BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------
HOÀNG THỊ THANH XUÂN
VĂN HÓA TÂM LINH TRONG
“TRUYỆN KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA
NGUYỄN DU
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Giá trị của tác phẩm văn học nghệ thuật không chỉ thể hiện quan niệm độc đáo, nghệ thuật tài
hoa của tác giả mà
126 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Văn hóa tâm linh trong `Truyện Kiều` và `Văn chiêu hồn` của Nguyễn Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn ở chỗ nó mang một tầm vóc văn hóa, mang tính lịch sử và truyền thống văn
hóa thời đại. Thật vậy! Lịch sử Việt Nam, đất nước Việt Nam mấy trăm năm qua đã bao phen “gió
dập, sóng dồi”, nhưng chừng ấy năm trôi qua mà hai viên ngọc Truyện Kiều, Văn chiêu hồn của
Nguyễn Du vẫn giữ nguyên được chân giá trị của nó. Nhân dân Việt Nam yêu quí Truyện Kiều
không chỉ vì có nàng Kiều tài sắc bị xã hội vùi dập, làm cho “ngọc nát, trâm chìm”, làm cho “hoa
tàn, nhị rữa”, yêu quí Văn chiêu hồn không chỉ vì đau đớn trước những mảnh đời bất hạnh, mong
manh mà vượt lên biên độ của giới hạn, Truyện Kiều và Văn chiêu hồn với nét đẹp văn hóa tâm
linh - một khía cạnh của truyền thống văn hóa Việt sẽ sống mãi trong lòng người bao thế hệ, trở
thành một phần máu thịt của người dân.
Thế nhưng, vẫn có ý kiền cho rằng: với Văn chiêu hồn, Nguyễn Du đã làm theo đơn đặt hàng
của một ngôi chùa nào đó? Và Truyện Kiều cũng giản đơn chỉ là sự vay mượn của văn hóa Trung
Hoa?
Nhằm tìm hiểu truyền thống văn hóa Việt trong quá trình tiếp biến văn hóa ngoại lai, nhằm
góp phần trả lời những câu hỏi trên, cũng như mong muốn giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, vốn đã được lưu truyền hàng trăm năm nay, chúng tôi chọn đề tài “Văn hóa tâm linh trong
Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du” để làm luận văn tốt nghiệp cao học văn học Việt
Nam của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Truyện Kiều, Văn chiêu hồn của Nguyễn Du ra đời và vận động trong một môi trường văn
hóa có những đặc trưng loại hình khác biệt. Đó là một nền văn hóa trung đại với mô hình hai thế
giới, với hệ thống giá trị, với phương thức cảm nhận và tư duy khác chúng ta ngày nay. Bên cạnh
thế giới hiện hữu, người xưa hình dung ra một thế giới tâm linh với niềm tin vào sự huyền bí, những
điều kì lạ siêu nhiên. Chính thế giới thứ hai này đã qui định cách nhìn, cách cảm của người xưa
trong đó có tác giả Truyện Kiều và Văn chiêu hồn. Cho nên mục đích mà người viết luận văn hướng
đến là cố gắng chỉ ra, hệ thống lại những biểu hiện của thế giới tâm linh trong các tác phẩm một
cách rõ nét nhất, từ đó thấy được sự ảnh hưởng của văn hóa tâm linh trong đời sống tinh thần của
người xưa đồng thời cho thấy văn hóa tâm linh có giá trị như thế nào trong thời đại mới.
Khẳng định sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc tiếp thu truyền thống văn hóa Việt. Từ đó
góp thêm tiếng nói lí giải về sức sống lâu bền của hai tác phẩm trong lòng dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng khoa học luận văn nghiên cứu “Văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn
Chiêu hồn của Nguyễn Du”.
Phạm vi khảo sát chủ yếu căn cứ trên cơ sở những ý kiến của các bậc nghiên cứu tiền bối,
chúng tôi chỉ tập trung khai thác thêm ở những vấn đề, những khiá cạnh có liên quan đến đề tài văn
hóa tâm linh trong tác phẩm Truyện Kiều và Văn chiêu hồn.
Về phạm vi tư liệu: ngày nay có quá nhiều văn bản Truyện Kiều và Văn chiêu hồn được lưu
hành trên thị trường, rất khó có thể tìm được cơ sở chính xác. Do đó, để công việc nghiên cứu được
tiến hành thuận lợi, chúng tôi xin chọn văn bản Truyện Kiều và Văn chiêu hồn được in trong cuốn
“Nguyễn Du toàn tập” (tập 2) do Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Lê Thu Yến và nhiều tác
giả khác biên soạn năm 1996. Ngoài ra, để có cái nhìn tổng quát hơn, khi cần, luận văn có thể đề
cập thêm một số tác phẩm của một số tác giả khác.
4. Lịch sử vấn đề
Tìm hiểu “Văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du” là một
vấn đề khá thú vị nhưng cũng rất phức tạp. Bởi Truyện Kiều, Văn chiêu hồn là những tuyệt tác mà
hầu như mọi cây bút tầm cỡ đã khai thác, thi thố tài năng. Còn tâm linh, đời sống tâm linh lại vô
cùng phong phú, phức tạp. Cho nên khảo sát đề tài này, chúng tôi tập trung vào hai phương diện:
văn hóa tâm linh nói chung và một số công trình, bài báo có liên quan đến tâm linh trong Truyện
Kiều, Văn chiêu hồn.
4.1. Những nghiên cứu về văn hóa tâm linh.
Trong những năm gần đây, các vấn đề về văn hóa, tâm linh, mối quan hệ giữa văn hóa với
văn học đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học nước nhà. Đúng
hơn, vấn đề về văn hóa tâm linh thực sự được bàn luận ở góc độ khoa học chỉ từ khoảng đầu thập
niên 90 đến nay. Điển hình nổi bật có thể kể đến các công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học
sau:
Công trình nghiên cứu “Văn hóa tâm linh” của Nguyễn Đăng Duy xuất bản năm 2005[12]
đã đề xuất khái niệm tâm linh, văn hóa tâm linh khá đầy đủ nhất “Tâm linh là cái linh thiêng cao cả
trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái
thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được ngưng đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý
niệm”[12, tr.11]. “Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong cuộc sống
đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”[12, tr.26]. Công
trình chủ yếu viết về văn hóa tâm linh người Việt ở miền Bắc trong các lĩnh vực như: tín ngưỡng
thần thánh, trời, đất, thờ mẫu, tang ma, thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo Phật giáo, Đạo giáo, Thiên
chúa giáo. Tác giả cũng điểm qua tâm linh trong mọi mặt của đời sống cá nhân, gia đình, tín
ngưỡng, tôn giáo và cả mê tín dị đoan.
Tâm linh cũng được Sơn Nam đề cập trong bài “Nói thêm về tâm linh trong liên hệ với văn
hóa Việt Nam” [62]. “Tâm linh tồn tại trong mọi mặt đời sống từ xưa cho tới nay, từ trong truyền
thuyết, các bài văn tế, các tác phẩm văn học, trong việc thờ cúng tổ tiên, cúng cô hồn cho tới những
ca khúc về tổ quốc và cả những hành động, mọi việc làm, nghĩa cử cao đẹp của con người bình
thường trong cuộc sống”. Tâm linh của con người ngưng đọng trong trí nhớ và con người luôn tâm
niệm, thành kính về điều mình đã tin, đã làm. “Trí nhớ không phải đứng dừng một chỗ, lâu ngày
phát triển thêm rồi tồn đọng trở thành tâm linh” [23, tr.130].
