Văn hóa ứng xử người Việt trong thơ Nôm

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ____________________ TRIỆU THÙY DƯƠNG VĂN HểA ỨNG XỬ NGƯỜI VIỆT TRONG TRUYỆN THƠ NễM LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lấ THU YẾN Thành phố Hồ Chớ Minh – 2007 MễÛ ẹA ÀU 1. Lý do chọn đề tài Ngày nay, khi mà các quốc gia đều đặt sự quan tâm hàng đầu cho việc phát triển kinh tế và khoa học kĩ thuật thì việc thiếu hiểu biết về văn hóa đang trở thành một một nguy cơ nghiêm trọng.

pdf115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3874 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Văn hóa ứng xử người Việt trong thơ Nôm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại đang được coi là một trong những vấn đề ưu tiên quốc tế. Văn hóa “ngày hôm qua chỉ là một thứ trang trí, thì hôm nay là nền tảng và linh hồn của cuộc phiêu lưu của con người. Trước kia, người ta coi văn hóa là thứ yếu, ngày nay, người ta bắt đầu nhận ra nó là cốt lõi của vấn đề. Vì vậy, ngày nay cần có một cách tiếp cận mới với phát triển, cách tiếp cận ấy cuối cùng sẽ thừa nhận vai trò quyết định của văn hóa” [65, tr.35]. Nhu cầu về sự hoàn thiện cuộc sống cho hôm nay và cho ngày mai buộc con người phải nhìn nhận lại vai trò của các thành tố của tổng thể xã hội, từ đó, dẫn đến việc cần đánh giá lại vai trò của văn hóa như một thành tố quan trọng và trực tiếp đối với sự phát triển. Một khi toàn bộ sự phát triển của xã hội và cá nhân mỗi con người được đặt trong quỹ đạo của định hướng văn hóa thì bản thân văn hóa sẽ đóng vai trò như hệ điều tiết thường trực và tự giác của cuộc sống và sự phát triển. Nhất là đối với nước ta, một nước đang trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa, có nhu cầu bức bách trong việc tiếp thu thành tựu văn hóa thế giới đồng thời với việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Việt Nam đang ở trong giai đoạn xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đang trên đà hội nhập với văn hóa thế giới cho nên nhu cầu nhìn lại mình để là chính mình và để “làm bạn với toàn thế giới” là rất quan trọng. Muốn vậy, yếu tố quan trọng trước tiên không thể không nhắc tới chính là con người Việt Nam. Với tư cách là chủ thể, đồng thời là “vật mang” văn hóa, con người hoạt động, tác động đến môi trường xung quanh dựa trên những chuẩn thức văn hóa được thừa hưởng từ truyền thống và giáo dục. Trong kỉ nguyên toàn cầu hóa và thông tin hóa như hiện nay, tầm quan trọng của yếu tố văn hóa không ngừng tăng lên. Đặc biệt, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành trung tâm của sự chú ý. Những năm gần đây, văn kiện của Đảng và nhà nước Việt Nam nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chứng tỏ rằng sự phát triển văn hóa của các dân tộc trên thế giới là rất đa dạng và phong phú. Sự đa dạng về văn hóa là một hiện tượng phổ biến bởi nếu mục đích tối thượng của con người là no đủ, hạnh phúc cho mọi người thì những quan niệm, những phương pháp đạt tới, những biểu hiện của mỗi dân tộc là khác nhau. Do vậy, tôn trọng sự phong phú, đa dạng của các nền văn hóa trong thời đại ngày nay là biểu hiện lí tưởng cao cả của chủ nghĩa nhân văn cho con người và vì con người. Tôn trọng tính đa dạng trong sự phát triển và bảo tồn văn hóa nhân loại chính là cơ sở để mỗi dân tộc tìm về bản sắc văn hóa của chính mình, ở đó có một hệ thống các giá trị tinh hoa của dân tộc được vun đắp nên bởi lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, là quá trình tiếp xúc, giao thoa văn hóa để bổ sung, hoàn thiện những giá trị mới, gạt bỏ những giá trị lạc hậu, lỗi thời làm cho làm cho những giá trị bền vững được tồn tại sống động với thực tiễn xã hội. Văn hóa của bất kì dân tộc nào trong quá trình hình thành và phát triển đều tồn tại hai cơ chế: cơ chế thứ nhất có liên quan tới sự phát triển nội sinh của chính nền văn hóa dân tộc đó (văn hóa bản địa), đó là sự chọn lọc, duy trì, phát triển và lưu truyền những giá trị văn hóa đích thực qua các thời kì khác nhau của lịch sử, chúng được xem là tinh hoa của nền văn hóa dân tộc. Cơ chế thứ hai liên quan tới quá trình giao lưu giữa văn hóa bản địa với văn hóa khu vực và thế giới (giao lưu văn hóa). Đó là sự hội nhập, dung hòa có tính cưỡng bức hoặc tự nguyện những giá trị văn hóa của các dân tộc khác vào giá trị văn hóa của dân tộc mình. Đó có thể là quá trình bổ sung, làm phong phú thêm vốn văn hóa bản địa nhưng cũng có thể là quá trình làm tàn lụi một nền văn hóa này trước sự thâm nhập, thôn tính của một nền văn hóa khác. Do đó, muốn duy trì và phát triển nền văn hóa của mình, mỗi dân tộc, bên cạnh sự hội nhập văn hóa phải có được ý thức giữ gìn, phát huy những truyền thống tốt đẹp chứa đựng bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Đó là những giá trị văn hóa quý báu, là tinh hoa văn hóa của một dân tộc được lựa chọn, bảo tồn, duy trì và phát triển qua các thời kì lịch sử, giúp chúng ta phân định rõ cái riêng, cái độc đáo của một nền văn hóa. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một thời kì mới cho đất nước vượt qua thời kì khủng hoảng để bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc . Đất nước ta bước vào một thời kì mới: mở cửa giao lưu và dùng con đường công nghiệp hóa - hiện địa hóa để đưa đất nước vươn đến mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển đất nước theo đường lối “văn hóa soi đường cho kiến quốc” (Hồ Chí Minh), Đảng ta nhanh chóng nhận ra rằng cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế, khoa học, kĩ thuật, công nghệ… với việc bảo tồn, phát huy nội lực văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Điều này đã được minh chứng bằng việc Đảng Cộng sản Việt Nam đã dành hẳn Hội nghị Trung ương khóa VIII để bàn về văn hóa trong tình hình mới. Nội dung chiến lược trong Nghị quyết của Hội nghị là “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc” [9, tr.7]. Bên cạnh đó, Đảng ta đã xác định chiến lược văn hóa là chiến lược xây dựng con người Việt Nam, xây dựng nhân cách Việt Nam. Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã nhận định: “Nói đến văn hóa là phải nói đến con người, mà nói đến con người trước hết phải nói đến tình cảm, tư tưởng, tâm lí, tư duy, chính trị… Đó là cốt lõi của văn hóa. Lịch sử văn hóa là lịch sử con người và loài người. Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành người” [84, tr.188]. Cùng lẽ đó, hiện nay, người ta còn quan tâm đến một biểu hiện hết sức đáng quan tâm của văn hóa, cái thể hiện trực tiếp thái độ của con người, đó là ứng xử, ứng xử có văn hóa và ở mức độ tinh tuyển: văn hóa ứng xử của con người. Đã là con người mang tính nhân loại phổ biến thì ai cũng phải quan tâm đến mối quan hệ, thái độ ứng xử với những vấn đề lớn như: giữa người với người, với gia đình, xã hội, với tự nhiên… Dĩ nhiên, ứng xử văn hóa ở mỗi cộng đồng tộc người có những yếu tố đồng nhất và khác biệt. Người Việt ứng xử khác với người Mường, Mông, Tày, Thái… trong tín ngưỡng, tình cảm, quan hệ gia đình, hôn nhân, đời sống vật chất… Điều này đã được chứng minh rất rõ trong thực tiễn văn hóa ứng xử phong phú và sinh động của mỗi dân tộc. Vậy nên, ứng xử văn hóa là một vấn đề có nội hàm rộng và phức tạp, do đó, việc tìm hiểu văn hóa ứng xử của người Việt cũng gặp khó khăn bởi sự mở rộng và phức tạp của vấn đề, từ khái niệm đến thực tiễn. Với mong muốn khẳng định hành trang không thể thiếu được của người Việt trên con đường văn hóa hiện tại chính là truyền thống ứng xử xã hội, truyền thống văn hóa ứng xử đã được kết tinh từ đời sống văn hóa cổ truyền từ rất lâu đời nên chúng tôi quyết tâm đi tìm những nét văn hóa ứng xử của người Việt trong văn học trung đại, đặc biệt là trong các truyện thơ Nôm, là một cách để khẳng định văn hóa ứng xử đồng thời cũng là một vấn đề có tính chất cốt lõi, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ người Việt sau này. 2. Lịch sử vấn đề Cách đây hơn sáu mươi năm, Đào Duy Anh đã đặt viên gạch đầu tiên cho lĩnh vực nghiên cứu văn hóa Việt Nam khi cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” của ông được Quan Hải Tùng Thư ấn hành (năm 1938). Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa các vùng miền, văn hóa các dân tộc của các tác giả nổi tiếng như : Trần Quốc Vượng, Toan AÙnh, Phan Ngọc, Trần Ngọc Thêm… Có thể kể đến Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam AÙ (GS. Đinh Gia Khánh), Khái niệm và quan niệm về văn hóa (TS. Đỗ Văn Khang), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới (GS. Phan Ngọc), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển Việt Nam hiện nay (GS. Vũ Khiêu và GS. Phạm Xuân Nam), Văn hóa và phát triển (GS. Trường Lưu), Xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta hiện nay (GS.TS. Nguyễn Duy Quý và GS.PTS Đỗ Huy)… Chúng tôi nhận thấy có khá nhiều các công trình nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt như: - Văn hóa giao tiếp của Phạm Vũ Dũng (1996). - Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam do PGS.TS Lê Như Hoa chủ biên (2002). - Nghệ thuật ứng xử của người Việt của tác giả Phan Minh Thảo (2003) - Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt của TS. La Văn Quán (2007) Tất cả các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu các đặc trưng giao tiếp ứng xử trong môi trường gia đình, xã hội và ứng xử với tự nhiên của người Việt, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu và thực sự đầy đủ về văn hóa ứng xử của người Việt qua văn học. Gần với đề tài luận văn quan tâm có công trình: “Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc bộ qua một số ca dao - tục ngữ” của Trần Thúy Anh, giảng viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Hà Nội. ở công trình này, tác giả Trần Thúy Anh nghiên cứu truyền thống ứng xử xã hội của người Việt trong cái nôi văn hóa châu thổ Bắc bộ được cô đọng và đúc kết qua ca dao và tục ngữ. Tác giả đã lấy ca dao và tục ngữ làm điểm tựa để từ đó, hình dung một cách sinh động và sâu sắc bộ mặt lịch sử, chiều sâu văn hóa và các sắc thái riêng biệt, kể cả những tiếp biến văn hóa của thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc bộ. Ngoài ra, chúng tôi cũng quan tâm đến luận văn thạc sĩ Ngữ văn “Truyền thống văn hóa người Việt trong Truyện Kiều” của tác giả Đặng Văn Kim - Trường Đại học Sư Phạm Tp. HCM. Trong luận văn này, tác giả đã có sự so sánh, đối chiếu khá tỉ mỉ giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Qua đó, tác giả đã cố gắng chỉ ra những nét có tính truyền thống của văn hóa Việt Nam, hệ thống lại những nét văn hóa có tính truyền thống của người Việt. Riêng về lĩnh vực nghiên cứu truyện thơ Nôm của người Việt, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều công trình như: - Truyện Nôm bình dân của người Việt, lịch sử hình thành và bản chất thể loại, luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của tác giả Kiều Thu Hoạch. - Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của tác giả Đặng Thanh Lê. - Ngôn ngữ nhân vật trong truyện Nôm, luận án phó tiến sĩ của tác giả Đinh Thị Khang. - Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học, luận án tiến sĩ Ngữ văn của tác giả Lê Thị Hồng Minh. - Hình tượng nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm tài tử giai nhân, luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn của tác giả Nguyễn Thị Chiến. Hoặc các bài viết đăng trên tạp chí Văn học, Văn hóa dân gian như: Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm của Đặng Thanh Lê, Thi pháp truyện Nôm của Kiều Thu Hoạch, Thể tài tử giai nhân" trong truyện thơ Nôm Việt Nam của Trần Quang Huy, ảnh hưởng Phật giáo trong truyện Nôm Quan âm Thị Kính của Đinh Thị Khang, Truyện Kiều và văn hóa nghĩa tình Việt Nam của Lê Đình Kỵ. Trong các tác phẩm này, các tác giả chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu khía cạnh thể loại, ngôn ngữ và nhân vật của loại hình truyện thơ Nôm người Việt, chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề truyền thống văn hóa nói chung, hoặc văn hóa ứng xử của người Việt nói riêng. Trên đây, chúng tôi đã lược ghi lại một số công trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa ứng xử của người Việt và thể loại truyện Nôm. Vì những nguyên nhân khách quan và năng lực chủ quan, chúng tôi rất lấy làm tiếc là chưa thể tiếp cận và thống kê đầy đủ các công trình nghiên cứu về văn hóa ứng xử của người Việt qua văn học đã được công bố. Vì vậy, trong khuôn khổ tài liệu nghiên cứu có được, chúng tôi rất trân trọng các quan điểm, những ý kiến mà các nhà khoa học đã đề xuất. Những ý kiến quý giá ấy sẽ giúp chúng tôi có những định hướng đúng đắn về mặt phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, cũng như về mặt tư liệu tham khảo để có thể hoàn thành nhiệm vụ đã đặt ra của luận văn này. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt qua một số truyện thơ Nôm tiêu biểu thế kỉ XVIII - XIX nhằm tìm ra được ảnh hưởng của thế ứng xử với tư cách là quan niệm sống, lối sống, nếp sống, lối hành động của một cộng đồng người trong đời sống thực tế đến văn học. 4. Phạm vi nghiên cứu và những đóng góp của luận văn Luận văn dùng ca dao, tục ngữ làm điểm tựa để so sánh với một số truyện thơ Nôm tiêu biểu thế kỉ XVIII - XIX như truyện Lý Công, Thoại Khanh Châu Tuấn, truyện Phan Trần, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Phương Hoa, Truyện Hoa Tiên, Song Tinh, Sơ kính tân trang, Nhị Độ Mai, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên… Từ đó, luận văn cố gắng chỉ ra và hệ thống những nét ứng xử tiêu biểu của người Việt đã thể hiện trong các tác phẩm truyện thơ cũng như đã trở thành chuẩn mực ứng xử trong đời sống. Từ mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cố gắng tìm hiểu thể loại truyện thơ Nôm của người Việt từ một góc nhìn mới: góc nhìn từ truyền thống văn hóa Việt. Tuy nhiên, trước giới hạn mênh mông của truyền thống văn hóa Việt, chúng tôi chỉ xin đi vào văn hóa ứng xử, là những nếp cư xử trong cuộc sống hàng ngày của ông cha ta đã đi vào truyện thơ Nôm. Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi có ý thức tiếp thu cách làm văn hóa so sánh để có thể chỉ ra được đâu là nét văn hóa thuần Việt và đâu là những những ảnh hưởng của văn hóa ngoại sinh đến văn hóa, đặc biệt là văn hóa ứng xử người Việt. Chúng tôi hi vọng rằng luận văn sẽ cung cấp phần nào một cách nhìn mới về truyện thơ Nôm người Việt từ góc độ văn hóa ứng xử, cũng như những lí giải khá thú vị về văn hóa ứng xử người Việt qua thể loại này. Do dung lượng có hạn của luận văn và hạn chế về mặt sưu tập tài liệu nghiên cứu nên có thể chúng tôi chưa khái quát một cách trọn vẹn và hệ thống được đầy đủ văn hóa ứng xử của người Việt. Xin phép sẽ được trở lại trong một công trình nghiên cứu khác vào một thời điểm thích hợp. 5. Phương pháp nghiên cứu Do nghiên cứu về văn hóa ứng xử, nghĩa là tìm hiểu về những giá trị tướng đối ổn định của cộng đồng người Việt qua không gian và thời gian, nên chắc chắn luận văn phải sử dụng phương pháp lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa và văn học, chủ yếu là các thao tác thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được cấu tạo thành ba chương: - Chương 1: Truyện thơ Nôm Trong chương này, chúng tôi chủ yếu trình bày khái quát về sự ra đời và phát triển, các kiểu phân loại cũng như nội dung chính và hình thức nghệ thuật của thể loại truyện Nôm của người Việt. - Chương 2: Văn hóa và văn hóa ứng xử ở chương này, chúng tôi giới thiệu các khái niệm văn hóa, ứng xử, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp. Trong đó, chúng tôi cũng khái quát văn hóa ứng xử của người Việt và bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của tư tưởng văn hóa ngoại sinh đến văn hóa bản địa. Đó là ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, từ đó lan tỏa ra thành những ứng xử trong môi trường xã hội, ứng xử giữa người với người. Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn chỉ ra được sự dung hòa của tín ngưỡng bản địa với tam giáo, chứng tỏ người Việt đã biến đổi một cách khéo léo những học thuyết triết học - tôn giáo của nước ngoài thành những quan niệm gần gũi với đời sống xã hội Việt Nam, và dùng nó như những quan niệm sống thiết thực, gần gũi, dễ hiểu và dễ ứng dụng. - Chương 3: Văn hóa ứng xử người Việt trong truyện thơ Nôm. ở chương này, chúng tôi bước đầu tìm hiểu và giới thiệu khái quát các nét văn hóa ứng xử của người Việt tìm thấy được qua các truyện thơ Nôm theo các mối quan hệ chính của con người: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với gia đình. CHệễNG 1 TRUYE ÄN THễ NOÂM 1.1. Sự ra đời và phát triển Truyện Nôm là một thể loại khá độc đáo của văn học dân tộc. Rất tiếc là cho đến nay chúng ta chưa khẳng định được nó ra đời từ lúc nào và hình thái đầu tiên của nó như thế nào. Trong kho tàng truyện Nôm còn lại hiện nay, có loại viết bằng thể thơ lục bát, có loại viết bằng thể thơ Đường luật. Theo Giáo sư Nguyễn Lộc [61], truyện Nôm Đường luật ra đời trước thế kỉ XVIII, từ thế kỉ XVIII trở đi không thấy có nữa. Còn truyện Nôm lục bát thì chưa rõ ra đời lúc nào, chỉ biết nó phát triển mạnh nhất trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Rất có thể truyện Nôm Đường luật ra đời trước truyện Nôm lục bát, nhưng dù điều đó có đúng đi chăng nữa thì vẫn không có nghĩa truyện Nôm Đường luật là hình thái đầu tiên của thể loại truyện Nôm. Chúng ta đều biết rằng trong nền văn học dân gian của ta, cả hai thể loại trữ tình và tự sự đều phát triển rất sớm, và trên nền tảng ấy, một hình thức tự sự có vần như thể loại vè cũng có thể ra đời từ lâu trong nền văn học dân tộc. Phải chăng tiền thân của thể loại truyện Nôm là ở trong văn học dân gian? Truyện Nôm là một bộ phận văn học khá độc đáo và có giá trị của nền văn học Việt Nam. Đây là loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi tương đối rộng lớn, vì vậy cũng có ý kiến gọi truyện thơ Nôm là trung thiên tiểu thuyết (tiểu thuyết vừa). Bộ phận văn học này có một số lượng khá lớn và có vị trí rất quan trọng trong trong đời sống tinh thần của người bình dân xưa. Giá trị của truyện thơ Nôm đã được khẳng định qua thời gian tồn tại của nó và lòng yêu thích của quần chúng lao động ở nhiều thế hệ. Tuy nhiên, hiện tại, khi nghiên cứu bộ phận văn học này, chúng ta sẽ gặp một số vấn đề khó giải quyết như: nguồn gốc, sự phát triển, thời điểm sáng tác của các tác phẩm truyện thơ Nôm. Tất nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã rất quan tâm và bước đầu cũng đã có được những ý kiến về các vấn đề trên, tuy tất cả mới dừng lại ở mức độ những giả thiết. Theo Giáo sư Đặng Thanh Lê [59, tr.50] “Sự ra đời của truyện Nôm bắt nguồn từ một yêu cầu phản ánh xã hội với những nội dung thời đại cũng như với những điều kiện thực tiễn của bản thân thời đại ấy”. Vào thế kỉ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam đã bộc lộ nhiều mặt mâu thuẫn với xu thế của thời đại và sự tiến triển của lịch sử dân tộc. Chế độ quân chủ chuyên chế quan liêu của triều Lê ngày càng tỏ ra bất lực trước hai mâu thuẫn cơ bản, sâu sắc: mâu thuẫn giữa các phe phái phong kiến cầm quyền trong nội bộ giai cấp thống trị và mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân bị trị, chủ yếu là nông dân, với triều đình. Hệ quả tất yếu là vào đầu thế kỉ XVI, do sự bùng nổ của những mâu thuẫn đó, triều Lê đã sụp đổ. Nhà Mạc lên thay, lúc đầu tuy có những cố gắng nhất định, song rốt cuộc, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ quân chủ chuyên chế theo mô hình Nho giáo lỗi thời lại tiếp tục phát triển dẫn đến nạn chia cắt đất nước và nội chiến phong kiến (Trịnh - Mạc, Trịnh - Nguyễn) kéo dài hàng trăm năm, phá vỡ sự thống nhất đất nước, làm cho cuộc sống nhân dân ngày càng khổ cực, lầm than. Những cuộc nổi dậy của nông dân đã xuất hiện đây đó từ thế kỉ XVI, đến khoảng thế kỉ XVIII trở đi, những mâu thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến ngày càng trở nên gay gắt và bùng nổ thành những cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra triền miên ở khắp nơi. Đến thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến đã bước vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và toàn diện. Những biến động xã hội như thế chẳng những đã làm rung chuyển đến tận gốc nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức của chế độ phong kiến mà còn là cơ sở cho sự nảy sinh và phát triển tư tưởng nhân văn của thời đại, đồng thời cũng là cội nguồn tư tưởng nhân văn trong các truyện thơ Nôm. Nếu như ở thế kỉ XV, cùng với sự phát triển của chế độ quân chủ chuyên chế, giai cấp phong kiến thống trị có xu hướng hạn chế nghệ thuật dân gian, gò ép nền văn hóa của nhân dân vào những khuôn vàng thước ngọc của nền văn hóa chính thống thì sang thế kỉ XVI - XVII, do sự suy yếu và rạn vỡ của chế độ tập quyền chuyên chế, và nhất là do sức quật khởi mãnh liệt của nhân dân, nền văn hóa - văn học dân gian lại có cơ sở phát triển mạnh mẽ. Nghệ thuật thủ công mĩ nghệ dân gian rất phát triển, nhất là các loại tranh khắc gỗ, tranh dân gian của làng Đông Hồ, Hàng Trống… Đặc biệt, các tranh như Đánh ghen, Hứng dừa đều có ghi thêm những câu lục bát rất thú vị, rất gần gũi với những câu thơ nôm na, mộc mạc trong các truyện Nôm: Khen ai khéo dựng nên dừa . Đấy trèo, đây hứng cho vừa một đôi. Tính chất suy tàn của chế độ phong kiến không chỉ bộc lộ ở mâu thuẫn giai cấp mà nó còn đẩy mạnh sự phân hóa trong nội bộ giai cấp thống trị, đặc biệt là sự phân hóa trong tư tưởng tình cảm. Thực tế này làm nảy sinh một hiện tượng: hầu như những cây bút tên tuổi trên văn đàn lúc này lại là những người không giữ những địa vị trọng trách ở triều đình. Phần lớn họ là những người giữ những chức vụ quan trường bậc thấp như Đặng Trần Côn, Cao Bá Quát… Nhiều người ở ẩn và còn một số đông những nho sĩ bình dân - những người không chịu sự đào tạo chính quy, hoàn chỉnh của nền giáo dục phong kiến, không theo đuổi con đường khoa cử, danh vọng. Những nho sĩ này có cảnh sống thanh bần, gần gũi với đời sống của quần chúng nhân dân và họ đã tiếp thu tư tưởng tình cảm, truyền thống nhân đạo của nhân dân. Những con người trí thức có nhãn quan sáng suốt và tinh thần tiến bộ đã đem tình cảm và tài năng của mình gắn bó với tiếng nói của nhân dân và yêu cầu của thời đại với một sự đồng tình, đồng cảm sâu sắc. Và như vậy, truyện Nôm ra đời như một thể loại văn học có đặc điểm và quy mô đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Hay nói như Giáo sư Đặng Thanh Lê [59, tr.57] “truyện Nôm là sản phẩm văn học vào thời kì phong kiến suy tàn, mang ý nghĩa phản ánh một thời kì bùng nổ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp dưới chế độ phong kiến”. Hình thức đầu tiên của các truyện thơ Nôm có lẽ là những bài hát tự sự của các nghệ nhân hát rong. (Hiện tượng hát rong xuất hiện ở nước ta từ thế kỉ nào thì chưa có tư liệu lịch sử nào xác định, chỉ biết rằng khi có các đô thị thì đã xuất hiện nhiều người sống bằng nghề này, nhất là sau thế kỉ XV). Những bài hát tự sự này phần lớn được các nghệ nhân sáng tác hoặc dựa trên cơ sở của truyện cổ dân gian, hoặc rút ra từ một truyện thơ Nôm đã có trước đó. Càng về sau, những bài hát này càng được thêm thắt về mặt nội dung cũng như nghệ thuật và đến một lúc nào đó, bài hát được ghi lại thành sách, chính thức trở thành một truyện Nôm. Có thể kể đến một số truyện thơ Nôm hình thành theo kiểu này là: Trương Chi, Tấm Cám… Nguồn gốc ra đời thứ hai của các truyện thơ Nôm là các nhà chùa cửa Phật. Để tuyên truyền đạo Phật cho các tín đồ phần đông không biết chữ, một số nhà sư có học đã nghĩ ra cách diễn Nôm một số sự tích trong kinh Phật. Hình thức này ngày càng phát triển, là nguồn gốc ra đời của nhiều truyện thơ Nôm như: Quan âm tống tử bản hạnh (dạng cổ của Quan âm Thị Kính sau này), Nam Hải Quan âm bản hạnh (dạng cổ của truyện Bà Chúa Ba)… Truyện Nôm ra đời và và tồn tại đầu tiên dưới hình thức truyện thơ Nôm truyền khẩu. Sau một thời gian dài, khi phong trào truyện thơ Nôm truyền khẩu phát triển mạnh mẽ thì các nho sĩ bình dân và bác học đã mạnh dạn sử dụng loại hình văn học này để sáng tác hoặc ghi chép lại những truyện thơ Nôm đã có từ trước. Từ đó xuất hiện truyện Nôm viết. Cũng như mọi hình thái sáng tác khác, truyện Nôm không xuất hiện kế tiếp nhau một cách dứt khoát mà mỗi tác phẩm đều tồn tại song song với những truyện Nôm trước hoặc sau nó. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định được truyện Nôm viết xuất hiện vào thời gian nào và sự phát triển của nó trong lịch sử văn học do hầu hết các truyện Nôm còn lại đều không có tên tác giả và thời điểm sáng tác. Theo sử sách cũ còn ghi chép thì việc sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học đã khởi phát từ thời Trần, và khoảng cuối thế kỉ XIII - XIV đã xuất hiện một số tác gia làm thơ Nôm như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Hồ Quý Ly… Mặc dù các tác gia sáng tác văn thơ Nôm thời Trần chưa nhiều nhưng việc người Việt dùng chữ Việt để sáng tác văn học cũng là một sự kiện có ý nghĩa chính trị sâu sắc, đồng thời đặt nền tảng cho sự phát triển văn học Nôm các thế kỉ sau. Thế kỉ XV là thời kì phát triển rực rỡ của văn học dân tộc trong đó có văn học Nôm. Chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực chính trị - xã hội với các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông nhưng còn đơn điệu về thể loại. Giai đoạn thế kỉ XVI - XVII, văn học chữ Nôm mới phát huy thế mạnh của mình trong nhiều thể loại khác nhau. Ngoài thơ còn có phú, diễn ca lịch sử, vãn, văn xuôi Nôm với các tác giả nổi tiếng như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan. Sự nở rộ của các thể vãn, ca khúc, diễn ca là rất đáng chú ý, làm tiền đề cho sự phát triển thể loại truyện thơ Nôm sau này vì ở các thể loại này, các tác giả đều đã sử dụng thuần thục lối thơ lục bát và lục bát biến thể, một lối thơ rất quen thuộc của thể loại truyện thơ Nôm. Phạm Đình Toái, một đồng tác giả của Đại Nam quốc sử diễn ca, có lẽ là người đầu tiên đã bàn một cách cặn kẽ về thể thơ lục bát. Thời Trần đã có tác phẩm văn học Nôm nào sử dụng thể thơ lục bát chưa? Chúng ta chưa có bằng chứng cụ thể để khẳng định hay bác bỏ. Nhưng tác phẩm văn học Nôm lục bát ở thời Lê, thế kỉ XVI – XVII vẫn còn một số lượng đáng kể. Qua những câu lục bát trong Bát giáp thưởng đào văn (Lê Đức Mao) hay những câu hát cửa đình được ghi chép trong Nam phong giải trào (Trần Danh án), chúng ta có thể khẳng định thể Nôm lục bát đã không còn xa lạ cuối thế kỉ XVI - đầu thế kỉ XVII. Từ nửa cuối thế kỉ XVI, Phùng Khắc Khoan có Lâm tuyền vãn dài trên 200 câu lục bát. Tiếp theo đó, Đào Duy Từ có Tư Dung vãn, Ngọa Long cương vãn, mỗi bài cũng gần vài trăn câu lục bát. Rồi Nguyễn Hữu Hào có Song Tinh bất dạ, Nguyễn Tông Khuê có Sứ trình tân truyện đều là những tác phẩm lục bát dài. Riêng Thiên Nam ngữ lục dài đến trên tám ngàn câu lục bát. Trong số những tác phẩm lục bát này, tác phẩm của Phùng Khắc Khoan, Đào Duy Từ chủ yếu miêu tả cảnh thiên nhiên, và thác ngụ tâm sự, yếu tố tự sự chưa rõ nét. Tác phẩm của Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Tông Khuê yếu tố tự sự rõ nét hơn nhưng vẫn chưa có tính cách truyện thơ. Đáng chú ý hơn cả là tập Thiên Nam ngữ lục, là một tác phẩm diễn ca lịch sử, trong đó sự tích của nhiều nhân vật truyền thuyết và nhân vật lịch sử được ghi lại một cách cụ thể, chi tiết, có tính cách như những truyện thơ rõ rệt. Vì vậy, mặc dù theo GS. Kiều Thu Hoạch [50, tr.33]: “Chưa có tư liệu chắc chắn để xác định sự xuất hiện của truyện thơ Nôm sớm hơn thế kỉ XVII. Thế kỉ này xuất hiện không nhiều truyện thơ Nôm, đặc biệt truyện có tính chất tôn giáo - lịch sử nhiều hơn truyện Nôm xã hội. Ví dụ truyện Quan  m tống tử bản hạnh (dạng cổ của Quan âm Thị Kính), Nam Hải Quan âm bản hạnh (dạng cổ của truyện Bà Chúa Ba)”… thì tất cả những điều trên khiến chúng ta có thể tin rằng cho dù đến nay chưa xác định được một truyện Nôm lục bát nào ra đời trước thế kỉ XVIII, nhưng chắc chắn, trước thế kỉ XVIII, truyện Nôm lục bát đã xuất hiện và đã có những thành tựu nhất định mà truyện Nôm lục bát giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX với đỉnh cao chói lọi là Truyện Kiều (Nguyễn Du) chỉ là sự phát triển tiếp tục, là sự nâng cao đến mức hoàn chỉnh mà thôi. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào mối quan hệ giữa nội dung tác phẩm và hiện thực đời sống xã hội, căn cứ vào tài liệu cấm đoán của giai cấp thống trị, căn cứ vào hình thức ngôn từ và thể loại để đưa ra nhận định sơ bộ về sự phát triển của truyện thơ Nôm. Đó là bộ phận văn học này ra đời và phát triển từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX. Thời kì phát triển cực thịnh của nó là từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, trong đó bao gồm phần lớn các truyện Nôm lưu hành hiện nay. Cho đến đầu thế kỉ XX, việc sáng tác truyện thơ Nôm dần dần chấm dứt vì các thể loại văn xuôi mới ra đời đã đủ sức thay thế nó. 1.2 Vấn đề phân loại Truyện thơ Nôm có một số lượng khá lớn tác phẩm nhưng chất lượng nội dung, nghệ thuật lại không đồng đều. Từ lâu, giới nghiên cứu văn học đã quan tâm đến sự phân loại truyện Nôm vì sự tồn tại trên thực tế hai loại truyện: loại như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Cúc Hoa, Lý Công, Phương Hoa… một loại khác như Hoa Tiên, Sơ kính tân trang, Truyện Kiều, Phan Trần, Nhị độ mai, Lục Vân Tiên… Trong đó có những tác phẩm không có tác giả, đòi hỏi một sự phân tích và nghiên cứu như hai hiện tượng khác biệt của cùng một thể loại. Theo Nguyễn Thị Chiến [19, tr.11] trước những năm 1960 đã xuất hiện quan điểm chia truyện Nôm thành hai loại: truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh. Cách phân chia này được thể hiện trong công trình Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn. Và sau đó, quan niệm này lại được giáo sư Bùi Văn Nguyên viết trong Truyện Nôm khuyết danh, một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam. Theo tác giả, văn học khuyết danh chính là có tên tác giả nhưng vì lý do nào đó mà thiếu tên đi. Cách phân chia này thuần túy về mặt hình thức, chưa chú ý đến đặc điểm về nội dung và thể loại truyện Nôm. Từ những năm sáu mươi, các nhà nghiên cứu văn học cổ - trung đại đã tìm đến cách phân loại mới. Đó là cách chia truyện Nôm thành hai loại: truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Giáo sư Nguyễn Lộc [61] cho rằng: truyện Nôm bình dân là sáng tác của nhà Nho không thành đạt, sống gần gũi với nhân dân và quần chúng lao động. Hình thức nghệ thuật đơn giản, nội dung thể hiện đạo đức trung - hiếu - tiết - nghĩa và cuộc đấu tranh bảo vệ tình yêu, hạnh phúc gia đình. Hầu hết những tác phẩm loại này là khuyết danh. Còn những truyện Nôm có nội dung tư tưởng và tín._.h nghệ thuật cao, nội dung chính là giải phóng tình cảm, tình yêu tự do vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến được gọi là truyện Nôm bác học. Tác giả của loại truyện Nôm này là những nhà Nho có học vấn cao. Cách phân loại này dựa trên những tiêu chí tương đối khoa học, vì thế, quan điểm này xuất hiện hầu như thay thế cho quan điểm truyện Nôm hữu danh - khuyết danh. Giáo sư Trần Đình Hượu [19, tr.12] nhận xét: “Phải nói rằng cho đến Nguyễn Đình Chiểu, một số lượng đáng kể truyện Nôm mà ngày nay nhiều nhà nghiên cứu chia ra hai loại bác học và bình dân đã làm cho thể loại đó gần như ổn định, có nề nếp và ít nhiều đã hình thành một thứ khuôn khổ khuynh hướng”. So với quan điểm hữu danh - khuyết danh, quan điểm bình dân - bác học là một bước tiến trong việc phân loại và đi sâu vào thi pháp truyện Nôm. Cái mới của quan điểm này là đã nhìn nhận truyện Nôm qua thực tiễn văn học mà một số tiêu chí thi pháp học. Sự khác nhau của hai loại truyện không phải là ở chỗ có hay không có tên tác giả mà là sự khác nhau của một đặc điểm thi pháp học như trình độ tác giả, thao tác nghệ thuật, chủ đề tác phẩm và đặc biệt là loại hình nhân vật. Sự phân chia hợp lý hai loại truyện Nôm bình dân - bác học là tiền đề để đi sâu vào hai loại truyện Nôm, phát hiện ra những đặc trưng riêng của từng loại. Truyện Nôm bác học chủ yếu viết để đọc, truyện Nôm bình dân viết để kể. Để tiện cho việc nghiên cứu, hiện nay người ta tiến hành phân loại các truyện thơ Nôm theo ba cách sau * Phân loại dựa vào nguồn gốc đề tài: có 2 loại - Có những truyện thơ Nôm lấy đề tài từ các truyện cổ dân gian như: Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh… - Có những truyện thơ Nôm có nguồn gốc đề tài từ văn học Trung Quốc như: Truyện Hoa Tiên, Nhị Độ Mai, truyện Phan Trần… - Lại có những truyện lấy đề tài từ những sáng tác chữ Hán, hoặc những sự tích ở Việt Nam như: Bích Câu kì ngộ, truyện Tống Trân Cúc Hoa… * Phân loại dựa vào tác giả: có 2 loại - Truyện Nôm hữu danh: là những truyện còn tên tác giả như truyện Hoa Tiên (Nguyễn Huy Tự), truyện Song Tinh (Nguyễn Hữu Hào), Truyện Kiều (Nguyễn Du)… Tuy nhiên loại này còn lại không nhiều và hầu hết truyện Nôm hữu danh đều là truyện Nôm bác học. - Truyện Nôm khuyết danh: là những truyện không còn tên tác giả như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Thoại Khanh Châu Tuấn… Hầu hết các truyện Nôm khuyết danh đều là truyện Nôm bình dân. * Phân loại dựa vào nội dung và hình thức: có 2 loại - Truyện Nôm bình dân: Do các nho sĩ bình dân sáng tác nên có nội dung mang đậm tính dân dã của người lao động và nghệ thuật mộc mạc, giản dị. Ví dụ: Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Thoại Khanh Châu Tuấn… - Truyện Nôm bác học: Do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác nên có nội dung phức tạp, tình tiết, tâm lí nhân vật và nghệ thuật điêu luyện hơn so với truyện Nôm bình dân. Ví dụ: Truyện Song Tinh, Phan Trần, Nhị độ mai, Truyện Kiều… Cách phân loại này cũng cùng quan điểm khi phân chia truyện Nôm theo tiêu chí nội dung và hình thức thành hai loại truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân. Tuy vậy, ba cách phân loại trên chỉ có tính chất tương đối và hiện nay, chúng ta vẫn thường sử dụng cách phân loại theo hình thức nghệ thuật và nội dung tác phẩm, vốn là cách phân loại có giá trị khoa học hơn cả. Hiện nay còn một số lượng khá lớn truyện Nôm không xác định được thời điểm sáng tác và tên tác giả. Người ta gọi bộ phận văn học này là truyện Nôm