phần Mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Công nghiệp - thủ công là một ngành sản xuất quan trọng ở tất cả các quốc gia. Hầu hết các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế cao đều là các nước có nền công nghiệp phát triển và hiện đại. Đối với nước CHDCND Lào là một nước đang phát triển, muốn trở thành một nước có tốc độ phát triển kinh tế cao thì không thể bỏ qua vấn đề phát triển nền kinh tế đất nước thành nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại với giá trị sản xuấ
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1453 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu V.dụng Một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình phát triển công nghiệp - Thủ công ở CHDCND Lào (85 - 89) & dự báo 1999 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t công nghiệp chiếm phần lớn trong tổng giá trị sản xuất của các ngành kinh tế.
Ngành công nghiệp - thủ công có phát triển thì mới tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác phát triển, từ đó sẽ làm gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế, làm cho mức sống của con người ngày càng được cải thiện. Sản xuất công nghiệp - thủ công cũnglà một trong những cơ sở yếu tố quan trọng để chính phủ dựa vào đó điều tiết nền kinh tế đất nước theo những đường lối chính sách của mình.
Đối với nước Lào việc phát triển sản xuất công nghiệp - thủ công trong thời kỳ đổi mới và mở cửa hiện nay có một ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nó quyết định sự thắng lợi của đường lối lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách Mạng Lào đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy vấn đề phát triển sản xuất công nghiệp - thủ công cũng được nhấn mạnh trong các văn kiện đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, cũng như các chủ trương chính sách của Chính Phủ Lào
Việc phân tích tình hình phát triển sản xuất công nghiệp - thủ công của CHDCND Lào trong quá khứ, nhất là trong những năm vừa qua trên cơ sở dự báo tình hình phát triển ngành công nghiệp - thủ công trong những năm tới có một ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đề ra các chủ trương, chính sách phát triển sản xuất ngành công nghiệp - thủ công nói riêng và phát triển kinh tế quốc dân nói chung. Chính vì vậy tôi đã chọn vấn đề tài: “Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình phát triển công nghiệp - thủ công ở CHDCND Lào giai đoạn 1985 - 1989 và dự báo giai đoạn 1999 - 2005” làm đề tài luận án nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
1/ Thông qua việc vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích diễn biến tình hình phát triển công nghiệp trong những năm qua ( 1990 - 1998), sự chênh lệch về tốc độ phát triển công nghiệp giữa các vùng của nước Cộng hoà DCND Lào.
2/ Phân tích các nhân tố khách quan, chủ quan ảnh hưởng đến thực trạng phát triển công nghiệp của nước CH DCND Lào trong những năm 1990 - 1998
3/ Dự báo tình hình phát triển sản xuất công nghiệp của CH DCND Lào trong giai đoạn 1999 - 2005.
4/ Đề xuất một số giải pháp để phát triển sản xuất công nghiệp của nước CH DCND Lào trong giai đoạn 1999 - 2005.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài :
Các chỉ tiêu phản ánh tình hình phát triển công nghiệp ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
4. Các phương pháp nghiên cứu :
* Sử dụng các phương pháp phân tích thống để nghiên cứu như :
- Phương pháp phân bổ
- Phương pháp bảng số liệu thống kê
- Phương pháp phân tích dãy số thời gian
- Phương pháp dự báo dựa trên một số chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian.
- Phương pháp chỉ số
5. Những đóng góp của luận án :
Nghiên cứu hoàn thiện các khái niệm, các phạm trù liên quan đến tình hình phát triển công nghiệp - thủ công quốc doanh ở CHDCND Lào.
- Nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình phát triển ngành CN - TCQD.
- Nghiên cứu mối quan hệ sản xuất của doanh nghiệp đến tình hình phát triển của giá trị tổng sản lượng.
- Các giải pháp để cải thiện tình hình sản xuất, các kiến nghị về nghiệp vụ thống kê trong phân tích tình hình phát triển CN - TC quốc doanh.
Vì khả năng có hạn chế, chắc chắn luận văn có nhiều phần thiếu sót, tiếng nói chưa giỏi, cho nên mong các bạn, các cô, các thầy góp ý để bản luận án của tôi được tốt hơn.
6. Luận án được hoàn thành gồm 3 chương (ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận).
Chương I: Thực trạng phát triển công nghiệp - thủ công ở CHDCND Lào giai đoạn 1985 - 1989.
Chương II: Hệ thống chỉ tiêu và phương pháp thống kê sử dụng trong phân tích và dự báo tình hình phát triển công nghiệp - thủ công.
Chương III: Vận dụng hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình phát triển công nghiệp - thủ công ở CHDCND Lào giai đoạn 1985 - 1989 và dự báo giai đoạn 1999 - 2005.
Chương I
Thực trạng phát triển công nghiệp - thủ công
ở CHDCND Lào giai đoạn 1985 - 1989
1.1. Khái niệm về công nghiệp - thủ công.
Công nghiệp - thủ công là một lĩnh vực sản xuất vật chất cấu thành nền sản xuất - xã hội. Nó bao gồm các hoạt động khai thác tài nguyên, chế biến chúng thành các sản phẩm và sửa chữa các vật phẩm bị hư hỏng trong quá trình sử dụng.
Ngành công nghiệp - thủ công là một lĩnh vực sản xuất quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Với những đặc trưng tiên tiến về mọi mặt như: quan hệ sản xuất, tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, tạo điều kiện cho con người có việc làm, tiến bộ khoa học kỹ thuật, quan hệ quản lý và là ngành chỉ đạo với các ngành kinh tế quốc dân khác. Ngành công nghiệp - thủ công có tác dụng rất lớn, nó thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài ở CHDCND Lào đều chủ trương đầu tư phát triển ngành công nghiệp - thủ công hiện đại về mọi mặt. Chỉ khi nào xây dựng được một nền công nghiệp hiện đại đạt tốc độ phát triển cao thì mới tạo tiền đề cho nền kinh tế đất nước phát triển một cách nhanh chóng và vững chắc.
Ngành công nghiệp - thủ công ở CHDCND Lào với sự tham gia của các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công thuộc mọi thành phần kinh tế, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công được thành lập, được đăng ký kinh doanh đúng với luật định của Nhà nước. Đó là những đơn vị kinh tế, cơ sở có quyền tự chủ trong kinh doanh, có quyền trực tiếp quản lý và sử dụng các nguồn lực để sản xuất ra các loại hàng hoá để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Ngành công nghiệp - thủ công tồn tại với nhiều hình thức cụ thể là: doanh nghiệp Nhà nước, tổ sản xuất, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần... Căn cứ vào quyền sở hữu có thể chia thành làm 2 khu vực lớn : quốc doanh và ngoài quốc doanh.
- Công nghiệp - thủ công ngoài quốc doanh gồm các doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của gia đình, cá nhân và các tổ chức kinh tế khác. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được nhà nước đầu tư nhưng được khuyến khích tự đầu tư lấy, được ngân hàng cho vay vốn, được phép tham gia liên doanh trong nước và nước ngoài để thu hút vốn. Các loại doanh nghiệp này có thể cũng được nhà nước trợ giúp vốn khi tiến hành sản xuất kinh doanh những mặt hàng nằm trong mục tiêu chiến lược của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đều thuộc quyền quyết định của cá nhân, tư nhân. nhà nước không có quyền can thiệp sâu vào nội bộ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thuộc loại kinh doanh này vì mục tiêu lợi nhuận là chính.
- Công nghiệp - thủ công quốc doanh gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước là chủ đầu tư, là chủ của tài sản do đó nhà nước có quyền quyết định phương hướng kinh doanh, quyết định biên chế, quyết định việc thành lập, tồn tại và giải thể doanh nghiệp. Ban giám đốc và các thành viên trong doanh nghiệp là những người thay mặt cho Nhà nước có quyền sử dụng các tài sản của doanh nghiệp để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu sinh lợi nhuận và thực hiện những nhiệm vụ nhà nước giao cho trên cơ sở đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
1.1.2. Tầm quan trọng của công nghiệp - thủ công quốc doanh đối với nền kinh tế.
Thể hiện trên các mặt sau :
Sản xuất ra hàng hoá dịch vụ công nghiệp - thủ công phục vụ cho toàn xã hội. Đây là lĩnh vực sinh lời thấp nhất, nhưng rất cần thiết đối với các thành phần kinh tế khác.
- Hoạt động sản xuất những dụng cụ, phương tiện phục vụ cho an ninh quốc phòng của đất nước. Được Nhà nước đầu tư vốn và những hoạt động này, phục vụ cho mục tiêu của nhà nước là chính.
- Hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp - thủ công mũi nhọn như ngành công nghiệp - thủ công có công nghệ kỹ thuật hiện đaị, ngành khai thác thế mạnh về tài nguyên của đất nước. Có khả năng đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước, và các công nghiệp - thủ công chủ yếu như: công nghiệp - thủ công chế biến lương thực, công nghiệp - thủ công năng lượng, những ngành này giúp Nhà nước ổn định được nền kinh tế, tránh được những biến động lớn.
- Các hoạt động còn lại cảu công nghiệp - thủ công quốc doanh kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận là chính và có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy có thể nói rằng công nghiệp - thủ công quốc doanh ở nước CHDCND Lào hiện nay bao gồm tất cả các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh trong phạm vi cả nước, gồm các loại hình: doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước thuần tuý và doanh nghiệp mang tính chất Nhà nước hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp - thủ công khác nhau.
Công nghiệp quốc doanh của Lào thực sự được bắt đầu xây dựng từ những năm 1975 - 1980 trên cơ sở một nền công nghiệp yếu kém và lạc hiệu do chế độ cũ để lại. Trong những năm đầu xây dựng đất nước, Nhà nước đã đầu tư một khối lượng tiền rất lớn vào công nghiệp quốc doanh, khiến cho nó nhanh chóng phát triển chiếm lĩnh toàn bộ ngành công nghiệp. Do vậy, trong giai đoạn này công nghiệp quốc doanh đã chiếm một tỷ trọng rất lớn trong ngành công nghiệp về giá trị sản lượng, vốn, sử dụng lao động, tài nguyên... Sau Đại hội VI của Đảng, các thành phần kinh tế khác được phép tự do hoạt động trở lại, công nghiệp quốc doanh không chiếm tỷ trọng lớn như trước nữa. Nội bộ công nghiệp quốc doanh đã có rất nhiều thay đổi trong những năm trở lại đây.
1.2. Đặc điểm của công nghiệp - thủ công ở chdcnd lào
Trong giai đoạn hiện nay công nghiệp quốc doanh ở CHDCND Lào có các đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Xét về người đứng ra thành lập và chủ sở hữu phần vốn đầu tư có ban đầu thì công nghiệp quốc doanh gồm các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh, trên cơ sở đó các cấp chính quyền nhà nước từ cơ sở tới trung ương là chủ sở hữu và đang có quyền quản lý đối với hoạt động của các doanh nghiệp này.
- Các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh phân bố rộng khắp, rải rác trong tất cả các lĩnh vực của hoạt động sản xuất công nghiệp.
- Trong lĩnh vực công nghiệp các doanh nghiệp quốc doanh đang nắm giữ phần quyết định lực lượng sản xuất xã hội. Nó khai thác phần quan trọng nhất tài nguyên quốc gia và chiếm hữu các tư liệu sản xuất cơ bản, cơ cấu kinh tế hạ tầng trong nền kinh tế. Cụ thể các doanh nghiệp này đã quản lý và sử dụng 2/3 tổng số tài sản xã hội, thu hút trên 90% tổng số lao động có trình độ kỹ thuật tay nghề cao trong ngành.
- Các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh cũng sử dụng đại bộ phận nguồn vốn đang hoạt động vào sản xuất và nó cũng là nguồn cung cấp 70 - 80% nguồn thu công nghiệp cho ngân sách quốc gia.
Tuy nhiên ngoài những đặc trưng trên, công nghiệp quốc doanh còn có nhiều nhược điểm như:
- Công nghiệp quốc doanh bố trí còn thiếu tập trung, thiếu mũi nhọn nên chưa thực sự chi phối được thị trường và nền kinh tế.
- Quy mô các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh đại bộ phận là nhỏ. Trình độ trang bị kỹ thuật, máy móc thiết bị cũ kỹ, công nghệ kinh doanh, sản xuất lạc hiệu xa so với thế giới, ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường nhất là với hàng hoá nhập ngoại.
- Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh thiếu vốn, làm ăn không có lãi, khó khăn trong việc duy trì sản xuất kinh doanh.
- Dư thừa lao động, thiếu việc làm nghiêm trọng, ngoài một số doanh nghiệp thích nghi được với cơ chế mới có tới 2/3 doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, một bộ phận khác chưa tìm được hướng đi thích hợp.
- Xét về chất lượng hoạt động được đo bằng các tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế, nhất là hiệu quả của đồng vốn sử dụng hoặc năng suất lao động thì nhìn chung công nghiệp quốc doanh còn thấp so với các thành phần kinh tế khác không phải là sở hữu nhà nước. Đây là nhược điểm lớn nhất có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế nước ta.
- Bộ máy quản lý còn cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực. Trình độ của cán bộ quản lý đại bộ phận còn thấp, chưa có kiến thức đầy đủ về kinh tế thị trường, lúng túng trong xử lý, thiếu năng động trong hoạt động và quản lý một nền kinh tế thị trường.
1.3. Vai trò của công nghiệp - thủ công và tình hình phát triển của nó ở CHDCND Lào.
Nền kinh tế của bất kỳ nước nào cũng bao gồm nhiều ngành kinh tế: công nghiệp - thủ công, nông nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, xây dựng.... Mỗi ngành đều có một vị trí và vai trò nhất định trong đó ở nước CHDCND Lào những năm trước kinh tế còn kém phát triển, sản xuất nhỏ và vừa là chủ yếu, lao động thủ công là chủ yếu và phổ biến nhất.
Nhiều thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất ở nhiều ngành kinh tế khác nhau với những vai trò và các chức năng nhất định. Vì vậy công nghiệp - thủ công ngoài quốc doanh và công nghiệp - thủ công quốc doanh đều có vai trò rất quan trọng được thể hiện ở các mặt sau đây:
a. - Công nghiệp ngoài quốc doanh và công nghiệp quốc doanh có vai trò cực kỳ quan trọng, to lớn trong ngành công nghiệp - thủ công nói riêng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Nó tạo ra nhiều sản phẩm xã hội trước mắt là tạo ra các công cụ để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; khai thác, chế biến được nhiều nông lâm sản, thực phẩm; sản xuất được một khối lượng lớn hàng tiêu dùng đáp ứng phần lớn các nhu cầu của xã hội, đặc biệt là mặt hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo, kỹ thuật cao đã được đưa đi xuất khẩu mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể.
- Sản xuất công nghiệp - thủ công ngoài quốc doanh có khả năng tạo ra nhiều mặt hàng từ đơn giản đến phức tạp phục vụ cho tiêu dùng của nhân dân và xuất khẩu, góp phần thực hiện các chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước.
- Cơ sở vật chất trong công nghiệp - thủ công quốc doanh còn nghèo nàn, lạc hiệu, sản xuất chưa đủ mạnh. Do đó công nghiệp ngoài quốc doanh có thể đáp ứng kịp thời nhiều nhu cầu tại chỗ về sản xuất và đời sống mà công nghiệp quốc doanh không thể bao quát hết.
b. Vai trò của công nghiệp - thủ công quốc doanh.
+ Công nghiệp - thủ công ngoài quốc doanh có vai trò chủ đạo và nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất cả ngành vì:
Sự phát triển kỹ thuật sản xuất của các ngành phụ thuộc vào khả năng của ngành công nghiệp trong việc cung cấp trang thiết bị kỹ thuật, nên sự phát triển kỹ thuật, sản xuất của các ngành kinh tế quốc doanh không thể vượt quá khả năng cung ứng các phương tiện kỹ thuật của công nghiệp.
Công nghiệp - thủ công quốc doanh còn trực tiếp hướng dẫn nhu cầu trang bị kỹ thuật cho các ngành. Thực chất sự hướng dẫn này là xuất phát từ lợi ích, hiệu quả của công nghiệp - thủ công thông qua giá cả vật tư, kỹ thuật cung ứng cho các ngành kinh tế quốc dân mà hướng dẫn việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật của các ngành này. Do việc cung ứng theo chiều hướng tích cực của công nghiệp quốc doanh đã đưa lại việc đổi mới đúng hướng trình độ kỹ thuật của toàn bộ nền kinh tế, không để cho vai trò chủ đạo của công nghiệp - thủ công quốc doanh phát huy một cách tiêu cực, vì lợi ích cục bộ mà kìm hãm sự phát triển kỹ thuật của các ngành phụ thuộc mình.
Công nghiệp - thủ công là nhân tố chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế hàng hoá. Mở rộng thị trường, thay đổi cơ cấu kinh tế trong nội bộ công nghiệp - thủ công cũng như trong cả nước. Công nghiệp - thủ công quốc doanh phát triển sẽ thúc đẩy công nghiệp - thủ công phát triển đồng thời mở ra một thị trường, một bộ phận chủ lực của nền sản xuất hàng hoá, nó cũng tạo ra sự thay đổi cơ cấu trong công nghiệp và cả nền kinh tế.
Công nghiệp - thủ công quốc doanh với vai trò tiên phong của mình kéo theo sự phát triển của công nghiệp đã tác động vào quá trình thị trường hoá các ngành và các vùng sản xuất - xã hội của đất nước.
Công nghiệp - thủ công quốc doanh cùng với công nghiệp thủ công ngoài quốc doanh góp phần đảm bảo kỹ thuật và nâng cao hiệu quả của việc xuất khẩu các loại hàng hoá của tất cả các ngành ra ngoài phạm vi quốc gia nhằm mở rộng thị trường.
+ Công nghiệp - thủ công quốc doanh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp - thủ công quốc doanh còn là nhân tố chủ yếu góp phần giải quyết nhiều nhiệm vụ cơ bản có tính chất mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội đó là:
- Góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm cho người lao động.
- Đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội.
- Góp phần xoá bỏ sự đối lập, khác biệt giữa thành thị và nông thôn bằng việc tạo ra các đô thị mới hay thâm nhập vào các vùng nông, lâm, ngư nghiệp để làm thay đổi dần bộ mặt nông thôn.
- Cung cấp các sản phẩm hàng hoá đa dạng với chất lượng cao phục vụ đời sống nhân dân và xuất khẩu.
- Thông qua sự phát triển của mình về quy mô và phân bố hợp lý lực lượng sản xuất. công nghiệp - thủ công quốc doanh sẽ góp phần làm cho dân cư được phân bố đồng đều và hợp lý giữa các miền của toàn quốc.
+ Công nghiệp - thủ công quốc doanh là bộ phận tồn tại khách quan, nó thể hiện sự tham gia hoạt động kinh tế của Nhà nước bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, đồng thời do vai trò to lớn của công nghiệp - thủ công quốc doanh Nhà nước có thể có những chính sách điều tiết công nghiệp - thủ công quốc doanh để phát huy ảnh hưởng tới ngành công nghiệp - thủ công cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Công nghiệp - thủ công quốc doanh thường xuyên tác động vào quá trình phát triển của các ngành trong nội bộ công nghiệp - thủ công cũng như cả nền kinh tế với tư cách là hình mẫu về sử dụng tư liệu sản xuất tiên tiến hiện đại, về phương pháp quản lý mới và ý thức tổ chức lao động. Trước hết, công nghiệp - thủ công quốc doanh với ưu thế hơn hẳn của mình so với các thành phần kinh tế khác về vốn, trang thiết bị kỹ thuật, lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước, tham gia vào bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào, từ những lĩnh vực thuộc cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn tới vùng có công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại hay là vùng khó khăn khác mà nhất thời các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa tham gia vào. Vì vậy có thể nói rằng công nghiệp - thủ công quốc doanh có vai trò dẫn đường không chỉ đối với nội bộ ngành công nghiệp mà còn đối với tất cả các ngành của nền kinh tế quốc doanh.
+ Công nghiệp - thủ công quốc doanh có nhiệm vụ nắm vững ngành công nghiệp - thủ công then chốt sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao nhằm đảm bảo cho nhu cầu xã hội.
1.4. Thực trạng phát triển công nghiệp - thủ công ở CHDCND Lào giai đoạn 1985 - 1989.
Từ sau khi hoà bình lập lại đến năm 1986, đây là thời kỳ công nghiệp - thủ công quốc doanh Nhà nước được coi trọng nhất. Đảng và Nhà nước Lào thực hiện xây dựng nền công nghiệp vững mạnh gắn liền với từng bước phát triển nền kinh tế quốc dân. Cùng với điều kiện đó thì công nghiệp - thủ công có mức phát triển. Ngoài ra các ngành kinh tế khác cũng phát triển đồng đều. Đến năm 1989 đất nước Lào bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, cải tổ về mọi mặt, các thành phần kinh tế được tự do hoạt động theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước cũng xác định rằng công nghiệp - thủ công quốc doanh là một bộ phận quan trọng chủ đạo trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên Lào chuyển sang cơ chế thị trường nhiều thành phần kinh tế trong bối cảnh các đơn vị sản xuất ở Lào phải chịu ảnh hưởng rất nặng nề của thời kỳ bao cấp, nền kinh tế của Lào đang ở tình trạng bị suy thoái. Các khoản bao cấp như ngày xưa bị cắt hẳn. Tuy nhiên Đảng và Nhà nước phải bao cấp cho công nghiệp - thủ công quốc doanh , cấp vật tư, vật liệu, cung cấp vốn cho công nghiệp. Công nghiệp - thủ công ngày càng giảm về số lượng các cơ sở và về chất lượng hoạt động.
Tuy nhiên Đảng cách mạng Lào vẫn xác định công nghiệp quốc doanh là bộ phận kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước.
Nhưng trong những năm đầu đổi mới, một số cơ sở công nghiệp quốc doanh đã không thích nghi được với cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh thua lỗ, dẫn tới giải thể, chỉ có một số ít hoạt động có hiệu quả, làm cho nhiều người nghi ngờ về vai trò chủ đạo của công nghiệp quốc doanh. Để khắc phục tình trạng này đồng thời giúp công nghiệp quốc doanh hoàn thành tốt vai trò của nó trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nghị đại biểu toàn quốc đã thống nhất quan điểm của Đảng đối với công nghiệp quốc doanh trong những năm tới như sau:
- Tiếp tục chấn chỉnh và xây dựng khu vực công nghiệp quốc doanh hoạt động có hiệu quả, đảm bảo được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là một việc hết sức quan trọng và cấp bách. Vai trò đó thể hiện ở chỗ mở đường và hỗ trợ các thành phần khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, là một công cụ có sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng của Đảng đã đề ra.
- Tập trung xây dựng doanh nghiệp Nhà nước ở những ngành, những lĩnh vực, những khâu cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện, xi măng... để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Giảm bớt những doanh nghiệp không cần giữ hình thức quốc doanh, củng cố, mở rộng và xây dựng mới những doanh nghiệp Nhà nước cần thiết.
- Đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước để vừa bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, vừa bảo đảm việc kiểm soát của Nhà nước.
- Để thu hút thêm vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả cần thực hiện những hình thức cổ phần hoá có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỉ lệ cổ phần chi phối.
- Hoàn thiện và áp dụng rộng rãi các hình thức khoán trong doanh nghiệp Nhà nước.
- Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích và thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty theo hướng tổ chức các tập đoàn kinh doanh, khắc phục tính chất hành chính trung gian.
- Xoá bỏ dần chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt giữa quốc doanh trung ương và quốc doanh địa phương.
- Cơ quan Nhà nước các ngành, các cấp phải chăm lo giúp đỡ doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, nhất là giúp đỡ xử lý các vấn đề về vốn, công nghệ, thị trường và đào tạo cán bộ. Đối với các doanh nghiệp phục vụ lợi ích chung về kinh tế xã hội nhưng mức sinh lợi trực tiếp thấp hoặc bị thua lỗ nhà nước có chính sách ưu đãi hợp lý.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia cạnh tranh, Nhà nước CHDCND Lào vẫn rất coi trọng công nghiệp quốc doanh. Những quan điểm, biện pháp trên đây là nhằm giúp công nghiệp quốc doanh nhanh chóng chuyển đổi phù hợp với cơ chế mới, để có thể phát triển giữ vững vai trò chỉ đạo của mình trước mắt cũng như lâu dài.
Chương II
Hệ thống chỉ tiêu và phương pháp thống kê sử dụng trong
phân tích tình hình phát triển công nghiệp
2.1 Nguyên tắc chủ yếu xác định hệ thống chỉ tiêu trong phân tích.
Việc phân tích tình hình phát triển ngành công nghiệp hết sức quan trọng cho nên chúng ta không chỉ có phân tích chung những số liệu tổng hợp vì việc phân tích như vậy chỉ cho ta thấy một bức tranh toàn cảnh về sự tăng trưởng của công nghiệp, nó không cho ta thấy rằng tại sao ngành công nghiệp - thủ công lại có sự tăng trưởng hay giảm sút, đâu là nguyên nhân chính tiến dần tới tình hình đó. Nếu chúng ta muốn biết được những điều này, chúng ta có thể tiến hành phân tích chi tiết theo nhiều góc độ khác nhau. Ngoài ra việc phân tích chi tiết cho ta thấy rõ được tình hình phát triển, tỷ trọng của từng bộ phận trong ngành công nghiệp, điều đó sẽ tạo điều kiện giúp Nhà nước có được chính sách vĩ mô hợp lý, đầy đủ để điều tiết cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp.
Để đáp ứng được những yêu cấu trên, khi xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần quản triệt các nguyên tắc chủ yếu sau :
Các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh phải được quy định
thống nhất; có hướng dẫn cho các doanh nghiệp của tất cả các ngành kinh tế quốc dân về phương pháp tính toán đảm bảo yêu cầu:
+ Khái niệm nội dung tính toán phải thông nhất từ chi tiết đến tổng hợp.
+ Phạm vi tính toán phải được quy định rõ ràng bao gồm cả phạm vi
không gian và thời gian.
+ Đơn vị tính toán phải thống nhất
Việc thống nhất phương pháp tính toán nhằm đảm bảo việc so sánh
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp theo không gian và thời gian. Việc tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống phải phù hợp với trình độ của cán bộ, điều kiện hạch toán và thu thập số liệu của các doanh nghiệp và phải phù hợp với SNA.
- Phải đảm bảo tính hệ thống, điều đó có nghĩa la:
+ Các chỉ tiêu trong hệ thống phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau, được
phân tổ và sắp xếp một cách khoa học. Điều này liên quan đến việc chuẩn hoá thông tin.
+ Phải bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu và thứ yếu; các chỉ tiêu tổng hợp và
các chỉ tiêu bộ phận phản ánh từng mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và từng nhân tố.
- Hệ thống chỉ tiêu cần gọn (ít chỉ tiêu) và từng chỉ tiêu cần có nội dung rõ ràng, dễ thu thập thông tin đảm bảo tính khả thi, phù hợp với điều kiện về nhân lực, tài lực và vật lực của doanh nghiệp.
Phải có tính ổn định cao (được sử dụng trong thời gian dài), đồng thời
phải có tính linh hoạt. Mặt khác, hệ thống chỉ tiêu cần thường xuyên được hoàn thiện (có thể thay đổi, bổ sung hoặc giảm bớt) theo sự phảt triển của yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
- Phải quy định các hình thức thu thập thông tin (qua báo cáo thống kê định kỳ hoặc qua điều tra thống kê, hoăc kết hợp cả hai hình thức) phù hợp với yêu cầu quản lý, phù hợp với điều kiện và trình độ cán bộ làm cộng tác thống kê ở các doạnh nghiệp để có thể tính toán được các chỉ tiêu trong hệ thống với độ chinh xác cao, phục vụ tốt cho yêu cầu công tác quản lý của các doanh nghiệp.
- Đáp ứng yêu cầu đúng với đối tượng cần cung cấp thông tin nhằm đảm bảo tác dụng thiết thực trong công tác quản lý.
Để phân tích chỉ tiết nội bộ công nghiệp ta có thể phải tiến hành phân tổ công nghiệp tùy thuộc vào các nhu cầu phân tích khác nhau.
2.2. Phân tổ công nghiệp -thủ công quốc doanh ở CHDCND Lào
a. Căn cứ vào công dụng kinh tế của sản phẩm ta có thể chia công nghiệp thành 2 nhóm đó là:
- Nhóm sản xuất tư liệu sản xuất.
- Nhóm sản xuất tư liệu tiêu dùng.
- Khối lượng sản phẩm chủ yếu thuộc nhóm sản xuất ra tư liệu sản xuất do các doanh nghiệp của các ngành công nghiệp nặng sản xuất ra như : máy móc, thiết bị, than, vật liệu xây dựng ...
Một số sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm được dùng vào sản xuất dưới dạng nguyên vật liệu như đường dùng để làm bánh kẹo ... Ngoài ra còn có sản phẩm mà nhóm sản xuất tư liệu tiêu dùng do các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nhẹ như là công nghiệp thủ công và công nghiệp thực phẩm sản xuất ra.
Một số sản phẩm của doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nặng được sử dụng vào mục đích tiêu dùng như than, quạt máy, điện...
Nói chung ở CHDCND Lào sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp được sắp xếp theo nhóm và theo khối lượng cuả sản phẩm, tuỳ thuộc vào công dụng thực tế của chúng.
Sự phân loại công nghiệp theo nhóm sản xuất tư liệu sản xuất hay là nhóm công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng có tác dụng trực tiếp đối với việc thực hiện tái sản xuất mở rộng trong công nghiệp. mục đích là để giải quyết những vấn đề quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào mục tiêu, nhiệm vụ của sự phát triển kinh tế xã hội và các đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước và tuỳ theo từng thời kỳ mà ta xác định quy mô, các quan hệ tỷ lệ và tốc độ thích hợp giữa phát triển công nghiệp thuộc nhóm sản xuất tư liệu sản xuất và công nghiệp thuộc nhóm sản xuất tư liệu tiêu dùng. Trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và giao lưu liên kết kinh tế giữa các ước như hiện nay, thông qua sự phát triển kinh tế đối ngoại nước CHDCND Lào đang chủ trương phát triển ngành công nghiệp nhẹ nhằm mục đích vào xuất khẩu quan trọng. Đó là mục đích chính để đẩy mạnh có hiệu quả quá trình tái sản xuất, phát triển kinh tế và có thể giải quyết được tốt mối quan hệ giữa công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng. Việc phân tích công nghiệp quốc doanh phân theo nhóm sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng sẽ có một phần nào đó giúp cho nhà nước xác định được cơ cấu sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng cho hợp lý trong nội bộ công nghiệp và cho phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
b. căn cứ theo cấp quản lý có thể phân công nghiêp thành:
- Công nghiệp trung ương, do trung ương trực tiếp quản lý như bộ, cục, tổng cục.
- Công nghiệp địa phương, thuộc vào địa phương nào thì do chính quyền địa phương đó quản lý như là tỉnh, huyện, thành phố, xã...
Cách phân loại này giúp cho việc xác định rõ thứ bậc, trách nhiệm quản lý của các cấp và các ngành đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp quản lý theo ngành, địa phương và vùng lãnh thổ một cách có hiệu quả cao và tạo điều kiện quản lý dễ dàng hơn.
C. Căn cứ vào tính chất giống nhau hoặc công dụng cụ thể của sản phẩm hoặc phương pháp công nghệ và thiết bị máy móc hoặc về mặt nguyên vật liệu để mà chế biến các thành phẩm, công nghiệp có thể phân.
+ Theo bộ công nghiệp của Lào từ năm 1980 đến 1989 thì cách phân chia theo từng ngành sản xuất sản phẩm này chưa được thực hiện. Những năm 1990 đến 1995 nước Lào vẫn chưa phân chia được các ngành công nghiệp chỉ có phân theo khối sản phẩm.
+ Theo nghị định số 103/ CN ngày 21/2/1992 của bộ trưởng bộ công nghiệp nước Lào công nghiệp của Lào được chia thành 13 ngành công nghiệp trong đó là công nghiệp điện năng, công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp sản xuất thuốc lá và lá thuốc, công nghiệp sản xuất da và làm bằng da, công nghiệp sản xuất và chế biến gỗ, công nghiệp in và công nghiệp sản xuất giấy, công nghiệp hoá chất, công nghiệp nhựa và thành phẩm bằng nhựa, công nghiệp thiết bị và cơ khí, công nghiệp cơ khí điện, công nghiệp mặt hàng trang trí trong gia đình, công nghiệp điện năng và nước máy.
+ Cách phân loại theo ngành sản xuất sản phẩm có tác dụng thiết thực trong việc nghiên cứu và giải quyết sự cân đối trong phát triển giữa các ngành sản phẩm để xá._.c định vai trò, tốc độ phát triển, và bước đi của từng loại sản phẩm.
Việc phân chia công nghiệp thành các nhóm sản phẩm trên đã được sử dụng trong việc phân tích chi tiết công nghiệp trong những năm vừa qua. Nhìn chung việc phân loại theo nhóm sản phẩm trên có khả năng tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu.
