Về quyền giám sát tối cao của quốc hội
LờI NóI ĐầU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta ,sau nhiều năm qua đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng như: nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội .Đó là một bước ngoặt lớn trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta nhưng bên cạnh vẫn còn một số mặt chưa vững chắc , vẫn còn nhiều khó khăn thách thức và nhiều biến động phức tạp . Cho nên Đảng và Nhà nư
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1514 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ta đã phát huy kế thừa những thành tựu đạt được để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, để đẩy mạnh được nền kinh tế nước ta phát triển một cách vượt bậc thì Đảng và Nhà nước ta cũng cần phải quan tâm về vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội , làm cho Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất , thực hiện được đúng chức năng , quyền hạn theo quy định của Hiến Pháp và Pháp luật.Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng khẳng định: “ lãnh đạo việc đổi mới và tăng cường công tác thanh tra của Chính phủ và các cơ quan hành pháp;phát huy vai trò giám sát của Quốc hội,Hội đồng nhân dân , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm quyền của các cơ quan đó.Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ , của uỷ ban kiểm tra các cấp,tập trung vào các nội dung chủ yếu:Thực hiện các Nghị quyết,chủ trương,chính sách của Đảng và Nhà nước;chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc;củng cố đoàn kết,nội bộ,giáo dục, rèn luyện,nâng cao phẩm chất,đạo đức Cách mạng của cán bộ,đảng viên ”
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức năng quyền hạn quan trọng của Quốc hội đã được quy định trong các bản Hiến pháp của nước ta và được Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 83 và Điều 84 .
Do vậy,nghiên cứu về quyền giám sát tối cao của Quốc hội thực sự là một yêu cầu khách quan và là một đòi hỏi bức xúc trong công tác giám sát của Quốc hội về mặt lý luận và thực tiễn .
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
2.1.Về phạm vi
Trong phạm vi một bản khoá luận,tác giả tập trung vào giải quyết những vấn đề sau :
Một là,xây dựng quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Trên cơ sở phân tích nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội và rút ra những phương thức để thực hiện quyền đó,phân biệt quyền giám sát tối cao của Quốc hội với thẩm quyền kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và Pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác
Hai là,đưa ra thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội năm 1997 đến năm 2002 và xác định nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội trong thời gian qua ( chủ yếu là Hiến pháp năm 1992 )
Ba là,đưa ra những kiến nghị đổi mới tổ chức và phương pháp thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và những điều kiện cần thiết để đại biểu Quốc hội thực hiện được đúng và đầy đủ quyền giám sát của mình,tăng thẩm quyền giám sát cho các Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội hoặc thành lập Hội đồng giám sát Hiến pháp , xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc
2.2. Về phương pháp nghiên cứu
Khi viết bài luận này,chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: phương pháp triết học Mác xít,phương pháp biện chứng Mác – LêNin,phương pháp so sánh,phương pháp lịch sử,phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp,phương pháp diễn dịch.
3. Kết cấu của bản luận văn .
Lời mở đầu .
- Chương 1:Cơ sở lý luận của quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Chương 2:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , nguyên nhân và bài học
- Chương 3 : Những phương pháp tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội .
Kết luận
chương I
CƠ Sở Lý LUậN QUYềN GIáM SáT TốI CAO CủA QUốC HộI NƯớC CộNG HOà Xã HộI CHủ NGHĩA VIệT NAM
I . Vị trí pháp lý của Quốc hội, bản chấi, nội dung và phương thức thực hiện
1. Vị trí pháp lý của Quốc hội .
“ Vị trí pháp lý”là một thuật ngữ chuyên nghành của khoa học pháp lý có nguồn gốc la tinh là“Status” dùng để khái quát hoá vị trí,mô hình của một cơ quan nhà nước nào đó trong hệ thống các cơ quan nhà nước thông qua các quy định của pháp luật.
Vị trí pháp lý của Quốc hội tức là chức năng, nhiệm vụ,quyền hạn và mối quan hệ của Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác được Hiến pháp quy định cho Quốc hội.Vị trí pháp lý này được Hiến pháp năm 1992 quy định khái quát tại Điều 83:“Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân,cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước’’
Theo quy định của Hiến pháp - đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước coa nhất trong toàn bộ cơ cấu tổ chức các cơ quan Nhà nước Việt Nam.Sở dĩ,Hiến pháp quy định như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quyền trực tiếp bầu ra và là cơ quan duy nhất mà thành phần đại biểu đại diện cho tất cả dân tộc của cả nước . Vì thế, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân mà“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”(Điều 2 – Nghị quyết về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 thông qua ngày 25/ 12/ 2001)nên để bảo đảm cho Quốc hội thực hiện tốt là cơ quan đại biểu của nhân dân thì Hiến pháp quy định Quốc hội được nhân dân giao nhiệm vụ và thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực thống nhất cả nước. Nói một cách khác,nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước,nhân dân vừa trực tiếp vừa gián tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước.Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực Nhà nước, từ đó hình thành bộ máy Nhà nước và nhân dân trực tiếp bàn bạc những vấn đề quan trọng của đất nước.Bên cạnh đó, nhân dân gián tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước nghĩa là nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội để quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đời sống xã hội và của Nhà nước.
Ngoài tính đại diện nhân dân của Quốc hội,vị trí pháp lý của Quốc hội còn được thể hiện ở tính quyền lực Nhà nước.Quyền lực Nhà nước là quyền quyết định những công việc quan trọng của cả nước,cả xã hội dưới hình thức pháp luật,quyền được tổ chức ra những lực lượng,những cơ quan để bảo đảm việc thi hành pháp luật và quyền giám sát việc thi hành pháp luật.Và theo Điều 83 của Hiến pháp 1992 thì:“Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất Nhà nước”,Quốc hội thay mặt nhân dân,thực hiện quyền lực của nhân dân và chỉ có Quốc hội mới có quyền biến ý chí của nhân dân thành luật.Do vậy,quy định trên chứng tỏ việc tổ chức quyền lực Nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền,không phân chia quyền lực như Nhà nước tư bản mà tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong một thời gian dài,có quan điểm cho rằng:Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất có toàn quyền quyết định mọi vấn đề của đất nước.Nhưng vì Quốc hội không có điều kiện thiện hiện được những quyền hạn đó nên Quốc hội phải thành lập ra những cơ quan Nhà nước khác và giao cho chúng những nhiệm vụ,quyền hạn của mình.Nói một cách cụ thể là sở dĩ Chính phủ, Toà án nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân có được quyền hạn và nhiệm vụ là do nhận được từ Quốc hội.Thực tiễn đã cho thấy nhận thức như trên là không phù hợp với thực tế hoạt động của bộ máy Nhà nước,nhận thức đó đã đem lại sự khó khăn khi cần xác định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan Nhà nước và những khó khăn do việc không phân định rõ chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước tạo ra.Ví dụ,nói một cách cụ thể,nhận thức trên sẽ rất khó phân định được quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,với quyền giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao và với quyền thanh tra của Chính phủ.
Như vậy,cần nhận thức lại,đúng hơn về vị trí pháp lý của mỗi cơ quan Nhà nước.Mỗi cơ quan trong hệ thống các cơ quan Nhà nước đều có vị trí pháp lý của nó.Vị trí đó được xác định từ cách thức thành lập,nhiệm vụ,quyền cơ quan Nhà nước khác như Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Những cơ quan Nhà nước trên có chức năng,quyền hạn theo luật định nhưng đều phải có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội và phải chịu sự giám sát của Quốc hội.
2. Bản chất , nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội .
2.1. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một bộ phận không thể tách rời quyền lực Nhà nước.Mà quyền lực Nhà nước được biểu hiện trong đời sống xã hội theo những phương thức sau:
- Nhà nước đặt ra Hiến pháp và pháp luật.
- Nhà nước giám sát các cá nhân trong hoạt động thực tiễn.
- Nhà nước xử lý,trừng phạt cá nhân khi có hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật
Từ những vấn đề trên cho thấy,giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một khâu không thể thiếu trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước và vì vậy giám sát là một bộ phận không thể tách rời quyền lực Nhà nước .
2.2. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Nguyên tắc mọi quyền lực của đất nước đều thuộc về nhân dân là nguyên tắc được nhiều nước công bố.Nhưng quyền lực đó được tổ chức và phân công như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,điều kiện chính trị–xã hội , truyền thống dân chủ,phong tục tập quán,thái độ tâm lý của nhân dân,quan hệ của mỗi nước với cộng đồng quốc tế,sự lãnh đạo và đường lôí chính trị của Đảng nắm chính quyền.Tóm lại là những điều kiện lịch sử–xã hội mà trong đó Nhà nước tồn tại.
Nhìn một cách tổng quát,xét về mặt lý thuyết các nước trên thế giới hiện nay có bốn cách tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước:
Cách thứ nhất:Phân lập quyền lực một cách triệt để.
Cách thứ hai:Phân công và phối hợp quyền lực .
Cách thứ ba:Quyền lực tập trung vào hành pháp hoặc lập pháp .
Cách thứ tư :Thống nhất quyền lực Nhà nước.
Nhà nước Việt Nam hiện nay tổ chức và phân công quyền lực theo cách thứ tư . Cách tổ chức và phân công quyền lực xuất phát từ cơ sở lý luận,xuất phát từ điều kiện kinh tế,điều kện chính trị – xã hội và mối quan hệ của nước ta với cộng đồng quốc tế như sau:
- Về mặt lý luận: Mác- Ăngghen và LêNin không chỉ quan tâm,chú trọng đến việc nghiên cứu bản chất của quyền lực và quyền lực của Nhà nước mà còn rất quan tâm đến việc tổ chức và phân công quyền lực trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa như thế nào. Những luận điểm, những nguyên lý cơ bản về tổ chức Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã được LêNin thể hiện tập trung và súc tích nhất trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”LêNin đã viết: “Lấy cái gì để thay thế bộ máy Nhà nước đã bị phá huỷ ? ”
Vấn đề này, năm 1847, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”Mác chỉ có một lời giải đáp hoàn toàn trừu tượng, hay nói đúng hơn,chỉ đặt ra nhiệm vụ mà 1. Cải cách hành chính Nhà nước, NXB sự thật, Hà Nội, 1991, trang 16
không đề ra phương pháp giải quyết. Thay bộ máy Nhà nước bằng việc “Tổ chức giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị bằng dành lấy dân chủ”đó là câu giải đáp trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” .