Gần với quan niệm tâm linh của hai tác giả trên, có thể nói đến công trình “Tìm hiểu văn
hóa tâm linh Nam Bộ” của Nguyễn Hữu Hiếu [29]. Tác giả chú ý đến văn hóa tâm linh ở khía cạnh
đời thường của người Việt Nam bộ không theo tôn giáo. “Trong cuộc sống tâm linh đời thường,
niềm tin thiêng liêng phong phú, đa dạng hơn nhiều và đối tượng mà họ đặt niềm tin có khi gần gũi
và thân thiết hơn”. Trên cơ sở tiếp biến văn hóa Chăm, Khmer, Hoa, người Việt có hình thức sinh
hoạt văn hóa tâm linh đa dạng: hiện tượng thờ Phật và thờ Mẫu, hiện tượng đồng bóng... đặc biệt là
sinh hoạt tâm linh tại gia.
Hồ Bá Thâm trong bài viết “Tín ngưỡng dân gian- một lĩnh vực trong đời sống tâm linh
cần sự quan tâm của xã hội” [87], tác giả khẳng định “Tín ngưỡng dân gian là một bộ phận cơ bản
của văn hóa tâm linh, một lĩnh vực nhạy cảm mà trong lịch sử nhận thức và giao tiếp văn hóa đã có
những nhận thức , đánh giá khác nhau”. Cho nên theo tác giả, chúng ta cần phải có sự quan tâm
đúng mức đối với lĩnh vực này.
4.2. Văn hóa là cội nguồn của văn học. Tính văn hóa là thước đo giá trị của tác phẩm
văn học. Từ văn học hiểu về văn hóa. Trần Nho Thìn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa” xuất bản năm 2002 [90]. Trong đó, bài viết “Mô hình hai thế giới và vấn đề phương pháp
nghiên cứu văn học Việt Nam thời trung đại (khảo sát qua Truyện Kiều), tác giả đưa ra hai mô hình
cụ thể là thế giới trời- quyền năng vô hạn và thế giới linh hồn, ma quỷ - tuy không có quyền nhưng
lại chi phối, ảnh hưởng rất lớn đối với người đang sống. Từ đó cho thấy một đặc điểm cơ bản của
người Phương Đông là xem xét con người và thế giới trong mối quan hệ hữu cơ không tách rời
nhau, xem thiên địa nhân là một thể thống nhất. Bài viết này, tác giả dường như hóa giải được chỗ
mà lâu nay người ta cho Nguyễn Du là mê tín, yếm thế, nặng về luân hồi nghiệp báo, thuyết thiên
mệnh…
Tín ngưỡng, tôn giáo là những biểu hiện của văn hóa tâm linh. Hà Như Chi trong bài viết
“Các giá trị truyện Kiều” trích trong cuốn “Việt Nam thi văn giảng luận” [7] đã phân tích ở ba mặt
rõ ràng: tư tưởng Phật giáo, tư tưởng Nho giáo và đáng chú ý là tư tưởng bình dân thông thường.
Tác giả kết luận: “Nguyễn Du mặc dù vận dụng tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo nhưng cũng
không cố vượt khỏi tư tưởng bình dân. Do đó ta có thể nói rằng tác giả Truyện Kiều không có tham
vọng chủ trương bênh vực một học thuyết tư tưởng cao siêu mà chỉ làm cái công việc thông ngôn
diễn đạt tất cả các ước vọng, xu hướng và tin tưởng của quần chúng”[7, tr.32]. Tác giả đứng về
phía nhân dân, phủ nhận các giáo lý tôn giáo, tiếc rằng tác giả chưa nói đến như một vấn đề bức
thiết.
Cao Huy Đỉnh qua bài viết “Triết lí đạo Phật trong Truyện Kiều” in trong cuốn Nguyễn Du
về tác gia và tác phẩm do Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu)
[17] đã không thừa nhận sự hiện diện một cách trọn vẹn, trực tiếp của Nho giáo và Phật giáo trong
Truyện Kiều mà tác giả hướng đến triết lý hành động của nhân dân.
Gần đây, năm 2007, Lê Nguyên Cẩn đã cho xuất bản cuốn “Tiếp cận Truyện Kiều từ góc
nhìn văn hóa” [6]. Trong đó, tác giả để dành một phân mục viết về “văn hoá tâm linh trong
Truyện Kiều”. Trên cơ sở tiếp thu bài viết “mô hình hai thế giới ...” của Trần Nho Thìn, tác giả đề
xuất mô hình ba thế giới. Đó là thế của trời, thế giới của con người, thế giới của ma quỷ. Tuy nhiên
ở vấn đề này, tác giả chỉ mới dừng lại ở Truyện Kiều. Lời nhận xét của Phan Ngọc khi xem công
trình này thật đáng ghi nhận “Tôi tiếc rằng anh đã nhìn Truyện Kiều gần như cô lập. Ví thử anh kết
hợp phần giải thích với những tác phẩm của chính Nguyễn Du, đặc biệt là bài Văn tế thập loại
chúng sinh thì giá trị thuyết phục sẽ tăng hơn” [6, tr.127].
Dành nhiều tâm huyết trong việc nghiên cứu văn học trung đại, có lẽ phải nói đến PGS.TS Lê
Thu Yến với chuyên đề “Truyền thống văn hóa Việt trong sáng tác của Nguyễn Du” [108]. Bằng
giọng văn mượt mà, sâu lắng, tác giả đem lại cho người đọc những rung động, những cảm xúc và cả
niềm tri ân đối với thiên tài Nguyễn Du. “Trong tác phẩm của Nguyễn Du không chỉ có không khí lễ
hội mà còn có thế giới trời, Phật, thần thánh, ma quỷ; không chỉ có mồ mả, tha ma, nghĩa địa mà
còn có chiêm bao, mộng mị, bói toán”.
Nguyễn Du đã nói hộ chúng ta. Trong tác phẩm Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, tác giả nhấn
mạnh đến bản chất văn hóa tâm linh của người Việt “Dù Nguyễn Du tự sáng tác hay sáng tác theo
lời xin của một nhà chùa nào đó thì qua tác phẩm này vẫn thấy rõ quan niệm của ông. Ông đang
làm công việc mà mỗi người dân Việt vẫn làm”. Đây là ý kiến xác đáng, có tính chất gợi mở trực
tiếp trong công việc nghiên cứu đề tài “Văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn
của Nguyễn Du”. Chúng tôi xin trân trọng lĩnh hội.
Nếu như Truyện Kiều thu hút khách thơ bao nhiêu, thì Văn chiêu hồn lại như vì sao tinh tú
chỉ mới được nhìn ngắm, chiêm ngưỡng từ xa, hoặc là đặt những bước chân dè dặt mà chưa đi đến
tận cùng để thấy hết vẻ đẹp của nó. Xin đơn cử một ví dụ: cuốn sách “Nguyễn Du về tác gia tác
phẩm” do Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu [17]. Ngoài phần
giới thiệu chung thì phần nội dung có đến 74 bài viết về sáng tác của Nguyễn Du. Trong đó có
65/74 bài viết về Truyện Kiều; 2/74 bài viết về Văn chiêu hồn. Chúng tôi nhận thấy, dường như các
tác giả đã dành quá nhiều ưu ái cho Truyện Kiều mà chưa có sự đánh giá cụ thể cho tác phẩm Văn
chiêu hồn.
