gia đình nhằm mục tiêu giảm nhanh tỉ lệ phát triển dân số, tiến hành các biện pháp đặc biệt là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện các biện pháp hạ tỉ lệ dân số tự nhiên từ 1,88% năm 2001 xuống còn 1,8% năm 2002.
Trên cơ sở quyết định phê duyệt 12 chương trình phát triển kinh tế của UBND tỉnh đến năm 2005, 2010. Tỉnh cần quy hoạch tổ chức hệ thống giáo dục và đào tạo văn hoá nghề nghiệp, giáo dục tuyên truyền cho thanh niên và nhân dân tự tạo việc làm cho mình, cho gia đình, tham gia sắp xếp lại lực lượng lao động xã hội, xây dựng kế hoạch sử dụng lao động theo hướng chương trình của tỉnh.
Đối với khu vực nông thôn, nông - lâm nghiệp coi trọng công tác khuyến nông - khuyến lâm, chuyển giao công nghệ, hướng dẫn quy trình kỹ thuật, các biện pháp thâm canh, tăng vụ, biện pháp phòng chống dịch bệnh.
Phải tích cực đào tạo dạy nghề cho nguồn lao động nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo lên 20% vào năm 2005. Mỗi năm đào tạo từ 1,2 vạn đến 1,5 vạn lao động ở tất cả các nghề phục vụ cho phát triển kinh tế ở tỉnh
Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giao đất khoán rừng cho hộ gia đình, tiếp tục thực hiện tốt quản lý bảo vệ vốn rừng hiện có. Thực hiện phương thức nông lâm kết hợp.
Đầu tư vốn, kỹ thuật xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống văn hoá. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao hiểu biết về khoa học, kỹ thuật và sử dụng nhiều lao động. Tăng cường đầu tư xây dựng giao thông liên xã, liên huyện, đưa điện lưới về các xã còn lại, đầu tư xây dựng trường học kiên cố, 100% các xã có trạm xá, phân khu vực xây dựng phòng khám đa khoa.
Phát triển du lịch: phát huy thế mạnh về tiềm năng du lịch của khu vực lòng hồ, chùa tiên - Lạc Thuỷ, nhà nghỉ Kim Bôi, bản Lác - Mai Châu. Xây dựng một mạng lưới dịch vụ du khách ăn, ngủ, đi lại chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên của tỉnh. Tập trung khai thác mọi nguồn lực, tạo cơ chế thúc đẩy phát triển các ngành du lịch, dịch vụ điện thoại, thương mại. ...
Trên đây là những biện pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách để giải quyết việc làm, tăng thời gian làm việc cho lao động nông nghiệp của tỉnh Hoà Bình, những giải pháp đó có liên quan, tác động lẫn nhau tạo sức mạnh tổng hợp. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh uỷ, hội đồng nhân dân, chương trình giải quyết việc làm sẽ có hiệu quả, mỗi năm sẽ giải quyết được 1,7 đến 1,9 vạn lao động cơ chế làm việc mới góp phần ổn định chính trị - kinh tế - xã hội nói chung và Hoà Bình nói riêng. Thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm của Chính Phủ và tỉnh nhà.
KếT LUậN
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề vừa có tính chất kinh tế quan trọng, vừa mang tính xã hội cấp bách, giải quyết việc làm tốt, có hiệu quả không chỉ là cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, mà còn góp phần đặc biệt vào việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Giải quyết việc làm chính là sự quan tâm đến con người không chỉ với tư cách là một nguồn lực phát triển mà còn mang tính nhân đạo, nhân văn, tính xã hội sâu sắc.
Trong những năm vừa qua, trong quá trình chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã thu được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động, mặc dù vậy thách thức còn lớn, nhiệm vụ còn nặng nề.
Tỉnh Hoà Bình là một tỉnh miền núi có điều kiện tự nhiên phong phú, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Vì vậy, nó chứa đựng nhiều tiềm năng trong việc giải quyết việc làm. Nhưng cũng vì vậy vấn đề việc làm của tỉnh Hoà Bình cũng như của cả nước trở nên gay gắt hơn. Người lao động từ bên ngoài đổ vào đặc biệt ở nông thôn với đủ mọi thành phần, mọi sắc tộc. Tỉnh Hoà Bình đang đứng trước thời cơ mới với những khó khăn mới.
Thời gian qua, với nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, của tỉnh uỷ, UBND cùng các ban ngành chức năng, tỉnh Hoà Bình đã thu được những thành tựu đáng kể trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, cho đến nay còn nhiều vấn đề tiếp tục nghiên cứu đào sâu suy nghĩ để giúp tỉnh đạt được những mục tiêu đề ra.
Trong thời gian tới, với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực dồi dào của tỉnh Hoà Bình, nếu chính quyền địa phương có những chính sách hợp lý, biện pháp hữu hiệu hơn nữa trong việc khai thác các tiềm năng đó thì sẽ giải quyết tốt việc làm cho người lao động, tạo đà cho sự phát triển mọi mặt của tỉnh.
Mặc dù rất cố gắng song vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động là một vấn đề khó khăn, nan giải và do khả năng kiến thức có hạn, vì vậy, bài viết của em không tránh khỏi sai sót. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo trong trường; các cô, chú, anh chị ở Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh Hoà Bình và tất cả các bạn.
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn tới các cô, chú, các anh chị ở Sở lao động thương binh và xã hội tỉnh Hoà Bình đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ em thu nhập số liệu, hoàn thành tốt đợt thực tập.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo: GS - TS - Phạm Đức Thành đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế lao động - Nhà xuất bản giáo dục 1998
2. Giáo trình dân số và phát triển
3. Sách: Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam -
Nguyễn Hữu Dũng -Trần Hữu Trung
4. Tạp chí lao động xã hội số 7/1999 và số 10/1998
5. Hệ thống văn bản pháp luật thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia
về việc làm - NXB thống kê - năm 1999
6. Niên giám thống kê của tỉnh Hoà Bình năm 1989, 1994 đến 2000
7. Tài liệu của sở kế hoạch và đầu tư
8. Các báo cáo về KT-XH, dân số lao động và giải quyết việc làm của
tỉnh Hoà Bình.
9. Các báo cáo về chương trình giải quyết việc làm ở thành thị và nông
thôn thu được ở cục thống kê tỉnh Hoà Bình.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0104.doc