Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề việc làm luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để hướng tới sự phát triển bền vững. Có việc làm vừa giúp bản thân người lao động có thu nhập, vừa tạo điều kiện để phát triển nhân cách và lành mạnh hóa các quan hệ xã hội.
ở Việt Nam, với đặc điểm dân số đông, trẻ, nên có nguồn lao động phong phú, dồi dào. Đặc điểm đó là thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội của chú
118 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ta, song đồng thời nó cũng luôn tạo ra sức ép về việc làm cho toàn xã hội. Vì vậy, quan tâm giải quyết việc làm, ổn định việc làm cho người lao động luôn là một trong những giải pháp về phát triển xã hội và là chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đã đề ra.
Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu thế chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, lao động Việt Nam có nhiều cơ hội để tìm kiếm việc làm. Người lao động có thể vươn lên nắm bắt tri thức và tự do làm giàu bằng tri thức của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những thách thức đặt ra cho người lao động Việt Nam: đó là yêu cầu về chất lượng nguồn lao động. Người lao động không biết nghề, hoặc biết không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, kinh nghiệm các nước cho thấy, khi hội nhập WTO, ngành dễ bị tổn thương nhất là nông nghiệp, nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nông dân. Chính vì vậy, quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn vẫn luôn là vấn đề mang tính cấp bách.
ở Hà Tĩnh hiện nay, số người thất nghiệp còn đông, nhất là ở khu vực nông thôn. Năm 2004, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng lao động ở khu vực nông thôn là 76,33%. Năm 2005, Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh khóa XVI đã nhận định: "tỷ lệ người lao động thiếu việc làm còn cao so với mức bình quân chung của cả nước". Do vậy, vấn đề tạo việc làm và ổn định việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Chính vì vậy, vấn đề "Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh" được lựa chọn để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, với hy vọng đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh, đáp ứng phần nào nhu cầu đòi hỏi của địa phương và trên phạm vi cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề việc làm nói chung và việc làm cho lao động nông thôn nói riêng từ trước đến nay đã được nhiều người quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. ở nước ta, từ những năm 90 của thế kỷ trước đến nay có nhiều tác giả đã có những công trình bài viết xung quanh vấn đề này, tiêu biểu như:
- ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam, GS.TS Đỗ Thế Tùng,Tạp chí Lao động và công đoàn số 6, 2002.
- Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, TS. Nguyễn Hữu Dũng - TS. Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn, Vũ Đình Thắng, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 13, 2002.
- Thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho giai đoạn phát triển 2001-2005, Bùi Văn Quán, Tạp chí Lao động và xã hội, số CĐ3, 2001.
- Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay, Đỗ Minh Cương, Nông thôn mới, số 91, 2003.
- Làm thế nào để đẩy mạnh công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, Đặng Đình Hải - Nguyễn Ngọc Thụy, Tạp chí Lao động và xã hội, số 259, tháng 3-2005.
- Giải quyết việc làm sử dụng hợp lý nguồn nhân lực ở nông thôn hiện nay, Vũ Văn Phúc, Châu á - Thái Bình Dương, số 42, 2005.
- Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Lê Văn Bảnh, Tạp chí Lao động và xã hội, số 218, 2003.
Ngoài ra cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc làm ở các tỉnh như Lạng Sơn, Kiên Giang, Bắc Ninh và việc làm cho lao động nữ ở Hà Tĩnh… Song cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Góp phần làm rõ vấn đề việc làm và thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Hà Tĩnh; phân tích thực trạng và trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ vấn đề việc làm; việc làm của người lao động nông thôn; sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn để làm cơ sở đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh từ 2001 - 2005.
- Nêu những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn ở Hà Tĩnh từ 2001-2005; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh từ nay đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khóa và các văn kiện Đại hội tỉnh đảng bộ Hà Tĩnh các khóa xung quanh vấn đề này. Ngoài ra, luận văn có kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và số liệu thống kê của một số công trình có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình nghiên cứu; đồng thời luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, khái quát để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Làm rõ vấn đề việc làm nói chung và việc làm của người lao động nông thôn nói riêng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh từ 2001 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Việc làm và thực tiễn giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
1.1. Vấn đề việc làm trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Khái niệm về việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1.1. Khái niệm về việc làm
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã hội loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm trong thế giới xung quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi xã hội phát triển, những hoạt động lao động sản xuất nói chung ấy, được phân chia thành những ngành nghề cụ thể khác nhau và người lao động được làm việc trong những lĩnh vực phù hợp với khả năng của mình. Mỗi người tham gia lao động sản xuất với một việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và đóng góp cho xã hội.
Việc làm trước hết là biểu hiện của hoạt động lao động sản xuất ở mỗi người lao động. Nếu lao động là hoạt động của xã hội nói chung, phản ánh bản chất của con người nói chung thì việc làm là hoạt động lao động cụ thể của mỗi người lao động tham gia vào quá trình lao động xã hội chung đó.
Giống như lao động, việc làm cũng phản ánh mối quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên. Bởi vì để làm việc người lao động cũng phải sử dụng sức thần kinh cơ bắp của mình cùng với công cụ lao động, tác động một cách có ý thức, có mục đích lên đối tượng lao động, biến những vật thể tự nhiên thành của cải phục vụ nhu cầu con người. Chính vì vậy, việc làm cũng chịu tác động bởi những qui luật và điều kiện tự nhiên.
Mặt khác, khi nói đến việc làm là nói đến những yếu tố người lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Người lao động với kỹ năng chuyên môn của mình, kết hợp với tư liệu sản xuất, hoạt động trong một lĩnh vực nhất định của cơ cấu kinh tế xã hội, chính là việc làm của anh ta. Người lao động có việc làm là người giữ một vị trí trong cơ cấu chung đó. Vì vậy, việc làm cũng chịu tác động của các qui luật kinh tế, xã hội.
Như vậy, việc làm cũng như lao động của con người nói chung thể hiện mối quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên, giữa những người lao động với nhau và với xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc làm là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động diễn ra. Lao động là phạm trù vĩnh viễn của xã hội loài người, thì việc làm không phải như vậy. Xét trên tổng thể có những nơi, những lúc có hiện tượng người lao động không có việc làm trong khi hoạt động lao động sản xuất của con người không bao giờ ngừng lại. Việc làm nói lên mối quan hệ của con người với chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết mà trong đó một quá trình lao động cụ thể được diễn ra. Nói đến việc làm là nói đến công việc của người lao động với những ngành nghề, công việc cụ thể; là những hoạt động cụ thể của người lao động, đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu cá nhân của người lao động.
Tóm lại, có thể nói lao động là cái chung và việc làm là cái riêng. Việc làm là phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế xã hội. Trên khía cạnh xã hội, việc làm phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong những giới hạn nhất định, trong đó quá trình lao động được diễn ra, là cơ sở để các mối quan hệ xã hội tồn tại trong mối liên hệ đan xen, liên kết với nhau phát triển theo hướng lành mạnh. Trên khía cạnh kinh tế việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong lao động sản xuất.
Vấn đề việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Đó là công việc của mỗi cá nhân nhưng lại gắn liền với xã hội. Có việc làm, không những người lao động có thu nhập nuôi sống bản thân mà còn tạo ra một lượng của cải cho xã hội. Mác đã nói: “Với những điều kiện khác không thay đổi thì khối lượng và giá trị của sản phẩm tăng lên theo tỷ lệ thuận với số lượng lao động được sử dụng” [32, tr.75].
Việc làm là một vần đề có ý nghĩa kinh tế xã hội và chính trị quan trọng của một quốc gia. Hiện nay đảm bảo an toàn việc làm là một trong những yếu tố cơ bản của sự phát triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và xu thế chủ động hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta hiện nay đang tạo ra những cơ hội và thách thức về lao động, việc làm cho người lao động. Chính vì vậy nhận thức đúng đắn về việc làm là vấn đề quan trọng tạo cơ sở lý luận để đưa ra những giải pháp tích cực giải quyết việc làm, phát huy nguồn lực lao động của xã hội.
Trước đây, trong cơ chế cũ việc làm của người lao động thường do nhà nước giải quyết với chế độ “biên chế” suốt đời. Người lao động có việc làm được xã hội tôn trọng và thừa nhận là những người làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp của nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh, với quan niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, xã hội không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không đầy đủ. Quan điểm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào nhà nước ở người lao động khi họ cần việc làm.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, quan niệm trên về việc làm đã thay đổi. Quan điểm mới về việc làm được thể hiện ở Luật lao động của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2002. Điều 13, chương 2 (việc làm) của Luật qui định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm ”.
Từ qui định trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về việc làm: Việc làm là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu, miễn là không vi phạm pháp luật để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan niệm trên đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, mở ra một thị trường việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực hiện mục tiêu giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Nghiên cứu việc làm cho người lao động trong một quốc gia, địa phương và trong một thời kỳ nhất định người ta còn quan tâm đến các vấn đề việc làm đầy đủ và thiếu việc làm.
Việc làm đầy đủ có thể hiểu là sự thỏa mãn nhu cầu về việc làm của người lao động. Mọi người lao động có nhu cầu việc làm đều có thể tìm được việc làm một cách nhanh chóng. Tuy nhiên mức độ đảm bảo việc làm cho người lao động còn tùy thuộc vào trình độ kinh tế - xã hội và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước.
Ví dụ: ở Đan Mạch thời gian trung bình mà một người phải đổi để được giới thiệu một việc làm mới là 14 tuần, ở Đức là 15 tuần.
Đối với nước ta, đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động đang là một khó khăn và khả năng tạo mở việc làm của nền kinh tế chưa lớn. Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ kỹ thuật, tay nghề của công nghiệp hóa. Chình vì vậy thiếu việc làm đầy đủ cả vô hình và hữu hình là hiện tượng phổ biến trong xã hội.
Thiếu việc làm vô hình là sự phân bổ không hợp lý giữa sức lao động và các yếu tố khác của sản xuất. Công việc chưa phát huy hết khả năng của người lao động. Trong trường hợp này, người lao động vẫn có việc làm nhưng anh ta phải làm những việc ở những nơi mà năng suất lao động thấp hơn mức trung bình, thu nhập từ việc làm mang lại thấp hơn mức trung bình.
Thiếu việc làm hữu hình là tình trạng người lao động không có đủ khối lượng việc làm trong ngày công lao động và phải đi tìm việc khác hay nhận việc làm bổ sung. Tình trạng này diễn ra phổ biến ở nông thôn nhất là trong những ngày tháng nông nhàn.
Như vậy, thiếu việc làm là tình trạng người lao động không có đủ việc làm theo thời gian qui định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công việc có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu làm việc thêm để tăng thu nhập.
Mục tiêu giải quyết việc làm là phải tạo ra việc làm đầy đủ cho người lao động và cao hơn nữa, phải tạo ra việc làm được tự do lựa chọn để thực hiện giải phóng triệt để sức lao động.
Việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc làm cho người lao động. Nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao động mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do lựa chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác của sản xuất. Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất cũng như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện phát triển phong phú đời sống tinh thần.
