Vị từ gây khiến trong tiếng Việt

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN VỊ TỪ GÂY KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : LÝ LUẬN NGÔN NGỮ Mã số : 60 – 22 – 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học : TS. TRẦN HOÀNG Tp. Hồ Chí Minh, năm 2007 LỜI NÓI ĐẦU Đây là kết quả nghiên cứu khoa học của chúng tôi sau ba năm Cao học. Để có được luận văn này, chúng tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với TS Trần Hoàng, người đã dành nhiều t

pdf72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1949 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vị từ gây khiến trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời gian, công sức hướng dẫn chúng tôi từ những bước đầu khó khăn cho đến khi chúng tôi hoàn thành công việc nghiên cứu của mình. Bên cạnh đó, trong thời gian qua, thầy cũng là người giúp đỡ và động viên chúng tôi về mọi mặt. Chúng tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các Giáo sư, quý thầy cô Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh (đặc biệt là các giáo sư, giảng viên của Khoa Ngữ văn), các Giáo sư, quý thầy cô Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các Giáo sư, quý thầy cô Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cùng quí thầy cơ trong những năm qua đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ và góp những ý kiến quý báu cho chúng tôi. Người viết cũng xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh và Phòng Khoa học Công nghệ – Sau Đại học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong quá trình học tập và làm luận văn. Xin cảm ơn gia đình, anh chị em đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ và giúp đỡ chúng tôi hoàn thành luận văn này. Người viết rất mong nhận được từ phía người đọc sự lượng thứ cho những sai sót mà luận văn mắc phải và những ý kiến đóng góp để chúng tôi tiếp tục bổ sung đề tài nghiên cứu của mình. DẪN NHẬP 0.1 Lý do chọn đề tài: Thuật ngữ vị từ gần đây không còn xa lạ đối với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học. Ngay cả với những người “ngoại đạo” về ngôn ngữ học, nó cũng dần trở nên quen thuộc. Những nghiên cứu về hoạt động của vị từ trong các ngôn ngữ tự nhiên nói chung không còn là một vấn đề mới mẻ. Người ta đã miêu tả và phân tích tương đối kỹ lưỡng về vị từ trong nhiều công trình ngôn ngữ khác nhau. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vị từ của các nhà ngôn ngữ học như: Dik.S [52], Emeneau [53], Halliday [54], Lyons J [56], [57]…Và cũng có không ít những công trình nghiên cứu đề cập tới vị từ ( động từ ) tiếng Việt như công trình của Lê Cận, Phan Thiều [5], Đinh Văn Đức [8], Cao Xuân Hạo [9], [10], [11], Nguyễn Văn Hiệp – Nguyễn Minh Thuyết [13], Nguyễn Thị Quy [33], [34]………Điều đó chứng tỏ đây quả là một đối tượng khá hấp dẫn. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là những vấn đề liên quan đến vị từ đã được cày xới kỹ lưỡng. Nhiều vấn đề phức tạp và lí thú về vị tư nói chung và vị từ gây khiến nói riêng vẫn đang còn được tranh luận. Chẳng hạn về khái niệm “ động từ” và “tính từ”, các tiêu chí phân loại vị tư…Đa số các công trình ma chúng tôi đề cập trên, nhìn chung, tuy đã nghiên cứu một cách tương đối bao quát các vị tư tiếng Việt nhưng chưa tập trung tìm hiểu một cách đầy đủ và chi tiết từng tiểu loại để phân tích và giải thích nghĩa của chúng. Ngay đến công trình “ Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó” của tác giả Nguyễn Thị Quy, được xem là tác phẩm nghiên cứu khá sâu sắc về vị từ hành động trong tiếng Việt cũng chưa nêu lên những vấn đề cụ thể về vị từ gây khiến. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn cho mình công việc đi sâu vào tìm hiểu đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ pháp của loại vị từ gây khiến này với hy vọng có thể đóng góp những suy nghĩ và cứ liệu của mình về một số vấn đề lý luận liên quan đến việc miêu tả cấu trúc vị ngữ của câu tiếng Việt, mà trong đó vị từ gây khiến giữ một vai trò quan trọng. Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi cũng có mong muốn cung cấp một số ngữ liệu cụ thể cho việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài cũng như việc dạy tiếng Anh cho người Việt. 0.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Từ những công trình nghiên cứu về tiếng Việt đã được xuất bản có liên quan đến vấn đề vị tư, chúng tôi tạm khái quát thành hai xu hướng nghiên cứu chính: Xu hướng thứ nhất là của các tác giả vốn không quan tâm đến vị tư gây khiến. Các giả đầu tiên thuộc nhóm này là Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm. Trong “Việt Nam văn phạm”, (1950). Các tác giả đã dựa vào hình thức ngữ âm để phân loại động từ và đưa ra danh sách động từ như sau: Động từ đơn: là những tiếng động từ do một tiếng tạo nên, biểu diễn một việc gì đó: nói, cười,ăn, uống, nghỉ… Nhưng khi phân loại động từ ghép, các tác giả trên lại căn cứ vào nghĩa của từng tiếng để tiếp tục phân thành những bậc thấp hơn. Động từ ghép: là những tiếng động từ do hai tiếng tạo thành và có thể được chia thành nhiều loại nhỏ hơn: - Động từ do hai tiếng có nghĩa riêng ghép với nhau thành một nghĩa: bẩm báo, bênh vực, buôn bán, dom ngó, nói cười… - Động từ do hai tiếng ghép lại với nhau mà tiếng sau có công dụng là làm trọn nghĩa cho tiếng đứng trước: bán rao, đánh lừa, hỏi thăm, làm quan… - Động từ do một tiếng động từ ghép với một tiếng danh từ ( ở đây tác giả lại dựa trên phương diện từ loại của từng yếu tố cấu tạo để phân loại ): biết ơn, đánh giá, đánh bạc, đánh hơi, làm việc… - Động từ do một tiếng động từ ghép với một tiếng đệm đặt sau: bàn bạc, bắt bớ, gặp gỡ… - Động từ do hai tiếng không có nghĩa ghép lại với nhau: ăn năn, cằn nhằn, chiêm bao, mà cả, phàn nàn… Trước hết, các tác giả trên đã dựa vào hình thức ngữ âm để phân loại động từ và đưa ra danh sách động từ nhưng khi phân loại động từ ghép, họ lại căn cứ vào nghĩa của từng tiếng để tiếp tục phân thành những bậc thấp hơn. Bên cạnh đó, khi xét toàn bộ danh sách động từ đã được liệt kê chúng tôi cũng tuyệt nhiên không thấy các tác giả nhắc đến vị từ gây khiến. Vì thế, việc phân loại vị từ như trên vừa không đảm bảo tính nhất quán vừa không bao quát được hết các tiểu loại vị từ. Người tiếp theo mà chúng tôi muốn nhắc đến là học giả Lê Văn Lý vì trong cuốn “Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam”, (1972) ông đã phân loại “Tự ngữ Việt Nam” thành 6 loại như sau: Loại A: danh tự Loại B: Động tự Loại B’: Tính tự Loại C: C1: Ngôi tự C2: Số tự C3: Phụ tự Những từ được xếp vào trong loại B theo ông phải: - Có thể có những “ngôi tự” ( đại từ nhân xưng ), đứng trước: tôi viết, mày học, nó chơi… - Có thể có những ngữ vị phủ định đi sau: đi không?Về chưa? - Có một trong những “tự ngữ” sau đây đứng trước: đang , đương, vẫn, vốn, đã, sẽ, sắp… Tác giả còn bị chú thêm: đa số các tự ngữ của tiếng Việt đều thuộc về ba từ loại A, B và B’, còn các tự ngữ khác thuộc loại C. Như vậy, Lê Văn Lý cũng không quan tâm đến những tiểu loại nhỏ hơn của vị từ như vị từ gây khiến. Một tác giả khác thuộc trường phái miêu tả là M. B. Emeneau trong ấn phẩm “Studies in Vietnamese Grammar”, (1951), đã đưa ra một khuôn mẫu về trật tự của chuỗi động từ như sau: 1 2 3 4 sẽ đã chớ / đừng không / chẳng cũng chưa tự …. Từ bảng mẫu về trật tự của chuỗi động từ của M. B. Emeneau, chúng tôi thấy rằng trong quá trình nghiên cứu của mình, ông chỉ quan tâm đến việc phân tích một số vị từ cụ thể và so sánh chúng với vị từ tiếng Anh ( chẳng hạn: động từ “có” ( to have), động từ “làm” (to do), động từ “ cho” ( to give)…Ong chưa tiến hành phân định những loại nhỏ hơn trong nội bộ vị từ do đó việc vị từ gây khiến không được đề cập cũng là điều dễ hiểu. Còn tác giả Bùi Đức Tịnh trong “Văn phạm Việt Nam”, (1952) ông đã dựa vào phương diện ý nghĩa mà phân biệt động từ thành hai loại: Động tư viên ý ( ĐTVY ): Động từ không cần có “sự vật túc ngữ” (SVTN): Ví dụ: Tôi cười. ĐTVY Động từ khuyết ý ( ĐTKY ): Động từ phải có một “sự vật túc ngữ” mới đủ nghĩa. Ví dụ: Anh Giáp trồng rau. ĐTKY SVTN Ong còn lưu ý là một động từ có thể “viên ý” hay “khuyết ý” tuỳ từng trường hợp. Ví dụ: Tôi ăn cơm. (ăn: khuyết ý). Anh ấy ngủ, tôi ăn. (ăn: viên ý) [45, tr82]. Từ những tìm hiểu trên, chúng ta thấy rằng, tác giả này phân loại vị từ theo “ý” nhưng lại lấy hình thức, tức sự có mặt hay không có mặt của túc ngữ trong cấu trúc bề mặt, làm tiêu chuẩn. Do mắc phải những hạn chế đó nên ông cũng không có điều kiện quan tâm đến vị từ gây khiến. Cùng nhóm này còn có tập thể soạn giả, Uy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, quyển“ Ngữ pháp tiếng Việt”,(1983). Tác phẩm đã đưa ra kết quả phân loại động từ như sau: - Động từ ngoại động: làm, viết… - Động từ nội động: ngủ, tắm… - Động từ cảm nghĩ: nghe, tin, nhớ… - Động từ phương hướng: lên, xuống, ra, vào… - Động từ tồn tại: có, còn, mất, hết… - Động từ biến hóa: trở nên, trở thành… - Động từ ý chí: dám, muốn, toan… - Động từ tiếp thụ: bị, được, phải… - Động từ so sánh: bằng, thua, hơn… - Động từ là. Nhìn chung thì đây là một kết quả phân loại vị từ tương đối đầy đủ. Nhưng trong danh sách khá dài các vị từ được liệt kê, chúng tôi điểm thấy không có mặt các vị từ gây khiến. Họ đã không gọi tên vị từ gây khiến một cách minh bạch và do đó, vị từ gây khiến cũng không có tư cách là một tiểu loại của vị từ hành động. Nhìn bao quát danh sách động từ mà các tác giả trên nêu ra, chúng tôi nhận thấy không có mặt vị từ gây khiến. Qua đó chứng tỏ, các tác giả này khi phân loại động từ đã bỏ qua một loại vị từ có số lượng khá lớn và được sử dụng tương đối phổ biến trong giao tiếp hằng ngày như vị từ gây khiến. Điều này thật là đáng tiếc. Xu hướng thứ hai là của các tác giả có đề cập đến các vị từ gây khiến, tức là thừa nhận có sự tồn tại của vị từ gây khiến. Tuy nhiên, ở mỗi tác giả, chúng tôi lại tìm thấy một cách xác định khác nhau về vị từ gây khiến. Theo xu hướng này có các tác giả: Lê Biên, Nguyễn Kim Thản, Đinh Văn Đức, Hoàng Văn Thung – Lê A, Lê Cận – Phan Thiều, Nguyễn Thị Quy. Các tác giả thuộc Tủ sách Đại học Sư phạm với “Giáo trình tiếng Việt” (1976) cho rằng: Những động từ gây khiến ( ĐTGK ) biểu thị ý thúc đẩy đối tượng hoàn thành hay tiếp tục một hoạt động khác như: khiến cho, làm cho, bắt, buộc… Về ngữ pháp, nhóm động từ này bị chi phối bởi hai bổ ngữ, một bổ ngữ chỉ đối tượng ( BNĐT ) và một bổ ngữ phụ tiếp ( BNPT ), bổ ngữ đối tượng biểu thị yêu cầu hoặc nội dung, mục đích của động từ chính. Ví dụ: Bộ đội tấn công vào đồn buộc địch đầu hàng. ĐTGK BNĐT BNPT Nguyễn Kim Thản, tác giả của chuyên luận “Động từ trong tiếng Việt”, (1977) đã có được một sự nghiên cứu khá công phu dành cho vị từ gây khiến. Ong viết: “ Động từ gây khiến biểu thị những hoạt động thúc đẩy, cho phép, giúp đỡ hay cản trở sự thực hiện của những hành động khác”. Chúng gồm: bảo, bắt, buộc, bắt buộc, cản trở, cho phép, cổ vũ, cưỡng bức, cưỡng ép, dạy, dẫn, dắt, dìu, dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cần, giục, gọi, giúp đỡ, khuyên nhủ, khuyên răn, khuyên bảo, khuyến khích, lãnh đạo, mời, nài nỉ, nài ép, thuyết phục, yêu cầu, ra lệnh… Tuy nhiên, cuối cùng thì tác giả này cũng coi vị từ gây khiến và vị từ cầu khiến là một. Nằm trong xu hướng trên nhưng hai tác giả Lê Cận, Phan Thiều ơ “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt” (tập 1), (1983), trình bày cụ thể hơn. Hai ông cho rằng: động từ gây khiến là lớp nhỏ của động từ, biểu thị những hoạt động cho phép, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những hoạt động khác nhau. Ví dụ: Nhà trường cho phép học sinh nghỉ học. VTGK Cũng theo hai ông thì lớp động từ gây khiến thường chịu sự chi phối của hai bổ tố: một bổ tố chỉ đối tượng nhận sự chi phối của hoạt động gây khiến tức là nhận sự ngăn cản, cho phép hay giúp đỡ của chủ thể, do danh từ (DT) đảm nhiệm; một bổ tố do động từ (ĐT) đảm nhiệm, chỉ kết quả của hoạt động gây khiến tức là kết quả của sự giúp đỡ, cho phép hay cản trở. Khi đó, chúng ta có một trật tự cố định như sau: Ví dụ: Cha khuyên con đọc sách. ĐTGK DT chỉ đối tượng ĐT làm bổ tố Và họ đưa ra các đơn vị của động từ gây khiến là: cấm, cho phép, ép, mời, khuyên, bảo… Như vậy, có lẽ vì kế thừa những nghiên cứu những công trình đi trước nên ở công trình này, tác giả đã và có những trình bày sâu sắc hơn về vị từ gây khiến. Song chung quy lại, thì giáo trình của Lê Cận, Phan Thiều vẫn giữ quan điểm của những tác giả đi trước, nghĩa là nhâp hai tiểu loại vị từ gây khiến và cầu khiến thành động từ gây khiến dù giữa chúng có nhiều điểm rất khác biệt.. Một tác giả tương khác đồng quan điểm với Nguyễn Kim Thản là Đinh Văn Đức. Trong công trình nghiên cứu “Ngữ pháp tiếng Việt – Từ loại”, (1986) đã bày tỏ quan điểm tương tự như Nguyễn Kim Thản. Ong cũng cho rằng vị từ gây khiến và vị từ cầu khiến là một. Đến“Ngữ pháp tiếng Việt” (1995) của hai tác giả Hoàng Văn Thung và Lê A thì vị từ gây khiến đã được quan tâm nhưng chúng chưa được tách thành một tiểu loại riêng. Trong quá trình phan loại động từ tiếng Việt, hai ông nêu ra danh sách động từ với các cách phân loại khác nhau: - Động từ độc lập và động từ không độc lập. - Động từ chỉ hành động và trạng thái  Tư thế, động tác cơ thể: đứng, nằm, ngồi, co, duỗi…  Trạng thái tâm lý: nghỉ ngơi, hồi hộp…  Hành động: ăn, đánh, xây dựng…  Chuyển động có hướng: ra, vào, lên, xuống…  Hoạt động cho nhận: cho, tặng, lấy…  Cấu khiến: mời, sai, khuyên, bảo…  Hoạt động kết nối: buộc, pha, trộn…  Đánh giá, xem xét: bầu, gọi ,xem, coi…  Cảm nghĩ: biết, thấy, nói, nghĩ… Còn tác giả Lê Biên trong “Từ loại tiếng Việt hiện đại”, (1999) đã trình bày xác định khái niệm “động từ gây khiến” (ĐTGK) như sau: “ Động từ gây khiến là những động từ vận động có tác động gây khiến, chi phối hoạt động của đối tượng”. Ví dụ: (1) Con học giỏi khiến ba mẹ vui lòng. ĐTGK (2) Sản xuất lúa gạo tăng làm cho mọi người phấn khởi. ĐTGK (3) Mọi người đề nghị chị Lan hát. ĐTGK Trong khi liệt kê các động từ gây khiến, tác giả Lê Biên đã đề cập đến hai loại vị từ: làm cho, khiến cho, khiến… và bắt, buộc, đề nghị…Thực tế thì ở đây có đến hai nhóm vị từ khác nhau vị từ gây khiến và vị từ cầu khiến. Ong đã không nêu lên một nhận thức nào về sự đối lập giữa vị tư gây khiến với vị tư cầu khiến nên đã xảy ra trường hợp nhập các vị tư cầu khiến vào vị từ gây khiến. Rõ ràng các tác giả của công trình trên trong khi nêu quan điểm về vị từ gây khiến đã không phân định được sự khác biệt giữa vị từ gây khiến và vị từ cầu khiến trong khi hai loại vị từ này có nhiều điểm rất khác nhau cả về hình thức lẫn nội dung như chúng tôi sẽ trình bày ở những chương sau. Do đó, mặc dù đã đưa ra một danh sách khá dài các vị từ, nhưng trong danh sách đó, cũng như các tác giả của các chuyên luận đi trước, họ không xác định vị từ gây khiến với tư cách là một tiểu loại của vị từ hành động. Tác giả cuối cùng mà chúng tôi muốn nhắc đến là Nguyễn Thị Quy. Có thể nói cho đến thời điểm hiện nay, thì bà là người trình bày chi tiết hơn cả về vị từ hành