Hoài Thanh trong bài viết “Văn chiêu hồn” trích trong cuốn “nghiên cứu Văn- Sử -Địa” do
Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn [81, tr.237] đã cho rằng “chủ nghĩa nhân đạo ở đây không có sức
chiến đấu như trong truyện Kiều, nó đi vào chỗ hoàn toàn bế tắc”. Và “Bài văn tế rất dồi dào tính
quần chúng, nó dựng lên những hình ảnh rút ra từ trong trí tưởng tượng và trong cuộc đời thực của
quần chúng… Nhưng về mặt tinh thần nó biểu hiện cái tiêu cực, phần mê tín dị đoan nhiều hơn là
cái phần hăng hái, tráng kiện trong tinh thần quần chúng”. Như vậy, đứng trên lập trường ý thức hệ
phong kiến, Hòai Thanh chỉ ra được lớp vỏ vật chất của đời sống con người mà quên đi phần tâm
linh, phần tâm hồn của người dân Việt “Sống về mồ về mả. Ai sống về cả bát cơm”
Nguyễn Lộc trong bài viết “Văn chiêu hồn - một bản tổng kết” trích trong cuốn “Nguyễn Du
về tác gia và tác phẩm” do Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu
[17], tác giả đã nói về tục cúng cô hồn và sự ra đời của tác phẩm Văn chiêu hồn. Theo tác giả, tục
thờ cúng người qua đời “một mặt là biểu hiện tình cảm nhớ thương, lòng biết ơn và sự kính trọng
của người sống đối với người đã khuất, mặt khác cúng là sự cần thiết đối với người đã khuất” [17,
tr.132]. Song tác giả lại kết luận “Với Văn chiêu hồn, nhà thơ đã nói thẳng những điều xảy ra trên
đất nước mình nhưng dưới một hình thức tôn giáo”. Tiếc rằng tác giả chưa gọi tên được vấn đề.
Cũng viết về Văn chiêu hồn, Đinh Hùng với bài viết “Người thơ thuần túy Nguyễn Du
trong văn tế thập loại chúng sinh” trích trong cuốn “Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm” do Trịnh
Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu [17] đã đề cao Văn chiêu hồn (Văn
tế thập loại chúng sinh) như là “viên ngọc quý”. Tác giả đưa ra một nhận định xác đáng “Cả Truyện
Kiều cùng văn tế thập loại chúng sinh đều giúp cho ta tìm hiểu con người nguyên vẹn của Nguyễn
Du”. Và chỉ với cả hai, thì “sắc thái cây bút Hồng Lĩnh” mới thực sự tỏa hết ánh sáng xuất thần của
“viên ngọc liên thành không viết”. Theo đó tác giả khẳng định “ở chiêu hồn, đã dâng cao thành một
niềm tin tín ngưỡng thiêng liêng”.
Ngoài ra, chúng ta có thể tham khảo ở bộ phận văn xuôi trung đại, PGS.TS Nguyễn Đăng Na
qua bài viết “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại - những bước đi lịch sử” [61] nhận xét khái
quát “Cùng với các loại hình văn học khác, văn xuôi tự sự đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử mà thời
đại giao phó: phản ánh tâm linh của người Việt Nam thời trung đại” [61, tr.77].
Mới đây, luận văn thạc sĩ “Văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại” của Hoàng Thị
Minh Phương, năm 2007 [73] là công trình rất đáng để tham khảo. Chúng tôi xin ghi nhận.
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tư liệu, chúng tôi nhận thấy thực sự chưa có một công
trình cụ thể nào nghiên cứu về văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn
Du cả. Song các bài viết cũng như các công trình nghiên cứu khoa học trên đây, do phạm vi đề tài
hoặc quá rộng hoặc là quá hẹp nên chỉ mới đưa ra những nhận định khái quát về phương diện tâm
linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du. Trong công trình này, chúng tôi cố gắng
hệ thống và làm rõ những vấn đề trên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai đề tài “Văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du”,
chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp thống kê phân loại: Là phương pháp chính, nhằm thống kê và phân loại các yếu tố
tâm linh sau đó rút ra nhận xét.
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận và khảo sát trực
tiếp văn bản và đưa ra những luận điểm khái quát của luận văn.
Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Xem xét các yếu tố tạo nên cấu trúc tác phẩm, tìm ra nguyên
tắc chi phối sự hình thành của chúng. Từ đó, rút ra kết luận về nguyên tắc chi phối việc sáng tạo
toàn bộ cấu trúc tác phẩm.
Phương pháp so sánh - đối chiếu: Là phương pháp nhằm làm nổi bật nét tương đồng cũng như
sự khác biệt của tác phẩm Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du so với các nhà văn khác
trên phương diện thế giới quan, nhân sinh quan.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Tìm hiểu mối quan hệ giữa văn học và văn hóa để có cơ sở
đánh giá khách quan tác dụng của văn học trong việc phản ánh văn hóa dân tộc.
Những phương pháp này sẽ được chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình nghiên
cứu.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, thư mục tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của
Nguyễn Du.
1.1 Văn hóa tâm linh:
1.2. Cơ sở hình thành văn hóa tâm linh
1.3. Truyện Kiều và Văn chiêu hồn.
Chương 2. Yếu tố tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du
2.1. Lễ hội
2.2. Lực lượng siêu nhiên
2.3. Cõi âm, hồn ma
2.4. Mồ mả, tha ma
2.5. Cầu cúng, khấn vái
2.6. Chiêm bao (mộng)
2.7. Bói toán
2.8. Thề nguyền
Chương 3: Ý nghĩa của các yếu tố tâm linh trong Truyện Kiều và Văn Chiêu hồn của Nguyễn
Du.
3.1. Yếu tố tâm linh phản ánh hiện thực đời sống
3.2. Yếu tố tâm linh - Ý nghĩa giáo dục và ước mơ của con người
3.3. Sức sống lâu bền của các tác phẩm mang yếu tố tâm linh
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Phát hiện vẻ đẹp của nền văn hóa Việt Nam, đặc biệt là văn hóa tâm linh. Một phương diện
không thể thiếu được trong đời sống tinh thần của con người thông qua hai tác phẩm Truyện Kiều và
Văn chiêu hồn của Nguyễn Du. Từ đó luận văn góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa và văn
học, khẳng định vai trò của văn học việc phản ánh văn hóa.
Văn hóa tâm linh là khía cạnh tinh thần rất cần thiết của con người, nhưng đây lại là một vấn
đề phong phú, phức tạp và khá nhạy cảm, mấp mé với mê tín dị đoan. Do đó trên cơ sở tìm hiểu văn
hóa tâm linh trong tác phẩm văn học, người viết luận văn góp phần chỉ rõ các biểu hiện tâm linh của
người Việt thể hiện trong sáng tác của Nguyễn Du. Từ đó có những nhìn nhận đánh giá khách quan
về các hiện tượng này, đồng thời có ý thức trân trọng, nâng niu giá trị tinh thần của cha ông để lại.
Mặt khác, luận văn góp thêm tiếng nói lý giải về sức sống trường tồn của hai tác phẩm Truyện Kiều
và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du suốt hơn hai trăm năm qua.
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA TÂM LINH TRONG “TRUYỆN
KIỀU” VÀ “VĂN CHIÊU HỒN” CỦA NGUYỄN DU
1.1 Văn hóa tâm linh
1.1.1. Khái niệm văn hóa:
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Nó là toàn bộ cuộc
sống; cả vật chất, tinh thần của từng cộng đồng người. Như vậy, có thể khẳng định rằng: tất cả
những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa.
Riêng ở nước ta, cũng có khá nhiều quan niệm về văn hóa:
Từ đầu thế kỉ XX, Đào Duy Anh đã phát hiện văn hóa phải gắn liền với sinh hoạt của con
người nảy sinh trong quá trình lao động và trong từng hoàn cảnh địa lí nhất định: Theo ông, nghiên
cứu “Các điều kiện địa lí có ảnh hưởng lớn đối với cách sinh hoạt của con người, song người là
giống hoạt động cho nên trở lại cũng có thể dùng sức mình mà xử trí và biến những điều kiện ấy cho
thích hợp với những điều kiện cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà cũng biến chuyển và
khiến văn hóa cũng biến chuyển theo. Nghiên cứu xem sự hoạt động để sinh hoạt về các phương
diện của một dân tộc xưa nay biến chuyển thế nào, là nghiên cứu văn hóa lịch sử của dân tộc ấy”.[1,
tr.3]
Trong giáo trình “cơ sở văn hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa về văn hóa như
sau: “văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội của mình” [89, tr. 17].