Không muốn rơi vào không tưởng, Mác chờ vào kinh nghiệm của phong trào quần chúng để xem tổ chức ấy của giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp thống trị sẽ theo những hình thức cụ thể nào... Mác viết “Công xã không phải là một cơ quan đại nghị , mà là một tập thể hành động, vừa lập pháp ,vừa hành pháp ...”LêNin đã phân tích một cách sâu sắc những luận điểm cơ bản của Mác: “Công xã thay thế chế độ đại nghị bán mình và thối nát ấy của xã hội tư bản bằng những cơ quan, trong đó quyền tự do ngôn luận và tự do thảo luận không biến thành lừa bịp vì các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những luật pháp của mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy, tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình ” . Trong quá trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, kết hợp lý luận với thực tiễn, LêNin đã xây dựng Nhà nước kiểu mới theo nguyên tắc “ Tất cả quyền hành thống nhất, đầy đủ và không chia sẻ trong tay toàn thể nhân dân ” .Như vậy theo quan điểm của chủ nghiã Mác –LêNin về Nhà nước ,muốn quyền lực thực sự là của nhân dân thì phải tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân là Quốc hội hoặc XôViết và vì vậy trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều có quy định và thể hiện nguyên tắc thống nhất và tập trung quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước .Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy định về vị trí pháp lý của Quốc hội trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta. Sự phân tích trên có thể dẫn đến một nhận xét là:Quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một bộ phận không thể tách rời của quyền lực Nhà nước và Quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin về tổ chức và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong một thời gian dài và được vận dụng vào việc tổ chức bộ máy Nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.Nhưng cùng với sự thay đổi chính trị ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng có nhiều quan điểm của các luật gia, các nhà khoa học xã hội ở Việt Nam nhận thấy cần có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng và cấp bách đã được ghi nhận trong Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7. Nhưng đổi mới như thế nào, theo khuynh hướng nào, có áp dụng lý luận phân chia quyền lực không, đó là những vấn đề đã được đặt ra trong quá trìmh soạn thảo Hiến pháp năm 1992 của nước ta và trong Đại hội lần thứ 7 của Đảng cộng sản Việt Nam.Cho đến nay,như chúng ta đã thấy,Hiến pháp năm 1992 đã ra đời và khẳng định vị trí pháp lý của Quốc hội tại Điều 83 “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước ”
Điều đó cũng thể hiện rõ quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước.Nhà nước ta vẫn được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng có sự phân công phân cấp rành mạch.“ Quốc hội ta là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Thay mặt nhân dân cả nước thực thi quyền lực mà nhân dân giao cho, ...Với tư cách là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao, Quốc hội vừa quyết định luật, vừa giám sát các cơ quan Nhà nước thi hành luật. Nhưng không lẫn lộn với quyền hành pháp của Chính phủ,cũng như quyền độc lập xét xử của Toà án.”Trong Nghị quyết và các văn kiện khác của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7 đã phân tích rõ trong điều kiện kinh tế,chính trị xã hội và quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay thì Nhà nước ta cần được đổi mới,cần có sự phân công,phân cấp rành mạch trong tổ chức và hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước nhưng vẫn cần thống nhất và tập trung quyền lực vì điều đó là bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,là điều đảm bảo cho quyền lực của đất nước thực sự thuộc về nhân dân.Chúng tôi nhất trí và đồng ý với quan điểm trên của Đảng vì :
- Xét về mặt kinh tế:Nền kinh tế nước ta đang chuyển mạnh sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng đó là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,có sự quản lý của Nhà nước.Sự vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi phải có một thị trường thống nhất trong cả nước và có sự quản lý của Nhà nước bằng một hệ thống pháp luật thống nhất,đó là mong muốn và là điểm thống nhất về lợi ích của mọi tầng lớp dân cư và mọi giai cấp trong xã hội.Mặt khác,tuy nền kinh tế có nhiều thành phần nhưng nhân dân vẫn là chủ sở hữu của tất cả những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của đất nước.
- Xét về mặt chínhtrị – xã hội:Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tăng lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Sự phân biệt giàu,nghèo trong xã hội có nhưng cơ cấu giai cấp trong xã hội chủ yếu vẫn là giai cấp công nhân,nông dân và tầng lớp trí thức.Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là chính đảng duy nhất đang tồn tại và vị trí lãnh đạo của Đảng đã có chiều dài lịch sử và cần được xã hội thừa nhận,những quan điểm và tư tưởng của Đảng vẫn là những quan điểm và tư tưởng có tác dụng chi phối trong xã hội. 1. Đỗ Mười: Xây dựng Nhà nước của nhân dân – thành tựu – kinh nghiệm đổi mới, NXB sự thật Hà Nội 1992, trang 14
- Xét về mối quan hệ quốc tế:Sự ổn định về chính trị của Nhà nước ta cũng là một trong những yếu tố để Nhà nước ta tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế và nhiều lĩnh vực khác đối với cộng đồng quốc tế .
Từ sự phân tích trên,có thể dẫn đến kết luận là:xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể về kinh tế,chính trị và xã hội,về quan hệ với cộng đồng quốc tế,Nhà nước Việt Nam vẫn duy trì nguyên tắc tập trung và thống nhất quyền lực Nhà nước,mà Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,nhưng có đổi mới,đó là việc phân công,phân cấp rành mạch trong tổ chức Nhà nước.
Trong các Nhà nước tư sản việc tổ chức và phân công quyền lực theo nguyên tắc quyền lực được phân chia thì giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật thường được tiến hành dưới hai hình thức sau đây :
-Kiểm tra trước:Các dự luật đã được thảo luận trước khi thông qua và công bố đều được một cơ quan chuyên trách kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật đó.
- Kiểm tra sau:Khi đạo luật đã ban hành và được thi hành,cơ quan chuyên trách phát hiện ra những điều khoản không hợp hiến.
Và có hai hình thức tổ chức việc kiểm tra,giám sát :
- Thành lập một cơ quan chuyên trách do Quốc hội cử:Hội đồng bảo Hiến, Viện bảo Hiến,Uỷ ban kiểm tra Hiến pháp.
- Thành lập cơ quan tài phán(Toà án Hiến pháp)
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 của nước ta thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội về việc thi hành Hiến pháp pháp luật,về việc kiểm tra tính hợp Hiến của các đạo luật cũng được tiến hành dưới hai hình thức :
- Kiểm tra trước:Các dự án luật,pháp lệnh khi đưa ra thảo luận đều được các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra.Báo cáo thẩm tra được trình bày trước Quốc hội khi một dự án luật được đem ra trước Quốc hội thảo luận.
- Kiểm tra sau:Việc thi hành Hiến pháp và pháp luật do nhiều cơ quan Nhà nước kiểm tra:Viện kiểm sát nhân dân tối cao,... theo chức năng và quyền hạn của các cơ quan đó.
Cách tổ chức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội là:bằng quy định của luật,Quốc hội giao cho nhiều cơ quan Nhà nước giám sát và nghe báo cáo của các cơ quan đó.Quốc hội tập trung giám sát trực tiếp đối với hoạt động của Chính phủ,...Và để làm điều đó,Quốc hội giao cho các Hội đồng và Uỷ ban giám sát trong phạm vi quyền hạn của các cơ quan này theo luật định. Quốc hội không có cơ quan chuyên trách giám sát.
Ưu điểm lớn nhất của cách giám sát của Quốc hội được thể hiện tập trung vào quyền lực của nhân dân.Nhân dân thông qua cơ quan đại biểu cao nhất của mình là Quốc hội xây dựng pháp luật và nhân dân thông qua hoạt động của Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật và quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao.Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện được mục đích trên thì cần có một cơ chế thích hợp và những điều kiện cần thiết về nhiều mặt.
2.3. Nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội
Để hiểu đúng và đầy đủ nội dung,ý nghĩa của quyền giám sát tối cao của Quốc hội,trước hết cần tìm hiểu thuật ngữ “giám sát”
Theo từ điển Tiếng Việt,“giám sát”được hiểu là“sự theo dõi,xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định”.Hoặc được hiểu là“theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không ”.
- Trong từ điển tiếng Nga“giám sát.”được hiểu là“một nhóm hoặc một tổ chức để theo dõi người, việc nào đấy”
Tuy nhiên cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ“giám sát”có khác nhau nhưng chúng có điểm chung nhất là:
-“Giám sát”dùng để chỉ các hoạt động theo dõi,xem xét,kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đá quy định.
- “Giám sát”luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định,tức là phải trả lời được câu hỏi:ai(người hoặc tổ chức nào)có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra và đưa những nhận định về một việc nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
-“Giám sát cũng luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể,tức là phải trả lời được câu hỏi:giám sát ai,giám sát việc gì.Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó phân biệt giữa“giám sát”và“kiểm tra”.“Kiểm tra”thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau đó là việc tự kiểm tra của chủ thể hoạt động.Nói một cách khác,tự chủ thể hoạt động xem xét kỹ để đánh giá tình trạng tốt,xấu của công việc đang là.Nhưng “giám sát”thì không có tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi,xem xét chính hoạt động của mình.
-“Giám sát”phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại ...
Như vậy, thuật ngữ “giám sát”nếu chỉ hiểu theo nghĩa chung nhất thì phạm vi của nó rất rộng rãi nên bao giờ cũng phải gắn liền với một chủ thể nhất định thì lúc đó mới đem lại cho ta một thông tin,một nhận thức cụ thể .
Căn cứ vào những yếu tố cấu trúc của khái niệm“giám sát”,căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và pháp luật thì khái niệm“Quyền giám sát tối cao của Quốc hội”gồm:
+Chủ thể của quyền giám sát tối cao:Xuất phát từ vị trí hoạt động Nhà nước ta là nguyên tắc tập trung dân chủ và quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan đại biểu 1. Từ điển học sinh NXB giáo dục 1971 Hà Nội, trang 305
2. Từ điển tiếng việt, Viện khoa học xã hội Việt Nam, viện ngôn ngữ học Hà Nội 1992, trang 803
3. Từ điển bách khoa luật học, Mát xcơva 1987, trang 230
cao nhất và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc hội. Quốc hội giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,điều đó được thể hiện trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta.Ví dụ theo Điều 83,Hiến pháp 1992:“...Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất...giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”,vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác –LêNin về Nhà nước và pháp luật,căn cứ vào quy định trên của Hiến pháp 1992 thì Quốc hội là chủ thể duy nhất của quyền giám sát tối cao vì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất ở nước ta.
+Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.