động. Trong khi thực hiện chuyên luận “ Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó”, tác giả này đã vận dụng những thành tựu của Ngữ pháp chức năng vào nghiên cứu vị từ tiếng Việt và phân loại chúng như sau: Tiêu chí phân loại [±TÁC ĐỘNG] Vị từ Tiêu chí phân loại: DIỄN TRỊ Chuyển động Chạy, bay, bước, bò… Hành thể [- M ục tiê u] Ứng xử Cười, khóc… Đương thể 1 diễn tố V ô tác (=bất cập vật) + Di chuyển Đến, vào, rời, qua… T Á C ĐỘ N G ] [+ M ục tiê u] - Di chuyển Nhìn, quan sát, đọc… Hành thể, mục tiêu Vật chất: sản phẩm Làm, xây, đóng, vẽ.. Tác thể, sản phẩm Tác tạo đối tượng Tinh thần: nhận thức – phát ngôn Nghĩ, khẳng định, nói… Tác thể, điều ý/ lời Hủy diệt Huỷ, phá, bỏ, giết… Vật chất Bẻ, nấu, đánh… Chuyển trạng thái Tinh thần Dọa, trêu, mắng.. Tác thể, bị thể/ đương thể [+ T Á C ĐỘ N G ] Là m c ho đố i t ượ ng bi ến ch uy ển n v [-Mục Đv. Chủ thể Cầm, mang, lấy, Tác thể, đương thể 2 diễn tố C huyển tác (= cập vật/ ngoại động) buông… tiêu] Đv. Vị trí (chuyển động) Đẩy, dắt, chăn, thả… Đv. Chủ thể và nhận thể Gửi, cho, chuyển… Tác thể, đương thể, nhận thể [+Mục tiêu] Đv. Vị trí cũ và đích Đút, đặt, lắp… Tác thể, đương thể, đích Cầu khiến Sai, ra lệnh, yêu cầu Tác thể, đương thể, hành động 3 diễn tố [ 34, trang 148 ] Như vậy, theo tác giả Nguyễn Thị Quy, vị từ gây khiến là một tiểu loại của vị từ hành động. Nó được xếp vào nhóm các vị từ biểu thị những hành động làm cho đối tượng biến đổi trạng thái vật chất. Quan điểm của chúng tôi khi xác định vị từ gây khiến cũng đi theo hướng này. 0.3 Phạm vi nghiên cứu: Chúng ta đều biết rằng, ngữ vị từ là loại ngữ đoạn chuyên thể hiện nội dung sự kiện và có ưu thế cú pháp nhất để giữ vai trò của phấn thuyết trong câu. Chúng có thể được xem là những phần thuyết điển hình thế nhưng việc miêu tả cấu trúc vị ngữ cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện. Vị từ là một thành tố quan trọng trong cấu trúc vị ngư, nếu chúng ta khảo sát cụ thể và kĩ lưỡng chúng sẽ phát hiện những tiền đề quan trọng cho việc nghiên cứu và miêu tả cấu trúc vị ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên, vì những lý do chủ quan và khách quan, trong công trình này, chúng tôi chỉ xin được giới hạn việc tìm hiểu ở vị từ gây khiến tiếng Việt, một tiểu loại rất quan trọng trong ngữ vị từ hành động tiếng Việt. Cụ thể là chúng tôi tập trung khảo sát các vị từ gây khiến trên hai phương diện ngữ nghĩa và ngữ pháp, đi vào phân loại, lập danh sách, mô tả các qui tắc kết hợp của các vị từ gây khiến dựa trên ngôn liệu trong tiếng Việt, nhằm giúp người sử dụng tiếng Việt khi giao tiếp tránh được những sai sót không đáng có. Chúng tôi cũng xin được phép hạn định phạm vi nghiên cứu ở các ngữ vị từ gây khiến mà chỉ gồm một vị từ (vị từ đơn), các vị từ ít dùng hoặc chỉ được tìm thấy trong những văn bản cổ, chúng tôi tạm thời chưa xem xét. Cũng trong luận văn này, chúng tôi cũng tiến hành nghiên cứu sự hoạt động của các vị từ gây khiến ở một số tác phẩm văn học đang được giảng dạy trong nhà trường phổ thông hiện nay. 0.4 Phương pháp nghiên cứu: Khi thực hiện nội dung nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định cho mình phương hướng nghiên cứu là đi từ nội dung đến hình thức nói cách khác là đi từ ý nghĩa đến cấu trúc của các kết cấu gây khiến. Vì vị từ gây khiến là một vấn đề thiên về nghĩa học và mục tiêu chính của luận văn là tìm ra những đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ pháp của chúng nên chúng tôi chọn cách tiếp cận đối tượng dưới quan điểm của Ngữ pháp chức năng, trong đó ngôn ngữ được nghiên cứu như một hệ thống ý nghĩa được nhận thức bằng các hình thức mà qua đó các ý nghĩa được hiện thực hóa. Cụ thể là luôn có sự phân biệt một cách rạch ròi ba bình diện: Cú pháp – Nghĩa học – Dụng pháp. Cách làm đó không ngoài mục đích là tránh việc xem các dấu hiệu hình thức của đối tượng là mục tiêu nghiên cứu mà chỉ xem các dấu hiệu hình thức đó là một mắc xích trung gian để phát hiện và xác định các đặc trưng của vị từ gây khiến. Và chúng tôi sẽ sử dụng đặc trưng của bình diện này để lý giải nguyên do tồn tại của các đặc trưng ở các bình diện còn lại. Về mặt phương pháp, luận văn đã sử dụng những phương pháp cụ thể sau: 1. Phương pháp phân bố: Vì tiếng Việt là một trong những ngôn ngữ đơn lập nên đặc điểm ngữ pháp của từ sẽ bộc lộ rõ trong cách phân bố. Chính qua việc quan sát cách phân bố của từ trên trục kết hợp, chúng ta có thể rút ra những quy tắc ngữ pháp đúng với thực tế sử dụng của tiếng Việt. 2. Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng để tìm ra sự khác biệt cũng như tương đồng trong đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp giữa vị từ gây khiến với các vị từ hành động khác. 3. Phương pháp thống kê: Trong khi làm việc với các nguồn ngữ liệu cụ thể ( các tác phẩm văn học được trích dẫn trong sách giáo khoa lớp 10, 11, 12 hiện hành), luận văn đã dùng phương pháp này với mục đích tìm hiểu mức độ nhận thức của người Việt trong việc sử dụng các vị từ gây khiến. 4. Phương pháp miêu tả: Dụng ý của chúng tôi khi sử dụng phương pháp này là làm rõ những đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của vị từ gây khiến thông qua việc phân tích các ngữ liệu. 5. Phương pháp cải biến, tỉnh lược, chêm xen: Thông qua những phương pháp này, chúng ta sẽ xác định được các thành phần trong cấu trúc cú pháp cũng như xác định vai trò của các tham tố trong cấu trúc nghĩa của vị từ đang xét. Về mặt tài liệu, chúng tôi chủ yếu tham khảo các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước như: “ Động từ trong tiếng Việt” (Nguyễn Kim Thản), “Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng – Q1” (Cao Xuân Hạo), “ Vị từ hành động tiếng Việt và các tham tố của nó” (Nguyễn Thị Quy), “Lý thuyết trật tự từ trong cú pháp” (Lý Toàn Thắng)... và một số giáo trình của các tác giả nước ngoài như: “Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar”( Emeneau), “An introduction to Functional Grammar” (Halliday), “Semantics”( Lyons), “A Vietnamese Grammar”(Thompson), “Semantics Primes and Universals” ( Wierzbicka, Anna) …liên quan đến đề tài mà chung tôi sưu tầm được. Về ngữ liệu, chúng tôi thu thập chủ yếu từ việc quan sát cách sử dụng ngôn ngữ tự nhiên của người Việt, hoặc trích dẫn từ các tác phẩm văn học, báo chí và các tư liệu từ các Từ điển tiếng Việt. 0.5 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Trước hết, về mặt lý luận, chúng tôi nghĩ rằng việc làm của mình là cần thiết. Bởi các sách giáo khoa Ngữ văn ở các trường phổ thông hiện nay chỉ mới có những miêu tả cụ thể về cấu trúc cú pháp cơ bản của câu và miêu tả cấu trúc danh ngữ còn việc mô tả cấu trúc ngữ vị từ thì hầu như vẫn còn bỏ ngõ. Những quy tắc ngữ pháp cụ thể để miêu tả những cách kết cấu khác nhau của các ngữ đoạn vị từ, đặc biệt là những ngữ đoạn phức hợp có những chuỗi vị từ xen với các loại bổ ngữ khác nhau đang rất cần được xem xét. Vì vậy, đề tài này của chúng tôi sẽ làm rõ được một số vấn đề lí thuyết liên quan đến viêc miêu tả cấu trúc vị ngữ của câu tiếng Việt, mà trong đó các vị từ gây khiến giữ vai trò quan trọng. Công việc tiếp theo của chúng tôi là lần lượt khảo sát các vị từ gây khiến cụ thể để phát hiện các đặc điểm ngữ nghĩa, chỉ ra tầm quan yếu của chúng trong cấu trúc ngữ nghĩa của câu tiếng Việt, xác định cương vị cú pháp của chúng trong cấu trúc câu. Chúng tôi cũng tìm cách phân định ranh giới giữa các vị từ gây khiến với các vị từ hành động khác. Sau đó, chúng tôi cố gắng đề ra một số quy tắc có thể giúp người học tiếng Việt nắm được cách dùng vị từ gây khiến khi đặt câu, viết văn. Cuối cùng chúng tôi đưa ra danh sách các vị từ gây khiến ( ở mức độ tương đối đầy đủ và chính xác ) với mong muốn dựa vào đó các em học sinh ( đặc biệt là học sinh trung học cơ sở ) có một cái nhìn vừa bao quát vừa cụ thể về vị từ gây khiến. Về mặt thực tiễn, chúng tôi hi vọng rằng những kết quả nghiên cứu của mình có thể là một đóng góp hữu ích cho những người biên soạn sách giáo khoa, cũng như cho những người dạy tiếng Việt cho người Việt hay cho người nước ngoài. 