Tóm lại, giải quyết việc làm không chỉ dừng lại việc làm đầy đủ cho mọi người lao động mà phải không ngừng nâng cao chất lượng việc làm, việc làm có giá trị cao, việc làm được tự do lựa chọn và việc làm mang tính nhân văn để lao động không chỉ là phương tiện để sinh sống mà còn là nhu cầu đầu tiên của mỗi người.
1.1.1.2. Khái quát về thất nghiệp
Thực hiện việc làm đầy đủ, tiến tới việc làm được lựa chọn cho người lao động là một quá trình phát triển lâu dài. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tất yếu tồn tại vấn đề thất nghiệp.
Thất nghiệp là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tách rời sức lao động với tư liệu sản xuất. Trong đó người lao động có khả năng lao động nhưng không có việc làm nên không có thu nhập. Thất nghiệp phản ánh trạng thái căng thẳng của người lao động và gia đình anh ta trước nguy cơ mất nguồn nuôi dưỡng chủ yếu.
Thất nghiệp có nhiều loại. Có thể thất nghiệp là do người lao động tự nguyện bỏ việc, có thời gian tìm việc làm mới, phù hợp với khả năng và sở thích của mình. Trong nền kinh tế có đầy đủ việc làm vẫn luôn có sự di chuyển đó của lao động cho nên đó là sự thất nghiệp tạm thời.
Loại thứ hai là thất nghiệp do cơ cấu. Đây là tình trạng không phù hợp giữa ngành nghề chuyên môn và nghiệp vụ của dân cư lao động với qui trình công nghệ sản xuất, với công cụ và phương tiện lao động cũng như các phương pháp và đối tượng gia công, dẫn đến mức cầu đối với một loại lao động nào đó tăng lên trong khi mức cầu đối với một loại lao động khác giảm đi trong khi mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng. Mác nói:
…Trong tất cả các lĩnh vực sự tăng lên của bộ phận khả biến của tư bản do đó sự tăng thêm số công nhân đã có việc làm, bao giờ cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra số nhân khẩu thừa tạm thời, không kể là việc này mang hình thức nổi bật là gạt bỏ những công nhân đã có việc làm hay là mang hình thức ít rõ rệt hơn nhưng không kém phần hiệu lực là thu nạp một cách khó khăn số nhân khẩu công nhân phụ thêm vào những rãnh thoát thông thường của nó [30, tr.159].
Đó là sự mất cân đối trong các nghề nghiệp hoặc trong những vùng do một số lĩnh vực phát triển hơn so với một số lĩnh vực khác.
Thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp gắn với sự suy giảm theo từng thời kỳ của nền kinh tế. Thông thường khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ thu hút nhiều lao động nhưng khi nền kinh tế suy yếu, khủng hoảng thì đội quân thất nghiệp sẽ tăng lên và tăng với qui mô lớn hơn trước. Tuy nhiên điều đó còn phụ thuộc vào sự đóng góp của các nguồn lực vào tăng trưởng kinh tế.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có sức lao động chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm.
Vấn đề thất nghiệp không chỉ là mối quan tâm của các thành viên trong xã hội mà còn là mối quan tâm của mọi chính phủ. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong các chỉ tiêu đánh giá tình trạng của một nền kinh tế. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan. Người ta chỉ có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất nghiệp tự nhiên chứ không xóa bỏ được nó.
1.1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động
Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi con người vừa là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Chính vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động luôn là một trong những chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đề ra.
Mục tiêu của chính sách lao động việc làm của Đảng là hướng vào giải phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng sức lao động, khơi dậy tiềm năng của mỗi người và của cả cộng đồng dân tộc, coi trọng giá trị sức lao động, mở rộng cơ hội cho mọi người cùng phát triển.
Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VI (năm 1986) Đánh dấu bước chuyển biến trong nhận thức và quan niệm về vấn đề việc làm của Đảng. Đại hội xác định: “Nhà nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm” [19, tr.87-88]. Đây là khâu đột phá có tính cách mạng trong lĩnh vực việc làm ở nước ta: Nhà nước không bao cấp toàn bộ về việc làm mà chuyển dần sang Nhà nước kết hợp với người lao động, gia đình và xã hội tạo việc làm cho người lao động.
Để quán triệt quan điểm đó, Đảng và nhà nước ta đã ban hành hệ thống các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; Tạo nhiều việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và phát triển đời sống của người lao động. Quyết định số 136/HĐBT ngày 9/10/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) là mốc có tính lịch sử nhằm giải quyết việc làm cho gần 1 triệu lao động dôi dư do sắp xếp lại tổ chức sản xuất khu vực nhà nước, chuyển ra ngoài làm việc.
Đến đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, lần đầu tiên Đảng ta đã đưa ra phương hướng cơ bản và toàn diện về giải quyết việc làm phù hợp với thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường:
Coi trọng cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giải quyết việc làm tại chỗ với phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới, hình thành các cụm kinh tế - kỹ thuật, dịch vụ nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ đồng thời mở rộng xuất khẩu lao động, đa dạng hóa việc làm có thu nhập để thu hút lao động [20, tr.76].
Đặc biệt Đảng ta đã chỉ rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm, coi đó là “Trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, của từng gia đình, từng người ” [20, tr.77]. Quan điểm trên của Đảng đã góp phần xã hội hóa vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động thực hiện quyền lao động và quyền có việc làm của người lao động theo qui định của hiến pháp năm 1992.
Nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm đã thể chế hóa những quan điểm đổi mới cơ bản đó của Đảng về việc làm trong cơ chế thị trường như: Đa dạng hóa việc làm và đa dạng hóa thu nhập, giải phòng sức lao động trên cơ sở tự do hóa trong lao động; Thực hiện các chương trình quốc gia về việc làm và lập quĩ quốc gia về giải quyết việc làm. Đặc biệt từ ngày 1/1/1995, Bộ luật lao động đầu tiên của nước ta bắt đầu có hiệu lực, quan điểm, chủ trương, chính sách và cơ chế vê vấn đề việc làm của Đảng được thể chế hóa một cách có hệ thống, đồng bộ tạo ra hành lang pháp lý để phát triển việc làm trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tại đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) Vấn đề việc làm trong cơ chế thị trường đã được nhận thức rõ hơn và phát triển lên như một tầm cao mới. Đại hội xác định: “Nhà nước đầu tư tạo thêm chỗ làm việc và tạo điều kiện cho mọi người tự mình và giúp đỡ người khác tạo việc làm” [21, tr.114]. Lần đầu tiên, những phác thảo quan trọng của thị trường lao động định hướng XHCN đã được vạch rõ: “Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật,phát triển dịch vụ việc làm” [21, tr.15]. Ngày 1/7/1998 Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 126/1998/QĐ-TTg về việc quyết định chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000. Mục tiêu cơ bản của chương trình là:
Tạo việc làm mới, đảm bảo việc làm cho người có khả năng lao động, có yêu cầu việc làm thực hiện các biện pháp trợ giúp người thất nghiệp nhanh chóng có được việc làm, người thiếu việc làm, có đủ việc làm đặc biệt có chính sách hỗ trợ giúp cụ thể các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động [4, tr.57].
Chương trình đưa ra những chỉ tiêu cụ thể đến năm 2000 là mỗi năm thu hút từ 1,3 đến 1,4 triệu chỗ làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn 5% nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%.
Đặc biệt đến đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Đảng và nhà nước xác định rõ tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm và thấy rõ mối quan hệ giữa giải quyết việc làm và phát huy nhân tố con người. Đại hội khẳng định: “Giải quyết việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của quốc gia - Bằng nhiều biện pháp, hàng năm tạo ra hàng triệu việc làm mới, tận dụng số ngày công lao động chưa được sử dụng đến nhất là trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn ” [22, tr.201] và đưa ra những giải pháp cơ bản giải quyết việc làm cho người lao động như: Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm, phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động... Như vậy, đến đại hội IX của Đảng vấn đề việc làm đã được nhận thức sâu sắc và toàn diện trong mối quan hệ với các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Chính sách việc làm phải nhằm khai thác tối đa nguồn lực con người Việt Nam, với trí tuệ và truyền thống của dân tộc đó là nguồn lực chính của sự phát triển đất nước.
Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh:
ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hoá và công nghiệp hoá. Phát triển các dịch vụ phục vụ đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp. Tiếp tục thực hiện chương trình xuất khẩu lao động, tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động [22, tr. 213, 216].
1.1.2. Lực lượng lao động và việc làm của người lao động ở nông thôn
1.1.2.1. Đặc điểm cơ bản của lực lượng lao động ở nông thôn
Lực lượng lao động ở nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao động cả nước sinh sống và làm việc tại khu vực nông thôn. Cũng như lực lượng lao động chung của cả nước, lực lượng lao động ở nông thôn (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) ở nông thôn là bộ phận dân số có độ tuổi từ 15 tuổi trở lên có việc làm hay không có việc làm và đang tìm kiếm việc làm.
Lực lượng lao động ở nông thôn của nước ta có những đặc điểm sau:
Một là, lực lượng lao động ở nông thôn nước ta hiện nay đang chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động cả nước và tăng với qui mô lớn so với lực lượng lao động ở thành thị. Từ năm 2001 - 2005, lực lượng lao động ở nông thôn tăng với qui mô 587 nghìn người / năm với tốc độ tăng 1,9%. Năm 2005 tổng lực lượng lao động ở nông thôn là 33.313,9 nghìn người, chiếm 75,1% lực lượng lao động cả nước. Như vậy lực lượng lao động hiện nay ở nước ta phần lớn là ở nông thôn và hàng năm khu vực này lại được tiếp nhận một lực lượng lao động trẻ, có sức khỏe và trình độ văn hóa, rất dễ dàng trong việc tiếp thu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế khu vực nông thôn, là nguồn lực to lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên lực lượng lao động ở nông thôn gia tăng sẽ tạo sức ép việc làm ở khu vực nông thôn. Bởi vì lực lượng lao động tăng lên trong khi đất canh tác lại giảm dần do quá trình đô thị hóa, dẫn đến diện tích canh tác trên đầu người giảm, thời gian sử dụng ngày công trong nông nghiệp thấp, người lao động phải làm những công việc có thu nhập thấp gây ra hiện tượng thiếu việc làm ở nông thôn.
Hai là, lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay đang chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp và tăng tỷ trọng trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Trên phạm vi cả nước từ 2001 đến 2005, tỉ trọng lao động làm việc trong khu vực I (Nông, Lâm, Thủy sản) giảm từ 62,6% năm 2000 xuống còn 56,8% năm 2005, bình quân hàng năm giảm gần 1,2%. Tỉ trọng lao động làm việc trong khu vực II (công nghiệp) tăng từ 13,1% năm 2000 lên 17,9% năm 2005, bình quân hàng năm tăng gần 1%. Tỉ trọng lao động làm việc trong khu vực III (dịch vụ) tăng từ 24,3% năm 2000 lên 25,3% năm 2005, bình quân hàng năm tăng 0,2% [9, tr.3]. Lao động ở nông thôn cũng không nằm ngoài xu hướng vận động chung đó. Đặc biệt từ khi thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng, người lao động ở nông thôn đã có sự độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nền sản xuất nông thôn đã có sự chuyển hướng từ thuần nông, tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hóa, ai giỏi nghề gì làm nghề ấy, đa dạng nhiều ngành nghề. Ngoài trồng trọt, chăn nuôi người lao động có thể làm việc trong các ngành nghề khác tại các xí nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương.
Dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình chuyển dịch về cơ cấu lao động trên càng được thúc đẩy nhanh chóng. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, một mặt đã tạo ra nhiều ngành nghề ở địa phương, kéo theo sự xuất hiện của nhiều loại hình dịch vụ có khả năng thu hút lao động lớn. Mặt khác, do ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, năng suất lao động của nông nghiệp sẽ không ngừng tăng lên, vai trò quan trọng của nông thôn là cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn dân, cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp ngày càng được đảm bảo cho phép giải phóng lao động nông nghiệp sang làm các ngành nghề khác. Như vậy, song song với quá trình rút lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp cũng đồng thời diễn ra quá trình thu hút lực lượng lao động ở nông thôn vào các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đó là xu hướng vận động phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ nhưng yêu cầu đặt ra là phải chuẩn bị lực lượng lao động ở nông thôn đáp ứng được yêu cầu của lao động ngành nghề, tạo ra sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội việc làm.
Ba là, lực lượng lao động ở nông thôn có nhiều đặc tính phù hợp với sự phát triển nhưng còn nhiều hạn chế.
Nông thôn là nơi sinh sống và làm việc của đại đa số dân cư Việt nam. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nông thôn Việt nam đã tạo nên những truyền thống, bản sắc văn hóa quí báu làm nên những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Đó là tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, lòng yêu nước, trung thành với Đảng với cách mạng, sự cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất v.v... đó là những lợi thế to lớn của lực lượng lao động trong phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn và tham gia phân công lao động quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh đó lực lượng lao động nông thôn còn có nhiều điểm hạn chế, đó là:
- Lực lượng lao động ở nông thôn có sự phân bố không đều giữa các vùng các ngành. Do ngành nông nghiệp của chúng ta chủ yếu thiên về trồng trọt nên phần lớn lực lượng lao động tập trung ở những nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc cấy trồng làm cho vùng đồng bằng đất chật người đông thiếu việc làm trong khi đó vùng rừng núi có diện tích đất đai rộng lớn nhưng dân cư thưa thớt, không đủ lao động để phát triển nghề rừng.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường hạn chế về sức khỏe, thể lực. Do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên có năng suất thấp bấp bênh nên thu nhập của người lao động thấp hơn thu nhập của người lao động ở thành thị. Hơn nữa, do hạn chế nhiều mặt về thông tin, thiếu hiểu biết về chế độ dinh dưỡng cho cuộc sống cho nên người lao động ở nông thôn không có điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống. Cho nên thể lực, tầm vóc và tuổi thọ trung bình của người lao động ở nông thôn thường thấp hơn người lao động ở thành thị. Khu vực nông thôn cũng chưa được tạo điều kiện để nâng cao các yếu tố khác của chất lượng nguồn lao động như văn hóa._., chuyên môn nghiệp vụ cũng như nhận thức về công ăn việc làm, tinh thần ý thức trách nhiệm để có việc làm và làm việc có năng suất chất lượng hiệu quả. Hạn chế này của lực lượng lao động ở nông thôn hiện nay đang được khắc phục cùng với sự phát triển của nông thôn và quá trình rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
- Lực lượng lao động ở nông thôn thường có trình độ học vấn và trình độ tay nghề chưa cao. Nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận: ở nông thôn dân trí thấp hơn hai lần so với thành thị; nhân tài thấp hơn 8,6 lần, đào tạo nghề thấp hơn 10 lần, lao động trí óc ở nông thôn cũng chỉ chiếm 4,4% trong khi đó ở thành thị là 30%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo nghề ở nông thôn mới chỉ 10% trong khi đó chung cả nước là 25%. Do điều kiện sản xuất ở nông thôn còn ở trình độ thấp thô sơ lạc hậu, người lao động thường làm theo kinh nghiệm nên không có điều kiện nâng cao tay nghề. Mặt khác, người lao động có trình độ cao thường muốn tìm cho mình một chỗ làm việc ở thường ngoài nông thôn, có thu nhập cao, có điều kiện hưởng thụ nhiều kết quả của sự phát triển xã hội. Họ thường tìm việc làm ở thành phố chứ ít khi làm việc ở nông thôn. Lực lượng lao động còn lại ở nông thôn thường là những người không có điều kiện đi làm ở nơi khác, mới ở lại nông thôn làm việc. Vì vậy, cần phải đào tạo và tập huấn tay nghề cho họ để nâng cao chất lượng nguồn lao động ở khu vực này.
Tóm lại, lực lượng lao động ở nông thôn nước ta chiếm phần lớn trong lực lượng lao động cả nước. Đó là nguồn lực to lớn có vai trò quan trọng trong phát triến kinh tế xã hội ở nông thôn nói riêng và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung. Tiềm năng của lực lượng lao động ở nông thôn là hết sức to lớn. Tuy nhiên tiềm năng đó chưa được khai thác và phát huy đầy đủ. Lực lao động ở nông thôn đông nhưng chưa mạnh. Chính vì vậy cần phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm sử dụng nguồn lao động ở nông thôn một cách đầy đủ, sát hợp với trình độ người lao động để khai thác phát huy nguồn nhân lực ở nông thôn đồng thời phải có chiến lược bồi dưỡng phát triển lực lượng lao động cho khu vực này.
1.1.2.2. Việc làm của người lao động ở nông thôn
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Có nhiều loại việc làm diễn ra ở nông thôn, phản ánh tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn. Nhưng việc làm của người lao động ở nông thôn lại gắn với đặc điểm của lực lượng lao động ở đây, với điều kiện tự nhiên nơi họ sinh sống.
Việc làm của người lao động ở nông thôn là những hoạt động lao động trong tất cả các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội của một bộ phận lực lượng lao động sinh sống ở nông thôn để mang lại thu nhập mà không bị pháp luật ngăn cấm.
Việc làm của người lao động ở nông thôn gắn liền với môi trường, điều kiện sinh sống và làm việc của người lao động. Và chính môi trường điều kiện đó đã ảnh hưởng đến việc làm của họ, thậm chí quyết định việc làm của họ. Người lao động ở nông thôn thường làm việc trong những ngành nông, lâm, thủy sản - những loại việc làm có thể khai thác tài nguyên tự nhiên chính nơi họ sinh sống. Ví dụ người sống ở rừng núi hay làm nghề rừng, người sống ở vùng duyên hải hay làm nghề biển... Việc làm của họ phần nhiều phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và sức lao động của chính mình. Trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu việc làm của người lao động ở nông thôn càng mang tính thủ công, nặng nhọc và có thu nhập thấp. Khi kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là nông nghiệp, ở đó ẩn chứa nhiều nguy cơ thiếu việc làm hữu hình. Vì vậy, đa dạng hóa ngành nghề, mở nhiều loại hình việc làm, phát triển kinh tế, xã hội ở nông thôn là phương hướng chủ yếu giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn.
1.1.2.3. Các loại việc làm của người lao động ở nông thôn
Các loại việc làm của người dân là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt thành thị với nông thôn. Nếu như ở thành thị, dân cư tập trung làm việc trong các ngành thủ công, công nghiệp và buôn bán là chính, thì ở nông thôn dân cư chủ yếu sản xuất nông nghiệp và những ngành gắn với nông nghiệp, kinh tế nông thôn. Các loại việc làm ở nông thôn rất phong phú và đa dạng với hàng trăm ngành nghề khác nhau. Tuy nhiên có thể phân chúng thành các loại việc làm thuần nông và việc làm phi nông nghiệp.
Việc làm thuần nông là những hoạt động lao động trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Trải qua nhiều năm phát triển, hiện nay chăn nuôi và trồng trọt vẫn là công việc chính của nhà nông ở nước ta. Trong đó trồng trọt chiếm 73%; chăn nuôi chiếm 27%. Trong trồng trọt cây lương thực vẫn chiếm 78,2% diện tích cơ cấu cây trồng, cây rau màu và cây công nghiệp chỉ chiếm 21,8%... Còn chăn nuôi ở nông thôn phần lớn chỉ để tận dụng thức ăn dư thừa và cung cấp phần nào nhu cầu thực phẩm ở nông thôn.
Như vậy, có thể nói lao động trong trồng trọt và chăn nuôi là việc làm chính của người lao động ở nông thôn. Thế mạnh của lĩnh vực này là người lao động được kế thừa kinh nghiệm sản xuất của ông cha để lại. Người lao động ở nông thôn lớn lên đã theo cha mẹ ra đồng làm việc nên họ thường quan niệm rằng không cần phải qua trường lớp đào tạo. Kiến thức nghề nông được tích lũy dần trong quá trình người lao động tham gia sản xuất từ nhỏ với tư cách là người lao động phụ của gia đình. Bên cạnh đó, loại công việc này còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, sản xuất theo mùa vụ, năm này theo năm khác, lặp đi lặp lại nên người lao động chỉ làm việc theo kinh nghiệm, ít có cải tiến, sáng tạo... dẫn đến năng suất và hiệu quả công việc không được nâng cao. Quá trình đó cứ diễn ra như thế từ ngàn năm làm cho tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn diễn ra một cách chậm chạm.
Thứ hai, loại công việc này có tính chất mùa vụ nên lao động ở nông thôn sẽ thiếu việc làm trong những lúc nông nhàn. Mặt khác, cùng với quá trình đô thị hóa, đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng làm cho người nông dân bị mất tư liệu sản xuất và với trình độ học vấn, tay nghề thấp họ sẽ gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm và phải làm những công việc nặng nhọc với mức lương rẻ mạt... Như vậy, trong quá trình CNH, HĐH, người lao động làm việc trong lĩnh vực thuần nông là những người có nguy cơ bị thiếu việc làm và bị thất nghiệp cao nhất.
Việc làm phi nông nghiệp là lĩnh vực rộng lớn, gồm tất cả các ngành nghề ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Cùng với sự hình thành và phát triển của cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước các loại ngành nghề ở nông thôn phát triển đã tạo nên sự phong phú, đa dạng về việc làm cho người lao động ở đây. Hiện nay đã có nhiều loại hình công việc ngoài nông nghiệp ra đời và phát triển mạnh. Bên cạnh sự phát triển của các làng nghề truyền thống như sản xuất đồ gỗ, gốm sứ, thêu ren, đồ thủ công mỹ nghệ... nhiều ngành nghề chế biến nông, lâm, thủy sản mới xuất hiện, như: sấy thóc, sơ chế và chế biến cà phê, chế biến hạt điều, vải, chế biến rau quả, thủy sản, súc sản. Hoạt động gia công cơ khí xuất hiện phục vụ sửa chữa đồ gia dụng, nông cụ, sửa chữa máy móc nông nghiệp. Đặc biệt cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, dịch vụ ở nông thôn cũng phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình dịch vụ phục vụ đời sống trước đây chỉ có ở thành thị thì nay đã có ở nông thôn như: dịch vụ vệ sinh nông thôn, dịch vụ cung cấp nước sạch... Nhiều việc làm trước đây bị xã hội coi rẻ và cấm đoán như: giúp việc gia đình, chạy chợ... thì nay đã được công nhận như một nghề. Tất cả những biến đổi đó đã tạo ra nhiều loại hình công việc làm phong phú, đa dạng thị trường việc làm cho người lao động ở nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn có vai trò tích cực trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn:
- Phát triển ngành nghề ngoài việc đem lại việc làm ổn định, thường xuyên cho người lao động trong lĩnh vực đó, còn có khả năng thu hút thêm lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Ngoài ra sự phát triển của nó lại nảy sinh những ngành nghề mới, những hoạt động dịch vụ liên quan tạo thêm nhiều chỗ làm mới cho người lao động.