Từ định nghĩa của Trần Ngọc Thêm, có thể thấy bốn đặc trưng cơ bản của văn hóa: tính hệ
thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử. Ở đây chúng tôi căn cứ vào tính giá trị của văn hóa.
Theo đó có thể chia giá trị văn hóa làm hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Theo nghĩa hẹp, các tác giả cho rằng văn hóa tinh thần là những dấu ấn tinh thần, những giá
trị tinh thần đặc thù của một quốc gia dân tộc nhằm phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tiêu
biểu cho cách hiểu này là khái niệm văn hóa của UNESCO được thừa nhận rộng rãi: Văn hóa là
“tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang
diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống
các giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản
sắc riêng của mình”
Năm 2002, UNESCO cho rằng: “Văn hóa nên được xem là tập hợp các đặc trưng tâm linh,
vật chất, trí tuệ và cảm xúc riêng biệt của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội, và ngoài
văn học và nghệ thuật, nó bao gồm lối sống, cách chung sống, hệ giá trị, truyền thống và đức tin”.
Ở khía cạnh này, đầu tiên phải kể đến khái niệm văn hóa của nhà nhân học E.B. Tylor trong
công trình “văn hóa nguyên thủy” năm 1871: “Văn hóa như một phức hợp bao gồm trí thức, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục cũng như mọi khả năng và thói quen khác mà
con người như một thành viên của xã hội tiếp thu được” [99, tr.21]
Tiêu biểu cho cách hiểu này là A.K Vlêđốp: “Việc coi văn hóa tinh thần chỉ là tổng hợp
những giá trị tinh thần là phiến diện. Văn hóa tinh thần như là sự hoạt động sáng tạo tích cực của
con người, như là sự sản xuất cất giữ và sử dụng những giá trị tinh thần”.
Với đối tượng là văn hóa tâm linh, chúng tôi căn cứ trên hai định nghĩa của UNESCO để
định hướng cho việc tìm hiểu các phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng… Những vấn đề gắn liền
với yếu tố tâm linh - vấn đề cơ bản trong đời sống văn hóa tinh thần dân tộc.
1.1.2 Khái niệm tâm linh
Tâm linh gồm chữ “tâm” và chữ “linh” tạo nên. Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu,
“tâm” có nghĩa là tim (lòng), thuộc về thế giới bên trong. “Linh” có rất nhiều nét nghĩa như: “linh”
trong linh hoạt, nhạy bén; “linh” trong thần linh; người chết cũng được gọi là “linh”; “linh” còn
dùng để nói đến những ứng nghiệm, bói toán.
Hoàng Phê cũng cho rằng tâm linh là “tâm hồn, tinh thần” hoặc là “khả năng biết trước một
biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm” [72,tr.897].
Vậy tâm linh là niềm tin của con người vào sự linh thiêng. Một trong những xác định súc tích
và khá chuẩn về tâm linh phải kể đến, là khái niệm tâm linh của Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là
cái linh thiêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín
ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được ngưng đọng lại ở những
biểu tượng, hình ảnh, ý niệm”[12; tr.11].
Từ khái niệm của Nguyễn Đăng Duy, chúng ta nhận thấy tâm linh trước hết phải gắn liền với
ý thức con người. Cũng tức là sẽ không có tâm linh nằm ngoài ý thức con người. Nhưng ý thức nói
chung của con người hết sức rộng lớn. Nên chỉ khi nào con người có ý thức về cái thiêng, cái cao cả
thì mới gọi đó ý thức tâm linh. Không như các dạng ý thức khác, ý thức tâm linh tựa như mạch suối
ngầm nuôi dưỡng tâm hồn người, làm thăng hoa đời sống tâm linh của con người. Đẹp hơn. Lung
linh hơn. Ý thức tâm linh không chỉ tồn tại ở dạng ý niệm mà nó còn được biểu hiện ra ở những
hình ảnh, những biểu tượng phát ra tín hiệu thiêng về cội nguồn đất nước, tổ tiên, tình yêu quê
hương... như cây đa, bến nước, đình, đền, miếu mạo... Rồi tới lúc nào đó, các biểu tượng thiêng
liêng này quay trở lại tác động vào tâm hồn người những rung cảm thẩm mĩ, khiến nó tự bộc lộ ra
bằng những hoạt động hành động cụ thể như cúng vái, cầu nguyện, tham gia hội hè... Tâm linh do
đó, tự bản thân nó có sức truyền cảm, tập hợp to lớn khó cưỡng lại được. Tâm linh có trong mọi mặt
đời sống con người từ phạm vi cá nhân, gia đình đến phạm vi cộng đồng làng xã, tổ quốc, từ các
loại hình nghệ thuật đến tín ngưỡng, tôn giáo.
Một câu hỏi đặt ra là, tâm linh bắt nguồn từ đâu? Phải chăng tâm linh có cơ sở từ niềm tin!
Thật vậy, nói đến tâm linh là nói đến niềm tin của con người. Bởi không ai sống mà không có niềm
tin. Nó là hạt nhân cơ bản xác lập mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người
với thiên nhiên. Theo Nguyễn Đăng Duy, niềm tin được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, song có
thể quy về ba cấp độ: “niềm tin trao đổi”, “niềm tin lý tưởng” và “niềm tin tâm thức”. Trong đó
niềm tin tâm thức gắn liền với tâm linh, gắn liền với niềm tin thiêng liêng vì nó có sự “hòa quyện cả
tình cảm và lí trí, dẫn đến sự say đắm, say sưa tự nguyện hành động theo niềm tin ấy” [12; 16]. Đó
là niềm tin thiêng liêng về tổ tiên, niềm tin về Mẫu, Phật, Chúa, niềm tin về các thần thành hoàng
v.v.. Niềm tin thiêng liêng do vậy, được xem là yếu tố then chốt tạo nên đời sống tâm linh, văn hóa
tâm linh đúng nghĩa và trang trọng. Một xã hội văn minh, phát triển, niềm tin thiêng liêng, niềm tin
cao cả càng có giá trị bền vững.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn nội hàm tâm linh, thiết nghĩ chúng ta nên đặt nó trong mối tương
quan với các khái niệm khác: tâm linh với tín ngưỡng - tôn giáo, tâm linh với mê tín dị đoan.
Tâm linh với tín ngưỡng - tôn giáo:
Hoàng Phê, tác giả của từ điển Tiếng Việt, cho rằng tôn giáo có hai nghĩa: Một là “hình thái
ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên,
cho rằng có những lực lượng siêu tự nhiên định đoạt tất cả, con người phải phục tùng tôn thờ. Tôn
giáo nảy sinh từ rất sớm, từ trong xã hội nguyên thủy”. Hai là “hệ thống những quan niệm tín
ngưỡng một hay những vị thần linh nào đó và những hình thức lễ nghi thể hiện sự sùng bái ấy”[72,
tr.1011]. Thiết nghĩ, ở đây Hoàng Phê đã vô hình chung đã gộp tôn giáo với tín ngưỡng vào nhau.
Nhưng thực chất tôn giáo không đồng nhất với tín ngưỡng.
Tín ngưỡng (tin tưởng và ngưỡng mộ) là “một cách từ thực tế cuộc sống cộng đồng con
người ý thức về một dạng thần linh nào đó, rồi cộng đồng con người đó tin theo tôn thờ lễ bái, cầu
mong cho hiện thực cuộc sống, gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin thiêng liêng” [12].