Căn cứ vào Hiến pháp năm1992,luật Tổ chức Quốc hội,luật Tổ chức Chính phủ,luật Tổ chức Toà án nhân dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì những cơ quan Nhà nước như Chính phủ Toà án,Viện kiểm sát....tuy có những nhiệm vụ và quyền hạn độc lập nhưng những người đứng đầu cơ quan đó đều phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của mình trước đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp Quốc hội hoặc phải trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội.Những văn bản mà các cơ quan Nhà nước đó ban hành phải phù hợp với Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội,pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Mặt khác,Quốc hội có thể quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ,đình chỉ việc thực hiện những văn bản đó khi xét thấy có vi phạm Hiến pháp,luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Điều đó cũng có nghĩa là những cơ quan Nhà nước kể trên chịu sự giám sát của Quốc hội. Quốc hội có quyền giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động thực tiễn và trong nội dung văn bản của Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Đó chính là những đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.
+ Những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,lập pháp, và quyền giám sát tối cao.Nhưng để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động giám sát,bảo đảm cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và luật khi thực hiện quyền giám sát của mình,Quốc hội phải có những căn cứ nhất định :
* Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
* Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tế hoạt động của những cơ quan Nhà nước đó. Khi cần thiết,Quốc hội có thể chất vấn hoặc đi xem xét thực tế tình hình có đúng như báo cáo của cơ quan Nhà nước không.
Như vậy,nội dung giám sát của Quốc hội là theo dõi,kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với nội dung các văn bản của cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội ban hành và tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động thực tiễn của các cơ quan Nhà nước đó.
+ Những hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát.
Để đảm bảo cho quyết định của Quốc hội được chấp hành,Quốc hội phải thực hiện những biện pháp:
* Ra nghị quyết buộc các cơ quan Nhà nước khác phải nghiêm chỉnh chấp hành.
* Điều 2,điểm 9 luật Tổ chức Quốc hội 2001:“Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội ”
* Điều 2,điểm 7 luật Tổ chức Quốc hội thông qua năm 2001:“Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ”
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp ,căn cứ vào quy định của luật Tổ chức Quốc hội 2001,căn cứ vào luật Tổ chức Chính phủ,luật Tổ chức Toà án nhân dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,cho thấy,nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội là:“quyền thực hiện việc theo dõi,xem xét,kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp đối với các văn bản và hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao,xử lý những vi phạm Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội do những cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành”
3. Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 thì Quốc hội thực hiện chức năng giám sát thông qua:
- “Xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao”
Để Quốc hội có cơ sở vững chắc xem xét các báo cáo trên của các cơ quan Nhà nước thì theo quyết định của Chủ tịch Quốc hội hoặc theo người điều khiển phiên họp có thể chuyển cho các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội để thẩm tra,nghiên cứu trước,sau đó Uỷ ban thảo luận báo cáo của các thành viên và phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình trước Quốc hội
Khi Quốc hội xét các báo cáo thì Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao cũng phải chịu trách nhiệm báo cáo công tác của cơ quan,của ngành mình trước Quốc hội .
Tóm lại nghe và xét báo cáo là phương thức bắt buộc đối với các cơ quan Nhà nước.Bên cạnh đó nó còn là phương pháp giúp Quốc hội gián tiếp nhận được thông tin một cách đầy đủ và kịp thời về tình hình tuân theo Hiến pháp và Pháp luật trong hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội đồng thời tăng cường trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ và các ngành về công tác của họ trước Quốc hội .
- Chất vấn,một phương pháp giám sát quan trọng của đại biểu Quốc hội , “Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , Thủ tướng Chính phủ,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao .
Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp,trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản”(Điều 98-Hiến pháp)
Theo tinh thần của Hiến pháp,chất vấn là biện pháp thực hiện hữu hiệu quyền giám sát của Quốc hội,chất vấn luôn phát huy tác dụng của nó và là quyền của đại biểu Quốc hội.Chất vấn thường nêu ra các vấn đề đã được các đại biểu điều tra nghiên cứu buộc chính quyền và người bị chất vấn phải trả lời nghiêm túc.Hiệu quả của trả lời chất vấn là cơ sở để các nhà quản lý áp dụng hay không áp dụng biện pháp kỷ luật đối với những người bị chất vấn,có quyền chất vấn .
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ,Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội...trong hoặc ngoài thời gian Quốc hội họp.Nếu đại biểu Quốc hội mà không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa vấn đề ra thảo luận trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Trong trường hợp này,Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn.Như vậy,chất vấn và trả lời chất vấn biểu hiện tập trung ở quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Thông qua chất vấn và trả lời chất vấn,người đứng đầu các cơ quan Nhà nước thể hiện được trách nhiệm và năng lực của mình trước nhiệm vụ được giao,trước Nhà nước,Quốc hội và nhân dân.Có thể nói đây là hình thức được đông đảo cử tri quan tâm và đánh giá cao(Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ 10) .
- Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương,cơ sở của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,các Hội đồng và Uỷ ban lâm thời của Quốc hội,Uỷ ban của Quốc hội.Các Uỷ ban này thực hiện quyền giám sát của mình bằng nhiều hình thức và yêu cầu các cơ quan Nhà nước hữu quan báo cáo về hoạt động của cơ quan Nhà nước liên quan đến hoạt động kiểm tra,giám sát của Uỷ ban.Ngoài ra,các Uỷ ban có thể thành lập các đoàn đi kiểm tra,giám sát ở cơ sở,địa phương,để góp phần cùng với địa phương tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn,phát hiện và xử lý các vấn đề quan trọng trong nhiều lĩnh vực,giúp địa phương thực hiện tốt chủ trương chính sách.
- Giám sát qua việc xét đơn thư khiếu nại của nhân dân .
Là một bộ phận quan trọng._. của Nhà nước,của dân,do dân và vì dân,với trách nhiệm là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân cho nên khi nhận được hàng vạn kiến nghị của nhân dân cả nước.Quốc hội,các cơ quan của Quốc hội đã chuyển đến cơ quan hữu quan của Nhà nước và đã từng bước được hồi âm và xử lý có hiệu quả .
Như vậy,những phương thức giám sát trên của Quốc hội có quan hệ gắn bó với nhau và hỗ trợ cho nhau vì mỗi phương thức giám sát đều có điểm mạnh và điểm hạn chế của nó.Vì thế,trên thực tiễn hoạt động giám sát,Quốc hội có thể lựa chọn những phương thức giám sát khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung của vấn đề cần phải giám sát và vào đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội .
II. Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của Quốc hội ,sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác.
Để hiểu rõ về bản chất và nội dung của quyền giám sát tối cao,cần phải xác định vị trí và mối quan hệ của quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội.Nhưng mặt khác cũng cần phải tìm hiểu sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với việc kiểm tra thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác .
1. Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội .
1.1. Quyền giám sát tối cao với quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội .
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992,tại Điều 84,điểm1,Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn:“Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp,làm luật và sửa đổi;quyết định chương trình xây dựng luật,pháp lệnh”.Đây là một trong những quyền hạn quan trọng của Quốc hội,thông qua hoạt động lập hiến,và lập pháp,ý chí và nguyện vọng của nhân dân,đường lối và chính sách của Đảng được thể chế hoá thành luật và trở thành công cụ sắc bén nhất để Nhà nước quản lý xã hội .
Quan hệ giữa quyền lập hiến và lập pháp với quyền giám sát là tất yếu khách quan,không thể tách rời nhau,có quan hệ chặt chẽ với nhau quyền này bổ trợ cho quyền kia và ngược lại;quan hệ đó được biểu hiện cụ thể như sau:
- Đối với công tác lập hiến và lập pháp thì quyền giám sát giữ một vị trí và vai trò rất quan trọng;cụ thể trong quá trình xây dựng một văn bản luật mới và để thông qua nó về lĩnh vực nào của xã hội thì Quốc hội phải tuân theo quy trình làm luật mà Quốc hội đã thông qua,quy trình đó không đơn thuần là một vấn đề kỹ thuật lập pháp mà còn bảo đảm dân chủ trong quá trình làm luật . Quy trình làm luật,một vấn đề mà bất cứ cơ quan Nhà nước nào hoặc người trình dự án khi xây dựng một văn bản luật cũng đều phải trình bày những cơ sở thực tế cho việc soạn thảo một dự án văn bản luật mới.Để trả lời được vấn đề trên một cách có căn cứ thì phải có điều tra xã hội học và sự tổng kết thực tiễn việc thi hành luật của các cơ quan và người trình dự án luật.Nhưng về phía Quốc hội,các Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội khi nghe trình bày những vấn đề trên,cũng phải có những quan điểm của mình chứ không phải nghe các báo cáo dự thảo.Nhưng khi muốn có căn cứ để xem xét,thẩm tra các dự án luật, Quốc hội,các Hội đồng ,Uỷ ban của Quốc hội phải dựa vào kết quả hoạt động giám sát của chính mình về những vấn đề văn bản dự thảo đề cập.Vì vậy,ở góc độ kỹ thuật và quy trình lập hiến,và lập pháp thì giám sát là một khâu không thể thiếu trong quá trình làm Hiến pháp và pháp luật.Nhưng thực tiễn cho thấy hoạt động giám sát vẫn còn là một khâu yếu,còn nhiều hạn chế,sự đổi mới còn chậm và hiệu quả chưa cao,do đó báo cáo thẩm tra của Uỷ ban còn thiếu cơ sở thực tiễn thi hành luật.Qua đó cho thấy,nếu như Quốc hội làm tốt các công tác giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đó chính là điều kiện để Quốc hội,các Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật một cách có căn cứ thực tế vững chắc,có tính thuyết phục,không phải bằng lập luận chung mà có số liệu thống kê,chứng cứ cụ thể và do đó có khả năng thuyết phục mạnh mẽ; vì thế giám sát nằm ngay trong quá trình lập hiến và lập pháp ,là một khâu không thể thiếu trong qua trình lập pháp.Ngoài ra,việc giám sát thực hiện một văn bản luật cũng giữ một vai trò quan trọng,điều đó thể hiện khi một văn bản luật ra đời.Khi một văn bản luật ra đời,để triển khai và áp dụng luật phải có hàng loạt các văn bản pháp quy do cơ quan Nhà nước khác ban hành.Do đó, cần phải kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp của những văn bản pháp quy xem có đúng quy định của luật mới ban hành hay không.Trong quy trình thực hiện và áp dụng luật,cần phải tăng cường hoạt động giám sát chặt chẽ thì mới kịp thời phát hiện được những thiếu sót,những mâu thuẫn trong văn bản luật mới thông qua và có biện pháp kịp thời sửa đổi,bổ sung luật.Điều đó có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong tình hình hiện nay của đất nước ta .