- Loại việc làm này thường đưa lại thu nhập ổn định và cao hơn cho người lao động. Hiện nay thu nhập của các hộ chuyên ngành nghề ở nông thôn thường cao hơn khoảng 4 lần so với thu nhập bình quân của hộ lao động nông nghiệp thuần. Điều đó giúp tăng tỉ lệ hộ giàu, tăng tích lũy, tạo điều kiện cho nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống cho người lao động ở nông thôn.
- Việc làm phi nông nghiệp có vai trò to lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Các ngành nghề ở nông thôn sử dụng nông sản hàng hóa làm nguyên vật liệu đã hình thành nên hệ thống dịch vụ đầu vào, đầu ra, đưa lại giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác do yêu cầu của công việc, người lao động làm việc trong các ngành nghề ít nhiều phải có tay nghề và đòi hỏi phải có tay nghề ngày càng cao. Điều đó bắt buộc người lao động phải không ngừng học tập, rèn luyện giúp nâng cao chất lượng nguồn lao động ở nông thôn.
Việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn hiện nay đang phát triển phong phú đa dạng. Tuy nhiên sự phát triển của loại việc làm này cũng gặp khó khăn do hạn chế về trình độ tay nghề của người lao động, về công nghệ cũng như giới hạn về khả năng quản lý của chủ hộ sản xuất kinh doanh, về nguồn vốn cũng như phong tục tập quán. Người dân có nghề phi nông nghiệp vẫn chưa mạnh dạn bỏ ruộng để tập trung sản xuất ngành nghề.
Tóm lại, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển ngành nghề ở nông thôn, nhưng so với việc làm thuần nông thì sự phát triển gia tăng của việc làm phi nông nghiệp hiện nay đang chiếm ưu thế và đang trong xu thế phát triển. Bởi vì so với lĩnh vực thuần nông, lĩnh vực phi nông nghiệp ở nông thôn ít gặp những giới hạn của tự nhiên, ngược lại nó còn được thúc đẩy mạnh mẽ bởi sự phát triển của quá trình CNH,HĐH. Nếu như việc làm thuần nông ngày càng bị thu hẹp thì việc làm phi nông nghiệp đang trong xu thế phát triển mở rộng do chính sự phát triển của một nền nông nghiệp hàng hóa đưa lại. Mặt khác nông thôn Việt Nam đang vươn mình phát triển. Điều đó tạo ra thị trường rộng lớn cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp, dịch vụ và cơ cấu lao động tiến bộ ở nông thôn.
1.1.3. Cung cầu về lao động ở nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.3.1. Khái quát cung, cầu về lao động
Cung lao động là một bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân hay có nhu cầu cung ứng sức lao động cho nền kinh tế để có việc làm.
Cung lao động phụ thuộc vào những nhân tố cơ bản sau:
Qui mô và tốc độ tăng của dân số.
Qui mô và tốc độ tăng của nguồn nhân lực.
Độ dài thời gian làm việc của người lao động.
Mức sống của các tầng lớp dân cư.
Trình độ dân trí, phong tục tập quán.
Cầu về sức lao động (gọi tắt là cầu lao động). Cầu lao động là nhu cầu sức lao động của nền kinh tế ở một thời kỳ nhất định, thường được xác định thông qua chỉ tiêu việc làm.
Cầu lao động của một nền kinh tế phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Khả năng phát triển kinh tế của đất nước.
Cơ cấu ngành nghề và sự phân bổ ngành nghề giữa các khu vực.
Trình độ công nghệ máy móc, thiết bị được sử dụng.
Tỉ lệ thất nghiệp và lạm phát.
Các chính sách của nhà nước tác động lên cầu lao động.
Giới tính, lứa tuổi, dân tộc...
Cung, cầu lao động là hai yếu tố cơ bản của thị trường sức lao động (thường gọi là thị trường lao động). Sự cân bằng của hai yếu tố này phản ánh mức độ có việc làm của người lao động trong nền kinh tế.
Trong trường hợp mức cung lao động phù hợp với mức cầu lao động, hay nói cách khác, mức cầu lao động có khả năng thu hút tất cả những người có khả năng lao động và mong muốn làm việc thì thị trường lao động vận hành tốt. Người lao động có việc làm và thu nhập ổn định. Trong trường hợp nếu cung lao động lớn hơn cầu lao động thì thị trường lao động sẽ lâm vào trạng thái không ổn định. Người lao động sẽ thiếu việc làm, phải làm những công việc có thu nhập rẻ mạt, giá cả sức lao động sẽ thấp hơn giá trị sức lao động, ảnh hưởng đời sống của người lao động. Còn nếu ngược lại cung lao động nhỏ hơn cầu lao động, nền kinh tế sẽ thiếu nguồn nhân lực để phát triển.
Tuy nhiên sự phù hợp giữa cung và cầu lao động còn phụ thuộc vào sự phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Vấn đề đặt ra là với trình độ phát triển nhất định cần bao nhiêu lao động cho qui mô sản xuất hiện tại ? Người lao động có được khả năng và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của cơ hội việc làm hay không ? ở nước ta hiện nay cung lao động có chiều hướng tăng do sức ép của mức tăng dân số, cho nên mặc dù cơ cấu việc làm có sự chuyển biến tích cực nhưng do cung lao động lớn hơn cầu lao động nên nền kinh tế còn tồn tại lực lượng lao động dư thừa dưới nhiều hình thức, trong đó tình trạng thiếu việc làm là phổ biến, nhất là ở khu vực nông thôn.
1.1.3.2. Tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến cung cầu lao động ở khu vực nông thôn
Khi nền kinh tế còn là một nền kinh tế lạc hậu thì lao động trong nông nghiệp chiếm tuyệt đại đa số. Nhưng khi kinh tế hàng hóa phát triển, năng suất lao động tăng lên, sẽ xuất hiện sự “tách rời lần lượt các ngành công nghiệp ra khỏi nông nghiệp” và “ eo ipso (cũng do đó mà) có một bộ phận ngày càng đông trong dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là nhân khẩu công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống ” [29, tr.25]. Đi đôi với quá trình công nghiệp hóa, lao động hoạt động trong các ngành nông nghiệp không ngừng giảm xuống (tuyệt đối và tương đối). Ngược lại, lao động trong ngành công nghiệp sẽ tăng lên không ngừng và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn.
Trước hết, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận lực lượng lao động trong nông nghiệp sẽ được rút ra khỏi sản xuất nông nghiệp. Do ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng máy móc trong sản xuất, làm cho năng suất lao động trong nông nghiệp tăng, dẫn đến thời gian lao động trong nông nghiệp giảm xuống, cho phép một bộ phận lao động trong nông nghiệp chuyển sang làm các ngành nghề khác. Bởi vì:
Cũng như lao động cá biệt càng có thể cung cấp được nhiều lao động thặng dư bao nhiêu thì thời gian lao động tất yếu của người ấy càng giảm đi bấy nhiêu, đối với một bộ phận dân cư cần thiết để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cũng vậy, bộ phận này càng ít đi bao nhiêu thì bộ phận dôi ra để dùng cho các việc khác càng nhiều bấy nhiêu [30, tr.266].
Bộ phận lao động “dôi ra ” ấy từ sản xuất nông nghiệp nếu chưa được sử dụng “cho các việc khác ” thì nó sẽ góp phần làm cho nguồn cung lao động cần việc làm ngày càng lớn hơn ở nông thôn.
Đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là hướng cơ bản tạo ra cầu lao động ngày càng lớn cho khu vực nông thôn. Lịch sử phát triển các nước trên thế giới đã khẳng định: “Không có công nghiệp thì không có cách nào khác để tạo thêm công ăn việc làm. Điều đó đặc biệt có ý nghĩa đối với bất kỳ ai trên thế giới này, đặc biệt là đối với những ai đang chịu số phận là kẻ bán thất nghiệp trong nông nghiệp hay thất nghiệp hoàn toàn ở nơi khác” [35, tr.20]. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo cơ hội việc làm cho người lao động ở nông thôn, bởi lẽ :
Thứ nhất, quá trình CNH, HĐH với việc đổi mới và sử dụng nhiều trang thiết bị hiện đại, đó là điều kiện tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối lượng lớn việc làm cho người lao động. Vì việc sử dụng máy móc là cơ sở thiết lập ra những xí nghiệp vừa và nhỏ và là cơ sở để nâng cao năng suất lao động, tạo thu nhập và việc làm.
Thứ hai, các khu công nghiệp là nơi có khả năng thu hút lao động rất lớn, đặc biệt là thanh niên ở nông thôn. Hiện nay những ngành công nghiệp như giày da xuất khẩu, may công nghiệp... là những ngành đưa lại khối lượng việc làm lớn cho lực lượng lao động trẻ ở nông thôn, giúp giảm bớt sức ép về việc làm ở khu vực này.
Các khu công nghiệp mọc lên đồng thời cũng làm xuất hiện những vùng chuyên canh cung cấp nguyên vật liệu cho công nghiệp và nhu yếu phẩm cho đội ngũ công nhân. Điều đó giúp phát triển và mở rộng sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở những vùng lân cận. Hệ thống dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp không ngừng phát triển. Sản xuất được gắn liền với chế biến lưu thông và tiêu thụ, sản xuất ngay tại nông thôn, làm hình thành cơ cấu công nông nghiệp dịch vụ ở khu vực này. Sự chuyển dịch đó của cơ cấu kinh tế đã tạo ra nhiều loại hình việc làm, thu hút khối lượng lao động lớn ở nông thôn. Người nông dân có thể chuyển từ lao động thuần nông sang lao động ở các ngành nghề khác hay kết hợp vừa làm nông vừa làm kinh tế dịch vụ rất phong phú và đa dạng.
Thứ ba, CNH, HĐH làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới ở khu vực nông thôn nhờ ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới. Hiện nay có rất nhiều ngành nghề mới ở nông thôn như: chế biến, bảo quản rau quả, chế biến súc sản, hải sản, chăn nuôi lợn siêu nạc, nuôi tôm trên cát.v.v... nhờ ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, có khả năng thu hút lao động rất lớn. Đó là nơi đến của lực lượng lao động rút ra từ lĩnh vực thuần nông.