+ Theo nghị định số 103/ CN ngày 21/2/1994 của hội đồng bộ trửơng bộ công nghiệp phân ngành công nghiệp –thủ công bao gồm 3 ngành cấp một và chia thành 15 nhóm cấp 2.
nhóm ngành công nghiệp khái thác mỏ gồm :
công nghiệp khái thác than
công nghiệp khái thác khí tự nhiên và các hoạt động dịch vụ
công nghiệp khái thác quặng uranium
công nghiệp khái thác quặng kim loại
công nghiệp khái thác than đá và khái thác mỏ khác
nhóm ngành công nghiệp chế biến gồm :
công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống
công nghiệp sản xuất các sản phẩm thuốc lá
công nghiệp dệt
công nghiệp sản xuất trang phục thuộc da
công nghiệp sở chế da,sản xuất giầy giép
công nghiệp chế biến gỗ và sản xuấtcác sản phẩm từ gỗ(trừ gương,tủ, bàn và ghế).
công nghiệp sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy
công nghiệp suất bản , in và soạn thảo các loại
công nghiệp sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất
công nghiệp sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu
công nghiệp sản xuất gừơng tù , bản ghế sản xuất các sản phẩm khác chưa được phân vào đâu
nhóm ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước
- công nghiệp khái thác và phân phối nước
2.3. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh tình hình phát triển công nghiệp thủ công ở CHDCND Lào hiện nay.
Để đánh giá vấn đề này ta không thể dựa vào những nhận định định tính, những đánh giá như vậy sẽ không mang tính thuyết phục. Do vậy khi phân tích và đánh giá, người ta thường phải sử dụng những số liệu thực tế để chứng minh các số liệu này thể hiện dưới dạng các chỉ tiêu thống kê.
Khi phân tích tình hình phát triển của công nghiệp, vai trò của các chỉ tiêu thống kê trở thành một vấn đề rất quan trọng. Đối với khái niệm tăng trưởng của một ngành là một khái niệm tổng hợp nên chúng ta cần phải có rất nhiều các chỉ tiêu thống kê thì mới phản ánh đầy đủ và toàn diện tình hình phát triển vì nó liên quan tới nhiều vấn đề như giá trị của cải tạo ra cho xã hội. Khả năng thu hút lao động, tình hình sử dụng các chi phí để tạo ra của cải,tình hình đổi mới cơ cấu của ngành...
Do điều kiện hạn chế của thông tin thống kê nên trong đề tài này chỉ sử dụng những chỉ tiêu quan trọng nhất, tổng hợp nhất. Việc sử dụng các chỉ tiêu này để phân tích sẽ giúp chúng ta dễ dàng đánh giá, hình dung được những vấn đề cơ bản trong sự phát triển công nghiệp - thủ công của Lào.
hệ thống Chỉ tiêu này có thể phân thành 3 nhóm sau:
- nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh.
- nhóm chỉ tiêu phản ánh nguồn lực sản xuất.
- nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất.
Nhóm chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh gồm các
chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất.
- Trước kia ngành thông kê ở Lào áp dụng phương pháp hoạch toán theo MPS. Người ta sử dụng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng để biểu hiện kết quả sản xuất của các xí nghiệp công nghiệp hay của toàn bộ ngành công nghiệp. Giá trị tổngt sản lượng của xí nghiệp công nghiệp là chỉ tiêu tính bằng tiền biểu hiện kết quả trực tiếp hữu ích của hoạt động sản xuất công nghiệp trong một thời kỳ nhất định(thường là một năm) trên góc độ ngành công nghiệp, nó biểu hiện thành quả hoạt động của tất cả các xí nghiệp. Chỉ tiêu này được tính theo 2 loại giá như sau:
- Tính theo giá cố định để nghiên cứu sự phát triển sản xuất công nghiệp qua các năm.
- Tính theo giá trị hiện hành để đánh giá thành quả sản xuất trong năm báo cáo và so sánh với các chỉ tiêu khác trong kỳ.
- Việc dùng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng để phân tích tình hình phát triển của ngành công nghiệp - thủ công quốc doanh là vô cùng quan trọng. Nó cho ta thấy rằng sự cống hiến của công nghiệp - thủ công quốc doanh đối với xã hội qua các thời kỳ khác nhau.
Từ năm 1994 ngành thống kê ở Lào mới bắt đầu tính theo phương pháp SNA. Trong hệ thống các chỉ tiêu mới chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất với nội dung tổng hợp của nó được dùng để thay thế chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng. Chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp thể hiện toàn bộ giá trị của sản phẩm do hoạt động sản xuất công nghiệp - thủ công đã tạo ra trong một thời gian nhất định ( thường tính là một năm).
Nội dung kinh tế của giá trị của sản xuất công nghiệp - thủ công tính theo giá cố định nó bao gồm các yếu tố sau đây:
- Thành phẩm đạt tiêu chuẩn quy cách phẩm chất đã được nhập kho không được phân biệt thành phẩm đó sản xuất là nguyên vật liệu của doanh nghiệp hay là từ nguyên vật liệu của khách hàng được đưa đến để mà gia công
- Công việc có tính chất công nghiệp - thủ công làm cho bên ngoài.
- Bán thành phẩm, thứ phẩm, phế phẩm và phế liệu đã được tiêu thụ.
- Sản phẩm song song (hay phụ phẩm) của hoạt động sản xuất công nghiệp - thủ công đã được tiêu thụ.
- Chênh lệch giữa cuối kỳ và đầu kỳ bán thành phẩm và sản phẩm được chế tạo dở dang.
- Giá trị của hoạt động cho thuê máy móc, thiết bị nói chung là nằm ở trong dây truyền sản xuất công nghiệp - thủ công của doanh nghiệp không dùng đến.
Nội dung kinh tế của giá trị sản xuất công nghiệp tính theo giá thực tế (hiện hành).
Do giá thực tế của sản phẩm rất khác nhau, lại thường xuyên biến động phức tạp. Do đó chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế được tính bằng các yếu tố sau :
- Doanh thu công nghiệp, bao gồm : (1). Doanh thu tiêu thụ sản phẩm vật chất (thành phẩm và nửa thành phẩm đối với sản phẩm nhận gia công tính cả công chế biến và giá trị nguyên vật liệu của người đặt gia công ; (2).Doanh thu các công việc có tính chất công nghiệp làm cho bên ngoài và làm cho bộ phận không sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp có hạch toán độc lập ; (3). Doanh thu cho thuê thiết bị máy móc trên dây truyền sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp ; (4). Doanh thu bán thứ phẩm, phế phẩm, phụ phẩm và phế liệu ; (5). Doanh thu của các hoạt động kinh doanh không công nghiệp không hạch toán riêng (theo quy định cũng được tính vào yếu tố này).
- Chênh lệch lấy số cuối kỳ trừ số đầu kỳ của thành phẩm tồn kho, hàng hóa gửi bán và phân phẩm chưa hoàn thành.
- Việc tính chỉ tiêu giá trị sản xuất của công nghiệp - thủ công phải tuân theo các nguyên tắc sau :
- Tính theo phương pháp công xưởng, trong đó lấy doanh nghiệp làm đơn vị hạch toán.
- Chỉ tính đến kết quả cuối cùng, trực tiếp của các hoạt động sản xuất công nghiệp - thủ công trong đơn vị hạch toán độc lập. Nghĩa là chỉ được tính kết quả do chính việc hoạt động sản xuất công nghiệp - thủ công của doanh nghiệp tạo ra và chỉ được tính một lần, không được tính trùng trong phạm vi doanh nghiệp, ngoài ra còn không được tính những sản phẩm trong đó có sản phẩm mua vào rồi lại bán ra không được qua chế biến gì cả ở doanh nghiệp công nghiệp - thủ công.
Kết quả tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất trong các doanh nghiệp
được tổng hợp lại ta có được chỉ tiêu chung của toàn bộ công nghiệp. Trong khi tổng hợp sẽ có sự tính trùng giữa các doanh nghiệp, điều này được phép vì nó khuyến khích sự hợp tác.
* Chỉ tiêu giá trị tăng thêm :
- Giá trị tăng thêm là chỉ tiêu cấu thành bộ phận nên chỉ tiêu giá trị sản xuất, bao gồm các yếu tố chủ yếu như sau:
- Thuế sản xuất: Là các loại thuế phát sinh do kết quả tiêu thụ sản phẩm của các hoạt động công nghiệp - thủ công trong doanh nghiệp như: thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu.
- Thu nhập của người lao động: là tổng các khoản mà các doanh nghiệp phải thanh toán cho người lao động trong quá trình họ tham gia vào quá trình sản xuất.
- Khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ giá trị khấu hao tài sản cố định đã được trính trong kỳ.
- Lợi nhuận và các khoản khác trong đó bao gồm lợi nhuận trước thuế lợi tức, trả lãi tiền vay và nộp cho cơ quan quản lý cấp trên, những khoản thuế và lệ phí phải nộp khác như là : thuế tài nguyên, thuế vốn, thuế môn bài và các loại lệ phí.