Trong quá trình xây dựng kế hoạch làm luật và pháp lệnh,Quốc hội phải dựa vào kết quả hoạt động giám sát để xem xét,cần tập trung xây dựngvăn bản luật nào là cần thiết nhất
- Đối với công tác giám sát,quyền lập hiến và lập pháp cũng giữ một vị trí quan trọng.Việc xây dựng Hiến pháp và luật chính là việc tạo ra cơ sở,căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát,nếu thiếu căn cứ này thì hoạt động giám sát sẽ mất đi tính mục đích...Chính vì vậy mà việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện để bảo đảm cho hoạt động giám sát được thực hiện một cách có hiệu quả và bảo đảm tính mục đích của hoạt động giám sát.Có thể nói,quyền lập pháp và việc bảo đảm thực hiện quyền đó là một trong những điều kiện không thể thiếu được trong hoạt động giám sát .
Tóm lại,không có một chuẩn mực,không có một thước đo để đánh giá, nhận xét về hoạt động của Chính phủ,Toà án nhân dân ,Viện kiểm sát nhân dân;vì vậy công việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện pháp luật là điều kiện để đảm bảo cho hoạt động giám sát có hiệu quả;do đó quyền lập pháp là một trong những điều kiện không thể thiếu trong hoạt động giám sát và hoạt động giám sát cũng tác động mạnh mẽ đến việc xây dựng pháp luật .
1.2. Quyền giám sát tối cao với những quyền quyết định những vấn đề quan trọng của Nhà nước .
Cùng với việc đẩy mạnh công tác lập pháp và hoạt động giám sát,Quốc hội ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét,quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.Việc“quyết định chính sách tài chính,tiền tệ quốc gia;quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và việc phân bổ ngân sách Trung ương,phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước;quy định,sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế ”(Điều 84, điểm 4,Hiến pháp 1992).
Theo chức năng,nhiệm vụ của mình,hàng năm Quốc hội đã xem xét quyết định nhiệm vụ kinh tế–xã hội , dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước.Việc chuẩn bị và thông qua các nghị quyết về nhiệm vụ và ngân sách Nhà nước luôn được quan tâm cải tiến,các chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu được cụ thể hoá để Quốc hội dễ thực hiện,dễ kiểm tra,dễ giám sát.Mà các quyền quyết định về tài chính là biểu hiện quyền lực của nhân dân về kinh tế,nhân dân thực hiện quyền lực đó thông qua Quốc hội .
Đối với quyền giám sát tối cao,quyền quyết định về những vấn đề ngân sách Nhà nước giữ một vai trò quan trọng gần như có tính chất quyết định đối với hiệu quả của công tác giám sát của Quốc hội vì:Thông qua hoạt động giám sát về việc sử dụng ngân sách Nhà nước của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Quốc hội nắm được thực trạng tình hình hoạt động của các cơ quan Nhà nước này.Có thể nói,Quốc hội chỉ thực sự có được quyền lực Nhà nước cao nhất khi Quốc hội thực sự nắm được quyền quyết định về những vấn đề tài chính và ngân sách.Thông qua việc thực hiện này,Quốc hội không chỉ kiểm tra,giám sát việc hoạt động của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà còn điều chỉnh những hoạt động đó theo nghị quyết của Quốc hội.Như vậy,một trong những điều kiện để bảo đảm cho quyền giám sát tối cao của Quốc hội được thực sự thực hiện và có hiệu quả thì Quốc hội phải thực hiện đúng và đầy đủ quyền quyết định ngân sách.
Tóm lại,quyền giám sát tối cao của Quốc hội mà thực hiện được thì cần phải có một khoản tiền lớn,nếu Quốc hội không thực hiện và giữ được quyền phân bổ ngân sách Nhà nước thì không thể tự quyết định được khoản chi cho hoạt động giám sát hàng năm của Quốc hội.Nếu hoạt động giám sát của Quốc hội khi thực hiện lại phụ thuộc vào điều kiện về tài chính do Chính phủ cấp thì không thể bảo đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát của Quốc hội được và ảnh hưởng lớn đến tính khả thi của kế hoạch và chương trình giám sát mà Quốc hội đề ra.Ngược lại ,quyền giám sát tối cao cũng có một vị trí và vai trò rất quan trọng đối với việc thực hiện quyền về ngân sách của Quốc hội.Để có thể quyết định một cách có căn cứ những vấn đề về tài chính và ngân sách Nhà nước,Quốc hội phải căn cứ vào những kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội nhất là giám sát việc thực hiện ngân sách Nhà nước của Chính phủ và những cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội chứ không thể chỉ căn cứ vào các báo cáo của những cơ quan Nhà nước kể trên .
1.3. Quyền giám sát của Quốc hội với quyền quyết định về tổ chức,bầu và bãi,miễn các chức vụ cao nhất của Nhà nước .
“Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội,các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao;phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm,miễn nhiệm,cách chức Phó thủ tướng,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ”( Hiến pháp 1992)
Chỉ trên cơ sở hoạt động pháp luật của Quốc hội,Quốc hội mới có căn cứ vững chắc để quyết định những vấn đề về tổ chức Nhà nước,về bầu và bãi ,miễn các chức vụ cao cấp của Nhà nước.Ngược lại quyền bầu,bãi miễn được bảo đảm,đó chính là sự thể hiện trực tiếp quyền lực của Quốc hội trong hoạt động giám sát .
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội là một bộ phận trong hệ thống thẩm quyền của Quốc hội,do đó mà nó có quan hệ chặt chẽ với tất cả các quyền khác của Quốc hội mà Hiến pháp quy định.Hoạt động giám sát là một trong những cơ sở quyết định những vấn đề mà Hiến pháp quy định thuộc thẩm quyền của Quốc hội.Ngược lại việc thực hiện các quyền khác là điều kiện làm cho quyền giám sát của Quốc hội được tôn trọng và được thực hiện
2. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,Pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác
2.1. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền thanh tra của Chính phủ
- Thanh tra,kiểm tra của Chính phủ là hình thức biểu hiện của quyền kiểm soát của Chính phủ đối với bộ máy các cơ quan,tổ chức,cá nhân trong xã hội nhằm bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung Ương đến cơ sở,theo phạm vi và lĩnh vực thuộc thẩm quyền
Theo Điều 1 của Pháp lệnh Thanh tra thì“Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước,là phương thức bảo đảm pháp chế,tăng cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước,thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Nhà nước được quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh Thanh tra.
- Xét về mặt chủ thể:Quyền Thanh tra thuộc về Chính phủ theo quy định của Điều 112 Hiến pháp 1992,đây là hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước,tự kiểm tra,giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong quá trình điều hành của Chính phủ
- Xét về mặt đối tượng:Theo quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh Thanh tra thì đối tượng của công tác Thanh tra là hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước từ cấp Bộ trở xuống .
- Xét về phương thức thực hiện và hiệu quả pháp lý:Thanh tra tiến hành theo những quy định của Pháp lệnh Thanh tra-Điểm phân biệt Thanh tra với kiểm sát ở đây là:Nếu có vi phạm pháp luật tới mức coi là tội phạm thì chỉ có Viện kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố và giữ quyền công tố Nhà nước còn Thanh tra thì chỉ xử lý các vi phạm pháp luật chưa đến mức coi là tội phạm trong hoạt động quản lý của cơ quan Nhà nước
2.2. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền Giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao .
- Về mặt chủ thể:Toà án tối cao giám đốc việc xét xử Toà án các cấp theo quy định tại Điều 18,luật Tổ chức Toà án nhân dân và theo quy định tại Điều 134,Hiến pháp năm 1992,như vậy,Toà án nhân dân tối cao là chủ thể của hoạt động giám đốc,tức là xem xét,kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động của cơ quan Nhà nước,vì nó quan hệ đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong quan hệ với Nhà nước.Nói một cách khác,giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt đông xét xử của Toà án là chức năng,nhiệm vụ của Toà án nhân dân tối cao,vì Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước
- Về mặt đối tượng chịu sự giám đốc:Căn cứ vào quy định của Hiến pháp 1992 Điều 134 thì đối tượng chịu sự giám sát mà ở đây gọi là giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao là hoạt động xét xử của các Toà án nhân dân các cấp , các toà án quân sự và toà án đặc biệt,trừ trường hợp các quy định khác của Quốc hội khi thành lập các Toà án đó
- Về phương thức thực hiện:Toà án nhân dân tối cao thực hiện quyền giám đốc theo quy định của Luật tố tụng hình sự và Luật tố tụng dân sự và những quy định khác do luật định khi thẩm quyền xét xử của Toà án được mở rộng.
- Về hiệu quả pháp lý:Theo luật định ,khi phát hiện có sai lầm và vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử,Toà án nhân dân tối cao có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ bản án của Toà án cấp dưới .
Như vậy luật quy định thẩm quyền xử lý các vi phạm Hiến pháp và luật trong hoạt động xét xử của Toà án là của Tòa án nhân dân tối cao và chỉ có Toà án nhân dân tối cao mới có quyền thay đổi quyết định của các bản án do Toà án cấp dưới đã tuyên khi xét thấy có vi phạm pháp luật.Quốc hội không phải là cơ quan xét xử và cũng không làm thay nhiệm vụ giám đốc của Toà án nhân dân tối cao.
Nhưng Quốc hội có quyền xét báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao và khi cần thiết Quốc hội có thể ra Nghị quyết về công tác của Toà án.Do đó,khi phát hiện những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án, qua việc kiểm tra tình hình thi hành pháp luật của các Toà án do các Uỷ ban của Quốc hội thực hiện,Quốc hội không trực tiếp thay đổi quyết định trong bản án đã tuyên,nhưng Quốc hội có quyền chất vấn Chánh án Toà án nhân dân tối cao về công tác xét xử của Toà án hoặc ra Nghị quyết đề nghị Toà án nhân dân tối cao phải xem xét lại các bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và báo cáo với Quốc hội
2.3.Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Về mặt chủ thể:“Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ , các cơ quan ngang Bộ,các cơ quan khác thuộc Chính phủ,các cơ quan chính quyền địa phương,tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội,đơn vị vũ trang và nhân dân”Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Điều 137,Hiến pháp 1992 .
- Về đối tượng chịu sự kiểm sát:Theo quy định của Hiến pháp thì đối tượng giám sát của Viện kiểm sát nhân dân rất rộng lớn,bao gồm hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước từ cấp Bộ trở xuống,các tổ chức xã hội,đơn vị vũ trang và công dân
- Về phương thức thực hiện:Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi thực hiện hoạt động kiểm sát phải tuân theo những quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Luật tố tụng
- Về hiệu quả pháp lý:Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong hoạt động của các đối tượng trên thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền khởi tố nếu có dấu hiệu tội phạm,kháng nghị hoặc kiến nghị đối với vi phạm pháp luật đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các vi phạm pháp luật đó
Như vậy,Quốc hội không phải là cơ quan thực hiện việc kiểm sát tính hợp hiến,hợp pháp trực tiếp đối với mọi hoạt động của từng công dân...đó là công việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao , nhưng hiện nay , chức năng kiểm sát chung đã được chuyển cho Quốc hội.
Tóm lại,giám sát,kiểm sát,giám đốc là những thuật ngữ khác nhau để chỉ hoạt động giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của những cơ quan Nhà nước có vị trí pháp lý khác nhau.Chúng có đối tượng giám sát và phương thức thực hiện,hiệu quả pháp lý khác nhau.Cần phân biệt hoạt động giám sát của Uỷ ban của Quốc hội khi Uỷ ban đó đi kiểm tra tình hình thực tế việc thi hành pháp luật với hoạt động kiểm sát và giám đốc ở chỗ:cũng đều là kiểm tra,xem xét nhưng các Uỷ ban của Quốc hội không làm thay nhiệm vụ cho các cơ quan chức năng của Nhà nước và cũng không trực tiếp giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật cụ thể,mà các Uỷ ban của Quốc hội chỉ thu thập tài liệu,đưa ra các kiến nghị để các cơ quan chức năng của Nhà nước thực hiện. Mặt khác,đó là cơ sở để giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát trực tiếp của mình .
Sự khác nhau cơ bản giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với thẩm quyền kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan Nhà nước là ở phạm vi,đối tượng chịu sự giám sát và ở thẩm quyền xử lý các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.Các cơ quan Nhà nước khác có quyền kiểm tra xử lý các vi phạm Hiến pháp và pháp luật,đó là sự phân công phân cấp rành mạch trong hoạt động quản lý xã hộ của Nhà nước.Nhưng quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật cao nhất thuộc về Quốc hội.Quốc hội không làm thay chức năng,nhiệm vụ của những cơ quan Nhà nước khác nhưng Quốc hội có quyền kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước đó và nếu phát hiện có sự vi phạm Hiến pháp và pháp luật trong xã hội chưa được các cơ quan Nhà nước xử lý thì Quốc hội có quyền yêu cầu các cơ quan chức năng của Nhà nước giải quyết theo thẩm quyền và phải báo cáo trước Quốc hội.Nếu các cơ quan Nhà nước đó không thực hiện những Nghị quyết của Quốc hội thì Quốc hội xử lý những vi phạm Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan(Thủ trưởng cơ quan)theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.Đó là cách tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực giám sát của Nhà nước ta
CHƯƠNG II
Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước cộng hòa xã hộichủ nghĩa Việt Nam,nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội
I. Những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Hiến pháp 1992.
Hiến pháp 1992 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/ 4 / 1992 và được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố ngày 18/ 4 1992,Bản Hiến pháp mới này của Nhà nước ta ra đời trong điều kiện lịch sử trọng đại,nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế–xã hội.Kế thừa và phát triển tính ưu việt của ba bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá đường lối cách mạng đổi mới của Đảng ta mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 7 đề ra thành những quy định của Hiến pháp,trong đó có những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Vị trí pháp lý và chức năng của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Hiến pháp 1992 quy định tại Điều 83:
“ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền lập hiến và lập pháp
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại nhiệm vụ kinh tế-xã hội,quốc phòng,an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước,về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của đất nước”. Quy định trên khẳng định nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất và tập trung trong tay toàn thể nhân dân,nhân dân thực hiện quyền lực đó thông qua cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình là Quốc hội.Điều đó thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta là Nhà nước của dân,do dân và vì dân.Quy định trên của Hiến pháp 1992 về cơ bản không có gì mới so với Hiến pháp 1980 nhưng ý nghĩa quan trọng cuả nó là ở chỗ:nó khẳng định tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta có đổi mới và là một sự đổi mới sâu sắc nhưng có nguyên tắc,và những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước,trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- LêNin về Nhà nước vẫn được Đảng ta tôn trọng.
Chính vì vậy,theo quy định trên,Quốc hội nước ta vẫn là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và quyền giám sát tối cao là một bộ phận cấu thành quyền lực Nhà nước của Quốc hội được Hiến pháp 1992 khẳng định
Để thực hiện quyền giám sát tối cao với tư cách là một bộ phận quyền lực Nhà nước như đã trình bày ở tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước,tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế,đơn vị vũ trang và công dân.Do đó bằng quy định của Hiến pháp và luật,Quốc hội phân định quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật có những cơ quan Nhà nước khác nhau theo đúng tinh thần cuả Nghị quyềt đại hội Đảng lần thứ XII là:Tập trung thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công rành mạch giữa các cơ quan Nhà nước.Đó là một bước tiến để xây dựng một Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Quốc hội chỉ giữ lại thẩm quyền giám sát của mình đối với hoạt động của Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao .
Để giám sát tính hợp hiến và trong hoạt động Chính phủ, Chủ tịch nước,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Hiến pháp 1992 quy định tại Điều 84,điểm 2,Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn:"Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp,Luật và Nghị quyết của Quốc hội;xét báo cáo của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao "
- Tại Điều 91,điểm5,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền:"giám sát việc thi hành Hiến pháp,luật,Nghị quyết của Quốc hội,pháp lệnh,Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;giám sát hoật động của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao…"
- Tại Điều 94 và Điều 95:Các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội có quyền thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhệm vụ,quyền hạn do luật định,kiến nghị những vấn đề thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban.Đây là một điểm mới rất quan trọng trong quy định của Hiến pháp 1992 về quyền giám sát của các Uỷ ban.Theo Hiến pháp 1980,các Uỷ ban chỉ có quyền giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước trong hoạt động giám sát,cùng với quy định trên của Hiến pháp 1992 các Uỷ ban có quyền giám sát theo luật định.Quy định này nhằm tăng cường vị trí và vai trò của các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội trong công tác giám sát.Đó là sự tổng kết,đúc kết kinh nghiệm thực tế giám sát của Quốc hội từ 1980 trở lại đây .
- Tại Điều 98:"Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội,Thủ tướng Chính phủ…Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước,tổ chức xã hội , tổ chức kinh tế,đơn vị vũ trang trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội quan tâm".Quyền chất vấn và yêu cầu của Đại biểu Quốc hội là một trong những quyền hạn quan trọng để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình đối với các cơ quan Nhà nước nói trên .
Để giám sát tính hợp hiến hợp pháp của các văn bản pháp quy do Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Hiến pháp 1992 quy định:
- Tại Điều 84, điểm 9 : Quốc hội có quyền:"Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội"
- Tại Điều 91,điểm 5:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền:"Đình chỉ các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội huỷ bỏ các văn bản đó;huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội "
Để bảo đảm cho các Nghị quyết của Quốc hội trong hoạt động giám sát được nghiêm,chỉnh chấp hành,Hiến pháp 1992 có những quy định sau :
- Tại Điều 84,điểm 4;Quốc hội có quyền"quyết định chính sách tài chính,quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước,phê chuẩn và quyết toán ngân sách Nhà nước…"và tại Điều 100:"Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội". Đây là một quyền rất quan trọng của Quốc hội,Quốc hội muốn nắm được thực sự quyền lực Nhà nước thì trước hết phải nắm được ngân sách Nhà nước.Trong quy định của điểm 4 Điều 84,Quốc hội còn có quyền phân bổ ngân sách Nhà nước,đó là một quy định mới so với quy định của Hiến pháp 1980 về vấn đề này.Giám sát việc sử dụng ngân sách là một hoạt động giám sát chặt chẽ và có hiệu quả nhất trong hoạt động giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.Bằng việc phân bổ ngân sách Nhà nước,Quốc hội buộc các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của mình theo luật định phải báo cáo hoạt động của họ trước Quốc hội và phải thuyết trình được chương trình và kế hoạch ngân sách trong hoạt động của họ và do đó,các cơ quan phải chấp hành nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Quốc hội nếu họ muốn Quốc hội duyệt và cấp ngân sách Nhà nước cho hoạt động của họ .
- Tại Điều 84 điểm7:Quốc hội có quyền "Bầu, miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội,các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh,phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm,miễn nhiệm,cách chức Phó Thủ tướng,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ".
- Tại Điều 91,điểm 8:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền"Trong thời gian Quốc hội không họp,phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,cách chức Phó Thủ tướng,Bộ trưởng,các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội
Những quy định trên nhằm bảo đảm cho các Nghị quyết của Quốc hội phải được các cơ quan Nhà nước tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.Nếu có sự vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp,luật,Nghị quyết của Quốc hội trong hoạt động của cá nhân người giữ các chức vụ nói trên hoặc trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước do những người có chức vụ nói trên phụ trách thì họ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Quốc hội và bị xử lý theo quy định trên .
Ngoài ra,để đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện và đẩy mạnh,Hiến pháp 1992 quy định về các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội có một số thành viên hoạt động chuyên trách theo Điều 94 và Điều 95 của Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 cũng không có quy định về việc Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm Nội các như Hiến pháp 1946 với những lý do mà chúng tôi đã trình bày ở phần Hiến pháp 1980.Những quy định trên của Hiến pháp 1992 được Luật Tổ chức Quốc hội cụ thể hoá để có thể thực hiện được quyền giam sát tối cao của Quốc hội trong thực tế .
Còn đối với những đối tượng khác cần phải giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,bằng quy định của Hiến pháp 1992,Quốc hội phân định thẩm quyền giám sát đó cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo quy định của Điều 137 và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội theo quy định của Điều 139;Quốc hội giao quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và luật trong hoạt động xét xử của Toà án cho Toà án nhân dân tối cao theo quy định của Điều 134 và Chánh án Toà án nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội theo quy định của Điều 135;Quốc hội giao quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động quản lý của Chính phủ cho Chính phủ theo quy định của Điều 112,điểm 7 và Thủ tướng Chính phủ phải báo cáo trước Quốc hội theo Điều 110 .
Những quy định trên của Hiến pháp 1992 về quyền giám sát tối cao của Quốc hội cho thấy quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã xác định đúng vị trí và tầm quan trọng của nó trong hệ thống các quyền của Quốc hội và Hiến pháp 1992 đã có những quy định rõ,cụ thể,chính xác những quyền hạn cụ thể để Quốc hội có thể thực hiện được đúng quyền giám sát tối cao của mình theo luật định .