Quá trình tạo mở việc làm cho người lao động tăng lên cùng với tốc độ phát triển của CNH, HĐH. Thông thường vốn đầu tư xây dựng các ngành công nghiệp càng lớn, càng cho phép tạo ra nhiều nơi làm việc và thu hút nhiều lao động nông nghiệp chuyển sang. Như vậy cùng với quá trình rút một bộ phận lao động ra khỏi sản xuất nông nghiệp, quá trình CNH, HĐH cũng thu hút ngày càng lớn bộ phận lao động vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, làm cho cung cầu lao động ở khu vực nông thôn dịch chuyển theo hướng ngày càng thu hẹp khối lượng cầu lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và mở rộng cầu lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Quá trình CNH, HĐH làm xuất hiện những khu kinh tế, khu công nghiệp hay khu chế xuất, làm hình thành những trung tâm kinh tế và thúc đẩy quá trình đô thị hóa phát triển mạnh mẽ. Quá trình đó đòi hỏi phải dành một bộ phận lớn đất đai để xây dựng, làm cho đất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng ngày càng nhiều. Dự tính đến năm 2010, bình quân mỗi năm đất phi nông nghiệp sẽ tăng 67 400 ha/năm, bằng diện tích nông nghiệp của tỉnh Ninh Bình [11, tr.14]. Mà phần lớn những đất đai này được chuyển từ đất nông nghiệp.
Sự giảm sút một bộ phận khá lớn đất nông nghiệp đã và đang diễn ra cũng là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng nó cũng kéo theo những vấn đề kinh tế - xã hội khác ảnh hưởng tới đời sống của người lao động, nhất là người lao động ở nông thôn. Người nông dân sẽ thiếu tư liệu sản xuất để lao động. Trong điều kiện đất nông nghiệp được chuyển giao cho các hộ nông nghiệp sử dụng lâu dài, việc thu hồi đất sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch làm ăn lâu dài, ổn định, tự chủ về nhiều mặt, trong đó có vấn đề việc làm của mỗi hộ gia đình. Thậm chí một số bộ phận lớn người lao động sẽ mất việc làm và nơi ở, phải di dời đến chỗ ở mới, tìm việc làm mới, ngành nghề mới. Vì vậy, tìm kiếm việc làm phù hợp để ổn định đời sống là nhu cầu bức thiết của bộ phận lao động này.
Mặt khác, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thực chất là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy lao động trong những ngành thu hẹp sản xuất sẽ buộc phải chuyển nghề, tính chất ổn định của nghề nghiệp sẽ giảm đi, sự bấp bênh và yêu cầu chuyển đổi tăng lên cùng với sự đòi hỏi cao về trình độ, tay nghề sẽ gây áp lực lớn cho lực lượng lao động ít khả năng thích ứng, bộ phận này chủ yếu là lực lượng lao động dôi dư từ sản xuất nông nghiệp ở vùng nông thôn.
CNH, HĐH đang tạo ra những thách thức cho người lao động ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên CNH, HĐH cũng mang lại nhiều cơ hội, việc làm cho người lao động ở khu vực này.
Tuy nhiên mức độ thỏa mãn nhu cầu đó về lao động của nền kinh tế lại phụ thuộc vào trình độ tay nghề hay chất lượng nguồn cung lao động. ở khu vực nông thôn, số lao động dôi dư trừ sản xuất nông nghiệp phần lớn là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Vì vậy, mối quan hệ cung cầu lao động ở khu vực này còn căng thẳng về mặt kết cấu. Một mặt, qui mô, khả năng tạo mở việc làm, thu hút lao động ở nông thôn là rất lớn nhưng khu vực này chưa đủ điều kiện để biến khả năng đó thành hiện thực. Mặc dù những năm qua, cơ cấu công - nông nghiệp và dịch vụ ở nông thôn đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ phù hợp với quá trình CNH, HĐH nhưng khu vực nông thôn còn hạn chế nhiều về cơ sở hạ tầng, về vốn, thị trường và công nghệ nên quá trình tạo mở việc làm cho người lao động còn hạn chế. Mặt khác nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn là vô cùng to lớn nhưng còn nhiều điểm yếu nên chưa được phát huy.
Để giải quyết mối quan hệ này, phải đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động ở khu vực nông thôn nhất là dạy nghề cho nông dân dưới nhiều hình thức. Kết hợp trang bị kiến thức, tác phong làm việc với hỗ trợ về vốn, công nghệ và hướng dẫn bà con sản xuất, làm ăn một cách cụ thể “cầm tay chỉ việc” để người nông dân có khả năng tìm việc làm và tự tạo việc làm. Đồng thời, lựa chọn kiểu và mức độ phát triển công nghiệp và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn theo hướng mở rộng các ngành sản xuất với qui mô nhỏ, lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp, sử dụng nhiều lao động. Chọn công nghệ với chi phí tối thiểu để sử dụng nhiều lao động hơn thay vì nhập khẩu và áp dụng các công nghệ với dung lượng vốn lớn để tăng qui mô việc làm. Mặt khác, cần thúc đẩy các ngành công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp cả ở khu vực truyền thống lẫn hiện đại, cả ở nông thôn và thành thị. Ngoài ra cũng có thể tập trung phát triển các công nghệ có giá thành thấp, sử dụng nhiều lao động, đáp ứng những nhu cầu về cơ sở hạ tầng ở nông thôn như: đường sá, hệ thống điện, cấp thoát nước hay các dịch vụ y tế và giáo dục.
Tóm lại, quá trình CNH, HĐH và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang đặt ra những những cơ hội và thách thức về lao động, việc làm cho người lao động, nhất là người lao động ở nông thôn nước ta. Do vậy, cần xây dựng chiến lược an toàn việc làm cho người lao động. Một mặt tập trung tạo nhiều việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động dư thừa trước mắt, nhưng mặt khác phải có chính sách vĩ mô, chiến lược phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và khả năng phát triển trong tương lai của nền kinh tế.
1.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn của một số tỉnh
1.2.1. Kinh nghiệm của Thái Bình
Thái Bình là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ có diện tích tự nhiên là 1.535 km2 Với dân số 1,85 triệu người, trong đó lực lượng lao động chiếm đến 59% dân số (1 014 841 người) và tập trung chủ yếu ở nông thôn. Thái bình vốn là một tỉnh đất chật người đông. Từ trước đến nay người dân phải tìm mọi cách, đi mọi nơi để tìm kiếm việc làm. Đặc biệt là ở khu vực nông thôn chiếm hơn 90% lực lượng lao động toàn tỉnh và hàng năm lại tiếp tục gia tăng làm cho sức ép về việc làm ngày càng lớn đối với khu vực này. Do vậy, giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn luôn là nhiệm vụ cấp bách của tỉnh [33].
Trong thời gian qua, thực hiện chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước, tỉnh Thái bình đã có nhiều thành tích trong phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Từ năm 2001 đến 2004, trung bình mỗi năm có khoảng 22 300 lao động được giải quyết việc làm. Trong thời gian này toàn tỉnh đã xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm tại chỗ cho 89 105 người và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 79,18%. Để đạt được kết quả đó Thái bình đã thực hiện đồng bộ các giải pháp, có thể đúc rút thành những bài học như sau:
Đẩy mạnh công tác dạy nghề cho nông dân:
Thái Bình có trên 90% lao động với số lượng 948 709 người sống ở nông thôn. Bình quân mỗi năm tỉnh có 22 000 học sinh bậc phổ thông ra trường trong số đó có khoảng 35% học tiếp lên các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, số còn lại rất cần học nghề để tự lập. Vì vậy, Thái bình đã tăng cường công tác đào tạo nghề, nhất là dạy nghề cho người lao động ở nông thôn. Hiện nay toàn tỉnh đã có 4 trường chuyên nghiệp đào tạo nghề và 19 trung tâm dịch vụ việc làm của các cơ quan đoàn thể và các trung tâm kỹ thuật hướng nghiệp của các huyện, thành phố được đầu tư xây dựng với số vốn 23,2 tỉ đồng và có tổng qui mô đào tạo khoảng 700 học sinh.
Mục tiêu của công tác dạy nghề cho nông dân ở Thái bình là tạo ra đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng tạo việc làm, nhất là đội ngũ công nhân kỹ thuật, có tay nghề để tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ, thúc đẩy kinh tế nông thôn và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh.
Năm 2001, tỉ lệ lao động qua đào tạo ở khu vực nông thôn của tỉnh mới đạt 4% nhưng đến năm 2004 đã tăng lên 16% [33].
Chương trình mục tiêu dạy nghề cho nông dân của tỉnh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và giải quyết việc làm cho lao động dôi dư ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, tạo ra nhiều sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong xã hội.
Hiện nay trong điều kiện hội nhập nhận thức rõ ràng khả năng cạnh tranh của khu vực trước hết là dựa vào chất lượng nguồn nhân lực, dựa vào tri thức khoa học công nghệ, nên tỉnh Thái bình xác định đẩy mạnh hơn nữa việc dạy nghề cho nông dân để cải thiện mạnh mẽ chất lượng cũng như nâng cao sức cạnh tranh về nguồn lao động, nhất là lao động ở khu vực nông thôn. Toàn tỉnh xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và hội nhập kinh tế.
- Đẩy mạnh chương trình phát triển nghề và làm nghề trong khắp các địa phương của tỉnh để tạo mở việc làm. Đến năm 2005 toàn tỉnh không còn xã trắng nghề. Những làng nghề như thêu ren xuất khẩu ở xã Minh Lãm, Vũ Thư; nghề chạm bạc nổi tiếng ở Đồng Xâm, nghề dệt chiếu cói ở Thái Thụy, Tiền Hải hay nghề mây tre đan ở hầu hết các huyện, thành phố... vừa phù hợp với điều kiện tay nghề của người lao động ở nông thôn, giải quyết việc làm trong lúc nông nhàn và mang lại thu nhập cho người lao động. Hiện nay toàn tỉnh có khoảng 173 làng nghề, thu hút khoảng 25 vạn lao động, trong đó có việc làm thường xuyên là 15 vạn người.
Những năm qua Thái bình đã từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng giá trị thu nhập và lợi nhuận trên 1 đơn vị diện tích đất sử dụng nông nghiệp. Thái bình là một trong những tỉnh đầu tiên đưa ra mô hình cánh đồng 50 triệu, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, làm phong phú sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, tạo nhiều việc làm cho người lao động và từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn.
- Sử dụng có hiệu quả quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm: Từ năm 2001 đến 2004 quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm ở Thái bình đã cho vay trên 3 000 lượt dự án với doanh số hơn 95 tỉ đồng giải quyết việc làm cho 3,2 vạn lao động. Trong đó số người lao động có việc làm mới là 1,4 vạn người.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Thực hiện luật đầu tư nước ngoài vào Việt nam năm 2005 tỉnh đã có 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu hút 4 000 lao động. Bên cạnh đó các doanh nghiệp trong tỉnh cũng được khuyến khích phát triển theo luật doanh nghiệp hiện tại toàn tỉnh có khoảng 1 025 doanh nghiệp, thu hút gần 36 000 lao động. Đây là một trong những hướng chính được tỉnh xác định nhằm kết hợp tăng trưởng kinh tế và tạo nhiều việc làm cho người lao động nói chung và lao động ở khu vực nông thôn nói riêng [33, tr.8].
1.2.2. Kinh nghiệm của Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh có diện tích tự nhiên là 16 487,29km2 dân số là 3.003.000 người. Trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 1.477.687 người, đa số là lao động ở khu vực nông thôn với 1.335.743 người chiếm hơn 90% lực lượng lao động của tỉnh [40, tr.2].