Giá trị tăng thêm của công nghiệp - thủ công quốc doanh được tổng hợp từ những giá trị tăng thêm từ tất cả các xí nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh nó phản ánh bộ phận giá trị của cải mới được sáng tạo ra cho xã hội trong nội bộ công nghiệp - thủ công quốc doanh.
Chỉ tiêu giá trị tăng thêm tính thu giá cố định dùng để phân tích tình hình phát triển của công nghiệp thủ công quốc doanh, cho thấy phần đóng góp của công nghiệp - thủ công đối với xã hội. Nó khác với chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất ở chỗ là nó chỉ phản ánh phần giá trị của cải vật chất được tạo ra sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian. Do vậy việc phân tích chỉ tiêu giá trị tăng thêm kết hợp với tổng giá trị sản xuất sẽ nói lên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp quốc doanh qua việc so sánh tỷ trọng giá trị tăng thêm trong tổng giá trị sản xuất.
* Chỉ tiêu doanh thu:
Đây là cũng là chỉ tiêu cơ bản phản ánh kết quả kinh tế của doanh
nghiệp và doanh thu từ tất cả các cơ sở xí nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh tạo doanh thu chung của công nghiệp - thu công quốc doanh. Trong phạm vi doanh nghiệp – thu công, doanh thu chính là tổng số thu nhập thực tế bằng tiền của doanh nghiệp từ những hoạt động tiêu thụ sản phẩm hang hoá, dịch vụ, thu từ liên doanh và các hoạt động nghiệp vụ tài chính, bao gồm hai chỉ tiêu sau:
- Doanh thu công nghiệp thủ công: là doanh thu do tiêu thụ sản phẩm công nghiệp - thủ công bao gồm các khoản sau:
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm, bán thành phẩm do hoạt động công nghiệp - thủ công của doanh nghiệp tạo ra.
- Doanh thu của các công việc có mang tính chất công nghiệp - thủ công.
- Doanh thu bán các phụ phẩm ( sản phẩm song song) thứ phẩm, phế phẩm và phế liệu thi hồi.
- Doanh thu cho thuê máy móc, thiết bị trong dây truyền sản xuất công nghiệp - thủ công của doanh nghiệp.
- Doanh thu do các hoạt động liên doanh liên kết: Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp cần phải có liên doanh liên kết để sản xuất ra sản phẩm. Khi một doanh nghiệp góp vốn để sản xuất kinh doanh, khoản thu được từ khoản vốn góp đó chính là doanh thu của doanh nghiệp.
Doanh thu xuất khầu: Là doanh thu do doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu hoặc là uỷ thác cho đơn vị khác xuất khẩu.
Chỉ tiêu doanh thu là chỉ tiêu tài chính quan trọng nhất của doanh nghiệp nó phản ánh khối lượng sản phẩm sản xuất ra đã được xã hội thừa nhận. Nếu công nghiệp - thủ công quốc doanh sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá, đảm bảo chất lượng tức là nó sẽ làm tăng doanh thu, tạo ra có sự tăng trưởng kinh tế.
* Chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp. Nó phản ánh một cách tổng hợp nhất về mặt chất lượng công tác trên các mặt sản xuất, tiêu thu sản phẩm và hoạt động tài chính. Nếu hoạt động kinh doanh tiến hành tốt sẽ có khả năng tạo ra nhiều lợi nhuận, từ đó tạo khả năng để tiếp tục phát triển quá trình kinh doanh đạt chất lượng cao hơn.
- Lợi nhuận của quá trình kinh doanh trong công nghiệp - thủ công là phần chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và phần chi phí kinh doanh để đạt thu nhập. Lợi nhuận được tích theo công thức:
Lợi nhuận trước thuế lợi tức = Doanh thu - giá vốn - Chi phí lưu thông - Thuế
Cùng như doanh thu, lợi nhuận có thể thu được từ thành quả kinh doanh sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có tính chất công nghiệp và lợi nhuận từ các dịch vụ khác như cho vay vốn, cho thuê các thiết bị, nhà xưởng, máy móc và đất đai... Song lợi nhuận mang lại cho các hoạt động kinh doanh sản phẩm hàng hoá dịch vụ là nguồn lớn nhất, quan trọng nhất và thường xuyên nhất của doanh nghiệp. Nó khác với chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất và doanh thu, chỉ tiêu lợi nhuận của các ngành công nghiệp - thủ công quốc doanh phản ánh mục tiêu quan trọng là đảm bảo lợi ích cho chính bản thân doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp luôn luôn cố gắng tìm mọi cách để làm tăng lợi nhuận của mình. Khi phân tích chỉ tiêu lợi nhuận qua các năm cho chúng ta sẽ thấy rằng chất lượng hoạt động hay là mức độ sinh lợi của công nghiệp thủ công quốc doanh có đảm bảo được lợi ích cho chính nó thì mới tạo ra động lực để thực hiện các mục tiêu xã hội.
* Nhóm chỉ tiêu nộp ngân sách nhà nước:
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh nghĩa vụ của các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh đối với Nhà nước. Đó là các khoản nộp ngân sách trung ương và quỹ của cơ quan quản lý trực tiếp cấp trên, bao gồm các chỉ tiêu sau:
-Thuế tiêu thụ đặc biệt.
-Thuế xuất khẩu.
-Thuế thu nhập doanh nghiệp.
-Thuế tài nguyên.
-Thuế vốn.
-Thuế môn bài, nộp khấu hao cơ bản và các khoản lệ phí.
Vì vậy thực chất các khoản nộp ngân sách là một phần của chỉ tiêu của giá trị tăng thêm. Nếu tách nó ra thì ta sẽ có một chỉ tiêu riêng phản ánh quy mô và mức độ thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và cơ quan quản lý. Nhóm chỉ tiêu này là nhóm chỉ tiêu đặc biệt quan trọng với các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh bởi vì đó là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước do Nhà nước bỏ vốn ra để mà đầu tư, phần lớn giá trị của chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước là khoản tiền mà Nhà nước có thể thu hồi được từ các hoạt động đầu tư của mình.
Việc phân tích tình hình phát triển của công nghiệp - thủ công nếu dựa vào các chỉ tiêu nộp ngân sách sẽ có phần giúp cho Nhà nước theo dõi được tình hình thực hiện nghĩa vụ của công nghiệp - thủ công quốc doanh qua các năm.
b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh nguồn lực và số lượng cơ sở sản xuất:
* Chỉ tiêu số lượng cơ sở sản xuất.
+ Khái niệm: Nó là toàn bộ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp - thủ công trong khu vực công nghiệp - thủ công quốc doanh trên phạm vi cả nước.
+ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh quy mô, số lượng của công nghiệp - thủ công quốc doanh, giúp cho nghiên cứu tình hình phân bố sản xuất, cơ cấu phát triển công nghiệp - thủ công theo ngành nghề và ngành hàng.
Việc nghiên cứu số lượng doanh nghiệp của khu vực công nghiệp - thủ công quốc doanh cho thấy rằng sự biến động về quy mô công nghiệp - thủ công quốc doanh ở các vùng khác nhau, các ngành khác nhau, qua đó Nhà nước sẽ có biện pháp nhằm thay đổi cơ cấu công nghiệp - thủ công quốc doanh một cách hợp lý đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay Đảng và Nhà nước đang có chính sách làm giảm khu vực kinh tế quốc doanh và phát triển ngành nghề ở khu vực then chốt mang tính chất định hướng cho toàn bộ nền kinh tế. Việc phân tích các chỉ tiêu số lượng cơ sở sản xuất của công nghiệp - thủ công quốc doanh sẽ giúp đảng và Nhà nước nên quyết định khai thác và phát triển đầu tư khuyến khích nâng tỷ trọng công nghiệp quốc doanh ở những khu vực trọng yếu.
* Chỉ tiêu phản ánh vốn sản xuất.
+ Khái niệm : vốn sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh là hình thái giá trị của mọi tài sản, vật tư, thiết bị cơ bản dùng vào sản xuất kinh doanh, thuộc quyền quản lý và sử dụng của các doanh nghiệp.
+Nội dung của chỉ tiêu vốn sản xuất: bao gồm vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định như là: máy móc, thiết bị, nhà cửa.
Vốn lưu động là sự biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động như là: Nguyên liệu dự trữ cho sản xuất, sản phẩm dở dang, sản phẩm trong kho, hàng gửi bán, tiền mặt.
+Vốn sản xuất trong các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh được hình thành từ các nguồn sau:
-Nguồn vốn liên doanh là vốn do liên doanh với các doanh nghiệp sản xuất khác nó thể hiện là: giá trị tài sản và tiền mặt mà bên liên doanh góp vào.
-Nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất.
-Nguồn vốn đi vay bao gồm vay ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế khác.