Nghị quyết về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:
Điều 84 được sửa đổi ,bổ sung như sau :
“4 – Quyết định chính sách tài chính,tiền tệ quốc gia;quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương,phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước ;quy định,sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế ;”
“5 – Quyết định chính sách dân tộc,chính sách tôn giáo của Nhà nước ;”
“7–Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội,các Phó chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh;bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn ;”
“13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại;phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký;phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước ;”
Điều 137 được bổ sung sửa đổi như sau:
“ Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất .
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương,các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.”
II. Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997 đến năm 2002 và những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hoạt động giám sát của Quốc hội
1. Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997 đến năm 2002.
A. Về hoạt động giám sát của Quốc hội .
" Giám sát là một nhiệm vụ hết sức quan trọng,được Quốc hội ,các cơ quan của Quốc hội tích cực thực hiện,có bước đổi mới về cả nội dung,hình thức.Quốc hội , các cơ quan của Quốc hội đã quan tâm tiến hành giám sát khá toàn diện về việc thực hiện đường lối,chính sách của Đảng được t._. hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội phải do Quốc hội quyết định vì hai lý do:Thứ nhất,việc quyết định cần tập trung hoạt giám sát của Quốc hội vào vấn đê gì phải đươc các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua và đó là sự thể hiện quyền lực của nhân dân trong lĩnh vực giám sát. Thứ hai,công tác giám sát có quan hệ chặt chẽ với công tác lập pháp,là một khâu không thể thiếu trong hoạt động lập pháp của Quốc hội như trên đã trình bày do đó kế hoạch lập pháp hàng năm của Quốc hội không thể tách rời kế hoạch giám sát hàng năm đó.Và vấn đề cuối cùng là Quốc hội cần quyết định vấn đề tài chính chi cho hoạt động lập pháp và hoạt động giám sát của Quốc hội.Nếu không có kế hoạch và dự trù ngân sách cho hoạt động giám sát trong năm đó thì kế hoạch đó thiếu đi một điều kiện quan trọng để triển khai thực hiện.Cũng như chương trình,kế hoạch xây dựng luật,chương trình hoạt động giám sátcủa Quốc hội cần được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị và Quốc hội thông qua.Chương trình,kế hoạch đó phải ghi rõ:những vấn đề cần tập trung giám sát trong năm,người và cơ quan thực hiện,thời gian thực hiện, kinh phí và phương tiện để thưc hiện kế hoạch đó . Trên cơ sở của chương trình đó,mỗi Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội cần có trình và kế hoạch giám sát của Hội đồng và Uỷ ban trong phạm vi giám sát mà luật đã quy định .
Mặt khác,cần tăng cường số lần họp trong một năm của Quốc hội và thời gian của mỗi kỳ họp cũng phải kéo dài hơn.Như chúng ta đã biết,Quốc hội của các nước khác có thời gian họp kéo dài hơn thời gian họp của nước ta rất nhiều.Trong điều kiện kinh tế–xã hội như nước ta hiện nay,nhất là số đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm vẫn là chủ yếu thì việc kéo dài quá thời gian họp của mỗi kỳ họp hoặc có quá nhiều kỳ họp trong một nămlà điều khó có thể thực hiện được.Vì vậy trước mắt cần tăng số lượng các kỳ họp Quốc hội trong một nămtừ hai lên ba lần và thời gian của mỗi kỳ họp có thể kéo dài tới một tháng.Thực tiễn hoạt động của Quốc hội khoá IX trong năm 1992 cho ta thấy hoàn toàn có thể thực hiện được vấn đề trên.Trong công cuộc đổi mới ở nước ta,chế độ hoạt động kiệm nhiệm của đại biểu Quốc hội và số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm sẽ còn tồn tại lâu dài và vì vậy,khả năng kéo dài thời gian họp Quốc hội như ở các nước khác là điều rất khó thực hiện.Do đó,giải pháp thực tế nhất là tăng dần số kỳ họp Quốc hội trong một năm lên tới bốn lần thì có thể tiến tới đạt được những yêu cầu khách quancủa hoạt động giám sát của Quốc hội .
- Theo quy định của luật Tổ chức Quốc hội thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội,thẩm quyền giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được quy định trong luật khá rõ như đã trình bày ở trên.Nhưng theo luật định,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng chưa có thẩm quyền quyết định tính hợp hiến , hợp pháp trong hoạt động thực tiễn và trong các văn bản pháp quy của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương.Cùng với việc tăng số lượng các kỳ họp của Quốc hội trong một năm nên hướng của Quốc hội là tăng thẩm quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát.Trước đây , theo quy định của Hiến pháp 1946 thì ban thường trực Quốc hội đã có quyền biểu quyết thông qua các sắc luật của Chính phủ.Đó chính là sự giám sát trực tiếp tính hợp hiến,hợp pháp trong các văn bản pháp quy do Chính phủ ban hành .Vì vậy,việc tăng thẩm quyền giám sát cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội không phải là một vấn đề mới . Trong tình hình xây dựng văn bản pháp luật như ở nước ta hiện nay thì văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đóng một vai trò rất quan trọng.Chính những văn bản pháp quy đó đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội.Do đó cần quy định trong Hiến pháp và pháp luật thêm thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Uỷ ban thườngvụ Quốc hội có quyền xét và quyết định về tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan nhà nước nói trên ban hành và trình Quốc hội phê chuẩn.Cần sớm khắc phục tình trạng thực tế hiện nay là các văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao không được Quốc hội giám sát chặt chẽ .
- Về thẩm quyền và phương pháp giám sát của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội tuy đã được luật định khá rõ nhưng thực chất các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội vẫn là giúp Quốc hội giám sát vì các uỷ ban chỉ có quyền kiến nghị chứ chưa có quyền quyết định và xử lý những đối tượng chịu sự giám sát của các Uỷ ban theo luật định .
Cần tăng cường hơn nữa thẩm quyền giám sát của các Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để phát huy tính độc lập,năng động trong hoạt động giám sát của các Uỷ ban của Quốc hội.Có thể quy định cho cho các Uỷ ban của Quốc hội có quyền đình chỉ việc thự hiện các văn bản pháp quy của Chính phủ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân và trình Quốc hội và quyết định tính hợp hiến , hơ pháp trong các văn bản pháp quy.Tất nhiên đó chỉ là những văn bản pháp quy về những vấn đề của Uỷ ban đó có quyền giám sát theo luật định .
- Vấn đề thành lập Uỷ ban giám sát của Quốc hội .
Có các ý kiến thành lập một cơ quan mới của Quốc hội để thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội gọi là Uỷ ban giám sát của Quốc hội.Trong thời gian Quốc hội,Uỷ ban này có thể giải quyết những vấn đề nói trên.Vấn đề này theo điều tra xã hội học của Trường hành chính Trung ương thì :
“ a, Lập Hội đồng bảo vệ tính hợp hiến :
+ Nên:261 phiếu 54 %
+ Chưa:79 phiếu 16 % .”
- Quan điểm của chúng tôi là:Trong điều kiện của nước ta khi chưa thành lập được Toà án Hiến pháp thì cần có Uỷ ban giám sát Hiến pháp có chức năng, quyền hạn giống như Toà án Hiến pháp ở các nước khác chủ yếu là hai chức năng:
- Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp, quyết định về tính hợp Hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy do Chính phủ,Chủ tịch nước,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trong thời gian Quốc hội không họp và không chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội
- Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,lúc Quốc hội không họp,giải quyết những tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan Nhà nước;Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao:giải quyết những khiếu nại về tính hợp hiến,hợp pháp trong các văn bản pháp quy mà cơ quan Nhà nước nói trên không đồng ý với Nghị quyết và kiến nghị cua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội
Trong quá trình soạn thảo Hiến pháp 1992,cũng có nhiều ý kiến muốn thành Hội đồng giám sát Hiến pháp với chức năng quyền hạn trên.Chúng tôi nhận thấy quan điểm đó có nhiều điểm hợp lý sau:
Một là:Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức năng và quyền hạn của Quốc hội,cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội đảm nhận vì:thứ nhất,bất kỳ một công việc nào cũng có sự chuyên môn hoá cao mới có khả năng làm tốt công việc;thứ hai việc chia nhỏ một chức năng giám sát cho những cơ quan của Quốc hội đảm nhận là một điều rất hạn hữu trong khoa học quản lý vì càng nhiều đầu mối thì bộ máy càng phình ra, khó theo dõi và điều hành công việc.Quốc hội có Uỷ ban của pháp luật tại sao không có Uỷ ban giám sát? Phải chăng giám sát bị coi nhẹ .
Hai là:Công tác lập pháp tuy ngày được đẩy mạnh nhưng xã hội ta đang vận động nhanh,mạnh theo cơ chế thị trường.Cần giám sát kịp thời bổ sung,sửa luật cho phù hợp vói thực tiễn xã hội.Nếu chậm thì tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế,xã hội không phải là nhỏ.Nếu cứ như cơ chế hiện nay thì không đáp ứng được yêu cầu của Quốc hội không thể cứ luôn luôn họp bất thường chỉ để sửa luật hoặc đình chỉ việc thi hành đạo luật nào đó .
Ba là:Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công,phân cấp rành mạch,tức là mỗi cơ quan Nhà nước làm việc theo quyền hạn do luật định.Vì vậy Quốc hội tuy là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao nhưng cũng phải làm theo luật kể cả trong hoạt động giám sát nếu Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao…cho là mình không vi phạm Hiến pháp,không đồng ý với các kết luận của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thì họ cũng phải được trình bày trước Quốc hội và Quốc hội có cơ quan giám sát là Uỷ ban giám sát Hiến pháp để giải quyết những vấn đề trên.Hội đồng giám sát Hiến pháp tuy chưa phải là cơ quan tài phán như Toà án Hiến pháp của một số nước tư sản nhưng là cơ quan giúp Quốc hội giải quyết những vấn đề trên.
1.2. Đổi mới phương pháp giám sát của Quốc hội .
Như trên đã trình bày để giám sát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước theo quy định của luật Quốc hội sử dụng những phương pháp sau:xét báo cáo,chất vấn,kiểm tra thực tế giải quyết đơn thư và thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.Những phương pháp trên cần đổi mới theo phương hướng :
- Báo cáo là một hình thức cung cấp thông tin bằng văn bản của các cơ quan Nhà nước đến với Quốc hội.Báo cáo giúp Quốc hội nắm được thông tin chính xác,đầy đủ kịp thời tình hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi giám sát của Quốc hội.Mặt khác chế độ báo cáo là một hình thức quan trọng trong việc nhắc nhở và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước Quốc hội về việc thực hiện các chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước đó.Để đáp ứng được yêu cầu của Quốc hội là có được thông tin chính xác đầy đủ và kịp thời củacác cơ quan Nhà nước cần quy định trong luật về chế độ báo cáo,hình thức báo cáo,những quy định về nội dung,hình thức và số lượng của văn bản báo cáo,quy trình thẩm tra báo cáo và quy định về trách nhiệm nếu báo cáo không đạt tiêu chuẩn như thông tin sai lệch,thông tin không đầy đủ,thông tin chậm .