0.6 Cấu trúc luận văn: Ngoài phần Dẫn nhập và phần Kết luận, nội dung chính của luận văn được trình bày trong hai chương: Chương I: Những vấn đề hữu quan. Trong chương này, chúng tôi trình bày tương đối chi tiết những khái niệm cơ bản liên quan đến vị từ hành động. Những tri thức này chính là nền tảng để chúng tôi đi vào nghiên cứu những vấn đề cụ thể liên quan đến vị từ gây khiến. Chương II: Đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ pháp của vị từ gây khiến tiếng Việt. Đây là phần mang nội dung nghiên cứu chính của luận văn. Trong chương này, chúng tôi tiến hành đối chiếu những sự khác biệt về mặt ngữ nghĩa giữa vị từ gây khiến với các vị từ hành động khác để từ đó có thể tìm ra những đặc trưng ngữ nghĩa riêng của vị từ gây khiến. Đồng thời, luận văn cũng đi vào tìm hiểu những đặc điểm về mặt ngữ pháp của vị từ gây khiến ( chủ yếu là ở khả năng kết hợp và khả năng tham gia làm thành phần câu ). Tóm lại, ở chương hai này, chúng tôi cố gắng phát thảo một bức tranh toàn cảnh về đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ pháp của vị từ gây khiến. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ HỮU QUAN 1.1 Vị từ: Theo tác giả Nguyễn Thị Quy, trong giao tiếp hằng ngày, chúng ta thường trao đổi với nhau về vô số sự thể: một hành động của một ai đó, tình trạng sức khoẻ của một người nào đó, một hiện tượng xã hội tích cực (hoặc tiêu cực) đang trở nên phổ biến, sự đánh giá về một tác phẩm nghệ thuật, sự nhận định về một cơ hội kinh tế của đất nước…Tất cả các sự thể trên, chúng đều có thể được phân tích thành hai bộ phận: - Nội dung của sự thể: Hành động (làm gì?), trạng thái (ra sao?), phẩm chất (tốt hay xấu?), quan hệ (hơn hay thua?, có trước hay có sau?), - Những người hay vật nào tham gia vào sự thể? Và trong câu nói, phần nội dung của sự thể thường được biểu hiện bằng một vị từ hoặc ngữ vị từ), còn người / vật tham gia vào sự thể (tham tố) thường được biểu hiện bằng những danh từ (hoặc ngữ danh từ). Chẳng hạn: trong một sự thể có nội dung là “bay” thì đối tượng duy nhất có sự thay đổi chính là chủ thể hành động, hoặc khi nói đến sự thể có nội dung là “làm cho không hiện diện ở một nơi, hoặc một cương vị nào đó” thì hành động này phải được hai nhân vật tham gia mới thành được (người thực hiện hành động và đối tượng bị tác động). Tương tự, đối với sự thể “một cuộc cải cách” thì cần phải có ít nhất hai tham tố (người cải cách và việc được cải cách). Trong khi đó, các vị từ cho, gửi, biếu, tặng…lại cần đến ba tham tố (người cho/gửi, người nhận và đối tượng được đem cho/gửi). Những vấn đề như Nguyễn Thị Quy nêu ra đã chỉ rõ một điều thú vị răng: nghĩa của vị từ qui định cái khung cho những tham tố có mặt trong sự thể và do đó chúng cũng là “linh hồn ngữ nghĩa” của toàn câu, có tác dụng quyết định đối với cấu tạo ngữ pháp của câu. Chính chúng mới là trung tâm ngữ đoạn. Những điều vừa trình bày trên không có gì xa lạ và khó hiểu khi mà trong thực tế chúng là phổ niệm. Lúc này, chúng ta có thể mạnh dạn đưa ra một mô hình chung cho một vị ngữ như sau: V Vị từ (hành động tác động) S O1 O2 Chủ thể hành động tác động đối thể thể thụ hưởng Thế nên nếu ngữ vị từ biểu hiện nội dung của sự tình thì vị từ biểu thị cái lõi của sự tình. Vị từ là loại thực từ có thể làm trung tâm một ngữ vị từ. Tuy nhiên, khi kết luận như trên về vị từ không có nghĩa là chúng ta phủ nhận quan điểm: chức năng biểu hiện nội dung của sự thể không phải chỉ do vị từ đảm nhiệm nhưng chúng ta có quyền phát biểu rằng: những câu có vị từ làm trung tâm cho phần thuyết là loại câu có số lượng áp đảo và có tần số xuất hiện cao nhất so với các loại câu khác và đã được kiểm chứng thông qua việc khảo sát các văn bản văn học [ Sách giáo khoa 10, 11, 12]. Điều này một lần nữa khẳng định chức năng tiêu biểu nhất của vị từ là làm hạt nhân của vị ngữ hoặc tự nó làm thành một vị ngữ, biểu hiện nội dung một sự thể được phản ánh trong câu. Nói cách khác vị từ đóng vai trò là hạt nhân, quyết định khung ngữ nghĩa của câu. Tóm lại, vị từ là một từ có chức năng tự mình làm thành một vị ngữ hoặc một trung tâm ngữ pháp, làm hạt nhân ngữ nghĩa của một vị ngữ biểu hiện nội dung của sự thể. Vì chức năng cơ bản của vị từ là làm thành hoặc cấu tạo những ngữ đoạn phản ánh nội dung của sự thể nên về cơ bản chúng ta có thể đặt các sự thể trên trong hai sự đối lập: Sự đối lập về tính [±Động] (dynamism) và sự đối lập về tính [±Chủ ý] (control). Dựa theo sự phân biệt các sự thể như trên, S.C.Dik [ 52] đã đưa ra một cách phân loại sự thể và vị từ sau đây, được xem là có hiệu lực đối với mọi ngôn ngữ: SỰ TÌNH + Động - Động + Chủ ý Biến cố Tình thái - Chủ ý Hành động Tư thế Quá trình Trạng thái Ứng dụng cách phân loại sự thể và vị từ của S.C.Dik vào tiếng Việt, chúng ta thu được kết quả như sau: - Vị từ hành động [+động, -chủ ý]: rót, ném, cắt, chạy, nhảy, chào, ăn, uống… - Vị từ quá trình [+động, -chủ ý]: ngã, rơi, rụng, mọc… - Vị từ tư thế [-động, +chủ ý]: nằm, ngồi, đứng… - Vị từ trạng thái [-động, -chủ ý]: già, lớn, kĩ, thạo, chín… Trong đó, vị từ hành động là loại từ có số lượng phong phú và thường xuất hiện nhất trong cách nói của người Việt. 1.2 Vị từ hành động: 1.2.1 Khái niệm: Từ những thuộc tính ngữ nghĩa cú pháp đã được xác định như trên về vị từ, chúng tôi tâm đắc nhất với định nghĩa vị từ hành động của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Quy, trong công trình “Vị từ hành động tiếng Việt và các vị từ tham tố của nó”: “Vị từ hành động tiếng Việt là loại vị từ có đặc trưng: [+động, +chủ ý]”. 1.2.2. Phân loại vị từ hành động: 1.2.2.1. Phân loại vị từ hành động theo tiêu chí [± Tác động] Trước hết chúng ta cần thống nhất cách hiểu về từ “tác động”. “Tác động” đến một đối tượng có nghĩa là làm cho đối tượng đó thay đổi về một phương diện nào đó, chẳng hạn như thay đổi về tính chất, về trạng thái vật lí, thay đổi về vị trí trong không gian….Và cách hiểu về từ “tác động” cũng hoàn toàn khác với cách hiểu về từ “ảnh hưởng”. Bởi mọi sự thể diễn ra trong cuộc sống đều có thể có ảnh hưởng đến các sự vật xung quanh, chứ không riêng gì các hành động hay quá trình. Cho nên, để vấn đề trở nên rõ ràng hơn, chúng tôi đã xác định ranh giới nghĩa của từ “tác động” như sau: - Tác động là làm cho một đối tượng đang tồn tại có những biến đổi nhất định. - Tác động vào một đối tượng đang tồn tại, làm cho nó thôi không còn là nó nữa (tức là hủy diệt nó); hoặc ngược lại làm cho một vật vốn chưa tồn tại bắt đầu tồn tại, bằng cách sử dụng những nguyên liệu nhất định, những sức tạo tác nhất định. Chẳng hạn: xây, ra, vào, múa, chặt, bó, đấm, khoan, che, trộn, đào, bẻ, giần, băm, giã… Những sự phân biệt về ngữ nghĩa đi đôi với chức năng và thái độ cú pháp của các vị từ hành động của tác giả Nguyễn Thị Quy đã trình bày trong công trình của bà là khá thuyết phục. Vì vậy, chúng tôi có cùng ý kiến với bà khi phân chia vị từ hành động căn cứ vào tiêu chí [chuyển tác] và [vô tác]. Chuyển tác [+động, +chủ ý, +tác động] Vô tác [+động, +chủ ý, -tác động]. Với hai tiêu chí trên, chúng ta có thể chia vị từ hành động thành chín tiểu loại: 1) Vị từ hành động chuyển thái: giã, băm, cán, dùi, đốn, giần… 2) Vị từ hành động chuyển vị: bóc, cẩn, ép, đặt, ghép, khép, chêm, gác… 3) Vị từ hành động tạo tác: dệt, khắc, thêu, hầm, kẻ, đóng, nặn… 4) Vị từ hành động hủy diệt: hạ, khử, tẩy, trừ, xóa, bỏ, loại… 5) Vị từ hành động di chuyển: bay, vào, di cư, trèo, lánh, bò… 6) Vị từ hành động cử động: đứng, ngồi, quỳ, gật, nằm… 7) Vị từ hành động ứng xử: cười, ca cẩm, bao che, làu bàu, nể… 8) Vị từ hà._.nh động tri giác: đọc, đếm, nếm, nghe, ngửi, miêu tả… 9) Vị từ hành động cầu khiến: khuyên, giục, năn nỉ, khiến, dặn… 1.2.2.2 Phân loại vị từ hành động theo tiêu chí [ Diễn trị ]: Thuật ngữ tham tố (argument/ participant), từ lâu đã được Tesniere quan tâm trong khi ông nghiên cứu về cấu trúc câu. Bên cạnh đó, học giả Fillmore cũng sử dụng thuật ngữ này vào công trình nghiên cứu về quan hệ cách của mình. Trong công trình “ Dẫn luận ngữ pháp chức năng ”, M. Halliday khi xem xét cấu trúc ngữ nghĩa của các cú cũng đưa ra ba thành tố: (1) quá trình, (2) các tham tố trong quá trình và (3) các chu cảnh liên quan đến quá trình. Nhưng đáng kể hơn cả vẫn là những miêu tả sâu sắc của S.Dik về tham tố và phân loại các tham tố. Tác giả này cho rằng, các tham tố có thể phân thành diễn tố và chu tố (1981: 15, 26). Dù còn ít nhiều chỗ chưa thống nhất giữa các nhà nghiên cứu nhưng chúng ta vẫn có thể rút ra những nhận xét chung: Vị từ trong câu đóng vai trò trung tâm ngữ nghĩa và cú pháp. Vị từ tạo thành những cái nút (noeuds), cái khung (frame) từ đó các ngữ đoạn (terms) kết dính, chèn lấp vào để làm rõ, để xác định sự tình và hoàn chỉnh chức năng thông báo. Còn tham tố chính là các ngữ đoạn ấy. Các tham tố cùng với vị từ tạo thành nội dung ngữ nghĩa cho câu. Chính ý nghĩa của vị từ sẽ chi phối, quyết định đến số lượng tham tố và đặc tính ngữ nghĩa của tham tố. Vì vậy, tham tố của vị từ là những yếu tố tham gia cùng với vị từ tạo nên ý nghĩa của câu. Tham tố của một sự tình do một danh từ (ngữ danh từ) biểu hiện. Có hai loại tham tố: bắt buộc và không bắt buộc. Ví dụ 1: Bố tôi làm giám đốc ở công ty này. (1) (2) (3) Trong câu trên, trung tâm của vị ngữ là “làm”. Nó quy định cái khung của ngữ vị từ nghĩa là phải có ít nhất hai tham tố (1) và (2) tham gia vào cấu thành khung ngữ vị từ, còn tham tố (3) là tham tố không bắt buộc. Nếu người viết bỏ mất tham tố (2) thì câu trên sẽ thành: Bố tôi làm ở công ty này. (1) (3) Khi tiếp nhận câu này, người đọc sẽ không thỏa mãn về cả hai mặt nội dung thông tin và cấu tạo ngữ pháp. Bởi lẽ, “làm” là một vị từ đòi hỏi phải có tham tố biểu thị nội dung: làm gì?. Trái lại, nếu tham tố (3) không có mặt, nội dung thông báo vẫn được người đọc tiếp nhận một cách bình thường. Bố tôi làm giám đốc. (1) (2) Tuy nhiên, xem xét vấn đề này, chúng ta cũng không thể bỏ qua ngữ cảnh mà câu nói trên xuất hiện. Ví dụ 2: A: Bố anh làm giám đốc ở công ty nào? B: Bố tôi làm ở công ty này. Ơ ngữ cảnh trên, thông tin mà người nghe hướng tới là nơi mà “bố tôi” làm việc, cho nên dù tham tố (2) bị lược bỏ thì câu vẫn được tiếp nhận như một thông điệp trọn vẹn. Tóm lại, những tham tố bắt buộc phải có mặt để cái sự tình được biểu hiện trong câu có thể được thực hiện, đó là các diễn tố (actants). Ngược lại, chu tố lại là những tham tố không cần xuất hiện một cách đều đặn trong ngữ vị từ vì những vai nghĩa mà các tham tố ấy biểu hiện không nhất thiết phải có mặt để cho cái sự tình ấy được thực hiện. Đến đây, chúng ta có thể khẳng định: chu tố (tham tố không bắt buộc): là thành phần bổ sung cho vị ngữ hạt nhân, cùng với vị ngữ hạt nhân hợp thành vị ngữ mở rộng (tended predication). Còn diễn tố (tham tố bắt buộc) là tham tố cần yếu để tạo thành vị ngữ hạt nhân (nuclear predication). Và các diễn tố nằm trong vị ngữ hạt nhân được hình thành một cách tự nhiên trong suy nghĩ của người bản ngữ và được xem là những yếu tố không thể thiếu sự kết dính với nghĩa của vị từ. Ví dụ 3: Hắn phi tang bằng chứng. (1) (2) Vị từ “phi tang” sẽ buộc người nghe phải nghĩ tới những tham tố: (1) tác thể (ai phi tang), (2) bị thể (vật bị phi tang), Ví dụ 4: Nó trát xi măng lên tường. (1) (2) (3) Còn đối với một vị từ như vị từ “trát” thì các diễn tố sẽ là: (1) chủ thể chỉ người hành động, (2) đối tượng bị tác động (thay đổi hình dạng bên ngoài), (3) đối thể chỉ chất liệu được dùng để thực hiện sự thay đổi đó. Về chức năng ngữ nghĩa, các diễn tố sẽ tạo ra sự bổ nghĩa cụ thể, cần yếu để nghĩa của vị từ được hoàn chỉnh. Trong kết hợp với các loại vị từ cụ thể, các diễn tố thường đảm nhận một số vai nghĩa nhất định chẳng hạn như: tác thể cho vị từ hành động; nghiệm thể cho vị từ trạng thái… Tuy nhiên, một vị từ khi tham gia vào những cấu trúc khác nhau số lượng diễn tố có thể thay đổi . S. Dik (1985) đã nói đến ba mô hình cấu trúc liên quan đến việc rút gọn diễn trị, mở rộng diễn trị và chuyển đổi diễn trị [52,tr 2-27 ]. Và tùy theo hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp, một số diễn tố có thể không xuất hiện. Ví dụ 5: (Buổi trưa, taị khu tập thể, hai bạn Lan và Hùng gọi bạn Hương đi học) - Đi học đi! Ơ đây diễn tố “chúng mình” không được nói ra nhưng đặt vào ngữ cảnh trên, người nghe vẫn hiểu được “ Chúng mình đi học đi!” Ví dụ 6: A: Cô Nga có còn hay đi nhặt hoàng lan rơi nữa không? (1) (2) B: Vẫn nhặt đấy. Sự tình được gọi là “nhặt” đòi hỏi phải có các diễn tố: (1) chủ thể (ai “nhặt”), (2) đối tượng bị tác động (nhặt cái gì). Nhưng ở đây, diễn tố (1) và (2) bị lượt bỏ nhưng người nghe vẫn tiếp nhận thông tin một cách đầy đủ là nhờ ngữ cảnh. Khác với diễn tố, chu tố chỉ là những thành phần tùy ý trong cấu trúc vị ngữ và quan hệ lỏng lẻo với vị từ. Chu tố không có số lượng nhất định như các diễn tố. Các nghĩa chu tố được biểu hiện trong ngữ pháp thông qua các bổ ngữ, trạng ngữ nhưng có khi chu tố được biểu hiện trong đề. Ví dụ 7: Từ những năm 30, tác phẩm này đã xuất hiện trên văn đàn. Đề - Chu tố thời đoạn Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: mỗi vai nghĩa thường đóng vai trò nhất định (hoặc là chu tố hoặc là diễn tố) trong cấu trúc nghĩa của vị từ nghĩa là nó có thể là chu tố đối với vị từ này nhưng lại là diễn tố đối với vị từ khác. Ví dụ 8: (a) Tàu rời ga. Diễn tố (b) Nam chạy nhanh ra ga để kịp chuyến tàu. chu tố Xét hai ví dụ (a), “ ga” là diễn tố chỉ điểm xuất phát của vị từ “rời” nhưng lại là chu tố đối với vị từ “chạy”. Mỗi vi từ có một số lượng diễn tố riêng: có vị từ không có diễn tố, có vị từ có một diễn tố, có vị từ có hai diễn tố và có vị từ có ba diễn tố. Và số lượng diễn tố của một vị từ được gọi là diễn trị. Ví dụ 9: (a) Nam pha cà phê.. (1) (2) (b) Nó trát bùn lên mặt. (1) (2) (3) Trong một sự tình được gọi là “pha” như trên phải có: (1) người thực hiện hành động “pha” và (2) vật được “pha” nên ta nói từ “pha” có hai diễn trị. Còn trong sự tình được gọi là “trát” phải có: (1) người thực hiện hành động “trát”, (2) vật bị thực hiện hành động “trát” và (3) chất liệu được dùng để thực hiện hành động “ trát”. Do đó, từ “trát” có ba diễn trị. Căn cứ vào diễn trị (số lượng diễn tố) của các vị từ, có thể chia vị từ hành động thành các loại sau đây: Vị từ đơn trị (vị từ một diễn tố): Đặc trưng chung của các vị từ này là chỉ có một diễn tố– đối tượng duy nhất có sự thay đổi là chủ thể của hành động. Chúng ta có thể kể đến các vị từ sau: chạy, bay, nhảy, bò, trường, xông, nhào, lê, lăn, phi, bơi, lặn, lội, trèo, trượt, vọt, bước, tiến, lùi…ngữ pháp truyền thống gọi những vị từ này là “ Động từ nội động”, “ Nội động từ” hay “ Động từ bất cập vật”. Các vị từ này có thể có bổ ngữ trực tiếp hay gián tiếp nhưng các bổ ngữ đó không biểu hiện các diễn tố của vị từ trừ khi một vị từ nào đó được dùng với nghĩa phái sinh. Ví dụ 10: (a) Chị Bưởi bơi nhanh. (Diễn tố) (Chu tố) (b) Một người đầy tớ của quan Chánh chạy trước dẹp đường. (Diễn tố) (Chu tố) Vị từ song trị (vị từ hai diễn tố): Đây là những vị từ mà ngoài chủ thể ra còn có một diễn tố thứ hai, được biểu thị bằng một bổ ngữ trực tiếp, chỉ một vật hay một nơi được lấy làm mốc. Đặc trưng chung của chúng là trong hai diễn tố thì diễn tố nào cũng có khả năng làm đề và đều có thể bị tỉnh lược nếu ngữ cảnh cho phép. Thuộc nhóm những vị từ song trị này ta có những vị từ như: khâu, nhổ, múc, tạo, xây, dệt, giết, tẩy, trừ, chui, lánh, bám, cấu, nhồi, che, băm, đốn… Ví dụ 11: Mấy đứa trẻ nghịch ngợm này đánh con mèo của tôi. (Diễn tố 1) (Diễn tố 2) Vị từ tam trị (vị từ ba diễn tố): Các vị từ loại này luôn biểu hiện nội dung của những sự tình cần có sự tham gia của diễn tố: (1) Chủ thể tác động, (2) đối tượng bị tác động, (3) có thể là người nhận, đích, mục đích điều khiển (nếu là vị từ cầu khiến). Về phương diện nghĩa cũng như về phương diện ngữ pháp, chúng có thể được chia thành bốn tiểu loại sau: - Các vị từ có một chủ thể chỉ người hành động, một đối thể chỉ người nhận và một đối thể thứ hai chỉ vật bị tác động. Thuộc loại này là những vị từ : cho, biếu, tặng, dâng, trả, nhường, trao, phát, gả, nộp, phú, ban, cấp, bố thí, phân phối, chuyển, giao, gán, hiến… Ví dụ 12: Chúng tôi phát quà trung thu cho trẻ em đường phố. (Diễn tố 1) (Diễn tố 2) (Diễn tố 3) - Các vị từ có một chủ thể chỉ người hành động, một đối thể chỉ vật bị tác động và một đối thể thứ hai chỉ đích. Thuộc loại thứ hai này là những vị từ: đút, lắp, đính, rót, nạm, khảm, dẫn, chuyền, thắt, tra, nhúng, xâu, ấn, chèn, quất, thọc, xỏ, kê, cắm, đặt, xiên, giúi, dán, cẩn, điền, cẩn… Ví dụ 13: Tên quản ngục tra gông vào cổ Huấn Cao. (Diễn tố1) (Diễn tố2) (Diễn tố3) - Các vị từ có một chủ thể chỉ người hành động, một đối thể chỉ vật bị tác động theo kiểu thay đổi dáng vẻ bề ngoài và một đối thể thứ hai chỉ một chất liệu được dùng để thực hiện sự thay đổi đó. Thuộc loại thứ ba trong các vị từ ba diễn tố là những vị từ như: tô, trát, đậy, bọc, che, phết, bôi, quét, đắp, che, chít, nêm, trộn… Ví dụ 14: Lan nêm muối vào canh (Diễn tố1) (Diễn tố2) (Diễn tố3) - Các vị từ cầu khiến được coi là một loại đặc biệt của hành động chuyển tác bởi nó tác động đến đối tượng bằng chính nội dung của điều cầu khiến. Để tạo thành khung vị ngữ mà hạt nhân là vị từ cầu khiến, cần có sự tham gia của ba diễn tố: (1) người hay con vật, hiện tượng vật lí được nhân cách hoá một cách ước định hoặc thần thánh được hiểu theo nhiều cách; (2) đối tượng tác động phải đảm bảo việc “hiểu” và thực hiện được nội dung cầu khiến; (3) nội dung cầu khiến (luôn là một vị từ biểu thị hành động chuyển tác hoặc vô tác). Các vị từ cầu khiến gồm có: buộc, bảo, nhờ, khiến, yêu cầu, đòi, giục, nài, cấm, khuyên, cử, dặn, phái, van, xin, đề nghị, gọi, hô hào, cầu, triệu, đề xuất, can ngăn… Ví dụ 15: Bá Kiến sai Chí Phèo đòi nợ Đội Tảo. (Diễn tố1) (Diễn tố 2) (Diễn tố 3) Trong khi trình bày những khái niệm liên quan đến diễn trị của vị từ, chúng tôi tự nhận thấy sẽ không thừa nếu chúng tôi đề cập đến một lí thuyết tương đối phổ biến có liên quan đến vị từ. Đó là lí thuyết về kết trị. Kết trị là một thuật ngữ của ngành hoá học, dùng để chỉ thuộc tính kết hợp của các nguyên tử với một số lượng nguyên tử nhất định khác. Về sau, khoảng cuối những năm 40 của thế kỉ XX, thuật ngữ này bắt đầu được dùng phổ biến trong ngôn ngữ học để chỉ khả năng kết hợp của các lớp từ hoặc các lớp hạng đơn vị ngôn ngữ nói chung. Hiểu một cách hạn hẹp thì kết trị là thuộc tính kết hợp của vị từ hoặc một số từ loại nhất định (Nguyễn Văn Lộc, tác giả công trình “ Kết trị của động từ tiếng Việt” cũng đồng quan điểm này nhưng ông dùng thuật ngữ “động từ” thay vì thuật ngữ “vị tư”). Người tiên phong dùng thuật ngữ kết trị theo nghĩa hẹp trên là nhà ngôn ngữ học người Pháp L. Tesniere. Ong là người sáng lập nên lí thuyết kết trị. Trong công trình “Các yếu tố của cú pháp cấu trúc” (Elements de syntaxe structurale), L. Tesniere cho rằng: vị từ trong vai trò vị ngữ (như ngữ pháp truyền thống quan niệm) thực chất chính là thành tố hạt nhân, là cái nút chính của câu. Với vai trò hạt nhân, vị từ quyết định số lượng và đặc tính của các thành tố có quan hệ với nó. Các thành tố này xét theo mức độ gắn bó với vị từ, được phân ra thành: thành tố bắt buộc (chủ ngữ và bổ ngữ truyền thống) và thành tố tự do (trạng ngữ truyền thống). L. Tesniere gọi các thành tố bắt buộc là các tham tố (actants) và thành tố tự do là các chu tố (circonstant). S.D. Kasnelson, nhà ngôn ngữ học Liên Xô cũ cũng có quan điểm tương hợp với L.Tesniere ở chỗ: ông cho rằng: kết trị là thuộc tính của lớp từ nhất định kết hợp vào mình những từ khác. S.D.Kasnelson phân biệt kết trị với khả năng tham gia vào các mối quan hệ cú pháp nói chung. Và ông cũng khẳng định: mỗi từ, về nguyên tắc đều có khả năng kết hợp với những từ nhất định nào đó nhưng như thế không có nghĩa là tất cả các từ đều có kết trị mà chỉ những từ có khả năng tạo ra các “ô trống” đòi hỏi phải được làm đầy trong các phát ngôn thì mới có kết trị. Kết trị của các từ được xác định theo số lượng vị trí mở (các ô trống) bao quanh từ, theo S.D.Kasnelson, là không lớn. Chẳng hạn ở vị từ, xung quanh nó, thường có không quá 4 vị trí mở. Ví dụ16: Sốt xuất huyết trở thành đại dịch ở Singapore. (1) (2) (3) Những yếu tố làm đầy các vị trí mở bên cạnh vị từ “trở thành” gồm: (1) “sốt xuất huyết”, (2) “đại dịch. Còn (3) “ở Singapore” là thành tố tự do (ngữ pháp truyền thống gọi là trạng ngữ). Vậy, các yếu tố làm đầy các vị trí mở bên cạnh vị từ (các actants) gồm các thành tố: chủ thể, đối thể trực tiếp hay gián tiếp của hoạt động và một số thành tố khác có ý nghĩa phụ thuộc vào ý nghĩa của vị từ. Các thành tố này được S. D. Kasnelson gọi là những yếu tố : “bổ sung” hay “bổ ngữ của động từ” . Các thành tố tự do có mặt bên cạnh các vị từ (ngữ pháp truyền thống gọi là trạng ngữ) không thuộc về các yếu tố làm đầy các vị trí mở bên cạnh vị từ và do đó chúng không được tính đến khi S. D. Kasnelson xem xét kết trị của vị từ. Kế thừa những thành tựu của hai học giả trên, chúng tôi đưa ra quan điểm của mình về kết trị của vị từ như sau: Kết trị của vị từ là khả năng vị từ tạo ra xung quanh chúng các vị trí mở có thể làm đầy bởi những thành tố cú pháp (những thực từ) mang ý nghĩa bổ sung nhất định. Nói cách khác, kết trị của vị từ là thuộc tính của vị từ kết hợp bản thân nó với những thành tố bắt buộc hoặc những thành tố tự do khác. Thuộc tính kết hợp này hàm chứa trong ý nghĩa của bản thân vị từ. Đó chính là sự cụ thể hóa những khả năng hoặc những đòi hỏi của vị từ về mặt nào đó. Ví dụ 17: Viện khoa học Hà Nội trao giải thưởng cho các nhà nghiên cứu. (1) (2) (3) Vị từ “trao” tạo ra xung quanh nó 3 vị trí mở, phải được làm đầy bởi các thành tố bắt buộc như: (1) chủ thể thực hiện hành động “trao” là “viện Khoa học Hà Nội”, (2) vật được “trao” là “giải thưởng” và (3) đối tượng tiếp nhận là “ các nhà nghiên cứu”. Kết trị của động từ được xác định theo số lượng các vị trí mở bao quanh vị từ, còn bản thân các vị trí mở lại được xác định dựa vào số lượng các thành tố bổ sung làm đầy các vị trí mở này. Như vậy, xác định và phân tích các kết trị của vị từ thực chất chính là xác định và phân tích các thành tố bổ sung làm đầy các vị trí mở bên cạnh vị từ. Cấu trúc bao gồm vị từ và các thành tố bổ sung của nó được gọi là cấu trúc vị từ. Trong cấu trúc vị từ, vị từ được bổ sung được gọi là hạt nhân, còn các thành tố bổ sung sẽ được gọi là các kết tố. Có hai loại kết tố: kết tố bắt buộc và kết tố tự do. Để xác định hai loại kết tố này, chúng ta có thể dựa vào thủ pháp lược bỏ. Trong số các kết tố có thể có bên cạnh vị từ, những kết tố mà việc lược bỏ chúng làm cho cấu trúc vị từ mất khả năng hoạt động với tư cách một câu trọn vẹn (câu tự lập) về ngữ pháp, sẽ được coi là kết tố bắt buộc. Những kết tố không có đặc điểm này sẽ là kết tố tự do. Các kết tố bắt buộc chính là các kết tố tạo thành “ bối cảnh tối ưu” của vị từ, còn kết tố tự do là kết tố tạo thành “ bối cảnh dư ” của vị từ. Ví dụ 18: Gió mở tung cửa sổ. (1) (2) (3) Bằng thủ pháp lược bỏ, chúng ta xác định được cấu trúc tối thiểu có khả năng hoạt động với tư cách một câu đầy đủ về mặt ngữ pháp là “ Gió mở cửa sổ”. Các kết tố tham gia vào cấu trúc này: (1) “gió” và (2) “cửa sổ” là những kết tố bắt buộc. Kết tố (3) “tung” có thể bị lược bỏ trong cấu trúc trên vì nó là kết tố tự do. Ngoài việc dựa vào khả năng lược bỏ, còn có thể xác định, phân biệt kết tố bắt buộc và kết tố tự do dựa vào những nét đối lập sau đây: - Về ý nghĩa, nói chung nghĩa của các kết tố bắt buộc bị chi phối bởi nghĩa của vị từ và chỉ được xác định nếu xét trong mối quan hệ với ý nghĩa của vị từ. Chẳng hạn, trong cấu trúc “Gió mở tung cửa sổ” nghĩa của các kết tố “gió”, “cửa sổ” (kết tố bắt buộc) chỉ được xác định dựa vào nghĩa của vị từ “mở” nhưng nghĩa của kết tố “tung” (kết tố tự do) có thể được xác định một cách độc lập tương đối với nghĩa của vị từ. - Về vai trò đối với việc tổ chức cấu trúc, các kết tố bắt buộc quan trọng hơn hẳn so với các kết tố tự do. Sự xuất hiện của các kết tố bắt buộc là do sự đòi hỏi của ý nghĩa vị từ. Sự lược bỏ các kết tố bắt buộc chỉ được phép thực hiện trong những điều kiện ngữ cảnh hoặc hoàn cảnh (tình huống) nói năng nhất định. Trong khi đó, sự xuất hiện của các kết tố tự do chỉ có vai trò xác định rõ thêm về nghĩa cho vị từ. Và phụ thuộc vào mục đích giao tiếp, các kết tố này có thể bị lược bỏ mà không ảnh hưởng đến cấu trúc và nội dung cốt lõi của câu. Ví dụ 19: Hắn sơn xe. Kết tố “hắn” và “xe” là những kết tố bắt buộc, chúng do ý nghĩa của của vị từ “sơn” đòi hỏi (ai “sơn? “sơn” cái gì?). Nếu muốn lược bỏ hai kết tố này, chúng ta phải đặt chúng trong tình huống: A: Hắn đang làm gì? B: Sơn xe. - Về mặt phân bố (vị trí) các kết tố bắt buộc vì gắn với vị từ một cách chặt chẽ về nghĩa nên thường đứng sát vị từ hơn các kết tố tự do. Ví dụ 20: Thủ tướng tiếp các nhà lãnh đạo Lào ở nhà khách chính phu. (1) (2) (3) Do phải đảm bảo nội dung ý nghĩa cho vị từ “tiếp” nên các kết tố (1) “thủ tướng” và (2) “các nhà lãnh đạo" phải đứng gần vị từ hơn so với kết tố (3) “nhà khách chính phủ”. Tóm lại, việc phân biệt kết trị bắt buộc và kết trị tự do được dựa vào đặc tính khác nhau của mối quan hệ giữa vị từ và hai kiểu kết tố: bắt buộc và tự do. Kết trị bắt buộc là khả năng của vị từ tạo ra xung quanh nó các vị trí mở và cần được làm đầy bằng các kết tố bắt buộc. Còn kết trị tự do là khả năng của vị từ tạo ra xung quanh mình các vị trí mở có thể làm đầy bởi các kết tố tự do. Bởi đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là vị từ gây khiến, một trong những tiểu loại của vị từ hành động, cho nên dứt khoát nó sẽ mang những đặc trưng chung của vị từ hành động. Vì vậy, để tìm hiểu một cách sâu sắc đối tượng nghiên cứu của mình là vị từ gây khiến, một trong những tiểu loại của vị từ hành động, chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu về vị từ nói chung và vị từ hành động nói riêng nhằm mục đích lấy đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu đối tượng của mình. Và quả thật, đúng như dự kiến, đó không phải là một việc làm vô ích. Nó giúp chúng tôi đưa ra định nghĩa về vị từ gây khiến như sau: Vị từ gây khiến là những vị từ hành động biểu thị những hành động đưa đến những biến đổi về mặt vật lí của đối tượng nhận sự tác động. BẢNG DANH SÁCH VỊ TỪ GÂY KHIẾN An Bới Chập Cuốn Ap Bừa Che Cưa At Bửa Chẽ Cứa Ấn Buộc Chẻ Ấp Chèn Dán Cà Chêm Dầm Banh Cán Chia Dấn Bá Cào Chĩa Dần Bám Cạo Chích Dận Bành Cày Chiên Dấp Bào Cạy Chít (khăn) Dập Băm Cắm Chịt (bóp) Dính Băng Cắn Chọc Dịt Bắn Cắt Chỏi Doa (khoan) Bấm Cẩn Chọi Dọi Bập Cất Chong Dọn Be Chà Chống Dỗ Bẻ Chắn Chốt Dùi Bó Chặn (Chận) Chữa Dụi Bọc Chắt Chùi Dúm Bóp Chặt Chuốt Bổ Châm Cô Đánh Bôi Chần Cuộn Đẵn Đâm Giày Hỏa táng Khui Đấm Giặm Hoạn Kì Đầm Giặt Hong Đập Giấm Làm Đầu độc Giậm Khai khẩn Láng Đậy Giần Khai hoang Lạng Đè Giú Kháp (ráp) Lát Đẽo Giũa Khắc Lau Đét Gõ Khâm liệm Lay Đính Gò Khẩn (hoang) Lắp Đoạn Gỡ Khâu Lắt Đóng Gom Khẻ Lặt Đốn Gọt Khêu Lấn(chiếm) Đốt Gối Khía Lật Đục Gông Kho Lẩy Đút Gộp Khóa Lèn Gột Khỏa Lẻo Găm Khoan Lể Gặt Hạ Khoắn Liếc Gập Hàn Khoét Liệm Ghè Hâm Khử Lóc Giã Hầm Khứa Lọc Giáng Hấp Khuấy Lóng Giáo (khuấy) Hích Khuếch (đại) Lót Lồng Nẹp Phân Rắc Lột Nện Phẫu thuật Rấm Lục Ngâm Phết Rẽ Lụi Nghiền Phi Rê Lùi Ngoáy Phóng Rĩa Luộc Nhúng Phối Rim Nhuộm Phơi Róc Mạ Ninh Phủi Rót Mài Nong Phun Rọc Mạng Nống(nới) Rửa Miết Nới Quay Rút Mổ Nung Quấn Rưới Mở Nướng Quặc Rứt Múc Nứt Quật Muối Quấy Sạ Om Quậy Sấy Nạm Om Quẫy Sơn Nạo Op Quét Sởn Nạy Súc Nắm Pha Rạch Sục Nắn Phá Ram Suốt Nặn Phang Rang Sửa Nấu Phanh Ràng Sưởi Nén Phay (đất) Ráp Tán Thui Uống Xay Táng Thụi Ươm Xăm Táp Thuộc Ướp Xắn Tát Thưng Xắt Tấp Tì Vá Xâu Tắt Tỉa Vạch Xe Tẩm Tiêm Vạc Xé Tấn Tiện Vằm Xẻ Tần Tô Vấy Xén Tẩn Tôi (vôi) Vầy Xên (mứt) Tẩy Tông Véo Xi (mạ) Tẻ Trảm Vét Xỉa Té Trám Vê Xiên Têm Trát Viên Xỏ Thái Trẩy (hái) Vịn Xoa Thẻo Trỉa Vo Xoắn Thếp Trích Vò Xọc Thích Trít Vọc Xom Thiến Trổ Vón Xôm Thiêu Trộn Vót Xới Thọc Vụt Xởi Thoi U Xớt Thộp Uc Xáo Thụ tinh Ui Xào 1.3 Bổ ngữ và trạng ngữ: 1.3.1 Phân biệt bổ ngữ và trạng ngữ: Các nhà ngôn ngữ học đã cố gắng tìm ra những cơ sở ngữ nghĩa cũng như hình thức để khu biệt bổ ngữ và trạng ngữ. Về mặt ngữ nghĩa, phần lớn các tác giả đều chia sẻ cách hiểu giống nhau về vai trò của từng thành phần này đối với vị từ. Sự phân biệt hai thành phần trên chủ yếu gặp khó khăn ở việc xác định các tiêu chí, các dấu hiệu hình thức. Giải quyết vấn đề này, các nhà nghiên cứu thường dùng đến tiêu chí vị trí trong câu, hình thái và sự hiện diện của các hư từ. Đối với các ngôn ngữ biến hình, quá trình chỉ ra những nét khu biệt giữa hai thành phần này diễn ra khá suôn sẻ (dù cũng có nhiều trường hợp các dấu hiệu hình thức trên tạo bất lợi cho họ trong việc khu biệt hai thành phần này trong câu). Chẳng hạn: trong tiếng Anh, người ta có thể dựa vào những cơ sở hình thức: (1) Vị trí: Trạng ngữ là thành phần có thể thay đổi vị trí khá tự do còn bổ ngữ thì không như thế. (2) Hình thái: Phần lớn các trạng ngữ có hình thức riêng trong khi bổ ngữ thì không có sự thay đổi gì về mặt hình thái. (3) Cấu tạo: Trạng ngữ thường có cấu tạo là ngữ giới từ do đó sự xuất hiện của một giới từ đứng trước một danh từ (ngữ danh từ) thường là dấu hiệu cho biết ngữ giới từ này là trạng ngữ. Đối với các ngôn ngữ không biến hình mà đại diện là tiếng Việt, thì cơ sở hình thức chỉ là trật tự từ và sự có mặt của các hư từ nên khả năng nhầm lẫn trong quá trình khu biệt hai thành phần này càng tăng. Hơn nữa, trong các ngôn ngữ không