-Nguồn vốn tự bổ xung đó là vốn do doanh nghiệp trích từ lợi nhuận.
Vốn sản xuất là chỉ tiêu quan trọng nhất. Nó phản ánh tình hình đầu tư vào công nghiệp - thủ công quốc doanh và cơ cấu vốn phân bố ở các vùng, lãnh thổ, các ngành nghề kinh tế khác nhau. Việc sử dụng chỉ tiêu vốn sản xuất dùng để phân tích cho thấy sự biến động của vốn theo thời gian và từ đó chúng ta có thể xác định được khả năng tiềm tàng để phát triển công nghiệp - thủ công quốc doanh. Nó giúp cho việc nghiên cứu cơ cấu, tỷ trọng vốn sản xuất của các ngành khu vực công nghiệp - thủ công quốc doanh nhằm phát hiện ra những bất hợp lý trong cơ cấu đó. Trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước đề ra những chính sách hạn chế hoặc khuyến khích đầu tư làm sao cho hợp lý. Ngoài ra cũng có thể phân tích vốn sản xuất của công nghiệp - thủ công chi tiết theo vốn cố định và vốn lưu động, để biết được tình hình đầu tư đổi mới thiết bị của công nghiệp - thủ công quốc doanh để sản xuất ra được nhiều hàng hoá có chất lượng hơn.
* Chỉ tiêu số lượng lao động
Số lượng lao động trong công nghiệp - thủ công quốc doanh là toàn bộ những người lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp do doanh nghiệp trực tiếp quản lý và trả lương.
Lao động trong các doanh nghiệp quốc doanh chủ yếu là lao động được Nhà nước tuyển dụng theo các hợp đồng dài hạn hoặc ngắn hạn, bao gồm :
- Lao động trực tiếp tham gia sản xuất.
- Cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý.
- Lao động phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh
- Lao động hành chính, quản trị và dịch vụ
- Chỉ tiêu số lượng lao động của công nghiệp - thủ công quốc doanh phản ánh tình hình sử dụng số lượng và cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp - thủ công quốc doanh. Nó được dùng để phân tích sự tăng trưởng bởi lao động là một trong 3 yếu tố quyết định của sản xuất. Lực lượng lao động dồi dào với chất lượng cao thì sẽ phản ánh tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước CHDCND Lào hiện nay, kỹ thuật sản xuất chưa cao, các cơ sở sản xuất chủ yếu là sử dụng những thiết bị thu hút nhiều lao động. Việc phân tích chỉ tiêu số lượng lao động của công nghiệp - thủ công quốc doanh cho thấy kết quả thực hiện một trong những mục tiêu xã hội quan trọng hiện nay để tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động.
C. Chỉ tiêu phản ánh hiêu qua kinh tế của công nghiệp - thu công quốc doanh ở CHDCND Lào.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế được hình thành từ việc so sánh giữa các chỉ tiêu kết qủa và chi phí có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau, tức là việc so sánh chúng có ý nghĩa và phản ánh một khía cạnh kinh tế nào đó. Hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả được sử dụng để đánh giá một cách tổng hợp hiệu quả kinh tế một doanh nghiệp, một ngành, một thành phần kinh tế... tuy nhiên, mỗi chỉ tiêu hiệu quả với ý nghĩa kinh tế của nó có thể sử dụng để phản ánh chất lượng hoạt động trên từng mặt của doanh nghiệp, ngành... được cải thiện hay xấu đi như thế nào qua các thời kỳ khác nhau.
* Nhóm chỉ tiêu ,ức năng suất lao động bình quân.
Khái niệm: Mức năng suất lao động là số lượng sản phẩm (hay giá trị sản phẩm) trung bình do mỗi lao động làm ra trong một thời gian nhất định:
W =
Trong đó: W: Mức năng suất lao động bình quân.
T: Tổng số lao động hao phí để tạo ra Q
Q: Khối lượng sản phẩm hiện vật hoặc giá trị sản phẩm tính theo
phương pháp MPS hoặc tính theo phương pháp SNA.
Mức năng suất lao động là chỉ tiêu hiệu quả quan trọng nhất phản ánh trình độ sử dụng lao động của công nghiệp - thủ công quốc doanh.
Phân tích chỉ tiêu năng suất lao động cho ta thấy các doanh nghiệp công nghiệp - thủ công quốc doanh tổ chức, bố trí lực lượng lao động của mình hợp lý như thế nào bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động cao hay thấp.
* Chỉ tiêu hiệu suất vốn sản xuất.
Hiệu suất vốn sản xuất là số đơn vị giá trị kết quả sản xuất (hay doanh thu) tổng sản lượng được tạo ra trên một đơn vị vốn sản xuất.
Ta có công thức tính:
N =
Trong đó N: Hiệu suât vốn sản xuất (đồng /đồng)
Q: Giá trị tổng sản lượng tổng giá trị sản xuất hay tổng doanh thu
K: Giá trị tài sản cố định bình quân
V: Tổng số vốn lưu động.
Hiệu suất vốn sản xuất cũng như năng suất lao động bình quân có thể được tính cho từng xí nghiệp, toàn ngành công nghiệp và từng ngành công nghiệp.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh tế của toàn bộ vốn sản xuất. Khi Nghiên cứu hiểu suất vốn sản xuất sẽ thấy được trình độ sử dụng vốn của công nghiệp - thủ công quốc doanh. Hiện nay nhiều doanh nghiệp quốc doanh đã biết sử dụng đồng vốn của Nhà nước có hiệu quả để tạo ra ngày càng nhiều của cải cho xã hội. Nhưng còn không ít doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả gây lãng phí vốn của Nhà nước. Vì vậy, việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn qua các năm sẽ phản ánh được công nghiệp - thủ công quốc doanh đã cải thiện tình hình sử dụng vốn đầu tư như thế nào.
* Chỉ tiêu mức doanh lợi chung
+ Khái niệm: Mức doanh lợi chung là chr tiểu phản ánh mức lợi nhuận thu được từ một đồng vốn sản xuất trong sản xuất kinh doanh.
Công thức: R =
Trong đó: R : Mức doanh lợi chung (đồng / đồng)
B : Tổng mức lợi nhuận
K + V : Tổng giá trị tài sản cố định và tai sản lưu động.
Chỉ tiểu cho biết cứ một Đồng vốn sản xuất bỏ vào kinh doanh trong kỳ tạo ra được mấy Đồng lời nhuận.
2.4. Một số phương pháp thống kê sử dụng trong phần tích tính hình phát triển sản xuất công nghiệp.
a. Phương pháp phân tổ.
"Phân tổ thống kê là căn cứ vào một hay một số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ và các tiểu tổ có tính chất khác nhau".
Phân tổ thống kê thực hiện việc nghiên cứu cái chung và cái riêng một cách kết hợp. Tổng thể nghiên cứu được chia thành các tổ có quy mô, đặc điểm khác nhau. Mặt lượng và quan hệ số lượng của các tổ phản ánh mức độ mức độ kết cấu của hiện tượng và mối liên hệ giữa các tiêu thức.
Trong phân tổ thống kê có các loại phân tổ :
Phân tổ theo một tiêu thức hay còn gọi là phân tổ đơn.
Phân tổ theo một tiêu thức là xây dựng tần số phân bố của một tập hợp theo một tiêu thức. Đây là cách phân tổ đơn giản nhất và cũng thường được sử dụng nhất.
Phân tổ theo nhiều tiêu thức có hai loại :
+ Phân tổ kết hợp :
- Khi phân tổ kết hợp cần phải xác định số tổ, phải xác định thứ tự các tiêu thức.
- Xác định số tổ (nếu có) khoảng cách tổ của từng tiêu thức.
- Phải tiến hành phân tổ theo từng tiêu thức một
+ Phân tổ nhiều chiều
- Trong phân tổ nhiều chiều các tiêu thức nguyên nhân đồng thời là tiêu thức phân tổ vì vậy người ta phải đưa các tiêu thức phân tổ về dạng một tiêu thức tổng hợp rồi căn cứ vào tiêu thức tổng hợp này để tiến hành phân tổ theo một tiêu thức.
- Các lượng biến của tiêu thức được ký hiệu Xij (i = 1, n ; j = 1, k)
Trong đó : i là thứ tự của lượng biến
j là thứ tự của tiêu thức
- Tiêu thức tổng hợp : nhằm đưa các lượng biến lớn khác nhau về dạng tỉ lệ bằng cách lấy các lượng biến chia cho số bình quân của các lượng biến đó.