- Về chế độ báo cáo:nên quy định rõ phải có ba chế độ báo cáo là:báo cáo thường kỳ hàng năm trong kỳ họp Quốc hội;báo cáo thường kỳ hàng tháng, hàng quý cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp,báo cáo khi có sự kiện chính trị,kinh tế–xã hội tác động lớn đến đời sống xã hội khi Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu hoặc do chính các cơ quan Nhà nước yêu cầu theo quy định của luật
- Về hình thức báo cáo,yêu cầu về một bản báo cáo:tất cả các báo cáo đều phải dưới hình thức văn bản,có chữ ký và con dấu của cơ quan báo cáo.Nếu là báo cáo thường kỳ thì nội dung của bản báo cáo phải cung cấp đầy đủ thông tin về hoạt động của các cơ quan Nhà nước theo chức năng , quyền hạn mà luật quy định(cần quy định những mẫu báo cáo cả về nội dung và hình thức).Cần ấn định số lượng báo cáo tuỳ theo sự cần thiết cho người đọc báo cáo đó.Cần quy định về thời gian phải nộp báo cáo.Nếu là báo cáo khác thì do Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu.Nội dung các báo cáo nhất thiết phải có mục:chi tiêu khoản ngân sách mà Nhà nước cấp cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước đó , vì giám sát được tình hình tài chính thì cũng giám sát được toàn bộ hoạt động của cơ quan đó(hoạt động thì phải có tiền).Mặt khác,nội dung báo cáo phải có sự phân tích tình hình,nguyên nhân,quy kết trách nhiệm và phương hướng khắc phục .
- Về cách thẩm tra báo cáo:sau khi nhận được báo cáo,những người và cơ quan có thẩm quyền đọc,xem xét và cần trao đổi trước những vấn đề cần hỏi, góp ý cho báo cáo sau đó mới mời cơ quan có báo cáo đến trình bày xét thấy cần thiết.Khi họp để thẩm tra,không cần cơ quan đó đọc lại bản báo cáo mà chỉ trả lời những vấn đề mà những người,cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.Cũng có thể không cần họp mà chỉ trao đổi bằng văn bản.Nếu thấy cần thiết,có thể đi thực tế kiểm tra những điểm mà báo cáo chưa nêu rõ hoặc có những mâu thuẫn với những thông tin khác thu nhận được qua đơn thư hoặc phương tiện thông tin đại chúng.Có thể công khai nội dung của các báo cáo trước công luận nếu xét thấy cần thiết .
- Về trách nhiệm ngoài những quy định của bộ luật hình sự thì cần quy định trách nhiệm của những người và cơ quan báo cáo khi báo cáo chậm thông tin không chính xác,không đầy đủ,không kịp thời .
- Chất vấn là một phương pháp giám sát rất quan trọng của Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội,Hiến pháp…đã có nhiều quy định rõ và chặt chẽ về vấn đề này . Tuy nhiên cần bổ sung một số điểm:Về hình thức chất vấn:nên quy định và phân loại nội dung,vấn đề nào thì bắt buộc phải chất vấn bằng văn bản,vấn đề nào có thể bằng văn bản hoặc bằng lời nói để nâng cao trách nhiệm và chất lượng của nội dung chất vấn của các đại biểu Quốc hội .
Về trách nhiệm và hình thức trả lời chất vấn:cần quy định mọi chất vấn phải được trả lời công khai trước đại biểu Quốc hội trong kỳ họp Quốc hội bằng văn bản nếu đó là chất vấn bằng văn bản hoặc có thể bằng lời nói nếu chất vấn được thể hiện bằng lời nói.Nếu không phải trong kỳ họp thì phải bắt buộc trả lời bằng văn bản và văn bản này phải được gửi tới tất cả các đại biểu Quốc hội .
Nên quy định về tranh luận công khai trong kỳ họp Quốc hội nếu như nội dung các chất vấn không trả lời đầy đủ và chính xác,nếu như đại biểu có chất vấn đưa ra lý lẽ và chứng cứ chứng minh một điểm nào đó trong báo cáo hoặc trong nội dung trả lời chất vấn của cơ quan có báo cáo và bị chất vấn thì người đứng đầu cơ quan Nhà nước đó phải có trách nhiệm trả lời.Có thể tiến tới áp dụng chế định đối thoại trong một tương lai không xa để tăng cường trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan Nhà nước Trung ương về hoạt động của các cơ quan đó trước Quốc hội .
- Về kiểm tra thực tế của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của các Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội hoặc Uỷ ban lâm thời do Quốc hội thành lập .
Kiểm tra thực tế là một phương pháp để xem xét lại những thông tin Quốc hội nhận được có chính xác và đầy đủ không.Muốn đạt được mục đích đó,Quốc hội cần có quy định trong luật về chế độ kiểm tra,các hình thức đi kiểm tra, trình tự và thẩm quyền kiểm tra .
- Về chế độ kiểm tra nên có chế độ kiểm tra thường kỳ với mục đích định ra thời hạn kiểm tra trong một năm đối với các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội.Việc kiểm tra thường kỳ có thể thông báo trước cho các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội biết trước và chuẩn bị báo cáo .
Mặt khác,khi cần thiết Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có thể đi thực tế địa phương , kiểm tra những vấn đề mà Quốc hội xét thấy cần phải thẩm tra.Với chế độ kiểm tra đó,Quốc hội đã đặt các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội vào tình trạng hoạt động trong sự giám sát,kiểm tra thường xuyên của Quốc hội chứ không phải chỉ đến kỳ họp Quốc hội các cơ quan Nhà nước trên mới bị đặt trong tình trạng bị giám sát .
- Về hình thức kiểm tra:có thể là kiểm tra trước hoặc kiểm tra sau khi Quốc hội nhận được báo cáo.Việc kiểm tra của Quốc hội không thể như hoạt động giám sát của Viện kiểm sát nhân dân hoặc hoạt động thanh tra của Chính phủ. Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đi thực tế địa phương trước hết là nghe các cơ quan Nhà nước ở địa phương báo cáo,đặt ra những câu hỏi cần thiết và đến xem tình hình thực tế,có thể tiếp xúc với cử tri và nghe tâm tư,tình cảm, nguyện vọng của cử tri.Việc kiểm tra nhằm mục đích thu nhận thông tin chính xác chứ không phải xử lý tình huống.Những thông tin đó làm cơ sở thực tế cho việc chất vấn các cơ quan chức năng có thẩm quyền của Nhà nước về những vấn đề chưa chính xác trong báo cáo của các cơ quan Nhà nước đó .
Về trình tự và thẩm quyền kiểm tra và trách nhiệm của những cơ quan Nhà nước cung cấp thông tin : hiện nay chưa có những quy định cụ thể về vấn đề này,cần phải xây dựng những quy định đó để phân định hoạt động đi thực tế, kiểm tra của các cơ quan của Quốc hội khác với hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và hoạt động thanh tra của Chính phủ .
Về việc giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân và việc thu thập thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng .
Hiện nay,Quốc hội chưa có một cơ quan chuyên trách đảm nhận công việc này , việc giải quyết các đơn thư khiếu nại của nhân dân do các Uỷ ban của Quốc hội đảm nhận trong phạm việc giám sát của Uỷ ban đó.Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay , vấn đề mở rộng dân chủ đòi hỏi những đơn thư của công dân gửi đến Quốc hội cần phải được xử lý kịp thời.Vì vậy cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội đảm nhận việc này,có thể thành lập cơ quan đó với tên gọi là Thanh tra Quốc hội.Thanh tra Quốc hội có chức năng, nhiệm vụ tiếp nhận và xử lý các đơn , thư của công dân gửi đến Quốc hội,theo dõi tình hình mọi mặt của đời sống xã hội qua các phương tiện thông tin đại chúng để nghiên cứu,kiến nghị những biện pháp cần thiết đối với những việc việc phạm pháp luật nghiêm trọng,ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội xét về bản chất,Thanh tra Quốc hội cũng có thể có tên gọi khác là Uỷ ban dân nguyện của Quốc hội vì cơ quan đó cũng là giúp Quốc hội trong việc thực hiện chức năng,nhiệm vụ của Quốc hội,Thanh tra Quốc hội cũng có thể tổ chức và hoạt động như các Uỷ ban khác của Quốc hội nhưng chỉ trong lĩnh vực giải quyết các đơn thư khiếu nại của nhân dân và thu thập tin tức về tình hình thi hành pháp luật được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng .
Những phương pháp trên chủ yếu là dùng để giám sát hoạt động thực tế của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi giám sát của Quốc hội.Nhưng cũng có thể áp dụng để thực hiện việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước trên ban hành.Tuy nhiên,để đạt được điều đó thì cần quy định trong việc báo cáo bằng văn bản,các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội phải cung cấp và báo cáo về những văn bản do cơ quan Nhà nước đó ban hành.Trong các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội phải có một bộ phận chuyên trách để theo dõi và nghiên cứu những văn bản pháp quy đó .
2 . Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điểu kiện làm việc của đại biểu trong công tác giám sát .
Để thực hiện được nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp,pháp luật và nghị quyết của Quốc hội,cả đại biểu Quốc hội cần đáp ứng được những yêu cầu sau :
- Phải thực sự là người đại diện cho ý chí của nhân dân .
- Phải am hiểu thực tế sâu sắc về lĩnh vực mà mình giám sát
- Phải hiểu biết sâu sắc về Hiến pháp , luật , Nghị quyết của Quốc hội về những vấn đề mà mình giám sát
Về vấn đề này,luật bầu cử đại biểu Quốc hội mới được Quốc hội thông qua ngày 15/4/1992 và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã có những đổi mới đáng kể so với luật bầu cử cũ. uật bầu cử đại biểu Quốc hội mới rất chú trọng đến chất lượng và tiêu chuẩn của đại biểu.Điều 3,luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:“đại biểu Quốc hội phải là người trung thành với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới,làm cho dân giầu,nước mạnh, có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,có phẩm chất và đạo đức tốt,gương mẫu chấp hành pháp luật,được nhân dân tín nhiệm”đây là quy định mới của luật,tuy chưa thể khái quát hoá được trình độ và năng lực làm nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội là trình độ và năng lực về vấn đề gì,nhưng luật cũng thể hiện sự cần thiết phải nâng cao năng lực,trí tuệ của đại biểu Quốc hội vì xét đến cùng,năng lực,trí tuệ của đại biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội,vì đại biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả giám sát của Quốc hội,vì đại biêủ Quốc hội là người trực tiếp thay mặt cử tri thực hiện quyền lực Nhà nước .