Cùng quan điểm này, Mai Thanh Hải cho rằng, “dù ở những trình độ khác nhau, tín ngưỡng đều có
hai đặc tính: một là tin vào cái gì thiêng liêng có sức mạnh chi phối số phận con người; hai là niềm
tin ấy được nhiều người thừa nhận và cùng tin theo, cùng làm theo một số nghi thức gì đó để bày tỏ
niềm tin chung” [24, tr.33].
Từ các định nghĩa trên, chúng ta nhận thấy tín ngưỡng và tôn giáo đều có chung niềm tin
thiêng liêng nhưng tín ngưỡng và tôn giáo không đồng nhất với nhau. Điểm khác biệt giữa tín
ngưỡng và tôn giáo là: tín ngưỡng không có giáo chủ, giáo lý, giáo hội cụ thể và đình, đền, miếu,
phủ cũng không phải là giáo đường, không phải là nơi giảng kinh thuyết pháp mà chỉ là nơi thờ tự,
cúng tế, hội hè... Ở tín ngưỡng, con người ta thấy mọi vật chung quanh đều trở nên linh thiêng, và
chỉ tập trung giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, chứ không thiết kế một thiên đàng
hay một miền cực lạc nào cả. Trong khi tôn giáo có giáo chủ, giáo lí, giáo hội, có giới luật, thì tín
ngưỡng vẫn bó kết con người vào sự sùng kính đơn sơ với niềm tin ngóng đợi đơn giản vào thần,
mẫu, tổ tiên sẽ phù hộ độ trì cho họ được mạnh khỏe, bình yên, ăn nên làm ra. Tín ngưỡng mang
tính địa phương nhỏ hẹp, gần gũi với đời sống nhân dân nên có sức cuốn hút mạnh mẽ với đại đa số
người dân còn tôn giáo cũng là một hiện tượng xã hội nhưng mang tính tổ chức cao, hướng đến một
đời sống tâm linh siêu việt nên phạm vi ảnh hưởng và lan tỏa của tôn giáo rộng khắp thế giới. Suy
cho cùng, tín ngưỡng và tôn giáo tuy có khác nhau nhưng không loại trừ nhau mà vẫn cùng tồn tại
xen kẻ bổ sung cho nhau.
Như vậy, tín ngưỡng hướng con người tới sự thịnh vượng của cuộc sống. Tức là tín ngưỡng
đồng nghĩa với tâm linh (niềm tin thiêng liêng) còn tôn giáo không hoàn toàn là tâm linh mà chỉ là
một dạng đặc biệt của tâm linh, tôn giáo cũng phải cứu cánh ở tâm linh. Cùng phát ra tín hiệu thiêng
nhưng tín ngưỡng gắn liên với đời sống trần tục một cách chặt chẽ thông qua tiềm thức của cá nhân
và đều hướng đến chân, thiện, mỹ cho cuộc đời này. Qua đây, chúng ta cũng phân biệt được tín
ngưỡng (niềm tin thiêng liêng) còn gọi là tín ngưỡng dân gian hay tín ngưỡng truyền thống để phân
biệt với tín ngưỡng (niềm tin thiêng liêng) tôn giáo.
Tâm linh và mê tín dị đoan
Trong từ điển tôn giáo, Mai Thanh Hải đã nói rất rõ về mê tín dị đoan: “Mê tín là tin nhảm,
tin xằng bậy, không thấy, không hiểu mà nhắm mắt tin theo mù quáng, tin theo một cách mê muội,
viễn vông, quàng xiên cả những việc, những hiện tượng trái lẽ tự nhiên, không có suy xét theo lẽ
phải thông thường; dị đoan là suy luận, suy đoán một cách nhảm nhí, bậy bạ khác thường, rồi hành
động bừa bãi, không lường trước được những hậu quả xấu về sức khỏe, tài sản, thời gian, có khi cả
tính mạng cho mình...Nói chung là những ý thức, hành vi mê muội, tin và dựa vào những biểu tượng
trái lẽ tự nhiên, có những hành vi lễ bái, ứng xử mang tính chất cuồng tín, nhảm nhí, trái với lẽ phải
và hành vi thông thường của mọi người chung quanh, làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần
của mọi người” [24, tr.107]. Đơn cử ví dụ, gần đây nhất, được truyền hình Việt Nam đưa tin hiện
tượng đi cầu con ở tu viện Biển Đức Thiên Phước thuộc Q.Thủ Đức (TP.HCM), hiện tượng “truyền
năng lượng” chữa bách bệnh của “cậu cò” Phạm Thị Phú ở thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên:
“bất kể người già, người trẻ, cả gái lẫn trai đều được “cậu cò” bẻ cổ, xoay tay, vạch mắt, vặn tai,
thổi phù phù, kéo áo lên quá đầu, tụt quần xuống dưới mông rồi phải nằm dưới đất để “thần y” giẫm
lên “truyền năng lượng chữa bệnh”. Rõ ràng đây là những việc làm phản khoa học, các tin đồn thất
thiệt, làm mất thời gian, tiền bạc của nhiều người nhẹ dạ. Thậm chí dẫn tới mất mạng như chơi! Thế
nhưng không ít người vẫn tìm đến.
Phải chăng tâm linh là mê tín dị đoan? Tâm linh không phải là mê tín dị đoan. Nhưng cũng
phải thừa nhận rằng có niềm tin thì mê tín mới tồn tại được. Vậy mê tín dị đoan tồn tại là do đâu?
Sở dĩ mê tín tồn tại được là do yếu kém về khoa học, con người không đủ trình độ để phân tích lí
giải đúng sai nhảm nhí… hoặc lợi dụng khi tình trạng quẩn bách, mụ mẫm của con người không
được kịp thời giải tỏa. Hoặc là một trong những giây phút thăng hoa như lạc vào thế giới khác khiến
cho con người mất tỉnh táo, tin vào sự nhảm nhí._.. Nói cách khác đây là hiện tượng nhắm mắt tin mò,
chứ không có cơ sở khách quan.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta thấy được sự khác nhau giữa tâm linh với mê tín dị
đoan ở chỗ, tâm linh là niềm tin thiêng liêng trong đời sống tinh thần của con người tin vào tổ tiên,
thần thánh, phật, chúa...hay những người không đi tu mà họ vẫn đi chùa, đền, đình; vẫn lễ Phật, ăn
chay, vẫn tin vào những điều thiêng liêng của Phật, thần thánh. Niềm tin vào cái thiêng vì thế đã
đánh thức trong tâm hồn con người ý chí, bản ngã để sống và làm việc, xử sự tốt hơn, xứng đáng
với truyền thống tốt đẹp của cha ông ta. Còn mê tín dị đoan là dựa vào thần Phật để kiếm chác,
thương mại hóa niềm tin, hoặc đặt ra bao nhiêu điều kì quái khác thường như trên chúng tôi vừa đề
cập khiến cho người khác tin theo một cách mê muội, hành động theo sự tin ấy không những hao
tốn về tiền bạc mà còn có khi thiệt hại về tính mạng bản thân.
Giữa tâm linh và mê tín dị đoan chỉ cách nhau ranh giới nhỏ hẹp. Điển hình như hiện tượng
nói chuyện với người âm của các nhà ngoại cảm, trước đây được cho là mê tín phù phiếm thì nay đã
được khoa học thừa nhận “khả năng ngoại cảm” và bước đầu được nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì
thế có những trường hợp không thể qui hoàn toàn tâm linh là mê tín dị đoan, là những ngộ nhận của
con người. Chẳng qua đấy chỉ là những vấn đề mà khoa học không hoặc chưa có cách nào chứng
minh đúng hay sai mà thôi. Vì vậy tâm linh luôn là một bí ẩn. Điều chúng ta nên làm và có thể làm
là cố gắng đẩy lùi và xóa bỏ dần dần hiện tượng “nghe ở đâu có ông nọ, bà tê linh thiêng lắm” rồi
đổ xô kéo đến cúng viếng mà chẳng biết rõ gốc tích thế nào...