khuyết danh. Có lẽ hiện tượng này xảy ra do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, do tâm lí coi thường các sáng tác bằng chữ Nôm. Văn học Nôm được coi là loại văn học nôm na, mách qué nên khi tác phẩm ra đời, tác giả của chúng không được chú ý đến và dần dần bị quên lãng. Thứ hai, do sự cấm đoán của giai cấp phong kiến trước việc rất nhiều truyện thơ Nôm đều có nội dung phê phán, lên án tầng lớp vua quan tham lam, độc ác. Để tránh sự thù địch của giai cấp thống trị, nhiều tác giả truyện thơ Nôm đã không lưu lại tên mình trên tác phẩm. Thứ ba, trước khi có chữ viết ra đời, truyện thơ Nôm chủ yếu được truyền miệng. Quá trình lưu truyền tác phẩm trong một thời gian dài, từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác dần dần đã “bỏ rơi” tên tác giả và trở thành khuyết danh. Và có thể thấy rằng hầu hết truyện thơ Nôm khuyết danh đều là truyện thơ Nôm bình dân. Từ đây, lại xuất hiện câu hỏi tiêu chí phân biệt truyện thơ Nôm bác học và truyện thơ Nôm bình dân là gì? Nếu xem truyện thơ Nôm bác học là loại truyện thơ có tính chất uyên bác, được gọt giũa, trau chuốt hơn và có tên tác giả thì truyện thơ Nôm bình dân có cốt truyện phần lớn lấy từ truyện cổ tích, truyện dân gian Việt Nam, không có tên tác giả, ngôn ngữ mộc mạc ?! Vậy thì chúng ta có thể nói gì về trường hợp truyện Phan Trần, truyện Nhị Độ Mai hay Sơ kính tân trang mà văn phong vừa có tính chất bác học, vừa đậm đà yếu tố dân gian?! Từ đó có thể thấy rằng sự phân biệt yếu tố bác học hay bình dân trong truyện thơ Nôm chỉ có tính chất tương đối. Theo Giáo sư Lê Trí Viễn [50, tr.6], truyện Nôm khuyết danh có thể có hai loại: một loại gần với văn học dân gian như Tống Trân Cúc Hoa, một loại gần với văn học bác học như Nhị Độ Mai và giáo sư cho rằng “gần với văn học dân gian hay cũng là văn học dân gian, điều đó hãy còn là vấn đề phải nghiên cứu nhưng Tống Trân Cúc Hoa vẫn có nhiều đặc điểm của văn học dân gian, về nội dung cũng như về hình thức”. Còn Giáo sư Đinh Gia Khánh [50, tr.6-7] cho rằng “truyện Nôm chỉ là một hiện tượng chứng tỏ ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ của văn học dân gian vào văn học viết bằng chữ Nôm của trí thức phong kiến. Đó là ảnh hưởng của truyện cổ tích. Nhưng ở đây lại còn phải thấy ảnh hưởng rất lớn của thơ ca dân gian. Thể thơ trong truyện Nôm bắt nguồn từ thể thơ dân gian. Ngôn ngữ văn học trong truyện Nôm cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ thơ dân gian. Cho nên sự nở rộ của truyện Nôm trong khoảng từ thế kỉ XVI trở đi, đặc biệt là từ thế kỉ XIII cũng lại phản ánh tình hình thơ ca dân gian trong các thế kỉ ấy”. Như vậy, có thể thấy rằng truyện Nôm bác học phần lớn có tên tác giả, hầu hết những truyện loại này đều được viết dựa vào cốt truyện của văn học Trung Quốc. Nội dung của nó có nhiều mặt phong phú và nghệ thuật được trau chuốt nhiều, trình độ khá điêu luyện… Còn truyện Nôm bình dân hầu hết là những truyện khuyết danh, thường được viết dựa theo những câu chuyện cổ dân gian của ta. Nói cách khác, đó là những truyện dân gian được các nho sĩ bình dân nhận thức lại trên bối cảnh thực tế của tình hình lịch sử xã hội nước ta. Tất nhiên, sự phân loại truyện Nôm bác học hay bình dân cũng chỉ dựa trên những cơ sở có ý nghĩa tương đối mà thôi Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng hai thuật ngữ truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân cũng trên các cơ sở phân loại đã trình bày và chúng tôi còn dựa vào một tiêu chí khá quan trọng nữa là truyện Nôm bác học được sáng tác theo phương thức của văn học thành văn, là những tác phẩm chủ yếu để xem, để đọc, khác với truyện Nôm bình dân được sáng tác để kể là chính. 1.3. Nội dung Lễ giáo phong kiến không phải chỉ chi phối tầng lớp trên của xã hội mà chi phối toàn bộ xã hội. Nhu cầu tự do yêu đương không phải là nhu cầu riêng của những trí thức tiến bộ của tầng lớp trên, như Nguyễn Du, Phạm Thái, Nguyễn Huy Tự … đã đề cập đến trong các tác phẩm văn học chữ Nôm của họ, mà đó cũng là nhu cầu chung của các tầng lớp tiến bộ trong xã hội. Vì vậy, một trong những nội dung chính của truyện thơ Nôm giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX là tình yêu nam nữ, những mối tình tự do vượt ra ngoài khuôn khổ khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến. Trong các truyện Nôm bình dân, các tác giả đã xây dựng những mối tình chung thủy, sắt son của những con người ở những hoàn cảnh trái ngược nhau. Nàng công chúa trong truyện Lý Công chọn người yêu là một người ăn xin ngoài cổng thành. Phương Hoa, con gái quan Thượng thư bộ Hộ yêu chàng Cảnh Yên - tuy là con quan nhưng thực tế cũng phải ăn xin nuôi mẹ. Nàng Cúc Hoa, con gái phú hộ, yêu Phạm Công, một chàng trai nghèo khổ, phải ăn xin để đi học. Ngọc Hoa, con gái một “tướng công quan đại phú gia” đem lòng yêu thương Phạm Tải, một hàn sĩ nhỡ thời phải ăn xin để đi học… Nói chung, hầu hết các mối tình đều nảy sinh từ một bên là các cô công chúa, hoặc tiểu thư con nhà quyền quý giàu sang, với một bên là các chàng trai tuy có tài, nhưng đều đang trong hoàn cảnh khó khăn, phải ăn xin để đi học. Điều này rõ ràng chứa đựng một dụng ý của tác giả. Các tác giả của truyện thơ Nôm bình dân xây dựng những mối tình như vậy là một cách để phủ định quan niệm hôn nhân phong kiến “môn đăng hộ đối”, bắt buộc trai gái lấy nhau trước hết phải tương xứng về đẳng cấp và gia sản. Các nho sĩ bình dân đã xây dựng những mối tình rất đẹp và đặc biệt rất thủy chung son sắt, như một tiếng nói riêng của tình yêu tự do, không theo khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Ngọc Hoa (truyện Phạm Tải Ngọc Hoa) xúc động trước cuộc đời khổ cực của Phạm Tải và nảy sinh ngay tình yêu với chàng: Ngọc Hoa nghe chửa dứt lời Tự nhiên chuyển động bời bời lòng hoa. Nàng bèn cho chàng gạo, tiền và khuyên chàng gắng học hành, lại còn hứa hẹn: Nữa mai gặp hội phong vân Đôi ta sẽ được Tấn Tần cùng nhau. Đặc biệt là cha của Ngọc Hoa, dù là một đại phú gia, nhưng ông không những không phản đối, mà còn đồng tình với sự chọn lựa của con gái: Mẹ cha chẳng ép con đâu Phải duyên đẹp ý mặc dây xích thằng. Cúc Hoa (Phạm Công Cúc Hoa) thấy chàng trai nghèo Phạm Công dắt mẹ đi ăn xin thì thương ngay, về nhà còn ốm tương tư, cuối cùng phải thú thật với bố mẹ. Khi cha Cúc Hoa muốn thử thách Phạm Công bằng cách thách cưới “xuyến vàng ba cặp”, thì Cúc Hoa không chần chừ lấy ngay vòng vàng của cha mẹ đưa cho chàng. Và cũng như trường hợp Ngọc Hoa, Cúc Hoa cũng được sự đồng tình của cha mẹ. Có những trường hợp tình yêu không thuận lợi, gặp nhiều trắc trở, khó khăn nhưng tình yêu vẫn cứ sôi nổi, táo bạo. Công chúa trong truyện Lý Công không hề sợ hãi người cha tàn bạo, nghiệt ngã của mình khi không ngần ngại đưa Lý Công về ở trong cung, tối mới cho ra ngoài. Nàng yêu Lý Công say đắm, ngay cả khi vua cha giận dữ phá cung của nàng và thả trôi sông Lý Công, nàng không ngại ngần trốn đi để tìm cách gặp lại người yêu… Có thể nói, các đôi nam nữ say đắm trong tình yêu mà không mảy may băn khoăn về luân lý, về đạo đức, dư luận và thành kiến của xã hội phong kiến khi đến với tình yêu. Cơ sở để họ yêu nhau là sự xúc động sâu sắc trước cảnh ngộ không may, và quan trọng hơn là phẩm chất, tài đức của con người. Một điểm đáng chú ý là trong xã hội phong kiến, các bậc cha mẹ thường là một lực lượng ngăn trở tình yêu tự do, thì ở trong truyện Nôm bình dân, đã xuất hiện những người cha, người mẹ đứng về phía con cái, suy nghĩ cùng với con hay để cho con tự suy nghĩ và quyết định lấy việc quan trọng nhất của đời mình. Theo giáo sư Nguyễn Lộc [61] thực tế trong truyện Nôm bình dân của người Việt trong giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX, ngoài vấn đề tình yêu tự do, thì vấn đề bảo vệ tình vợ chồng, hay rộng hơn là bảo vệ gia đình trong thời kì tan rã của chế độ phong kiến, là một vấn đề quan trọng nhất. Cuộc đấu tranh trong truyện Nôm bình dân là cuộc đấu tranh của thiện thắng ác, của ngay thắng gian, của chính nghĩa thắng phi nghĩa, và hơn cả là cuộc đấu tranh để bảo vệ tình nghĩa vợ chồng, bảo vệ gia đình chống lại những nguy cơ làm nó tan vỡ. Trong truyện Phạm TảI Ngọc Hoa, khi Ngọc Hoa quyết định lấy Phạm Tải, Biện Điền rất tức giận. Hắn thuê kẻ cướp giết cha Ngọc Hoa và Phạm Tải để bắt ép Ngọc Hoa lấy hắn. Việc không thành, Biện Điền bèn tạc tượng Ngọc Hoa dâng cho Trang vương. Trang vương cho quân lính đến bắt Ngọc Hoa về làm vợ. Ngọc Hoa dứt khoát cự tuyệt. Nàng nói thẳng vào mặt Trang vương: Dù vua xử ức má hồng Thời tôi tự vẫn khỏi lòng bội phu. Rồi nàng tự rạch mặt mình cho xấu đi. Trang vương dùng thuốc độc giết chết Phạm Tải để ép Ngọc Hoa lấy hắn nhưng nàng vẫn cương quyết cự tuyệt. Sau ba năm để tang chồng, Ngọc Hoa tự tử để giữ vẹn lòng chung thủy. Xuống âm phủ, Ngọc Hoa cùng chồng kiện Trang vương khiến hắn bị ném vào vạc dầu. Công chúa trong truyện Lý Công cũng đấu tranh quyết liệt không kém để bảo vệ tình yêu của mình. Khi Lý Công bị thả trôi sông, nàng bỏ nhà trốn đi tìm chồng. Gặp nhau ở đất Hung Nô, nàng bán hàng nuôi chồng ăn học. Khi bị vua Hung Nô ép làm vợ, nàng đã cự tuyệt đến nỗi bị chặt tay chân, xẻo tai mũi và vứt ra ngoài chợ… Khi bị Tương Tử ép lấy, Thoại Khanh (truyện Thoại Khanh Châu Tuấn) đã kiên quyết từ chối nên phải bỏ xứ đi lang thang ăn xin nuôi mẹ. Khi Dâm thần ép nàng làm chuyện mây mưa không được đã móc mắt nàng. Thoại Khanh chịu đựng tất cả để giữ trọn vẹn lòng chung thủy với chồng. Nàng Phương Hoa (truyện Phương Hoa) đã nêu tấm gương sáng về lòng chung thủy. Trước cảnh bố chồng bị giết, gia sản bị cướp sạch, người chồng chưa cưới của nàng là Cảnh Yên phải dắt mẹ già và cháu đi ăn xin lánh nạn, Phương Hoa không những không đoạn tuyệt với Cảnh Yên mà còn tìm mọi cách giúp đỡ chàng và gia đình chàng. Sau đó, nàng còn đội tên Cảnh Yên đi thi đỗ Trạng nguyên và giải oan cho chồng và gia đình chồng. Bên cạnh những tấm gương chung thủy của những người vợ, truyện Nôm bình dân cũng xây dựng hình ảnh những người chồng hết mực thủy chung. Phạm Công ba lần thi đỗ Trạng nguyên, ba lần bị vua ép gả công chúa và ca ba lần chàng đều từ chối, quyết giữ lòng chung thủy với Cúc Hoa. Đến khi Cúc Hoa chết, chàng còn xuống tận âm phủ tìm vợ. Phạm Tải dứt khoát từ chối mọi tước quyền, kể cả đề nghị “ba trăm mĩ nữ cung tần chia đôi” của Trang vương để giữ trọn vẹn lòng chung thủy với Ngọc Hoa. Châu Tuấn, Tống Trân cũng có những nét tương tự. Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ rất được đề cao trong truyện Nôm bình dân. Dù nàng công chúa trong truyện Lý Công, nàng công chúa trong truyện Hoàng Trừu hay nàng Phương Hoa, Cúc Hoa, Ngọc Hoa… đều là người chủ động trong tình yêu và quyết tâm bảo vệ tình yêu của mình đến cùng. Đối với nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm bình dân, dù gặp phải hoàn cảnh éo le, gian khổ đến đâu, họ vẫn giữ vững ý chí và tinh thần đấu tranh không khoan nhượng. Họ hầu như không có tư tưởng định mệnh, buông xuôi. Khi yếu sức, hoặc khi bế tắc, họ đã có thần linh giúp đỡ. Đấu tranh trên dương thế chưa xong thì khi chết xuống âm phủ, họ lại tiếp tục đấu tranh mãi không thôi, cho đến khi nào thắng lợi. Sự liên hệ giữa chủ đề đấu tranh để bảo vệ tình vợ chồng, bảo vệ gia đình với việc đề cao vai trò chủ động của người phụ nữ đều không phải do tính ngẫu nhiên. Trong các tác phẩm này, người phụ nữ đều được giới thiệu là con quan, con vua hoặc con những gia đình giàu có, vốn là những môi trường không thể cho phép người phụ nữ vượt qua lễ giáo phong kiến “khuê môn bất xuất”, nhưng họ lại vượt ra khỏi phạm vi gia đình và lễ giáo, có khi hoạt động của họ diễn ra ở một phạm vi xã hội rộng lớn hơn như Phương Hoa giả trai đi thi đậu trạng nguyên để minh oan cho chồng và tố cáo tội ác của tên Tào trung úy… Theo giáo sư Nguyễn Lộc [46] tất cả nhằm phản ánh vai trò tích cực chủ động của người phụ nữ bình dân xưa trong gia đình, và kể cả trong xã hội nông thôn xưa. Nhất là khi chiến tranh liên miên, đàn ông bị cuốn vào các cuộc chinh chiến, thì vai trò của người phụ nữ trong gia đình, đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình lại càng nổi bật. Ngoài việc đề cao tình nghĩa vợ chồng và phản ánh cuộc đấu tranh để bảo vệ tình vợ chồng, truyện Nôm bình dân còn đề cao lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Trong truyện Thoại Khanh Châu Tuấn, tác giả hết lời ca ngợi tấm lòng hiếu thảo của Thoại Khanh đối với mẹ chồng. Khi Châu Tuấn bị đày đi xa, Thoại Khanh ở nhà hết lòng yêu thương và chăm sóc mẹ chồng. Nàng làm thuê vất vả để nuôi mẹ nhưng không một lời oán trách. Khi phải lưu lạc ăn xin nơi đất khách, nàng hết lòng lo lắng cho mẹ chồng: đêm lạnh, nàng lấy mái tóc dài của mình ủ ấm cho mẹ, nàng ăn trái cây và cắt thịt của mình cho mẹ ăn, móc mắt mình cho Dâm thần để cứu tính mạng mẹ. Cúc Hoa trong truyện Tống Trân Cúc Hoa cũng là người con dâu hiếu thảo như thế. Khi bị cha ruột là lão trưởng giả hành hạ, ép lấy người khác khi chồng đang đi sứ, nàng toan tự tử nhưng nghĩ đến mẹ chồng không ai chăm sóc, nàng lại cắn răng chịu đựng… Các nhân vật nam cũng là những tấm gương sáng về lòng hiếu thảo. Phạm Công nhà nghèo, cha mất sớm, chàng kiếm củi làm chay cho cha rồi dắt mẹ đi ăn xin. Ngọc Hoàng cho hai tiên nữ xuống kết duyên với chàng, Phạm Công từ chối để chăm sóc mẹ… Khác với truyện Nôm bình dân, truyện Nôm bác học trong giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX không chủ yếu phản ánh khía cạnh đạo đức mà đã vươn lên tiến dần đến cách nhận thức và phản ánh hiện thực cuộc sống. Giai đoạn này là giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam bước vào cuộc khủng hoảng, suy vong trầm trọng. ý thức hệ phong kiến chính thống là Nho giáo bị lung lay dữ dội. Những luân lý tam cương, ngũ thường của Nho giáo bị phá sản nghiêm trọng khiến tầng lớp nhà Nho chân chính bị khủng hoảng về mặt lý tưởng. Họ mất niềm tin vào chính quyền và phần lớn lui về ở ẩn. Trong khi đó, một khuynh hướng tư tưởng bảo vệ, khẳng định quyền sống và giá trị phẩm chất con người đã phát triển thành một khuynh hướng mạnh mẽ. Điều đó khiến cho nội dung chính của truyện Nôm bác học giai đoạn này có chủ đề chính là số phận con người và tình yêu đôi lứa trong chế độ phong kiến suy tàn. Trong trào lưu đòi giải phóng tình cảm của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - XIX, vấn đề tình yêu tự do vượt ra ngoài khuôn khổ khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến là một trong những vấn đề hết sức bức thiết. Đây là một đề tài hết sức hấp dẫn của truyện Nôm bác học và rõ ràng là đề tài chịu ảnh hưởng khá sâu sắc từ các truyện Nôm bình dân. Nguyễn Du, Phạm Thái, Nguyễn Huy Tự, hay những tác giả của truyện Phan Trần, truyện Tây sương… đều đề cập đến chủ đề này. Các tác phẩm đều xây dựng những mối tình của những giai nhân tài tử sống trong những gia đình sang trọng giàu có. Thúy Kiều với Kim Trọng, Phạm Kim và Quỳnh Thư, Dương Dao Tiên với Lương Phương Chân, Phan Tất Chánh và Trần Kiều Liên… đều môn đăng hộ đối theo đúng quan điểm Nho giáo phong kiến. Thế nhưng câu chuyện tình yêu của họ lại được xây dựng hết sức tự do, phóng khoáng, vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến. Thái độ của các tác giả đối với tình yêu tự do trong truyện thơ Nôm bác học là khẳng định. Họ say sưa miêu tả và theo dõi một cách đầy hứng thú quá trình đi đến tình yêu của các nhân vật. Từ buổi đầu hẹn hò của Thúy Kiều - Kim Trọng đến đêm trăng thề nguyền giữa hai người, mười hai bài thơ tình rạo rực, đắm say của Trương Quỳnh Thư - Phạm Kim nói về nỗi nhớ người yêu trong mười hai giờ của một ngày… đến mối tình trong khung cảnh thiên nhiên đầy ánh trăng huyền ảo và mơ mộng của Dao Tiên - Lương Sinh. Tất nhiên, không phải tác giả nào cũng dám công khai ca ngợi những mối tình vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến ấy. Trong truyện Hoa Tiên, cuối cùng nhà thơ đã lồng tình yêu tự do vào khuôn khổ của lễ giáo. Trong truyện Phan Trần, chuyện Phan Sinh và Kiều Liên yêu nhau thực chất là một câu chuyện tình hết sức lãng mạn nhưng tác giả vẫn phải gắn vào đó chi tiết hai người trước đó đã được cha mẹ hứa hôn theo đúng quan điểm “phụ mẫu chi mệnh” của lễ giáo phong kiến. Bởi chế độ hôn nhân phong kiến không phải lấy tình yêu làm cơ sở, mà dựa trên cơ sở tiền tài và địa vị xã hội, biểu hiện bằng quan niệm “môn đăng hộ đối”. Một cuộc hôn nhân lý tưởng theo quan niệm phong kiến là một cuộc hôn nhân giữa những người mà địa vị xã hội ngang nhau, đồng thời có gia sản ngang nhau. Nó được tiến hành theo quá trình có “phụ mẫu chi mệnh”, rồi “môi giới chi ngôn”, nói nôm na là theo quá trình cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Thế nên sau khi say sưa miêu tả các cuộc hẹn hò lén lút, các đêm thề nguyền chưa được phép của cha mẹ, các tác giả truyện Nôm bác học vẫn phải quay về khuôn khổ của lễ giáo phong kiến. Điều này trái ngược hoàn toàn với truyện Nôm bình dân khi các nho sĩ bình dân phủ nhận quan niệm hôn nhân môn đăng hộ đối bằng cách xây dựng những mối tình rất đẹp giữa những người ở những địa vị hết sức chênh lệch nhau. Cần phải nhìn nhận một điều quan trọng là mặc dù các nhân vật trong truyện Nôm bác học đều thuộc tầng lớp quý tộc phong kiến và đều môn đăng hộ đối với nhau, nhưng các tác giả không hề nhấn mạnh mặt này. Điều họ muốn nhấn mạnh là cơ sở tình cảm trong quan hệ yêu đương của các nhân vật. Đó là cơ sở đầu tiên và quan trọng để các nhân vật đi đến hôn nhân sau này. Về nội dung này thì truyện Nôm bác học và truyện Nôm bình dân đã gặp nhau: tình cảm giữa các nhân vật là điều quan trọng nhất để họ quyết định kết hôn. Hình tượng trung tâm của truyện thơ Nôm bác học giai đoạn này vẫn là hình tượng người phụ nữ với số phận riêng cùng những phẩm chất tốt đẹp của họ. Tuy nhiên, người phụ nữ trong truyện Nôm bác học không có được sự chủ động cao như nhân vật nữ trong truyện Nôm bình dân. Tình yêu không phải là kém mãnh liệt, nhưng Dao Tiên, Kiều Liên cũng chưa bao giờ thật sự táo bạo mà thường phân vân, do dự, không dám nhận lời người yêu dù lòng đã đắm say. Ngay cả Quỳnh Thư của Phạm Thái, dù có táo bạo hơn nhưng khi gặp khó khăn thì chỉ nghĩ đến cái chết, chờ đầu thai sang kiếp khác để gặp lại người yêu, chứ không hề đấu tranh hay chống đối gì cả. Nàng Kiều của Nguyễn Du thì rõ ràng là một nhân vật rất có ý thức về mình và về cuộc sống, lúc nào cũng cố gắng để chủ động trong một cuộc đời oan nghiệt, nhưng rồi cũng thất bại và không tránh khỏi những lúc bi quan tiêu cực, chỉ nghĩ đến cái chết… Tất cả họ không có được cái tinh thần đấu tranh quyết liệt, đấu tranh đến cùng để bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc của mình như các nhân vật nữ trong truyện Nôm bình dân đã làm và đã thành công. Với chủ đề đề cao con người và cuộc sống hiện thực, truyện Nôm bác học đã tố cáo bộ mặt thối nát của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến từ quan lại và tầng lớp quý tộc đến bọn nhà giàu phú hộ. Truyện Kiều có hình ảnh quan lại sai nha đến cướp phá của cải của gia đình Thúy Kiều, trắng trợn đòi phải có tiền vàng hối lộ mới thả Vương ông và Vương Quan; có hình ảnh quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”; có một bọn người giàu sang nhưng vì đồng tiền mà nhấn chìm cuộc đời một người con gái ngây thơ, trong trắng xuống tận đáy bùn nhơ... Truyện Lục Vân Tiên cho thấy một vị quan Thái sư quyền thế trong triều nhưng lúc nào cũng chỉ chăm chăm muốn trả thù riêng cho con, đồng thời phơi bày hình ảnh của những bậc thư sinh theo đọc sách thánh hiền như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, nhưng lòng dạ nhỏ nhen, hiểm ác, hết lần này đến lần khác hãm hại Vân Tiên… Truyện Nhị độ mai xây dựng hình ảnh bè đảng gian thần Lư Kỷ - Hoàng Tung hãm hại trung thần Mai Bá Cao và gia đình… Nếu hình ảnh vua quan và bọn nhà giàu trong truyện Nôm bình dân chủ yếu xây dựng trên phạm trù đạo đức phong kiến: trung, hiếu, tiết,nghĩa thì truyện Nôm bác học đã lồng vào đó vấn đề thuộc phạm vi xã hội. Hình ảnh nhà vua trong truyện Nôm bình dân, nhà vua được nói đến nhiều: ông vua nhân từ trong truyện Hoàng Trừu, ông vua công minh trong truyện Phương Hoa, ông vua biết quý trọng tài đức của con người, sẵn sàng nhường ngôi cho người xứng đáng mà không cần xem xét đến dòng họ như trong truyện Thạch Sanh hay Phạm Công Cúc Hoa… Quan niệm nhà vua phải nhân từ, công minh, biết trọng người tài đức… là ước mơ của người bình dân xưa. Còn nếu trái với quan niệm ấy, một tên vua xấu, vua ác, thì truyện Nôm bình dân dứt khoát có cách trừng trị, như tên vua Trang vương trong truyện Phạm Tải Ngọc Hoa đã bị ném vào vạc dầu. Đây cũng là điều mà truyện Nôm bác học dường như không hề đặt ra, bởi lẽ tư tưởng trung quan trong truyện Nôm bình dân là khái niệm cơ bản của đạo đức học phong kiến nhưng đã được các nho sĩ bình dân thổi vào nó làn gió mới có tính chất nhân dân; còn truyện Nôm bác học, mà tác giả là những người chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng trung quân thuần túy phong kiến, sẽ không thể đặt ra. Ngược lại, họ đã sáng tác những tác phẩm theo cách nhận thức và phản ánh của chủ nghĩa hiện thực. Có thể họ né tránh việc xây dựng hình ảnh đấng quân vương trong tác phẩm của mình, nhưng những vấn đề thuộc phạm trù hiện thực xã hội được phản ánh khá rõ nét trong truyện Nôm bác học: quan lại sai nha vòi tiền, bọn mua thịt bán người, cảnh sống khốn khổ của nhân dân… 1.4. Hình thức Phần lớn các truyện Nôm bình dân đều mượn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Vì thế, câu chuyện diễn biến theo trật tự thời gian, việc gì xảy ra trước được kể trước, việc gì xảy ra sau kể sau. Câu chuyện thường bắt đầu bằng việc giới thiệu khá tỉ mỉ lai lịch của nhân vật chính từ lúc mới ra đời, sau đó kể luôn vào nội dung chính. Người kể luôn luôn đứng ở ngôi thứ ba và bao giờ cũng ghi nhớ câu chuyện mình đang kể là thuộc về thời quá khứ. Phần lớn những truyện Nôm bình dân tiêu biểu đều có một kết cấu cơ bản giống nhau. Thông thường là một anh nho sĩ nghèo, phải đi ăn xin, lấy được người vợ con nhà giàu nhưng đảm đang chịu khó nuôi cho ăn học. Về sau, hoặc người chồng học thành tài, đỗ đạt, bị vua ép gả công chúa; hoặc người vợ có nhan sắc bị vua quan hay bọn cường hào ép phải bỏ chồng… nhưng cả hai đều cự tuyệt, kiên quyết chung thủy với người bạn trăm năm của mình. Họ phải trải qua những thử thách quyết liệt, thậm chí phải đối mặt với cái chết, nhưng cuối cùng họ thắng lợi, vợ chồng được đoàn tụ hạnh phúc. Theo giáo sư Nguyễn Lộc [61, tr.299] cốt truyện của truyện Nôm bình dân có hai đặc điểm đáng chú ý. Thứ nhất, những tình tiết, những sự kiện trong truyện không có ý nghĩa khách quan chân thực của nó mà chỉ có tác dụng soi sáng hay tô đậm cho tính cách nhân vật. Chính vì thế mà trong nhiều truyện Nôm bình dân, chi tiết nhiều khi được cường điệu đến mức hoang đường. Ví dụ như trong truyện