Năng lực trí tuệ của đại biểu Quốc hội bao gồm rất nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong hoạt động giám sát đại biểu Quốc hội cần có trình độ hiểu biết về lý luận và thực tiễn về vấn đề mà mình giám sát và trình độ biểu biết về luật,Nghị quyết của Quốc hội về những vấn đề mình tham gia giám sát.Mỗi đại biểu Quốc hội có một trình độ và năng lực hiểu biết về lý luận và thực tế khác nhau nhưng để giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đòi hỏi đại biểu Quốc hội nào cũng phải nắm vững nội dung Hiến pháp và luật mà Quốc hội đã thông qua.Nhưng không phải đại biểu nào cũng đều là luật gia,do đó Quốc hội cần có những hình thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ luật cho đại biểu,ở các nước tư sản cũng không phải mọi nghị sĩ Quốc hội đều có bằng cử nhân luật,vấn đề là cách giải quyết.Trong quy chế của đại biểu Quốc hội nên có những quy định về hình thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ pháp luật của đại biểu Quốc hội.Các hình thức đó là:
- Đại biểu Quốc hội phải được cung cấp đầy đủ tư liệu và tài liệu về những dự án luật và luật đã có hiệu lực pháp luật.Cần có những hình thức phong phú để đại biểu tham gia vào việc thảo luận và tham gia thông qua luật và nhất là phải được các Uỷ ban của Quốc hội thuyết trình về những dự án luật đó .
- Cần tổ chức những lớp học ngắn Nhà nước hạn để đại biểu Quốc hội được học tập một cách có hệ thống về những văn bản luật,về Hiến pháp và luật Tổ chức bộ máy Nhà nước .
- Về chế độ và điều kiện làm việc của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội cũng có những đổi mới rõ nét , nhất là vấn đề đại biểu Quốc hội làm việc chuyển trách,theo quy định tại Điều 37 của luật:“trong số các đại biểu Quốc hội,có những đại biêủ làm việc chuyên trách và có đại biểu làm việc theo ché độ không chuyên trách.Số lượng đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội quyết định”và Điều 52:“lương và các khoản phụ cấp khác của đại biểu Quốc hội do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định.”
- Về vấn đề thứ nhất,quan niệm của chúng tôi là Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,các Uỷ ban,Hội đồng của Quốc hội phải do các đại biểu Quốc hội làm việc chuyên trách đảm nhận vì:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội được luật quy định rõ thẩm quyền và nhiệm vụ kể cả nhiệm vụ giám sát,để thực hiện được nhiệm vụ giám sát,các cơ quan trên của Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không làm việc theo chế độ thủ trưởng như trong cơ quan hành chính của Nhà nước.Do đó ,để đảm bảo cho các cơ quan này của Quốc hội hoàn thành nhiệm vụ của mình,đưa ra dựoc những kiến nghị đúng và kịp thời thì thành viên của những cơ quan đó phải là chuyên trách.Nếu tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm quá nhiều thì không đảm bảo sự hoạt động thường xuyên của các cơ quan đó được;mỗi Uỷ ban và Hội đồng có một lĩnh vực giám sát chuyên sâu.Nếu không chuyên môn hoá cao thì ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định và kiến nghị của Uỷ ban.
- Vấn đề thứ hai,trong khi Nhà nước ta chưa có cải cách căn bản về chế độ tiền lương thì quy định như ở trong luật là một giải pháp đúng.Tuy nhiên ,vì đây là vấn đề cấp bách cần phải giải quyết do đó cũng cần tham khảo thêm về vấn đề này ở một số nuớc .
Trong điều kiện ở nước ta thì nên để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định về vấn đề lương của đại biểu còn phụ cấp của đaị biểu thì nên lấy từ ngân sách hoạt động của Quốc hội,tuỳ theo yêu cầu và kế hoạch hoạt động hàng năm của Quốc hội mà Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có thể ra những quyết định khác nhau về vấn đề này :
Để đại biểu Quốc hội làm được nhiệm vụ giám sát,Hiến pháp 1992 còn quy định hai vấn đề quan trọng nữa là:Quyền được thông tin của đại biểu Quốc hội theo Điều 100 Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức quy định ở Điều 46
Trong điều kiện ở nước ta,luật cần quy định trách nhiệm Chính phủ phải thông tin cho đại biểu Quốc hội chứ không nên quy định như trong Điều 46 của luật hiện nay nhất là đối với hoạt động giám sát của Quốc hội.Nên quy định Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao…phải gửi tài liệu (trước hết là:các văn bản pháp quy do các cơ quan đó ban hành ,các tài liệu tham khảo và các tạp chí thông tin của các cơ quan đó)về thư viện của Văn phòng Quốc hội có nhiệm vụ in và chuyển đến các đại biểu Quốc hội những tài liệu nói trên và lưu trữ một phần ở thư viện của Văn phòng Quốc hội .Thực tế nhiều năm qua cho thấy,vì không có quy định này,nên thư viện của Văn phòng Quốc hội không có những tư liệu nói trên để phục vụ hoạt động của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội cũng không thể biết những cơ quan Nhà nước nói trên đã ban hành những văn bản nào mà yêu cầu.Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội quy định ở Điều 49,quy định như vậy là chặt chẽ .
Tóm lại,những tiêu chuẩn và điều kiện để đại biểu Quốc hội làm được đúng chức năng,nhiệm vụ của mình ,trong đó có nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ,Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội mới đã có những đổi mới sâu sắc và mạnh mẽ .
3 . Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình theo luật định
Về vấn đề này,quan niệm của chúng tôi là
3.1. Tăng cường và đổi mới công tác lập pháp của Quốc hội .
Nhà nước cần phải sớm ban hành và xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật,phải pháp chế hoá các quan hệ xã hội.Đó là một trong những yếu tố đầu tiên để Quốc hội thực hiện tốt quyền giám sát tối cao của mình.Hiến pháp và pháp luật là một trong những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.Hiện nay còn nhiều lĩnh vực,nhất là trong hoạt động quản lý,Nhà nước chưa có luật để điều chỉnh các quan hệ đó hoặc những quy định của pháp luật cũ đã lạc hậu so với thực tế xã hội.Điều đó gây khó khăn lớn cho hoạt động giám sát của Quốc hội,nhất là việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động,quản lý của Chính phủ.Cần phải nâng cao kỹ thuật lập pháp hơn nữa .Mỗi khi có một văn bản luật được trình Quốc hội xẽ xét thì Chính phủ phải gửi kèm theo luôn những văn bản hướng dẫn thi hành luật đó.Quốc hội chưa nắm được hết số lượng văn bản pháp quy của Chính phủ thì cũng không thể kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản đó
3.2.Cần phải có luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
Trước hết,về một văn bản ,Quốc hội cần có luật về giám sát chứ không phải là quy chế hoạt động của Quốc hội hoặc văn bản pháp quy khác vì:giám sát là một chức năng,quyền hạn quan trọng của Quốc hội,hoạt động giám sát của Quốc hội tác động đến nhiều cơ quan Nhà nước cấp cao:Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao…Nói cách khác ,Quốc hội có quan hệ với các cơ quan cao cấp của Nhà nước trong khi thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội.Những nghị quyết của Quốc hội trong công tác giám sát tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến hoạt động của các cơ quan Nhà nước nói trên kể cả về mặt trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan đó.Vì vậy,cần phải quy định rõ mối quan hệ giữa Quốc hội với các cơ quan Nhà nước;Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Viện kiểm sát nhân dân tối cao…quan hệ giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan Nhà nước ,quan hệ giữa các cơ quan giúp việc của Quốc hội với cơ quan giúp việc của cơ quan Nhà nước nói trên trong hoạt động giám sát của Quốc hội .
tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 9 - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
Kết luận và kiến nghị về hoàn thiện cơ chế thanh tra,kiểm tra,giám sát -Thanh tra Nhà nước
Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội (PTS Phạm Ngọc Kỳ ) -Nhà xuất bản chính trị
Giáo trình Luật Hiến Pháp -Nhà xuất bản Công an nhân dân
Luật Hiến Pháp Việt Nam -Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh (PGS –PTS luật học Nguyễn Đăng Dung và Ngô Đức Tuấn
Luật Hiến Pháp 1992 -Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Lý luận Nhà nước và pháp luật --Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Luật sửa đổi luật Tổ chức Quốc hội năm 2001
Nghị quyết sửa đổi ,bổ sung một số điều Hiến pháp 1992 thông qua ngày 25/12/2001
Luật Tổ chức Chính phủ
Luật Tổ chức Toà án nhân dân
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
Luật sửa đổi ,bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội thông qua ngày 25/12/2001
Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khoá X do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An trình bày
Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban Quốc phòng và an ninh của Quốc hội khóa 10(1997-2002)
Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội khoá 10(1997-2002)
Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban khoa học ,công nghệ và môi trường Quốc hội khoá X
Báo cáo về hoạt động đối ngoại của Quốc hội và công tác của Uỷ ban đối ngoại nhiệm kỳ khoá X
Báo cáo tổng kết công tác của Uỷ ban pháp luật nhiệm kỳ khoá X
Báo cáo công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ khoá X
Báo cáo tổng kết hoạt động của Uỷ ban về các vấn đề xã hội nhiệm kỳ khoáX
Công tác xây dựng luật,pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá X
23 . Tạp chí nghiên cứu lập pháp : 2001
24 . Tạp chí nghiên cứu Người đại biểu nhân dân : 2001
25 . Tạp chí nghiên cứu dân chủ và pháp luật : 2001
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I: Cơ sở lý luận quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
I.Vị trí pháp lý của Quốc hội,bản chất,nội dung và phương thức thực hiện.
1.Vị trí pháp lý của Quốc hội
2.Bản chất,nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội
3.Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội
II.Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của Quốc hội,sự khác nhau quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp luật của cơ quan Nhà nước khác
1.Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội
2.Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác
Chương II:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội
I. Những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Hiến pháp 1992
II.Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997 đến năm 2002 ,những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và bài học
1.Thực trạng tình hình hoạt động của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997 đến năm 2002
2.Những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội
Chương III: Những phương pháp tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội
1.Đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội
2.Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điều kiện làm việc của đại biểu trong công tác giám sát
3.Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện làm cho Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình theo luật định
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Trang
1
1
1
2
9
11
11
14
18
18
22
22
51
56
57
65
67
69
72
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0119.doc