Qua sự phân biệt trên, chúng ta thấy tâm linh là một biểu hiện trong đời sống tinh thần của
con người với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó. Do đó không nên đơn giản hóa cho rằng tâm
linh là mê tín dị đoan, cũng không nên thần bí hóa, tuyệt đối hóa khái niệm tâm linh, gán cho nó
những đặc tính cao siêu phi thường coi đó là cứu cánh của nhân loại. Cần phải có thái độ nhận thức
đúng đắn vấn đề nhạy cảm này, đồng thời khẳng định tâm linh là phương diện quan trọng, rất cần
thiết cho đời sống tinh thần của nhân loại. Ở đó, con người tin vào tín ngưỡng, vào tôn giáo, và có
cả niềm tin về chính cuộc sống trần thế này. “không chỉ có Thượng đế, có Chúa, Trời, Thần, Phật
mới thiêng liêng, mà cả Tổ quốc, lòng yêu thương con người, sự thật công lí cũng thiêng liêng
không kém”[20, tr8]
1.1.3 Khái niệm văn hóa tâm linh
Từ việc giới thuyết về khái niệm văn hóa và khái niệm tâm linh, chúng tôi nhận thấy tất cả
những gì liên quan đến đời sống tâm linh con người sẽ tạo nên văn hóa tâm linh. Hơn nữa đã gọi là
tâm linh thì nó không thể mất đi được. Tâm linh là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống con
người và khi đó họ ứng xử với tâm linh một cách có văn hóa. Chẳng hạn như những dịp xuân về, tết
đến, dù xa xôi cách trở, dù đi đâu và ở đâu, thì ai cũng muốn về sum họp với gia đình, với làng quê
để thắp những nén hương lên trên bàn thờ gia tiên, trước là báo cáo với tổ tiên ông bà, con đã về;
sau nữa là cầu khấn vong linh những người thân quá cố phù hộ độ trì cho con cháu mạnh khỏe, ăn
nên làm ra. Cũng có khi do điều kiện, hoàn cảnh con người ta không được về nơi chôn nhau cắt rốn,
về với gia đình trong ngày thiêng liêng nhất, họ vẫn một lòng hướng về cội nguồn bằng cách lập bàn
thờ “vọng” kính cẩn dâng lên những nén hương để tưởng niệm, khấn vái, cầu nguyện, tâm tình, chia
sẻ với ông bà, cha mẹ, người thân đã qua đời. Hoặc cứ đến ngày 15/7 âm lịch hằng năm, mọi nhà
đều cúng cô hồn... Những việc làm này không biết tự bao giờ đã đồng hành cùng với con người Việt
Nam.
Như vậy, có thể khẳng định rằng đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần, ở đó
con người tin vào cái thiêng. Ở đó con người chủ yếu sống với phần tâm linh của mình. Đó là không
gian của những thần cây đa, ma cây gạo, của thần thánh, Phật tiên… Đó là thời gian giỗ, tết, các lễ
hội với phần lễ thiêng liêng, những thời điểm giúp con người giao hòa với trời đất, thiên nhiên và
các thế lực thánh thần. Sống trong không gian, thời gian mang tính tâm linh ấy, con người được giải
tỏa, cởi bỏ phiền muộn lo âu, cầu những điều tốt đẹp cho mình và người thân.
Từ cách hiểu trên, theo chúng tôi, khái niệm văn hóa tâm linh của Nguyễn Đăng Duy là
tương đối đầy đủ: “Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng trong cuộc
sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo” [12, tr.26].
Thuộc lĩnh vực tinh thần, nhưng văn hóa tâm linh không chỉ gồm giá trị văn hóa vô hình
(nghi lễ, tập tục, ý niệm..) mà cả những văn hóa hữu hình phát tín hiệu thiêng liêng (đình, đền,
miếu, phủ, chùa, nhà thờ...).
Tóm lại, với những biểu hiện vô cùng phong phú, đa dạng nhưng vẫn có thể khẳng định, văn
hóa tâm linh là sợi dây cố kết cộng đồng, lưu giữ truyền thống, giáo dục lòng nhân ái và tinh thần
hướng thiện đã góp phần tạo nên chiều sâu, sức sống cho nền văn hóa dân tộc.
Trong điều kiện về thời gian và khả năng của người viết, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi
nghiên cứu văn hóa tâm linh trong tín ngưỡng người Việt không theo tôn giáo.
1.2. Cơ sở hình thành văn hóa tâm linh
1.2.1 Từ trong tín ngưỡng dân gian
*Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là một trong những cơ sở hình thành văn hóa tâm linh, bắt
nguồn và chịu ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, tâm lí, thói quen và tính cách của
người Việt.
Sinh sống trong điều kiện địa lí sinh thái đầy khắc nghiệt, khí hậu thời tiết thay đổi thất
thường, khi hạn hán, lúc lũ lụt… suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời nhưng nhiều khi kết
quả chỉ là con số không tròn trĩnh. Điều này tất yếu dẫn đến tâm lí phụ thuộc, ý thức tôn sùng và
thái độ hòa hợp với thiên nhiên. Đầu tiên phải kể đến “đất” và “nước” là hai thành tố có vai trò
quyết định, mà cư dân nông nghiệp lúa nước luôn quyện chặt với nó tựa như “Người ta là hoa đất”.
Nhưng để có nước (mưa) thì cần đến “trời”, do vậy người xưa tín ngưỡng tôn thờ Trời, Đất, Nước
và các hiện tượng thiên nhiên có liên quan đến đời sống nông nghiệp như mây, mưa, sấm, chớp...
Trong đó Trời là trên hết, vì theo người xưa trời sinh ra mọi vật “Trời sinh voi sinh cỏ”. Cái gì cũng
phải xin trời, lạy trời:
“Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày”
Khi đã có mưa, người ta hân hoan biết ơn, cần cù làm việc:
"Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì cầy cạn, nơi thì bừa sâu.
"Nhờ trời mưa gió thuận hòa,
Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.
Hình ảnh mặt trời vì thế đã để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống của cư dân lúa nước đến mức
tôn sùng, quy phục:
“Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng”
Chính sự phụ thuộc này đã đưa người Việt cổ hình thành lối tư duy tổng hợp và tín ngưỡng
thờ đa thần! Cùng với triết lí âm dương, chú trọng yếu tố nữ - âm tính nên các vị thần được tôn vinh
trở thành các nữ thần là bà trời, bà đất, bà nước rất gần gũi gắn bó với cư dân lúa nuớc. Khi có ảnh
hưởng của văn hóa ngoại lai thì bộ ba nữ thần vẫn tồn tại trong dân gian dưới dạng tam phủ (mẫu
thượng thiên, mẫu thượng ngàn, mẫu thoải) cai quản muôn loài. Khi Phật giáo du nhập vào ta, trong
phương thức tồn tại, nó cộng sinh ngay với tín ngưỡng bản địa thì nhóm nữ thần này được nhào nặn
thành hế thống Tứ Pháp: Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi - Pháp Diện.
Hình 1.1
Tranh thờ tam phủ
Cũng như hệ thống nữ thần thiên nhiên được xem như là bà đỡ của nghề nông, thì núi, sông,
biển cũng được cư dân lúa nước nhân cách hóa thành thần núi, thần sông, thần biển... Những vị thần
tự nhiên thờ ở nhiều làng, hầu như chỉ thấy có nghi thức thờ cúng chứ chưa có tích về thần. Có lẽ do
con người nguyên thuỷ chưa có nhiều khả năng tư duy, hư cấu các chuyện về thần để chúng trở
thành các pho thần thoại có sức sống mãnh liệt hơn. Thần núi Tản Viên, lúc đầu cũng chỉ đơn giản
là thần núi được thờ để che chở cho con người nhưng vì thần núi cao, nên uy linh hơn các thần tự
nhiên khác. Bước vào nhà nước Văn Lang thời cổ đại, Tản Viên được nhân hóa và lịch sử hóa trở
thành vị anh hùng truyền thuyết của cả cộng đồng quốc gia dân tộc Tản Viên sơn thánh.
Xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh”, từ con người đến con vật, cây cối, từ những vật
vô cơ như đất, đá, nước, lửa đến cả những vật do con người tạo ra như xe, chum vại… đều có linh
hồn. Nên trong tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên của người xưa còn có việc thờ động vật và thực
vật – vật thiêng.
Nếu như ở loại hình văn hóa gốc du mục, người ta thờ con vật có sức mạnh như chó sói, hổ,
chim ưng, đại bàng.... thì ở loại hình văn hóa nông nghiệp dẫn người Việt Nam đến tục thờ các con
vật hiền lành hơn như chim, rùa, rắn, cá sấu… là các con vật gần gũi với cuộc sống của cư dân lúa
nước. Người Việt quan niệm “nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng” nên đã nâng các con vật này lên
mức biểu trưng : Tiên, Rồng thông qua các truyền thuyết về họ Hồng Bàng. Trong đó Tiên được
trừu tượng hoá từ giống chim sống ở trên cạn, còn Rồng được trừu tượng hoá từ hai loại bò sát rắn
và cá sấu sống ở dưới nước. Theo nguyên lí âm – dương và lối sống hòa hợp, thích nghi với thiên
nhiên, người nông nghiệp đã biến con vật thành chim mẹ, rồng cha làm nên cội nguồn tổ tiên của
người Việt. Con rồng, rắn, rùa…vì thế đã đi vào các câu chuyện thần thoại trong dân gian về con vật
thiêng phù hộ cho con người trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Hình tương rồng cũng được
các triều đại phong kiến Việt Nam chọn làm biểu tượng của vương quyền, càng về sau vẻ mạo của
nó càng thể hiện uy quyền phong kiến. Ngày nay, rồng dùng để đặt tên cho nhiều địa danh trong
nước: Hàm Rồng, Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long v.v. Tất cả việc làm này thể hiện ý thức bảo
toàn nòi giống và lòng tôn kính, tự hào dân ta thuộc dõng dõi con rồng cháu tiên.
Ở thời thượng cổ, cư dân trồng lúa nước quan niệm rằng lúa sinh ra thóc gạo để nuôi sống
con người nên người ta gắn lúa với hình ảnh của người phụ nữ. Vì tin rằng lúa là một loại cây có
“hồn” nên dân ta nảy sinh tín ngưỡng thờ thần lúa. Để được mùa, hằng năm cư dân lúa nước phải
làm lễ rước mạ, gọi hồn lúa, lễ nhập lúa vào kho. Thứ đến các loài cây xuất hiện sớm ở vùng nông
nghiệp lúa nước như cây đa, cây dâu, quả bầu...cũng được người dân tôn thờ. Dân gian thường
truyền tụng: “thần cây đa, ma cây gạo” hay “cây thị có ma, cây đa có thần”. Tin rằng cây có linh
hồn, nên có tục, hễ nhà nào có đám ma, có người chết thì gia chủ phải đeo tang cho cây, vì sợ cây
buồn, héo mà chết. Cây cũng là nơi ngự trị của các thần, ma. Loại cây sống lâu năm đều có thể
thành tinh- mộc tinh. Nên với đặc tính cộng sinh, sống hòa hợp với thiên nhiên thì dù thần hay ma,
người Việt cũng kính trọng, cúng vái rất trang nghiêm.
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và thờ vật thiêng tạo nên bản sắc văn hóa của cộng đồng người
Việt, như nhắc nhỡ người dân Việt sống chan hòa như dây bầu dây bí cũng đều chung một dàn, và
đầy tính bao dung. Ngoài ra, trong tâm linh người dân Việt còn tin thờ thần không gian- Bà Ngũ
hành nương nương và thần thời gian – mười hai vị thần (Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Múi,
Thân, Dậu, Tuất, Hợi) và mười hai bà mụ có nhiệm vụ làm cho mọi vật sinh sôi phát triển.
Từ thời nguyên thuỷ người Việt cổ đã biết nhận thức về thế giới khách quan nhưng với khả
năng tư duy trừu tượng của buổi đầu, con người chưa thật sự phân biệt được giữa mình với giới tự
nhiên mà mình đang cùng sống, đang phải phụ thuộc. Khi ấy con người đã đồng nhất giữa mình với
các vật thể của thiên nhiên. Tác giả cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang chỉ rõ quan
niệm người xưa: “Ông Trời ở trên cao có thể nhìn thấy mọi việc dưới đất, biết trừng phạt kẻ làm ác,
giúp đỡ kẻ làm lành … Ông Trời có những thuộc hạ gần xa. Gần thì có ông Sấm, bà Sét. Xa có Sơn
Tinh, Thủy Tinh, thần cây đa, ông Táo, ông Địa v.v. . ..Rồi linh hồn con người không hẳn là bất
diệt, nhưng có thể tồn tại một thời gian khá lâu quanh quẩn bên xác người chết và có thể ở chung
với người thân thích còn sống trong một thời gian để che chở, bảo hộ.”
*Tín ngưỡng sùng bái con người
Con người được cấu tạo bởi hai phần: thể xác và linh hồn. Người Việt còn tách linh hồn ra
làm hai yếu tố “hồn” và “vía” (ba hồn chín vía). Có người lành vía, người dữ vía. Vía phụ thuộc
nhiều vào thể xác, nên khi gặp người có vía độc thì cần phải đốt vía, giải vía (thường gặp nhất ở
hoạt động buôn bán). Khi chết thì vía theo xác mà tan ra. Còn “hồn” trừu tượng hơn nên có thể xem
như tồn tại độc lập với thể xác. Quan niệm dân gian cho rằng khi ngủ thì hồn lìa khỏi xác đi đây đi
đó, do vậy mà nảy sinh hiện tượng chiêm bao, mộng mị, giấc mơ..vì thế lúc ngủ, theo dân gian con
người không được bôi vật lạ lên mặt vì sợ hồn không nhập được vào xác…
Cũng vậy, khi chết thì chỉ chết về phần xác nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại, được thần linh
mang đi sống ở một thế giới khác- thế giới âm phủ. Nói theo triết lý âm dương thì khi chết là hồn đi
từ miền dương gian đến cõi âm ty, âm phủ. Tuy thuộc về thế giới khác nhưng linh hồn vẫn dõi theo
gây họa hay tác phúc cho người đang sống. Chính điều này đã hình thành tín ngưỡng thờ cúng
người chết. Tín ngưỡng sùng bái con người được biểu hiện qua hình thức: thờ cúng tổ tiên, thờ các
anh hùng liệt sĩ, thờ tà thần.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Trước khi Nho giáo du nhập, người Việt Nam đã có truyền thống cúng giỗ tổ tiên. Cúng giỗ
tổ tiên không phải là biểu hiện tôn giáo mà là biểu hiện huyết thống. Huyết thống thì bao giờ cũng
có nguồn gốc. Vì vậy, thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa truyền thống đẹp nhất của người Việt, là
một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của chúng ta. Đó là đạo lí, là phong tục, tập
quán của một dân tộc và còn chỉ rõ ta là người có cội có nguồn, có tổ có tông, chứ không phải là
một tay ma cà bông… không có gia phả. Người xưa cũng từng nói “cây có gốc mới nở cành xanh
ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu” như nhắc nhỡ chúng ta khắc sâu ý thức về cội nguồn
tổ tiên trong đời sống tâm linh của mình. Đồng thời cũng răn dạy con cháu mai hậu nhất thiết không
được đánh mất cái mà tổ tông đã có “Giấy rách phải giữ lấy lề”.