biến hình, các tiêu chí trên không phải bao giờ cũng theo quy luật chặt chẽ. Chẳng hạn: trong tiếng Việt có trường hợp danh từ (ngữ danh từ) có thể làm trạng ngữ. Ví dụ 21: Năm nay hạn hán, cả xóm, không nhà nào đủ ăn. Trạng ngữ Năm nay, mưa nhiều. Trạng ngữ Một buổi chiều hè, tôi ra sông gánh nước. Trạng ngữ Những gút mắc trên đã buộc các nhà ngữ pháp học phải tìm ra một hướng đi mới, một cơ sở xác định mới để thay thế hoặc bổ sung cho việc phân biệt hai loại thành phần này. Và kết luận cuối cùng được rút ra là phải đặt chúng trong cấu trúc nghĩa của vị từ, thành tố nào đóng vai trò là diễn tố thì nó chính là bổ ngữ và thành tố nào đóng vai trò chu tố chính là trạng ngữ. Ví dụ 22: Nhĩ nâng cánh tay của mình một cách khó nhọc. Bổ ngữ Trạng ngữ 1.3.2 Bổ ngữ: 1.3.2.1 Khái niệm: Bổ ngữ (object) là thành phần tham gia vào khung vị từ để tạo thành cấu trúc vị ngữ. Trong mối quan hệ ngữ nghĩa với các thành phần câu, bổ ngữ chính là các tham tố tham gia vào việc hoàn chỉnh nghĩa của vị từ. Về mặt cấu trúc, bổ ngữ điển hình là (ngữ) danh từ hoặc ngữ giới từ. Trong một số cấu trúc câu, bổ ngữ là thành phần quan trọng, cần thiết cho sự hoàn chỉnh của câu. Tuy nhiên, bổ ngữ không phải là thành phần trực tiếp của câu mà nó chỉ nằm trong phần Thuyết của câu. Ơ đây, chúng ta cần thấy vai trò khác nhau của thành phần này trong cấu trúc ngữ nghĩa và trong cấu trúc cú pháp của vị từ. Xét từ phương diện quan hệ ngữ nghĩa với vị từ, vai trò của bổ ngữ là không thể phủ nhận. Cùng với Đề, chúng thường là diễn tố trong cấu trúc nghĩa của vị từ, chúng là những thành tố quan trọng, bắt buộc. Ví dụ 23: Tôi đào một cái hố nhỏ. BN 1.3.2.2 Phân loại bổ ngữ: Dựa vào những tiêu chí khác nhau người ta có nhiều cách phân loại bổ ngữ: - Dựa vào cấu trúc ngữ pháp có thể phân thành các loại bổ ngữ như sau: 1a. Bổ ngữ là (ngữ) danh từ (đây là loại bổ ngữ phổ biến nhất, lí do là vì các bổ ngữ thường là sự thể hiện các vai nghĩa chỉ người hoặc vật tham gia vào sự tình do vị từ làm trung tâm). Ví dụ 24: Cô ấy phơi quần áo. (Bổ ngữ) 2a. Bổ ngữ là giới từ. Ví dụ 25: Cô giáo phát quà cho bé Na. (Bổ ngữ) 3a. Bổ ngữ là một kết cấu C-V. Ví dụ 26: Bà ấy xem tôi / là của nợ. C V 4a. Bổ ngữ là một vị từ hoặc ngữ vị từ. Ví dụ 27: Anh ấy muốn trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. (Bổ ngữ) - Dựa vào đặc điểm ngữ nghĩa: 1b. Bổ ngữ chỉ vật được tạo tác. Ví dụ 28: Công ty Cotec xây nhà văn hoá này. (Bổ ngữ) 2b. Bổ ngữ chỉ vật bị hủy diệt, tiêu biến. Ví dụ 29: Hắn đốt hàng trăm căn nhà. (Bổ ngữ) 3b. Bổ ngữ chỉ vật bị thay đổi trạng thái vật chất hoặc trạng thái tinh thần. Ví dụ 30: Tên côn đồ ấy đã phá tan bao nhiêu cơ nghiệp. (Bổ ngữ) 4b. Bổ ngữ chỉ vật bị thay đổi vị trí dưới tác động của hành động nêu ở vị từ. Ví dụ 31: Bộ đội ta kéo pháo lên đèo. (Bổ ngữ) - Dựa vào dấu hiệu hình thức (tiêu chí [+- giới từ]): 1c. Bổ ngữ trực tiếp (BNTT) Ví dụ 32: Người nhà quê rất ghét sự khách sáo. (BNTT) 2c. Bổ ngữ gián tiếp (BNGT). Ví dụ 33: Cô giáo tết tóc cho bé Na. (BNTT) (BNGT) 1.3.3 Trạng ngữ (TN): Trạng ngữ (adverbial phrase): Đây là thành phần phụ có quan hệ tùy ý với các thành phần khác của câu ở cả phương diện cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa. Tuy nhiên, không phải thành phần phụ nào cũng là trạng ngữ. Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học thường chia thành phần phụ trong câu làm ba loại: thành phần phụ mở rộng nghĩa cho các thành phần cơ bản của câu (adjunct), thành phần phụ liên kết các câu, các cú (conjunct) và thành phần phụ độc lập với các thành phần câu (disjunct). Phần lớn các tác giả chỉ xem thành phần mở rộng nghĩa cho thành phần cơ bản của câu là trạng ngữ [13, tr 35-41). Đồng thuận với quan niệm này, chúng tôi cũng phân biệt: Trạng ngữ bổ nghĩa cho câu (trạng ngữ câu) với trạng ngữ bổ nghĩa cho vị từ (trạng ngữ của vị từ). Về ngữ nghĩa: Trạng ngữ của vị từ khác với trạng ngữ câu ở phạm vi quan hệ nghĩa. Nếu trạng ngữ câu có mối quan hệ (bổ sung nghĩa) với cả cấu trúc Đề – Thuyết (cấu trúc chủ – vị / cấu trúc nòng cốt) thì trạng ngữ của vị từ chỉ bổ nghĩa cho vị từ chi phối nó mà thôi. Ví dụ 34: (a) Vì trời mưa, cháu không đi học được. TN của câu (b) Cô Anh âu yếm nhìn tôi. TN của VT VTTT Về vị trí nhận diện, trạng ngữ của vị từ luôn nằm trong phần Thuyết và vị trí phổ biến nhất của nó là ở cuối phần Thuyết (và trong câu có trật tự bình thường, nó cũng đứng ở cuối câu). Ví dụ 35: Nam bước vào phòng một cách uể oải. VT TN của VT Như vậy, việc phân biệt bổ ngữ với trạng ngữ của vị từ là một việc làm rất cần thiết. Điều này cho phép chúng ta xác định yếu tố nào nằm trong cấu trúc cơ bản của vị ngữ, yếu tố nào nằm ngoài cấu trúc vị ngữ; thông tin nào là cần yếu, bắt buộc, còn thông tin nào là bổ sung tùy ý. Để phục vụ cho luận văn, chúng tôi nhận thấy việc tìm ra những sự khác biệt của hai thành phần này là rất quan trọng đối với quá trình nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của các vị từ gây khiến. CHƯƠNG II: ĐẶC TRƯNG NGỮ NGHĨA VÀ NGỮ PHÁP CỦA VỊ TỪ GÂY KHIẾN TIẾNG VIỆT 2.1 Đặc trưng ngữ nghĩa: Các sự thể trong thế giới khách quan phân biệt với nhau chủ yếu dựa trên hai chiều: chiều của sự đối lập về tính [±động] và chiều của sự đối lập về tính [± chủ ý]. Sự phân biệt các sự thể dựa vào hai chiều đối lập như trên đã chỉ ra hai điều: Thứ nhất, sự khác biệt giữa những sự thể động với những sự thể tĩnh là ở chỗ: những sự thể động, tức là những biến cố, những sự việc, những sự thay đổi có thể “xảy ra” trong thời gian tương đối ngắn và chấm dứt ngay sau đó. Trong khi những sự thể tĩnh, tức những tình trạng, trạng thái, tính chất có thể tồn tại một cách lâu dài, thậm chí là vĩnh viễn. Ví dụ 36: a. Sau một hồi trống thúc vang, học sinh xếp hàng vào lớp. b. Đôi càng tôi mẫm bóng. Ở ví dụ (a), những sự thể động “xếp hàng” và “vào lớp” có bắt đầu, diễn biến và kết thúc. Chúng ta có thể đoán biết được thời gian kết thúc của chúng. Còn ví dụ (b), “mẫm bóng” là một tính chất có thể tồn tại ở “đôi càng tôi” một cách dài hạn. Hơn nữa, tính [+động] của vị từ hành động còn thể hiện ở sự tác động. Nói đến sự tác động, người ta có thể liên tưởng đến muôn hình vạn trạng sự tác động với nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên, đối với vị từ hành động nói chung và vị từ chuyển tác nói riêng thì có lẽ sự phân biệt cơ bản nhất là: hành động được biểu hiện có tác động đến một đối tượng nào hay không. Tác động ấy có làm cho đối tượng thay đổi về một phương diện nào đó (chẳng hạn như: tính chất, trạng thái vật lí, vị trí hiện hữu trong không gian…) hay không, nghĩa là có ít nhất một cái gì đó của đối tượng sẽ bị thay đổi, làm cho đối tượng khác đi so với chính nó trước khi bị tác động đến. Ý nghĩa của sự tác động có thể có những mức độ sau đây: - Tác động để tạo lập đối tượng: xây, dệt, may, dựng, tạc, đan, đóng, chế, đắp, vẽ, bện, khâu, khoét… - Tác động nhằm hủy diệt đối tượng: diệt, bỏ, giết, hạ, hủy, gạt (bỏ), tẩy, khử, loại, xua, trừ, triệt… - Tác động nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng:  Trạng thái vật chất: bóp, đắp, giũa, lặt (rau), hâm, cào, buộc, khêu, luộc, cạo, phủ, gói, đánh…  Trạng thái tinh thần: mắng, khích, phê, phản, răn, rầy, giục, ru, trêu, doạ, trách, giễu, nịnh, lừa… - Tác động để làm thay đổi vị thế của đối tượng (bao hàm cả nghĩa sở hữu): cho, dâng, cúng, đầu tư, giao, cống hiến, gửi, tặng… - Cầu khiến: bảo, cấm, triệu, khuyên, sai, nài, ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7370.pdf
Tài liệu liên quan