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, tỉnh Nghệ An luôn xác định công tác giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và việc làm cho người lao động ở nông thôn nói riêng là một trong những nội dung quan trọng, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và địa phương.
Để thực hiện mục tiêu đó Sở Lao động thương binh và xã hội đã tham mưu tập trung xây dựng các chương trình, đề án, chính sách và giải quyết việc làm, được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt và phối hợp chỉ đạo đạt kết quả tốt. Từ năm 2001 - 2005, thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế lồng ghép các chương trình dự án đầu tư, phát triển các loại hình doanh nghiệp, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề, trang trại, các tổng đội thanh niên xung phong xây dựng kinh tế. Nghệ An đã tạo thêm việc làm cho trên 130.000 lao động (trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho 2,6 đến 2,7 vạn người, trong đó tạo việc làm mới tập trung cho trên 30.000 lao động) và nâng tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn từ 73,93% năm 2001 lên 77,71% năm 2004. Để đạt kết quả đó, tỉnh Nghệ An đã thực hiện đồng bộ các chủ trương và biện pháp như sau:
- Công tác giải quyết việc làm đã được toàn tỉnh xác định là một trong những nội dung chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, được các cấp các ngành quan tâm, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và được sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.
- Nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan đoàn thể và các tầng lớp nhân nhân về lĩnh vực lao động việc làm, dạy nghề và xóa đói giảm nghèo có nhiều chuyển biến sâu sắc phù hợp với cơ chế thị trường và đáp ứng phần nào yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH quê hương toàn tỉnh đã quán triệt và thực hiện tốt hơn chủ trương phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết việc làm, dạy nghề và xóa đói giảm nghèo trước yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội.
- Tập trung nghiên cứu, tổng kết thực tiễn các phong trào, xây dựng phát triển các mô hình, cách làm hiệu quả trong công tác giải quyết việc làm; Có nhiều cơ chế chính sách thông thoáng khuyến khích thu hút các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp trong và ngoài nước đến Nghệ An; Đồng thời xúc t._. cho bình quân một lao động đi xuất khẩu lao động từ 300 đến 500.000 đồng, đảm bảo cho 100% lao động hộ nghèo đi xuất khẩu lao động nước ngoài được vay vốn tín dụng ưu đãi và đề nghị Ngân hàng Thương mại bỏ quy định thế chấp 10% vốn vay cho người lao động.
- Coi trọng công tác đào tạo nguồn và giới thiệu người lao động có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành tốt các quy định của pháp luật để tham dự đi làm việc ở nước ngoài. Công tác tạo nguồn và giới thiệu người đi lao động ở nước ngoài phải gắn với chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, phù hợp với quan hệ cung - cầu và quá trình hội nhập quốc tế của thị trường xuất khẩu lao động.
- Để công tác xuất khẩu lao động thực sự là tiền đề cho sự phát triển bền vững sau này của địa phương thì bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần xây dựng chương trình hậu xuất khẩu lao động để một mặt tận dụng nguồn vốn, tay nghề của người lao động ở nước ngoài về, mặt khác tạo sự ổn định kinh tế xã hội cho địa phương có xuất khẩu lao động. Chương trình hậu xuất khẩu lao động cần phát triển theo hướng khuyến khích người đi xuất khẩu lao động trở về đầu tư kinh doanh những ngành nghề thiết thực, khai thác được tiềm năng lợi thế của địa phương. Ví dụ: ở Cương Gián có thể mở rộng hơn nữa diện tích nuôi trổng thủy sản, phát triển nghề nước mắm là nghề truyền thống của xã, hay nghề mộc, nghề khai thác đá... vừa đưa lại sự phát triển về kinh tế cho địa phương, vừa tạo việc làm cho lao động trong vùng và những vùng lân cận. Để làm được điều đó, chính quyền địa phương cần tạo điều kiện về mặt bằng thuận lợi, tạo môi trường đầu tư và hành lang pháp lý cho người đi xuất khẩu lao động trở về phát triển sản xuất, kinh doanh, làm giàu chính đáng và đóng góp cho quê hương.
Đối với những người lao động đã được đào tạo nghề như sản xuất điện tử, cơ khí hay thực phẩm v.v... sau khi đi xuất khẩu lao động trở về có thể được đào tạo lại và được nhận vào làm việc ở các doanh nghiệp ở địa phương để phát huy tay nghề và kinh nghiệm vì họ đã được đào tạo và trực tiếp lao động trong môi trường xã hội công nghệp của nước bạn. Đây sẽ là nguồn nhân lực phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động
3.2.4.1. Chấn chỉnh, kiện toàn hệ thống cơ sở dạy nghề ở Hà Tĩnh
Trong những năm gần đây, công tác dạy nghề ở Hà Tĩnh đã có nhiều chuyển biến tích cực. Xã hội và nhân dân đã coi đào tạo nghề là nguồn động lực thay đổi và phát triển kinh tế gia đình, xã hội.
Trong những năm tới Hà Tĩnh xác định đào tạo nghề vẫn là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh theo hướng tiến bộ, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho thời ký đẩy mạnh CNH, HĐH ở Hà Tĩnh. Phấn đấu từ nay đến 2010, đưa số lao động qua đào tạo nghề ở Hà Tĩnh tăng bình quân hằng năm từ 2000 đến 2.500 người, nâng tỷ lệ lao động qua dào tạo nghề đạt 30%.
Để thực hiện mục tiêu đó, tỉnh Hà Tĩnh phải tiến hành đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
- Tiếp tục củng cố, sắp xếp hệ thống các cơ sở dạy nghề trên toàn tỉnh theo hướng hiện đại, vững chắc, chất lượng, có định hướng. Cụ thể là:
+ Bổ sung nguồn lực nâng cấp Trường Công nhân kỹ thuật Việt Đức lên Trường Cao đẳng nghề; Trung tâm dạy nghề Hà Tĩnh thành Trường Trung cấp dạy nghề; các trung tâm dạy nghề tại các huyện: Cẩm Xuyên, Can Lộc, Hương Sơn thành các trung tâm dạy nghề trọng điểm.
+ Cho phép UBND các huyện, thị xã lập dự án đầu tư xây dựng các Trung tâm dạy nghề cấp huyện. Ưu tiên và khuyến khích các tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở dạy nghề ở miền núi, vùng kinh tế khó khăn.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở dạy nghề.
+ Huy động mọi nguồn lực để nâng cấp xây dựng cơ bản, đổi mới trang thiết bị đồ dùng, phương tiện dạy học cho các cơ sở; khuyến khích và động viên đội ngũ giáo viên tự làm thiết bị dạy nghề; phối hợp với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất để sử dụng trang, thiết bị công nghệ kỹ thuật dạy và thực tập nghề; đưa dần công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa vào trợ giúp giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh.
- Tập trung bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm, cập nhật kiến thức kỹ thuật công nghệ mới cho đội ngũ giáo viên dạy nghề; có cơ chế, chính sách thu hút người có học vị cao, có kinh nghiệm, các nghệ nhân, thợ giỏi về làm giáo viên ở các cơ sở dạy nghề; tổ chức thường xuyên phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi, giáo viên giỏi; có chính sách động viên, khen thưởng thỏa đáng và tôn vinh giá trị xã hội cho những người đạt tiêu chuẩn thợ giỏi, giáo viên giỏi.
- Tăng cường quản lý nhà nước đối với công tác đào tạo nghề.
Để công tác đào tạo nghề ở Hà Tĩnh từng bước khắc phục khó khăn, tiếp tục phát triển đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ mới, ngành Lao động Thương binh và xã hội tỉnh phối hợp với các cơ quan chức năng hướng dẫn, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra thực hiện công tác đào tạo nghề, nắm chắc tình hình họat động, theo dõi việc thực hiện chính sách, chế độ, điều lệ, quy chế hoạt động, nội dung chương trình và chất lượng đào tạo của các cơ sở dạy nghề.
Tăng cường hỗ trợ ngân sách cho công tác dạy nghề; ban hành các chính sách huy động vốn và tín dụng, chính sách đất đai và thuế tạo mối quan hệ bình đẳng giữa các cơ sở dạy nghề công lập và ngoài công lập, hỗ trợ, tạo mọi điều kiện cho người lao động có cơ hội học nghề và tìm kiếm việc làm.
Sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động dạy nghề phải đem lại quyền chủ động nâng cao trách nhiệm của địa phương và các cơ sở dạy nghề.
3.2.4.2. Thực hiện xã hội hóa dạy nghề ở Hà Tĩnh
Xã hội hóa dạy nghề là xu thế khách quan trong phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Tĩnh nhằm đưa lại nguồn lao động có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu lao động và sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh.
Trong những năm qua, tốc độ xã hội hóa dạy nghề ở Hà Tĩnh còn chậm so với tiềm năng, mức độ xã hội hóa dạy nghề không đồng đều giữa các vùng, các cơ sở dạy nghề ngoài công lập còn ít, các cơ sở dạy nghề công lập vẫn áp dụng cơ chế quản lý như cơ quan hành chính nên không phát huy được tính năng động, tự chủ trong công tác dạy nghề; nhận thức của một bộ phận xã hội về xã hội hóa dạy nghề chưa đầy đủ, xem xã hội hóa chỉ là biện pháp huy động sự đóng góp của nhân dân trong điều kiện ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, chưa coi dạy nghề là lĩnh vực ưu tiên trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực mà chỉ coi đó là một phúc lợi do Nhà nước đầu tư nên trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
Trong những năm tới, Hà Tĩnh cần phải phát huy mọi tiềm năng trí tuệ và vật chất, xây dựng cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp dạy nghề; khuyến khích tối đa sự tham gia của người dân và của xã hội vào phát triển lĩnh vực này. Đồng thời, tạo mọi điều kiện để người dân có cơ hội học tập nghề suốt đời, được hưởng thụ mọi thành quả dạy nghề ở mức độ ngày càng cao, nhất là các đối tượng chính sách, người nghèo, con em đồng bào dân tộc thiểu số và bộ đội xuất ngũ.
Xã hội hóa dạy nghề phải có bước đi thích hợp với từng vùng, từng lĩnh vực bảo đảm tính hệ thống trong đào tạo nguồn nhân lực và phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế thế giới.
Để thực hiện mục tiêu đó, Hà Tĩnh cần thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau:
- Tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức về xã hội hóa dạy nghề trong toàn tỉnh.
- Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý khuyến khích phát triển xã hội hóa dạy nghề. Một mặt, các cơ quan chức năng của tỉnh phải sớm hoàn thiện các quy định mô hình, các quy chế họat động của các cơ sở dạy nghề ngoài công lập, các thủ tục hành chính cần thiết trong việc thành lập các cơ sở dạy nghề ngoìa công lập và các chuẩn đánh giá chất lượng, cấp bằng, chứng chỉ dạy nghề. Mặt khác, phải chuyển cơ chế hoạt động của các cơ sở dạy nghề công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp hành chính sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích, không bao cấp tràn lan, có đầy đủ quyền tự chủ quản lý, thực hiện đúng nhiệm vụ, hạch toán đầy đủ chi phí, cân đối thu chi.
- Từng bước thực hiện chính sách đấu thầu chỉ tiêu đào tạo do Nhà nước đặt hàng, khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề thuộc mọi thành phần kinh tế nếu có đủ điều kiện, được bình đẳng tham gia đấu thầu.