Phạm Tải Ngọc Hoa, Phạm Tải đã chết rồi mà đêm đêm Ngọc Hoa vẫn mở nắp quan tài vào nằm với chồng hay nàng công chúa trong truyện Lý Công bị chặt chân tay, xẻo tai mũi mà vẫn sống… Nhiều chi tiết được sử dụng lặp đi lặp lại như những mô típ trong truyện cổ tích như chi tiết Phạm Công đỗ trạng và bị vua ép gả công chúa lặp lại ba lần trong truyện Phạm Công Cúc Hoa. Thứ hai, kết thúc của truyện Nôm bình dân bao giờ cũng có hậu giống như truyện cổ tích, phù hợp với đặc điểm nghệ thuật của nó. Trong khi đó, truyện Nôm bác học có cốt truyện phong phú và đa dạng hơn. Câu chuyện cũng giới thiệu và xoay quanh nhân vật chính theo trình tự thời gian nhưng cốt truyện thường không giống nhau. Chủ đề của truyện Nôm bác học thường vẫn là tình yêu đôi lứa nhưng mỗi câu chuyện tình được xây dựng theo nhân sinh quan riêng của mỗi tác giả. Các chi tiết trong truyện Nôm bác học thường sống động, gần gũi với hiện thực cuộc sống mà không có tính chất kì ảo như truyện Nôm bình dân. ở đây, cần phải nói thêm rằng việc sử dụng các yếu tố thần kì là một biện pháp không thể thiếu, một đặc trưng thi pháp của truyện Nôm bình dân. Truyện Nôm bác học cũng có kết thúc có hậu tuy rằng nhiều trường hợp lô-gích của cuộc sống và của tính cách nhân vật không cho phép kết thúc có hậu. Bởi vì nhìn chung, các nhân vật chính diện trong truyện Nôm bác học thường ở thế yếu, thế thua trong cuộc đấu tranh với các thế lực khác, và ý chí chống đối, phản kháng của họ thường có mức độ hạn chế; do đó, việc họ bỗng dưng vượt qua tất cả những trở ngại để đạt được lý tưởng ở cuối tác phẩm sẽ bộc lộ tính chất giả tạo của nó, đi ngược lại với cách đặt vấn đề hiện thực của truyện Nôm bác học. Tóm lại, cấu trúc của truyện Nôm, cả bình dân lẫn bác học, đều có chung mô hình: gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ với kết thúc bao giờ cũng có hậu. Có thể nói cấu trúc theo lối kết thúc có hậu của truyện Nôm là quy luật có tính tất yếu và là đặc trưng mang tính loại biệt của thể loại truyện Nôm [50, tr.53]. Cần nói một chút về kết thúc có hậu nhưng mang tính bi kịch của Truyện Kiều. Kết thúc có hậu của Truyện Kiều vẫn bị cho là chưa thỏa đáng, chưa hợp logic so với các truyện Nôm khác vì Nguyễn Du đã không có được “đôi cánh lãng mạn của nàng tiên huyền diệu. Truyện Kiều không có được cái kết cấu bình dị nhưng đầy ý nghĩa lạc quan chiến đấu của một số truyện chịu ảnh hưởng văn học dân gian như Phạm Tải Ngọc Hoa, Thạch Sanh, Tống Trân Cúc Hoa”… [59, tr.151]. Trường hợp kết thúc có hậu nhưng chưa thành công của Truyện Kiều có lẽ là do Nguyễn Du chưa hoàn toàn tuân thủ các quy trình sáng tạo của thể loại truyện Nôm và do đó tác giả đã không ý thức sử dụng các yếu tố thần kì như một biện pháp nghệ thuật để hướng các nhân vật chính tất yếu phải đi theo mô hình cấu trúc kết thúc có hậu của thể loại truyện này [50, tr.60]. Trong truyện Nôm bình dân, với quan điểm sáng tác để kể là chính, nhân vật thường được thể hiện thông qua hành động, chứ không phải thông qua việc miêu tả ngoại hình và phân tích nội tâm phúc tạp như trong truyện Nôm bác học. Khi nói đến nhan sắc của Cúc Hoa, Thoại Khanh, Xuân Nương, công chúa…truyện Nôm bình dân cũng chỉ có một hai dòng thơ chung chung, đại loại là rất đẹp mà thôi. Khác hẳn truyện Nôm bác học, thường miêu tả khá kĩ ngoại hình của nhân vật với các hình ảnh ước lệ tượng trưng. Ngoại hình của nhân vật trong truyện Nôm bình dân đôi khi không được miêu tả, còn nội tâm của nhân vật nếu có được chú ý thì cũng chỉ thông qua hành động mà biểu hiện ra ngoài. Ví dụ trong truyện Tống Trân Cúc Hoa, nhà thơ không phân tích tâm trạng của người vợ giết chồng, mà chỉ tả lại tiếng khóc giả dối của mụ, nhưng qua đó, người đọc có thể thấy được phần nào tâm trạng của mụ: Gái ấy quỳ xuống khóc chồng Khóc ra trăm tiếng như lòng thương ai Tiếng khóc như bông hoa nhài Chỉ thấy chiều dài, chẳng th._.tụ gia đình, chàng phong cho Cúc Hoa làm chính thê, còn công chúa là thứ thiếp. Lý Công một lòng yêu quý công chúa vợ mình và phong Thị Hương, Tào Thị làm thứ phi vì cảm cái ơn hai nàng cứu giúp trong lúc hai vợ chồng hoạn nạn. Song Tinh cũng cưới Thể Vân vì lời dặn dò kí thác của Nhụy Châu nhưng lòng không nguôi nhớ đến người yêu xưa. Thậm chí chàng không chịu ngủ chung phòng với Thể Vân vì không muốn phụ bạc mối tình sâu đậm. Lương Phương Sinh cũng vì cảm ơn tấm lòng chung thủy với lời hẹn ước của cha mẹ hai bên mà cưới Ngọc Khanh… Ngay cả Kim Trọng cũng trong trường hợp tương tự: Tuy rằng vui chữ vu quy Vui này, đã cất sầu kia được nào. (Truyện Kiều) Tất cả càng khẳng định một điều rằng nhân vật nam trước sau chỉ giữ trọn tình yêu và chung tình với người con gái mà họ đã chọn từ thủa hàn vi, từ buổi đầu gặp gỡ, còn những lần kết duyên với những công chúa, tiểu thư sau này, khi họ đã thành danh, đều là kết hôn vì nghĩa. Và như thế, chúng ta lại khẳng định được cách ứng xử nặng tình trọng nghĩa của người Việt là nét văn hóa riêng biệt chứ không phải do ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo. Đối với người Việt, về cơ bản chữ “nghĩa” đồng nghĩa với chữ “tình”. Trong cách xử thế của người Việt, chữ nghĩa nổi lên như một bình diện độc đáo bởi có khi hết tình nhưng nghĩa vẫn còn, như Thúy Kiều với Kim Trọng: “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ”. Thậm chí khi có thù oán, đã dứt tình và có khi không nhìn mặt nhau thì đối diện với cái chết, người Việt vẫn tìm cách làm tròn chữ nghĩa "Nghĩa tử là nghĩa tận"… Tiểu kết: Trong tâm thức người Việt, tâm thức của những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thì hai khái niệm đất - nước đã ăn sâu, trở thành máu thịt. Bằng nhãn quan thực tế, người Việt hiểu đất nước thiên nhiên chính là không gian tồn tại, là cái nôi nuôi dưỡng, nâng đỡ con người từ lúc mới lọt lòng mẹ "chôn nhau, cắt rốn", sống nhờ đất mẹ và khi đi trọn kiếp nhân sinh lại trở về trong lòng Mẹ Đất. Cũng ít có ngôn ngữ nào lại có từ Đất Mẹ mộc mạc mà sâu sắc như ở Việt Nam. Đất và mẹ, mẹ cũng là đất đã hiền lành che chở, nuôi dưỡng, ôm ấp bằng một tình yêu như "nước trong nguồn". Cũng thật độc đáo là không có nơi nào trên thế giới có tín ngưỡng thờ Mẫu như ở Việt Nam (Mẫu Liễu Hạnh là một trong tứ bất tử). Có đất và nước là có tất cả thiên nhiên, có cỏ cây hoa lá, sông núi muôn loài. Cũng ít có quốc gia nào trên thế giới lại có khái niệm quốc gia là hai từ đất - nước như người Việt. Do đó, đã có đất nước thì lẽ hiển nhiên, khi ta sinh ra là đã có tình yêu đất nước, yêu thiên nhiên từ trong máu thịt, từ truyền thống ông cha ngàn đời truyền lại. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người Việt luôn có một vị trí xứng đáng cho tình yêu thiên nhiên. Có thể có người cho rằng đó là ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang, nhưng người Việt không hiểu nhiều về thứ triết lí cao xa ấy. Họ đã biết yêu đất nước cỏ cây từ khi mới chào đời. Bởi trước hết, thiên nhiên là sự sống "Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm", là sự thi vị tinh tế trong tình yêu lứa đôi "Tre non đủ lá đan sàng nên chăng", "Nước thì muốn chảy nhưng mương chẳng đào", "Ai đi đâu đấy hỡi ai, Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm"… (Ca dao). Con người Việt Nam là con người của đồng ruộng cho nên thiên nhiên Việt Nam cũng gắn với cuộc sống của những cư dân nông nghiệp: cánh đồng, con trâu, cây đa, giếng nước, ánh trăng… Tất cả đều biểu hiện ở mức độ vừa phải, thường là những gì nhỏ bé, quen thuộc, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, với hoạt động lao động để chia sẻ những tâm trạng buồn vui của người dân Việt. Người Việt Nam có truyền thống ứng xử tình nghĩa. Truyền thống này đã kết tinh thành một giá trị độc đáo của văn hóa dân tộc - văn hóa nghĩa tình. Nếu như người Trung Quốc lấy lễ nghĩa thứ bậc tôn ti mà đối đãi với nhau thì người Việt lại ứng xử với nhau trên cơ sở tấm lòng: cái nghĩa cái tình cũng từ tấm lòng mà ra “có lòng với nhau”, “phải lòng nhau”… Trong văn hóa ứng xử của dân tộc ta, tình sâu nghĩa nặng, trọn tình vẹn nghĩa đã trở thành một trong những phẩm giá nhân văn cao quý nhất. Tình và nghĩa làm thành một hệ thống hai đầu nối, thường xuyên đi với nhau, có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là sự kết hợp hài hòa tình cảm thương yêu với tinh thần trách nhiệm. Sự bền vững của gia đình truyền thống người Việt được duy trì bằng sự hài hòa tình nghĩa. Trong xã hội, quan hệ giữa người với người cũng đều xây dựng và tồn tại trên nền tảng tình nghĩa. Thái độ, tình cảm, cảm xúc chủ quan đóng vai trò quan trọng trong quan hệ người - người. Tất nhiên, người Việt vẫn coi trọng cái lý, nhưng cái lý cao nhất của người Việt vẫn là "thương người như thể thương thân", là tình làng nghĩa xóm, là "người trong một nước phải thương nhau cùng"… Cái lý cũng thể hiện trong cái tình và thông qua cái tình. Cái tình phải thấu đến tận tâm can, thấu đến tận trời xanh còn cái lý chỉ cần vừa đủ. Và vô luận thế nào, nếu thấu được tình thì mặc nhiên cũng đạt được lý. Văn hóa ứng xử tình nghĩa và đặc trưng thấu tình đạt lý trong ứng xử của người Việt được hình thành ngay từ trong bản chất văn hóa xóm làng, cả khi tiếp xúc, giao lưu và tích hợp các nền văn hóa ngoại sinh khác thì trật tự logic của nguyên tắc tình nghĩa, thấu tình đạt lý hầu như không thay đổi. Trong quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người, dù đó là tam cương hay ngũ thường thì điểm xuất phát và đích đến đều là tình thương. Trong quan hệ gia đình, cái tình đã làm cho những lễ giáo phong kiến phải mềm đi: gia đình Việt Nam hướng vào sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của các thành viên. Đặc biệt, trong ứng xử gia đình, người Việt đề cao vai trò của người mẹ và coi trọng vị trí của tất cả những người con, không phân biệt con trai, con gái, con dâu, con rể… chứ không như người Trung Quốc xem thường vai trò của người phụ nữ "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", "Nữ nhi ngoại tộc". Tương tự như thế, người Trung Quốc coi việc sống chết là chuyện nhỏ, thất tiết mới là chuyện lớn thì người Việt có vẻ mềm dẻo và có tình người hơn hẳn: “Giữa đường gặp cánh hoa rơi, Hai tay nâng lấy cũ người mới ta” (Ca dao)… Đặc biệt, việc các truyện Nôm bác học của người Việt đề cao những mối tình chân chính, tự do, vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến đã chứng tỏ sự gặp gỡ tuyệt vời của tiếng nói văn học dân gian bao đời với văn chương bác học. Quan điểm tưởng chừng mới mẻ của văn học viết này đã xuất hiện từ rất lâu trong văn học dân gian, từ câu chuyện xa xưa của công chúa Tiên Dung và chàng trai nghèo Chử Đồng Tử … Nét đẹp của văn hóa ứng xử người Việt từ quan hệ xã hội cho đến quan hệ gia đình chính là triết lý duy tình trọng nghĩa. Trong quan hệ xã hội, tình nghĩa chính là cách sống trong sạch, làm điều phải, điều nhân, giúp đỡ lẫn nhau. Đạo lí Việt Nam hết sức coi trọng con người, tất cả đều được nhìn nhận từ giá trị của con người, đề cao con người và cuộc sống trần thế nên khả năng đồng cảm trước nỗi đau nhân tình của người Việt rất nhạy bén. Chính vì vậy, trong quan hệ xã hội, người Việt luôn lấy tấm lòng ra đối đãi với nhau, thiên về tình nghĩa hơn là lí trí cứng nhắc. Trong quan hệ gia đình, tình nghĩa lại càng được trân trọng qua sự hiếu thảo hết mực của con cái với cha mẹ, qua tấm lòng thương yêu của cha mẹ dành cho con, qua sự yêu thương, đùm bọc, kính nhường của anh - chị - em, qua tình yêu chân thành, mãnh liệt và sự thủy chung son sắt, biết trân trọng và cảm thông của quan hệ vợ chồng, đôi lứa… Người Việt sống và cư xử đều thống nhất theo triết lý nghĩa tình. Tuy nhiên, dù đều thống nhất quan điểm căm ghét và quyết không dung hòa với cái xấu, nhưng người Việt lại hết sức khoan dung, khoan thứ với những kẻ mắc sai lầm bởi như thế cũng chính là thực hành triết lí nghĩa tình trong cuộc sống. Từ trong sâu kín tâm hồn người Việt, ý thức làm Người là vô cùng quan trọng. Đối với người Việt, nỗi lo lớn nhất là không thành người, không nên người chứ họ không lo phải chịu tội lỗi khi chết xuống âm phủ hay địa ngục. Chính vì thế, trong cuộc sống trần thế, người Việt luôn tìm mọi cách để sống cho trọn vẹn, cho tròn tư cách làm người. Đó là phải sống có đạo đức, có nhân cách, có nghĩa, có hiếu, có tình, phải biết tha thứ khoan dung… Đấy là triết lý sống của người Việt mà cũng là triết lí ứng xử của họ trong cuộc sống, một thứ triết lí thuần Việt, không ồn ào mà mộc mạc chân chất như chính tâm hồn người Việt vậy. KEÁT LUA ÄN 1. Ngày nay, khi vấn đề hội nhập với thế giới đang ngày càng trở nên cấp bách thì việc bảo tồn, phát huy bản sắc tốt đẹp của văn hóa mỗi dân tộc đang trở thành vấn đề lớn, ngày càng thu hút sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới. Bởi vì nói tới văn hóa là nói tới con người. Văn hóa là do con người tạo ra và trở thành sản phẩm thúc đẩy các hoạt động của con người. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống ấy. Văn hóa là một hình thái ý thức xã hội, biểu hiện các năng lực bản chất của con người trong xã hội ấy. Từ xưa đến nay, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa và chúng ta có thể đưa ra một khái niệm văn hóa như sau: "Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong hoạt động sản xuất, nếp suy nghĩ, cách sống… và sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, xã hội và gia đình". Văn hóa có bốn đặc trưng chủ yếu sau: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử. 2. Văn hóa ứng xử của người Việt là sự pha trộn giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại sinh, trong đó, quan trọng nhất là những ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đến đời sống văn hóa người Việt. Trên nền tảng những tín ngưỡng dân gian truyền thống như tín ngưỡng phồn thực, thờ Mẫu, thờ thần, thờ ông bà…, do xuất phát từ nông nghiệp trồng lúa nước theo thời vụ, với đủ các thao tác phức tạp nên ứng xử của người Việt mang tính cộng đồng cao đi đôi với tính tự quản trong công việc, sinh hoạt và tổ chức xã hội. Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác đã khiến con người phải chú trọng tới các mối quan hệ giữa chúng, do đó người Việt có lối sống quân bình, hướng tới sự hài hòa. Cách ứng xử quân bình, chừng mực hài hòa bị quy chiếu bởi phương thức lao động đã đành, nó còn bắt nguồn và bị quy đinh bởi hàng loạt các yếu tố khác như : quan điểm xã hội, đời sống tâm linh, tâm lí xã hội và cá nhân, triết lí duy tình, phong cách ứng xử… Nói tóm lại, chừng mực, hài hòa, không hạn chế sự thâu nhận và lọc bỏ, linh hoạt… là đặc trưng, sắc thái của văn hóa ứng xử người Việt. Bên cạnh đó, không thể không chú ý tới một đặc tính xuyên suốt: sự hài hòa, chừng mực trong sự uyển chuyển mang dấu ấn một nền văn hóa Mẹ, hay nguyên lí Mẹ của nền văn hóa Việt Nam và cũng là cả của văn hóa ứng xử không chỉ riêng của người Việt. Đời sống văn hóa của người Việt nói chung và văn hóa ứng xử nói riêng lại chịu ảnh hưởng rõ nét của ba tư tưởng ngoại sinh lớn: Phật, Đạo, Nho. Tất nhiên, trong quá trình bị ảnh hưởng bởi ba tư tưởng này, người Việt đã dung hợp các hiện tượng văn hóa ngoại sinh với tín ngưỡng bản địa, và hơn thế nữa là đã dung hòa các hiện tượng văn hóa ngoại sinh với nhau. Trong đó, sự dung hợp giữa Phật giáo và Đạo giáo là mối quan hệ bền chặt và lâu đời nhất. Ngay từ đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng cổ truyền tiếp nhận, liền sau đó là Đạo giáo và cuối cùng là Nho giáo, tất cả tạo thành quan niệm Tam giáo đồng nguyên (ba tôn giáo cùng phát nguyên từ một gốc) và Tam giáo đồng quy (ba tôn giáo cùng quy về một đích). Người Việt Nam nhận thấy rằng, Tam giáo thoạt đầu thì có vẻ khác nhau, nhưng nhìn kĩ thì chỉ là cách diễn đạt khác nhau về cùng một khái niệm, vì thế mà người Việt cần đến cả ba tôn giáo và sử dụng kết hợp chúng với nhau, hòa quyện chúng một cách sâu sắc và hợp lí. Chính vì vậy, chúng ta nhận thấy người Việt học Nho để thành người tài giúp nước, khi gặp khổ ải trầm luân thì khấn cầu Trời, Phật phù hộ, khi bế tắc, ốm đau thì mời thầy bói, đạo sĩ tìm bệnh trị tà…Đó chính là sự tiếp nhận có chọn lọc và linh hoạt kết hợp các yếu tố tôn giáo ngoại sinh của người Việt. Họ đã khéo léo tiếp nhận những tư tưởng chính của mỗi tôn giáo và hỗn dung chúng với nhau, đồng thời tích hợp với các tín ngưỡng bản địa để tạo ra nét đặc trưng tôn giáo riêng của mình. 3. Qua nghiên cứu các truyện thơ Nôm, chúng tôi nhận thấy văn hóa ứng xử của người Việt thể hiện theo ba mối quan hệ chính: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ trong gia đình. Chúng tôi xin đưa ra mấy kết luận sau: - Văn hóa ứng xử của người Việt với môi trường tự nhiên: Qua các truyện thơ Nôm, cách ứng xử của người Việt đã bộc lộ rõ đặc tính hòa hợp, chủ động kéo thiên nhiên về phía mình, về “phe” mình, kéo thiên nhiên xuống như là một người bạn để mở rộng tình cảm, hòa với thiên nhiên để thể hiện tâm trạng, bắt đầu từ cảm hứng thiên nhiên để lột tả cảm hứng con người. Bất cứ lực lượng thiên nhiên nào xuất hiện trong các truyện thơ Nôm, dù là thiên thần, trời, sông núi, trăng sao, mưa gió, hoa lá, chim muông… cũng hàm trong nó khả năng trở thành môi trường, đối tượng kết hợp, yếu tố phản ánh đời sống, hình nét, sắc độ tình cảm của con người. Và như vậy, thiên nhiên hiện ra không phải như một đối trọng với con người, không hoàn toàn như một lực lượng huyền bí, siêu phàm để điều khiển cuộc sống của con người mà hầu hết để hội nhập, liên hệ làm bật lên thế ứng xử của con người. - Văn hóa ứng xử của người Việt trong quan hệ xã hội: Do lối sống trọng tình nghĩa và tính cộng đồng, người Việt luôn sẵn sàng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh chị em trong nhà: tay đứt ruột xót, chị ngã em nâng, lá lành đùm lá rách… Chính tính cộng đồng và triết lý trọng tình nghĩa đã khiến người Việt, ở góc độ là chủ thể giao tiếp, rất trọng tình cảm. Trong quan hệ giao tiếp, ứng xử trong xã hội, người Việt luôn tuân theo nguyên tắc tình nghĩa. Người Việt coi trọng tình cảm hơn mọi thứ ở đời. Trong quan hệ hàng xóm láng giềng, bạn bè trong xã hội, người Việt luôn giữ cách ứng xử tốt đẹp, như tình ruột thịt. Họ chuộng điều nhân, làm việc nghĩa không màng danh lợi và những người sống nhân nghĩa đều được thần linh hoặc người tốt giúp đỡ vượt qua mọi khó khăn hoạn nạn, hưởng hạnh phúc lâu dài. Vốn coi trọng tình nghĩa, người Việt có thái độ rất rõ ràng đối với cái xấu xa, độc ác. Họ căm ghét những người làm điều hại nhân, luôn phủ nhận cái xấu, hướng về điều thiện điều nhân. Nhưng bên cạnh đó, trên nền tảng lấy tình nghĩa để đối đãi với nhau trong ứng xử, người Việt lại không thiếu lòng khoan dung, khoan thứ cho những kẻ làm điều ác bởi họ quan niệm cần tu nhân tích đức. Khoan dung cũng là một biểu hiện của việc thực hành triết lý nghĩa tình. - Văn hóa ứng xử của người Việt trong quan hệ gia đình: Có thể thấy rằng cái cốt lõi của mối quan hệ trong gia đình, với họ hàng, hàng xóm láng giềng… của người Việt đều xây dựng trên cơ sở lấy tình yêu thương làm cơ sở cho cách xử thế. Chúng ta vẫn nói : tình cha con, tình mẹ con, tình chồng vợ, tình anh em, tình bà con thân thuộc, tình hàng xóm láng giềng… Tất cả đều được bắt đầu bằng chữ tình, cho dù thân sơ có khác nhau. Từ tình đưa đến nghĩa. Tình trước nghĩa sau, tình thì sâu mà nghĩa thì nặng. Tình luôn luôn gắn với nghĩa cho nên gộp lại mà gọi là tình nghĩa. Trong quan hệ cha mẹ - con cái, người Việt đặc biệt đề cao tính hiếu thảo. Riêng trong bổn phận và tình cảm của một người con, người Việt rất coi trọng chữ hiếu. Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, người Việt đặt nặng vấn đề hiếu kính tức là không làm trái lời, trái với mong muốn của cha mẹ, nhưng người Việt lại mềm hóa chữ hiếu, đưa nó ra khỏi khuôn khổ cứng nhắc của Nho giáo bằng tình cảm chân thật và mộc mạc của người làm con: từ con ruột đến con dâu, tất thảy đều hết lòng yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ. Đã là người trong gia đình thì đều hết lòng yêu thương và làm mọi điều cho nhau hạnh phúc. Bên cạnh đó, tình cảm vợ chồng và tình yêu đôi lứa cũng đặc biệt được quan tâm. Người Việt nhấn mạnh đến sự thủy chung son sắt của tình cảm ấy, coi đó là thước đo giá trị không những đo tình cảm mà còn đo cả nhân cách của người trong cuộc. Những con người chung thủy trước sau như nhất thì dù có phải chịu đựng muôn vàn gian khổ, cuối cùng đều được hưởng hạnh phúc trong sự sum vầy, đoàn tụ. Trong quan hệ vợ chồng, hay trong tình yêu đôi lứa, người Việt luôn ca ngợi sự chung thủy sắt son, lên án sự tráo trở, bội bạc. 4. Định hướng của luận văn là tiếp cận truyện thơ Nôm của người Việt qua ngả đường văn hóa, lại hạn chế trong phạm vi văn hóa ứng xử, thế nên chúng tôi đã lấy tư liệu hạn hẹp trong một số truyện thơ Nôm, và cố gắng chỉ ra thế ứng xử của người Việt trong các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và gia đình. Tất nhiên, do vốn kiến thức về văn hóa còn hạn chế, lại bó buộc trong phạm vi tài liệu là hơn vài mươi truyện thơ Nôm, do thời gian nghiên cứu có hạn, nên chúng tôi chưa thể đề cập đến các thế ứng xử khác của người Việt như: cách thức giao tiếp tế nhị, phong phú trong hệ thống xưng hô, thói quen ưa quan sát, đánh giá… Dẫu còn nhiều hạn chế như thế nhưng chúng tôi cũng đã cố gắng hết sức để làm rõ được nét nổi bật của văn hóa ứng xử người Việt qua một số truyện thơ Nôm là nguyên tắc ứng xử trọng tình nghĩa trong quan hệ xã hội và cả trong quan hệ gia đình, luôn sống thủy chung son sắt, khoan dung khoan thứ với nhau và rất yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên… Chúng tôi mong muốn rằng, luận văn này cũng góp ích phần nào trong việc nhắc nhớ đến những truyền thống ứng xử tốt đẹp của văn hóa dân tộc cho thế hệ sau; đồng thời cũng muốn góp phần gióng lên hồi chuông cảnh báo về sự đi xuống trong văn hóa ứng xử ngày nay, khi mà lối sống thực dụng, tính ích kỉ và cá nhân chủ nghĩa đang dần dần xâm nhập vào từng cá nhân, từng gia đình. Chúng ta đang ở trong giai đoạn hội nhập với thế giới trên tất cả các lĩnh vực, nhịp điệu của cuộc sống vì thế cũng nhanh hơn, gấp gáp hơn và căng thẳng hơn, do đó lối sống chạy theo đồng tiền cũng phát triển, quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo, các thành viên ít quan tâm đến nhau hơn… Nghiên cứu văn hóa ứng xử của người Việt qua các truyện thơ Nôm cũng là cách nhìn lại và trân trọng với những giá trị văn hóa tốt đẹp trong quá khứ để chúng ta, nhất là thế hệ trẻ ngày nay, có được một điểm tựa văn hóa truyền thống vững chắc bước vào tương lai một cách tự tin, vững vàng. Chúng tôi mong rằng luận văn này sẽ góp ích phần nào trong việc nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa, từ đó khẳng định được một điều: chúng ta hòa nhập nhưng không hòa tan và hoàn toàn có thể giữ gìn, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp và đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. TAỉI LIEÄU THAM KHA ÛO 1. Đào Duy Anh (1998, tái bản), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Tổng hợp Đồng Tháp. 2. Trần Thúy Anh (2004), Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc bộ qua một số ca dao - tục ngữ, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 3. Đinh Viễn Trí, Đông Phương Tri, Ngọc Anh dịch (2003), Văn hóa giao tiếp ứng xử (biết co biết duỗi), NXB Văn hóa thông tin. 4. Toan AÙnh (1998), Con người Việt Nam, NXB TP.HCM. 5. Toan AÙnh (1991), Con người Việt Nam: phong tục cổ truyền, NXB TP.HCM. 6. Toan AÙnh (2000), Tìm hiểu phong tục cổ truyền Việt Nam qua nếp cũ gia đình, NXB Văn nghệ. 7. Toan AÙnh (2002), Văn hóa Việt Nam - Những nét đại cương, NXB Văn học. 8. Toan AÙnh (1997), Vai trò của văn học dân gian trong văn xuôi hiện đại Việt Nam, NXB KHXH. 9. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (1998), Tài liệu nghiên cứu nghị quyết TW khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia. 10. Nguyễn Trần Bạt (2005), Văn hóa và con người, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 11. Hoa Bằng (1970), Quan âm tân truyện (tức Quan âm Thị Kính) xuất hiện từ bao giờ và tác giả là ai, Tạp chí văn hóa số 6. 12. Vũ Văn Bằng (2004), Con người và môi trường sống (theo quan niệm cổ truyền và hiện đại), NXB Văn hóa thông tin. 13. Vũ Văn Bằng (2000), Văn hóa, phát triển và con người Việt Nam, NXB TP.HCM 2000. 14. Nguyễn Trọng Báu sưu tầm và biên soạn (2005), Truyện kể và phong tục, NXB Giáo dục. 15. Lê Thị Bừng (1998), Tâm lí học ứng xử, NXB Giáo dục, Hà Nội. 16. Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu (1960), Sơ kính tân trang, NXB Văn hóa. 17. Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu (1978), Mã Phụng - Xuân Hương, NXB Văn hóa 18. Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, NXB Văn hóa thông tin. 19. Nguyễn Thị Chiến (1993), Hình tượng nhân vật phụ nữ trong truyện Nôm tài tử giai nhân, Luận án PTS.KH Ngữ văn, Trường ĐHTH, Hà Nội. 20. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin và Viện Văn học, Hà Nội. 21. Nguyễn Viết Chức chủ biên (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, NXB Văn hóa thông tin. 22. Lê Văn Chưởng (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Trẻ, Tp. HCM. 23. Chu Xuân Diên (2004), Mấy vấn đề văn hóa và văn hóa dân tộc Việt Nam, NXB Văn nghệ. 24. Ngô Thị Kim Doan biên soạn (2004), Văn hóa làng xã Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin. 25. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 26. Nguyễn Du (1999), Truyện Thúy Kiều, NXB VHTT, Hà Nội. 27. Nguyễn Tiến Dũng chủ biên (2005), Văn hóa Việt Nam thường thức, NXB Văn hóa dân tộc. 28. Phạm Vũ Dũng (1996), Văn hóa giao tiếp, NXB VHTT, Hà Nội. 29. Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, NXB Chính trị quốc gia. 30. Đinh Xuân Dũng (2004), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, NXB Chính trị Quốc gia. 31. Nguyễn Đăng Duy (2004), Văn hóa Việt Nam- đỉnh cao Đại Việt, NXB Hà Nội. 32. Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 33. Nguyễn Kim Đính (1967), Lâm Sanh - Xuân Nương, NXB Chợ Lớn. 34. Nguyễn Kim Đính (1967), Lâm tuyền kì ngộ (Bạch Viên Tôn Các), NXB Chợ Lớn. 35. Nguyễn Kim Đính (1960), Sơ kính tân trang (Phạm Thái), NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 36. Nguyễn Kim Đính (1960), Phạm Công - Cúc Hoa, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 37. Nguyễn Kim Đính (1960), Phạm Công tân truyện, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 38. Nguyễn Kim Đính (1960), Phạm Tải - Ngọc Hoa, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 39. Nguyễn Kim Đính (1960), Tống Chân - Cúc Hoa, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 40. Nguyễn Kim Đính (1960), Thoại Khanh - Châu Tuấn, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 41. Nguyễn Kim Đính(1960), Truyện Phạm Tải - Ngọc Hoa, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 42. Nguyễn Kim Đính (1960), Truyện Phan Trần, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 43. Nguyễn Kim Đính (1960), Văn chương chữ Nôm, NXB Văn hóa Viện Văn hóa. 44. Nguyễn Kim Đính (1960), Văn chương Nguyễn Trãi, NXB Văn hóa Viện Văn hóa 1960. 45. Tạ Đức (1989), Tình yêu trai gái Việt xưa: truyền thuyết, lịch sử, văn hóa, NXB Tự nhiên. 46. Tạ Đức (1973), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, NXB Nguồn sáng. 47. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 48. Lê Như Hoa chủ biên (2002), Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 49. Kiều Thu Hoạch (1991), Thi pháp truyện Nôm, Tạp chí văn hóa dân gian số 3. 50. Kiều Thu Hoạch (1996), Truyện Nôm bình dân của người Việt, lịch sử hình thành và bản chất thể loại, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, Trường ĐHKHXH và Nhân văn, Hà Nội. 51. Trần Quang Huy (2002), Thể tài tài tử giai nhân" trong truyện thơ Nôm Việt Nam, Tạp chí văn hóa số 12. 52. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn hóa, Hà Nội. 53. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Giáo dục. 54. Đinh Thị Khang (1998), ảnh hưởng Phật giáo trong truyện Nôm Quan âm Thị Kính, Tạp chí văn hóa số 8. 55. Nguyễn Xuân Kính (2003), Con người, môi trường và văn hóa, NXB KHXH, Hà Nội. 56. Lê Đình Kỵ (1998), Truyện Kiều và văn hóa nghĩa tình Việt Nam, Tạp chí Văn hóa số 12. 57. V.I.Lenin toàn tập (1970), tập 29, tr119-120, NXB Sự thật. 58. Đặng Thanh Lê (1968), Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm, Tạp chí Văn hóa số 213. 59. Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, NXB KHXH. 60. Thanh Lê (2005), Hành trang văn hóa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 61. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, NXB ĐH và THCN, Hà Nội 62. Đặng Văn Lung (2004), Văn hóa thánh mẫu, NXB Văn hóa thông tin. 63. K.Mark, F.Engels toàn tập (1986), tập 3, tr49-50, NXB Sự thật. 64. Mayor. F (1994), Ban đầu và cuối cùng là văn hóa, Tạp chí Người đưa tin Unesco, số 10. 65. Lê Thị Hồng Minh (2002), Ngôn ngữ nhân vật trong truyện thơ Nôm bác học, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Tp. HCM. 66. Lê Hoài Nam (1960), Phạm Tải Ngọc Hoa - một truyện Nôm khuyết danh có giá trị, Tạp chí văn hóa số 8. 67. Hoàng Nam (2002), Đặc trưng văn hóa các dân tộc Việt Nam, NXH Văn hóa dân tộc. 68. Phan Ngọc (2005), viện văn hóa, Một thức nhân về văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin 2005. 69. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin. 70. Trần Nghĩa (1962), Vài ý kiến về truyện Phan Trần, Tạp chí văn hóa số 10. 71. Trần Nghĩa (1970), Góp phần tìm hiểu quan niệm văn dĩ tải đạo trong văn học cổ Việt Nam, Tạp chí văn hóa số 2. 72. Trần Việt Ngữ sưu tầm (1972), Truyện Nôm khuyết danh Thoại Khanh Châu Tuấn, NXB Phổ thông, Hà Nội. 73. Bùi Văn Nguyên (1960), Truyện Nôm khuyết danh, một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam, Tạp chí văn hóa số 7. 74. M.O.Kosien, Lại Cao Nguyên dịch (2005), Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy, NXB KHXH. 75. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 76. Lê Văn Quán (2007), Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. 77. Đặng Đức Siêu (2004), Văn hóa cổ truyền phương Đông (Trung Quốc), NXB Giáo dục. 78. Phan Côn Sơn (2002), Văn hóa phong tục Việt Nam, NXB Văn hóa dân tộc. 79. Nguyễn Hữu Sơn (1995), Truyện Nôm - nguồn gốc và bản chất thể loại, Tạp chí văn hóa dân gian số 2. 80. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB ĐHQG Hà Nội. 81. Phan Minh Thảo (2003), Nghệ thuật ứng xử của người Việt, NXB Văn hóa Thông tin. 82. Bùi Duy Tân (1998), Văn học chữ Nôm - tinh hoa sáng tạo của văn hóa cổ điển Việt Nam thời trung đại, Số 8. 83. Hồ Bá Thâm (2003), Văn hóa Nam bộ vấn đề và phát triển, NXB Văn hóa Thông tin. 84. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, HCM. 85. Trần Ngọc Thêm chủ biên (2004), Văn hóa học và văn hóa Việt Nam, NXB Đại học Sư Phạm, Tp. HCM. 86. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 87. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin. 88. Nguyễn Tất Thịnh (2006), Bàn về văn hóa ứng xử của người Việt Nam, NXB Phụ nữ. 89. Nguyễn Đức Tồn (2002, Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt trong sự so sánh với những dân tộc khác, NXB ĐHQG Hà Nội. 90. Đặng Hữu Toàn và những người khác (2005), Các nền văn hóa thế giới (tập 1: Phương Đông), Từ điển bách khoa. 91. Bùi Thiết (2000), Cảm nhận về văn hóa, Viện Văn Hóa và NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 92. Dương Ái Thụ, Nguyễn Kim Hạnh sưu tầm và giới thiệu (2004), Giáo dục truyền thống văn hóa gia đình cổ xưa, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 93. Đỗ Thị Minh Thuý (1996), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, Trường ĐHKHXH và Nhân văn, Hà Nội. 94. Đinh Gia Thuyết (đính chính và chú thích) (1956), Bích Câu kì ngộ, NXB Tân Việt, Sài Gòn. 95. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 1, NXB KHXH, Hà Nội. 96. Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện (1978), Truyện Hoa Tiên, NXB Văn học. 97. Viết Thực sưu tầm và biên soạn (2003), Nếp sống tình cảm người Việt, NXB Lao Động, Hà Nội. 98. Lê Ngọc Trà (2001), Văn hóa Việt Nam, đặc trưng và cách tiếp nhận, NXB Giáo dục. 99. Mai Trân (1960), Nhị độ mai, Tạp chí văn hóa số 8. 100. Mộng Tuyết (1978), Nhớ lại quá trình phát hiện và công bố truyện Nôm Song Tinh Bất Dạ, Tạp chí văn hóa số 1. 101. Nguyễn Quang Vinh (1972), Truyện thơ Lục Vân Tiên với văn hóa dân tộc, Tạp chí văn hóa số 4. 102. Phạm Khoa Văn, Nếp sống tình cảm người Việt, NXB Lao Động, Hà Nội. 103. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trưng văn học trung đại, NXB Văn nghệ Tp. HCM. 104. Phạm Thái Việt chủ biên (2004), Đại cương về văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 105. Lê Xuân Vũ (2003), Lời nói trong văn hóa giao tiếp, NXB Thanh niên. 106. Trần Quốc Vượng chủ biên (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 107. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, NXB VHDT và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội. 108. Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường, con người và văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin. 109. Trần Quốc Vượng chủ biên (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB KHXH Hà Nội. 110. Trần Quốc Vượng chủ biên (1996), Văn hóa - Khái niệm và thực tiễn, NXB KHXH Hà Nội. 111. Trần Quốc Vượng chủ biên (1996), Văn hóa - Lối sống với môi trường, NXB KHXH Hà Nội. 112. Trần Quốc Vượng chủ biên (1996), Văn hóa mới Việt Nam - Sự thống nhất và đa dạng, NXB KHXH Hà Nội 1996. 113. Nguyễn Thị Thanh Xuân khảo đính, phiên âm và chú thích (1984), Truyện Song Tinh, NXB Văn nghệ Tp. HCM. 114. Truyện Nôm khuyết danh Lý Công, NXB Văn học, 1994. 115. Truyện Nhị Độ Mai, NXB ĐH và THCN, 1988. 116. Truyện Nôm khuyết danh Phan Trần, NXB Văn nghệ Tp. HCM và Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. HCM, 1998. 117. Truyện Nôm khuyết danh Phạm Tải Ngọc Hoa, NXB Văn nghệ Tp. HCM và Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. HCM, 1998. 118. Truyện Nôm khuyết danh Phạm Công Cúc Hoa, NXB Thế giới, 2001. 119. Truyện Nôm khuyết danh Tống Trân Cúc Hoa, NXB Văn nghệ Tp. HCM và Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. HCM, 1998. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5591.pdf
Tài liệu liên quan