Trong đó :
Cộng các Pij có cùng thứ tự của tiêu thức
Tính :
Coi các hoặc Pi là tiêu thức phân tổ - gọi là tiêu thức tổng hợp
- Tác dụng của phân tổ nhiều chiều :
+ Nghiên cứu kết cấu của tổng thể theo một số tiêu thức cơ bản có mối liên hệ với nhau.
+ Dùng phân tổ nhiều chiều để nghiên cứu mối liên hệ giữa nhiều tiêu thức mà khi dùng phân tổ kết hợp không giải quyết được.
+ Dùng để xác định lại tài liệu đồng nhất của tài liệu ban đầu nhằm vận dụng các phương pháp thống kê toán.
b. Phương pháp bảng số liệu thống kê.
* Về hình thức :
Bảng thống kê bao gòm các hàng ngang và cột dọc, các tiêu đề và các số liệu.
Các hàng ngang và cột dọc phản ánh quy mô của bảng. Số hàng ngang, cột dọc càng nhiều thì bảng thống kê càng lớn và phức tạp. Các hàng ngang, cột dọc cắt nhau tạo thành các ô dùng để điền các số liệu thống kê vào đó. Các hàng ngang, cột dọc thường được đánh số thứ tự để tiện cho việc sử dụng và trình bày vấn đề.
Tiêu đề của bảng phản ánh nội dung của bảng và của từng chi tiết trong bảng. Trước hết có tiêu đề chung, là tên gọi chung của bảng, thường viết ngắn, gọn, dễ hiểu và đặt ở phía trên đầu của bảng. Các tiêu đề nhỏ (còn gọi là tiêu mục) là tên riêng của mỗi hàng và cột phản ánh rõ nội dung các hàng và cột đó.
Các số liệu được ghi vào các ô của bảng, mỗi con số phản ánh một đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng nghiên cứu.
* Về nội dung :
Bảng thống kê gồm hai phần : Phần chủ đề và phần giải thích.
- Phần chủ đề (còn gọi là phần chủ từ) nêu lên tổng thể hiện tượng được trình bày trong bảng thống kê. Tổng thể này được phân thành các bộ phận, nó giải thích đối tượng nghiên cứu là những đơn vị nào, những loại hình gì. Có khi phần chủ đề là các địa phương hoặc thời gian nghiên cứu khác nhau của hiện tượng nào đó.
- Phần giải thích (còn gọi là phần tân từ) gồm các chỉ tiêu giải thích các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, nghĩa là giải thích phần chủ đề của bảng.
Phần chủ đề thường đặt ở vị trí bên trái của bảng, còn phần giải thích ở phía trên của bảng. Cũng có trường hợp người ta thay đổi vị trí của hai phần cho nhau.
* Các loại bảng thống kê.
Căn cứ vào kết cấu của phần chủ đề, có thể chia làm ba loại bảng thống kê : Giản đơn, phân tổ và kết hợp.
- Bảng giản đơn.
Là loại bảng mà phần chủ đề không phân tổ, chỉ sắp xếp các đơn vị tổng thể theo tên gọi, theo địa phương hoặc theo thời gian nghiên cứu .
- Bảng phân tổ :
Là loại bảng trong đó đối tượng nghiên cứu ghi trong phần chủ đề được phân chia thành các tổ theo một tiêu thức nào đó.
- Bảng kết hợp :
Là loại bảng thống kê trong đó đối tượng nghiên cứu ghi ở phần chủ đề được phân tổ theo hai, ba tiêu thức kết hợp với nhau. Nó dùng để biểu diễn kết quả của việc phân tổ theo nhiều tiêu thức.
* Những yêu cầu đối với việc xây dựng bảng thống kê.
- Quy mô của bảng thống kê không nên quá lớn (quá nhiều tổ và quá nhiều chỉ tiêu).
- Các tiêu đề và tiêu mục trong bảng thông kê cần được ghi chính xác, đầy đủ, gọn và dễ hiểu.
- Các hàng và cột thường được ký hiệu bằng chữ hoặc số để tiện trình bày và theo dõi.
- Các chỉ tiêu giải thích trong bảng thống kê cần được sắp xếp theo thứ tự hợp lý, phù hợp với mục đích nghiên cứu, các chỉ tiêu có liên hệ với nhau nên sắp xếp gần nhau.
- Cách ghi các ký hiệu vào bảng thống kê. Theo nguyên tắc các ô trong bảng thống kê dùng để ghi số liệu, song nếu không có số liệu thì dùng các ký hiệu quy ước sau đây :
+ Ký hiệu (-) biểu hiện hiện tượng không có số liệu đó.
+ Ký hiệu (...) biểu hiện số liệu còn thiếu sẽ bổ sung sau.
+ Ký hiệu (x) nói lên rằng hiện tượng không có liên quan đến điều đó, nếu viết số liệu vào ô đó sẽ vô nghĩa.
* Phần ghi chú ở cuối bảng thống kê được dùng để giải thích rõ nội dung của một số chỉ tiêu trong bảng, để nói rõ các nguồn tài liệu đã sử dụng trong bảng hoặc các chi tiết cần thiết khác.
* Trong bảng thống kê bao giờ cũng phải có đơn vị tính cụ thể cho từng chỉ tiêu.
c. Phương pháp phân tích dãy số thời gian.
Dãy số thời gian là dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian.
Có hai loại dãy số thời gian.
- Dãy số thời kỳ biểu hiện quy mô (khối lượng) của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định.
- Dãy số thời điểm : biểu hiện quy mô (khối lượng của hiện tượng tại những thời điểm nhất định)
Dãy số thời gian cho phép thống kê nghiên cứu sự biến động của hiện tượng qua thời gian vạch rõ xu hướng và tính chất quy luật phát triển và dự đoán các mật độ của hiện tượng trong tương lai.
Để phân tích dãy số thời gian thống kê thường sử dụng các chỉ tiêu sau :
* Mức độ trung bình theo thời gian :
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian. Tùy theo là dãy số thời kỳ hay thời điểm mà có công thức tính khác nhau.
* Đối với dãy số thời kỳ mức độ trung bình thời gian được tính theo công thức :
Đối với dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau :
Đối với dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian không bằng nhau, thì mức độ trung bình theo thời gian được tính bằng công thức :
* Lượng tăng hoặc giảm tuyệt đối :
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu (+) và ngược lại mang dấu (-)
Tùy theo mục đích nghiên cứu, ta có các chỉ tiêu về lượng tăng giảm sau đây :
- Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu (Yi) và mức độ kỳ đứng liền trước đó (Yi-1)
d1 = Yi - Yi-1
Trong đó d1 là lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn.
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối định gốc là hiệu số giữa mức độ kỳ nghiên cứu (Yi) và mức độ của một kỳ nào đó được chọn làm gốc (thường lấy mức độ đầu trên Y1).
Di = Yi - Y1 (i = 1, 2,...n)
Trong đó Di là lượng tăng (giảm) tuyệt đối định gốc
Mối liên hệ Di = Sid1
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối trung bình là số trung bình cộng của các lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn ký hiệu d.
* Tốc độ phát triển.
Tốc độ phát triển là một số tương đối thường được biểu hiện bằng lần hoặc % phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng qua thời gian.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau ta có các loại tốc độ phát triển sau đây :
- Tốc độ phát triển liên hoàn phản ánh sự biến động của hiện tượng giữa hai thời gian liền nhau :
Trong đó Ti : là tốc độ phát triển định gốc
Mối liên hệ : Tốc độ phát triển định gốc bằng tích cực các tốc độ phát triển liên hoàn Ti = pi ti
- Tốc độ phát triển trung bình là mức độ đại biểu cho các tốc độ phát triển liên hoàn.
t là tốc độ phát triển trung bình.
* Tốc độ tăng (hoặc giảm).
"Chỉ tiêu này phản ánh mức độ của hiện tượng giữa hai thời gian đã tăng (+) hoặc giảm (-) bao nhiêu lần (hoặc bao nhiêu phần trăm). Và ta có các tốc độ tăng (hoặc giảm) sau đây :
- Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn là tỷ số giữa lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn.
Trong đó ai : là tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn, tính bằng đơn vị lần.
- Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc là tỷ số giữa lượng tăng (giảm) định gốc với mức độ kỳ gốc cố định.
Trong đó Ai : Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc, tính bằng đơn vị lần
Ai -= Ti - 100 (tính bằng %).
- Tốc độ tăng (hoặc giảm) trung bình là chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng hoặc giảm đại biểu trong suốt thời gian nghiên cứu.
a = t - 1
Trong đó a là tốc độ tăng hoặc giảm trung bình.
* Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm).
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu ký hiệu là gi (i = 2,...n) là giá trị ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- S0010.doc