- Mở rộng quy mô đào tạo nghề trên cơ sở đa dạng hóa hình thức đào tạo, bao gồm đào tạo dài hạn, ngắn hạn, kèm cặp, truyền nghề, đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo tại chỗ, đào tạo lưu động, đào tạo từ xa... đáp ứng nhu cầu học nghề cho mọi đối tượng, mọi nơi, trong mọi điều kiện.
- Đa dạng hóa ngành nghề đào tạo gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi địa phương và nhu cầu xuất khẩu lao động. ở Hà Tĩnh hiện nay, bên cạnh việc đào tạo nghề cho ngành nông nghiệp phát triển nông thôn cần đẩy mạnh đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề cao cho ngành công nghiệp - xây dựng, trước mắt ưu tiên phát triển đào tạo những ngành phục vụ xây dựng kết cấu hạ tầng cho quá trình đô thị hóa của tỉnh.
3.2.4.3. Đẩy mạnh công tác dạy nghề cho người lao động ở nông thôn
Phát triển hệ thống cơ sở dạy nghề, thực hiện xã hội hóa dạy nghề là điều kiện thuận lợi to lớn, là cơ sở để cho công tác dạy nghề cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh phát triển. Đặc biệt, ngày 18/4/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động ở nông thôn, đã tạo ra những tiền đề quan trọng để Hà Tĩnh tiến hành đẩy mạnh công tác này.
ở Hà Tĩnh hiện nay nhu cầu đào tạo nghề của lực lượng lao động nông nghiệp nông thôn là rất lớn. 85,62% lực lượng lao động nông nghiệp nông thôn chưa có trình độ chuyên môn kỹ thuật đang đặt ra một nhiệm vụ to lớn. nặng nề cho công tác này. Đặc biệt những hộ nông dân bị thu hồi đất, các đối tượng chính sách, lao động thuộc các dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn, lao động nữ chưa có việc làm... tất cả những đối tượng trên đang rất cần việc làm. Thực tế đó đòi hỏi phải đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
Công tác dạy nghề cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh cần phải đáp ứng các yêu cầu của chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, phù hợp với tình hình sinh thái và ngành nghề của địa phương, gắn với nhu cầu của thị trường, kết hợp với hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư để xây dựng chương trình dào tạo thiết thực cho hoạt động lao động sản xuất của bà con nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao dân trí ở nông thôn.
Để đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn, Hà Tĩnh cần thực hiện tốt những giải pháp cơ bản sau:
- Có chiến lược quy hoạch tổng thể các đối tượng và các ngành nghề đào tạo phù hợp với từng vùng, trong từng thời kỳ để công tác đào tạo được tiến hành một cách có hệ thống.
- Mở rộng và nâng cấp các Trung tâm đào tạo nghề tại các huyện để tăng quy mô đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi về đi lại, ăn ở cho các học viên ở nông thôn tham gia học nghề.
- Đổi mới nội dung chương trình đào tạo cho lao động nông thôn, trong đó đặc biệt quan trọng là xác định nghề để dạy. Xác định ngành nghề đào tạo phải căn cứ năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề, nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, việc làm và sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Trong thời gian tới Hà Tĩnh cần tập trung đào tạo các ngành nghề: Kỹ thuật sắt, kỹ thuật điện, luyện kim, kỹ thuật điện tử, vận hành xe máy thi công, khai thác mỏ, xây dựng và công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho các khu kinh tế, khu công nghiệp đang hình thành của tỉnh.
Mặt khác, tỉnh phải mở rộng đào tạo đại trà và thường xuyên các ngành nghề chế biến thủy sản, rau quả, thực phẩm, nông, lâm nghiệp, nuôi trông thủy sản, thú y, chăn nuôi phục vụ cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; đào tạo các ngành nghề phi nông nghiệp, các làng nghề, các ngành dịch vụ, đáp ứng nhu cầu làm việc lúc nông nhàn...
- Cần chú trọng cả đào tạo dài hạn và đào tạo ngắn hạn cho người lao động ở nông thôn.
+ Đối với ngành nghề dài hạn: Phải trang bị cho học viên kiến thức và kỹ năng nghề diện rộng hoặc chuyên sâu, có khả năng đảm nhận những công việc phức tạp, học viên có thể thích nghi với cơ chế thị trường, có thể chuyển đổi nghề trong nhóm có liên quan và có năng lực vươn lên để đạt trình độ cao hơn. Theo hướng này, Hà Tĩnh cần phát huy vai trò của hệ thống các trường dạy nghề: Trường Dạy nghề kỹ thuật Việt Đức; Trường Cơ điện luyện kim -Phân hiệu Hà Tĩnh; Trường Kỹ nghệ Hà Tĩnh, Trường Trung học kỹ thuật Nông nghiệp và phát triển nông thôn trên địa bàn tỉnh.
+ Đối với trường dạy nghề ngắn hạn: Cần trang bị cho học viên một số kiến thức cơ bản và kỹ năng nghề nhất định về trồng trọt, lâm sinh, thú y, chăn nuôi, bảo vệ thực vật, sử dụng công cụ máy nông, lâm nghiệp...những kiến thức về quản lý kinh doanh nông nghiệp, để học viên xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất hiệu quả, phát triển kinh tế hộ gia đình.
Cần mở rộng và đa dạng hóa loại hình đào tạo này để tạo được cơ hội cho người lao động ở nông thôn tham gia học tập. Ưu tiên đào tạo các hộ nghèo, các hộ phải chuyển đổi mục đích sử dụng đát, các hộ vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, dạy nghề miễn phí cho người tàn tật, có kế hoạch hỗ trợ kịp thời cho những đối tượng này theo tinh thần Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Trong thời gian trước mắt, Hà Tĩnh cần đẩy mạnh đào tạo nghề cho người lao động theo hướng phục vụ chuyển giao kỹ thuật và sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp: Trồng lúa cao sản, sản xuất ngô đông, chăn nuôi lợn nái ngoại, lợn siêu nạc, bò lai sin, bò lấy thịt, nuôi trồng thủy sản chất lượng cao.... trang bị kỹ thuật công nghệ hướng vào sản xuất hàng hóa có giá trị lớn trong nông nghiệp.
- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo nghề cho người lao động ở nông thôn.
ở Hà Tĩnh, do đặc điểm địa phương có nhiều vùng tiểu sinh thái, ngành nghề sản xuất đa dạng chính vì vậy cần phải có nhiều hình thức đào tạo nghề cho người lao động ở vùng nông thôn, như: đào tạo nghề tạo chỗ gắn liền với tổ chức lại sản xuất kinh doanh và giới thiệu việc làm tại chỗ cho hội viên nông dân. Hình thức này có thể áp dụng cho các hợp tác xã nông nghiệp nông thôn, các làng nghề. Đối với các vùng núi, vùng sâu vùng xa ở Hương Sơn, Hương Khê, Vũ Quang, Kỳ Anh...có thể tổ chức dạy nghề lưu động cho bà con nông dân về các ngành nghề chăn nuôi bò, lợn, trồng các loại cây đặc sản... mang kỹ thuật ngành nghề đến với học viên, kết hợp vừa học vừa thực hành, dạy nghề một cách trực quan sinh động học viên tận dụng được thời gian lúc nông nhàn, ít tốn kém chi phí đi lại...
Ngoài ra, có thể tổ chức dạy nghề thông qua xây dựng các mô hình sản xuất điển hình và nhân rộng cho mọi người cùng làm; có thể gắn chương trình dạy nghề với phong trào nông dân sản xuất giỏi, giúp nhau vượt đói nghèo... phối hợp các hình thức phong phú, đa dạng đưa lại hiệu quả cao cho công tác dạy nghề.
3.2.5. Các giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế và nâng cao chất lượng nguồn lao động ở nông thôn
Trong cơ chế thị trường tất yếu xảy ra sự cạnh tranh về lao động. Ai có sức cạnh tranh lớn người đó sẽ có cơ hội tìm được việc làm lớn hơn, vì khả năng thắng trong cạnh tranh lớn hơn. Sức cạnh tranh ở đây phụ thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn lao động, như: trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thể lực phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động. So với lực lượng lao động ở thành thị thì trình độ trên của lực lượng lao động ở nông thôn còn có sự cách biệt do đời sống vật chất, tinh thần ở khu vực nông thôn còn thấp. Nông thôn và nông dân còn chịu thiệt thòi về nhiều mặt, về cơ sở hạ tầng, về đời sống vật chất, tinh thần... Chính vì vậy, cần phải khắc phục những khó khăn, hạn chế đó trong cuộc sống của người lao động ở nông thôn, nâng cao chất lượng nguồn lao động, sức cạnh tranh, tạo nhiều cơ hội có việc làm cho người lao động khu vực này.
3.2.5.1. Hạ thấp tỷ lệ tăng dân số ở nông thôn Hà Tĩnh
Tốc độ tăng dân số ảnh hưởng đến tăng quy mô nguồn cung lao động, tạo sức ép lâu dài về việc làm cho khu vực nông thôn, ảnh hưởng đến chất lượng của người lao động. ở Hà Tĩnh hiện nay tỷ lệ tăng dân số còn ở mức cao, nhất là ở khu vực nông thôn, đặc biệt là ở vùng giáo dân. Trong những năm tới, Hà Tĩnh phấn đấu giảm nhanh tỷ lệ các cặp vợ chồng sinh con thứ 3 trở lên, đạt mức sinh thay thế vào năm 2007, nâng cao chất lượng dân số và trí tuệ, góp phần thực hiện mục tiêu chung của cả nước về chỉ số phát triển con người ở nước ta ở mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010.
Để đạt được mục tiêu đó, Hà Tĩnh cần thực hiện các giải pháp sau:
- Tăng cường công tác giáo dục dân số, truyền thông dân số đến từng gia đình, từng cá nhân, phát triển nhận thức và nâng cao hiểu biết về tình hình dân số trong nhân dân để họ có thái độ, hành vi hợp lý đối với những tình huống để có được cuộc sống có chất lượng tốt hơn; làm rõ cho người dân hiểu được lợi ích và sự cần thiết của kế hoạch hóa gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con; chống tư tưởng bảo thủ, gia trưởng, trọng nam khinh nữ.
- Cung cấp kịp thời những dịch vụ kỹ thuật tránh thai đảm bảo dễ dàng, an toàn và hiệu quả, hỗ trợ các phương tiện dụng cụ tránh thai và các dụng cụ y tế, thuốc men cho người kế hoạch hóa gia đình; động viên nam giới áp dụng các biện pháp tránh thai; tăng cường dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản tới các xã khó khăn, vùng sâu vùng xa.
- Nâng cao năng lực quản lý của bộ máy và năng lực chuyên môn cho cán bộ cộng tác viên làm công tác kế hoạch hóa gia đình.
- Thông qua hoạt động của các đoàn thể, các tổ chức xã hội như Đoàn thanh niên, hội phụ nữ...thực hiện giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình cho mọi đối tượng.
- Có hình thức xử lý nghiêm đối với những gia đình không thực hiện kế hoạch hóa gia đình, sinh con thứ 3 trở lên.
- Tăng cường sự hỗ trợ kinh phí của Nhà Nước đối với chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình 2006-2010.
3.2.5.2 Thực hiện tốt công tác y tế, chăm sóc sức khỏe và vệ sinh môi trường ở nông thôn
- Thực hiện công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho người lao động ở nông thôn.
Người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh sống trong điều kiện môi trường khí hậu khắc nhiệt nên nguy cơ mắc bệnh cao, trong khi đó, phần lớn lao động ở nông thôn chưa có điều kiện đến với các dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe cho bản thân mình. Chính vì vậy, Hà Tĩnh cần đẩy mạnh công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho người lao động theo những hướng sau:
+ Nâng cao nhận thức, thay đổi thói quen không đúng của người dân về chăm sóc sức khỏe cho bản thân mình, xây dựng thói quen khám sức khỏe định kỳ cho người dân và khi mắc bệnh phải được chữa chạy bằng thuốc men và chăm sóc của bác sỹ, không nên dùng những hình thức phản khoa học, thậm chí mê tín dị đoan để chữa bệnh.
+ Xây dựng, nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, các trạm xá, bệnh viện huyện; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, cung cấp trang thiết bị dụng cụ y tế đầy đủ, thuốc men kịp thời phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân.
+ Khống chế không để xảy ra những dịch lớn như: sốt rét ở vùng núi Kỳ Anh, Hương Khê...sốt xuất huyết trên địa bàn; triển khai dự án phòng chống lao, kiện toàn và tăng cường năng lực của hệ thống phòng chống HIV/AIDS và các bệnh xã hội, dịch bệnh nguy hiểm khác.
+ Thực hiện tốt công tác gia đình và trẻ em, đảm bảo 100% bà mẹ trong độ tuổi sinh để được uống Vitamin A, viên sắt, được hướng dẫn kiến thức chăm sóc trẻ sau khi sinh, thực hiện tiêm chủng mở rộng, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em.
+ Thực hiện bảo hiểm y tế cho người nghèo, tăng cường sự hỗ trợ kinh phí của Nhà nước và địa phương cho chương trình này.
- Thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường:
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn, đảm bảo các yếu tố về cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm kiên cố, khang trang, cải thiện điều kiện đi lại, sinh hoạt của người dân ở nông thôn.
+ Hỗ trợ kinh phí xây dựng các công trình cấp nước tập trung, các công tình cấp nước nhỏ lẻ, từ hệ thống tự chảy và giếng làng đảm bảo cho mọi người dân ở nông thôn có nước sạch phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
+ Tổ chức tập huấn, giáo dục tuyên truyền về nước sạch và vệ sinh môi trường, hướng dẫn, vận động các hộ dân đầu tư xây dựng hố xí hợp vệ sinh; giao chỉ tiêu bắt buộc các công sở., trường học, cơ sở y tế, chợ nông thôn phải có công tình cấp nước sạch và hố xí hợp vệ sinh, tăng cường việc chỉ đạo, giám sát việc thực hiện chương trình này.
+ Đảm bảo vệ sinh chuồng trại, quy hoạch các trại chăn nuôi tập trung cách xa khu dân cư, chất thải được xử lý hợp vệ sinh, không gây ô nhiễm môi trường.
+ Phát triển dịch vụ vệ sinh nông thôn, thu gom rác thải, xử lý hợp vệ sinh; xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải ở các làng nghề, nhất là các làng nghề đúc đồng, nghề làm miến, làm bún... giữ vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn sạch đẹp.
+ Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở nông thôn, nghiêm cấm giết mổ, bán gia súc gia cầm bị bệnh, tuyên truyền bắt buộc học tập các tiêu chí vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hộ kinh doanh dịch vụ ăn uống ở các quán, chợ nông thôn.
+ Tăng cường sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước cho chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thô, bổ sung ngân sách địa phương tạo nguồn kinh phí hỗ trợ cho gần 20.000 hộ nghèo nhất trong tỉnh xây công trình nước sạch, hố xí hợp vệ sinh.
KếT LUậN
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước những năm qua đã tạo nên những thay đổi đáng kể đối với khu vực nông thôn cả nước nói chung và nông thôn ở Hà Tĩnh nói riêng. Người lao động ở nông thôn chính là chủ thể trực tiếp thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Họ là những người tiếp thu và ứng dụng những tri thức, thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ vào phát triển sản xuất. Chính vì vậy, giải quyết việc làm, phát huy vai trò to lớn của lực lượng lao động ở nông thôn là vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Điều đó không chỉ đòi hỏi sự quyết tâm, phấn đấu nỗ lực của người lao động mà còn cần đến sự giúp đỡ của Nhà nước, của mọi tầng lớp nhân dân và các tổ chức xã hội.
Hà Tĩnh là một tỉnh nông nghiệp, gần 90% dân số sống ở nông thôn; 80,19% lực lượng lao động làm nông nghiệp. Vì thế, vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn luôn là vấn đề được các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội quan tâm hàng đầu để thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Khi nghiên cứu vấn đề "Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh", luận văn xác định, người lao động ở nông thôn là những người lao động nói chung được quy định trong Bộ luật Lao động nhưng sinh sống và làm việc ở nông thôn. Công việc của họ gắn liền với điều kiện tự nhiên nơi họ sinh sống và chịu tác động bởi những đặc điểm kinh tế - xã hội ở nông thôn. Chính vì thế, vấn đề "Việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh" được xem xét từ khái niệm việc làm nói chung và việc làm của người lao động ở nông thôn nói riêng trong điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ở nông thôn dưới tác động của quá trình CNH, HĐH. Đó là cơ sở lý luận để luận văn nghiên cứu khảo sát tình hình giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh.
Luận văn đã đi sâu nghiên cứu thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh theo ngành kinh tế, thành phần kinh tế, theo chương tình xúc tiến việc làm quốc gia và rút ra những vấn đề mà Hà Tĩnh cần quan tâm giải quyết trong thời gian tới. Bởi vì trong nhiều năm tới nông nghiệp, nông thôn vẫn là địa bàn quan trọng của cách mạng nước ta và tỉnh Hà Tĩnh. Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, trong cơ chế thị trường, kinh tế nông nghiệp, nông thôn Hà Tĩnh phải có bước phát triển theo hướng hiện đại hóa nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh phải tự khẳng định mình, đứng vững trong cạnh tranh, hội nhập và phân công lao động trong nước và quốc tế.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những giải pháp mong muốn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh, tạo điều kiện cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh phát huy những phẩm chất, những truyền thống tốt đẹp của con người Hà Tĩnh vào sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung.
Danh mục tài liệu tham khảo
Phạm Ngọc Anh (1999), "Các giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn", Nghiên cứu lý luận, (7), tr.19.
Lê Văn Bảnh (2003), "Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn", Lao động và Xã hội, (259), tr.14.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1998), Ngành nghề nông thôn ở Việt Nam. NXB Lao động và Xã hội.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2001), Báo cáo sử dụng kết quả điều tra lao động - việc làm hàng năm để xây dựng chính sách giải quyết việc làm.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2002), Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 2001.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2003), Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 2002.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2004), Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 2003.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2005), Số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam 2004.
Bộ Lao động Thương binh và xã hội (2006), Báo cáo kết quả điều tra lao động việc làm 1-7-2005.
Bộ luật Lao động Nước CHXHCN Việt Nam (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngô Đức Cát (2005), "Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và ảnh hưởng của nó tới lao động nông nghiệp", Tạp chí Kinh tế và phát triển.
Chủ nghĩa cộng sản khoa học - Từ điển (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội
Nguyễn Sinh Cúc (2002), "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (14), tr.43.
Cục Thống kê Hà Tĩnh, Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh năm 2001 -2005.
Nguyễn Hữu Dũng - Trần Hữu Trung (1997), Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Dũng (2000), "Về chiến lược an toàn việc làm trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước", Lao động và Xã hội tết Canh Thìn, tr.22.
Trần Đình Đàn (2002), Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đảng bộ Hà Tĩnh (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh lần thứ XVI, Hà Tĩnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Thị ái Đức (2004), Việc làm cho lao động nữ ở Hà Tĩnh hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Hà Nội.
Nguyễn Thị Hằng (2003), "Đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo", Tạp chí Cộng sản, (4+5).
Nguyễn Xuân Khoát (1996), Lao động ở nông thôn nước ta hiện nay và những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động đó, Luận án phó tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Tú Lan (2001), Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Dương Đức Lân (2005), "Về dự án thí điểm dạy nghề cho lao động nông thôn", Lao động và Xã hội, (259), tr.3.
V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập III, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác (1984), Tư bản, T.1, Q.1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác (1963), Tư bản, T.2, Q.1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác (1973), Tư bản, T.3, Q.1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Huyền Ngân (2005), "Thái Bình tăng tốc giải quyết việc làm", Thời báo Kinh tế Việt Nam, (153).
Hoàng Kim Ngọc (2003), "Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn", Lao động và Xã hội, (209), tr.26.
Park S.S (1992), Tăng trưởng và phát triển tổng sản phẩm vật chất và chiến lược về lao động, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm Thông tin tư liệu, Hà Nội.
Vũ Văn Phúc (2005), "Giải quyết việc làm và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực lao động nông thôn Việt Nam hiện nay", Tạp chí Kinh tế châu á - Thái Bình Dương, (42), tr.14.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2005), Báo cáo tổng quan tình hình nông nghiệp thời kỳ 2001 -2005 và phương hướng nhiệm vụ phát triển nông nghiệp nông thôn đến năm 2010.
Sở Lao động Thương binh và xã hội Hà Tĩnh (2005), Báo cáo kết quả thực hiện xoá đói giảm nghèo - việc làm, đào tạo nghề 2005 và phương hướng nhiệm vụ thời gian tới.
Sở Lao động Thương binh và xã hội Hà Tĩnh (2005), Báo cáo trình Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI về công tác đào tạo nghề.
Sở Lao động Thương binh và xã hội (2005), Báo cáo tổng kết thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn Hà Tĩnh (2001-2005).
Sở Lao động, Thương binh và xã hội tỉnh Nghệ An, Báo cáo tổng kết công tác xoá đói giảm nghèo và việc làm 2001 -2005.
Tô Văn Sông (2001), "Phát huy nguồn lực nông dân trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn", Tạp chí Lý luận, tr.34.
Vũ Đình Thắng (2002), "Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn", Tạp chí kinh tế và phát triển, tr.21.
Phạm Quý Thọ (2003), Thị trường lao động Việt Nam- Thực trạng và giải pháp phát triển, Nxb Lao động - Xã hội.
Thái Ngọc Tịnh (2002), "Khai thác tiềm năng hải sản nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ven biển Hà Tĩnh", Tạp chí Lao động và Xã hội, (185), tr.8.
Đỗ Thế Tùng (2002), "ảnh hưởng một nền kinh tế trí thức tới vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Lao động và Công đoàn, (6).
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1996), Phương hướng cơ bản về quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh thời kỳ 1996 - 2010.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2001), Báo cáo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tỉnh Hà Tĩnh đến 2010 và đề án chuyển đổí sử dụng đất nông nghiệp.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2003), Hà Tĩnh thế và lực mới - Thế kỷ XXI, Hà Tĩnh.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2005), Báo cáo tổng kết thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh.
._.