Nếu như người phương Tây chú trọng vào ngày sinh thì người Việt Nam lại chú trọng vào
ngày giỗ (ngày mất). Bởi theo quan niệm của người xưa đây là ngày con người đi vào cõi vĩnh
hằng. Người xưa tin rằng thể xác tuy tiêu tan nhưng linh hồn thì bất diệt nên sau khi chết linh hồn
của con người vẫn tiếp tục sống với tổ tiên, ông bà ở nơi chín suối. Tin rằng nơi đó, tổ tiên, ông bà,
cha mẹ, người thân đã qua đời vẫn có thể đi về thăm nom, phù hộ độ trì cho con cháu trong gia đình.
Tin rằng ở đó, người chết cũng có một cuộc sống như cuộc sống ở trần gian, tức là cũng cần đến
nhu cầu sinh hoạt như ăn, mặc, ở, đi lại .. theo quan niệm “dương sao âm vậy”. Chính vì vậy, ngoài
mồ mả tổ tiên ở nghĩa địa, thì trong mỗi gia đình gia chủ đều dành vị trí sang trọng, đẹp nhất của thế
nhà lập nên bàn thờ cúng tổ tiên. Từ việc thờ cúng, người xưa cho rằng giữa thế giới thực tại, hữu
hình với thế giới siêu nhiên, vô hình; giữa con cháu với tổ tiên, ông bà, những người thân đã mất
luôn luôn như có một sợi dây liên hệ mật thiết. Đây cũng là dịp để người sống giao tiếp – thông linh
với người đã khuất. Trong khi cúng bái, người sống khấn vái, cầu nguyện một điều gì đó với tổ tiên,
ông bà, người thân qua đời. Nhưng nhìn chung niềm tin vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, là họ mong
muốn tổ tiên phù hộ cho họ được sức khỏe, hạnh phúc, ăn nên làm ra, gặp rủi hóa may, vạn sự như
ý… Qua thờ cúng, con cháu một mặt thể hiện lòng tôn kính, biết ơn, tri ơn đối với tổ tiên mình, Mặt
khác thờ cúng tổ tiên là một nhu cầu tinh thần bù đắp những thiếu hụt trong cuộc sống thực tại khó
khăn, đau khổ, hiểm nguy của chính họ.
Thờ cúng các vị anh hùng có công dựng nước và giữ nước.
Nếu như trong phạm vi gia đình, dòng họ, người Việt thờ cúng tổ tiên thì trong phạm vi cả
nước, dân ta cũng thờ cúng vua Hùng và anh hùng có công dựng nước và giữ nước. Người Việt
Nam vẫn thường nhắc nhỡ nhau ý thức về tổ Hùng Vương - cội nguồn của dân tộc:
“Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
“Dù ai sinh sống gần xa,
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười”
Đến với lễ hội vua Hùng, người dân hân hoan trong không khí thiêng liêng và bằng tấm lòng
thành thắp những nén nhang cảm tạ ơn nghĩa Vua cha đất tổ đã mở đường cho con cháu Lạc Hồng
xây nền đất Việt trời Nam. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhỡ thế hệ sau: “Vua Hùng có
công dựng nước, Bác cháu ta phải có công giữ nước”.
Thật vậy! dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao thăng trầm sóng gió, bao gian khổ hiểm
nguy, bao tủi nhục đắng cay trong suốt một thời gian lịch sử rất dài mới có được một đất nước đẹp
và thanh bình như ngày hôm nay. Trong cuộc chiến trường kì đẫm máu và nước mắt đó, đã biết bao
người đã ngã xuống vì tổ quốc, vì nhân dân. Công lao của họ đời đời được đất nước, nhân dân ghi
công. Máu và nước mắt của họ đã thấm sâu vào lòng đất và đi vào lịch sử, vào cõi bất tử của miền
nhân gian. Để rồi với sự ngưỡng vọng và tôn kính, dân gian đã linh thiêng hóa các anh hùng tiết liệt
để họ trở thành những vị thần được thờ phụng, tưởng nhớ một cách uy linh, trân trọng.
Từ nhiều thế kỉ nay, ông cha ta đã dành phần thiêng liêng nhất cho việc thờ cúng biết ơn các
anh hùng có công dựng nước và giữ nước. Lạc Long Quân, Tản Viên Sơn Thánh, Thánh Gióng đến
Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Quang Trung,... bất kể là những vị anh hùng có nguồn gốc từ tự nhiên
hay có thật trong lịch sử thì họ cũng là những con người sống khôn thác thiêng, lập công trạng khi
sống và hiển linh phù trợ giúp dân giúp nước khi chết.
Vì thế, thờ cúng tổ tiên – gia đình và thờ cúng tổ tiên - đất nước là điều linh thiêng, hết sức
quan trọng không thể thiếu được trong phong tục của người Việt Nam. Qua đó, khẳng định lòng yêu
nước, tinh thần đoàn kết của cư dân Việt.
Tục cúng cô hồn. Xuất phát từ việc tôn kính người chết và lòng nhân ái bao dung, người
Việt có tục cúng cô hồn. Cô hồn là những linh hồn cô đơn, cô độc “vô gia cư” khổ sở, đói rách,
ngày đêm lang thang đi tìm miếng ăn, thức uống, kiếm chỗ ở… Nhưng mấy ai biết mà cho, mà
cúng. Đói rét, vất vưởng. Những lúc ấy, oan hồn có thể bằng hình thức này hay hình thức khác về
quấy nhiễu người sống, làm cho người ở cõi trần gian không thể sống yên ổn… Vậy nên, quan niệm
“dương sao âm thế”, “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” dân ta đã xây am chúng sinh và cúng cô
hồn, một mặt làm vơi bớt phần nào sự cực khổ của những linh hồn kém may mắn không người cúng
vái, mặt khác cầu cho cô hồn sớm được giải thoát, không còn quấy nhiễu người dương thế.
*Tín ngưỡng sùng bái thiên nhiên và con người dẫn đến việc hình thành lễ hội dân gian
Có lẽ không một nền văn hóa truyền thống của dân tộc nào lại không có lễ hội. Cũng như
Trung Quốc và các nước khác, Việt Nam là một đất nước có rất nhiều lễ hội. Theo thống kê của các
nhà nghiên cứu văn hóa dân gian thì Việt Nam có tới 500 lễ hội lớn nhỏ trải dài theo lịch sử dân tộc,
rộng khắp ở mọi miền đất nước và suốt cả bốn mùa xuân hạ thu đông. Lễ hội chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu
biểu và giá trị riêng: Tết Nguyên đán (1-1): buổi sáng đầu năm (tính theo Âm lịch), Tết Nguyên tiêu
(15-1): đêm rằm đầu tiên trong năm, treo đèn, còn gọi là thượng nguyên, Tết Thanh minh (5-3): rẩy
mã, viếng mộ, chơi xuân, hội đố lá, Tết Đoan ngọ (5-5): tết hoa quả, diệt sâu bọ, mừng con nước,
đua thuyền, Tết Thất tịch (7-7): hoặc Vu lan, xá tội vong nhân, cúng cô hồn (15-7) còn gọi Trung
nguyên, Tết Trung thu (15-8): thưởng trăng, gia đình đoàn tụ, múa lân rồng, Tết Trùng cửu (9-9):
còn gọi là trùng dương, số 9 là con số của trời, cầu trời mưa thuận gió hòa, Tết Hạ nguyên (15-10):
tết cơm mới, mừng mùa màng thu hoạch...; Lễ hội tái hiện lịch sử nhằm suy tôn những con nguời,
những anh hùng dân tộc như Lễ Hội Đền Hùng, Hội Hai Bà Trưng, Hội Gióng… và Lễ hội tái hiện
phong tục tín ngưỡng như Hội chùa Dâu, hội chùa Keo, Hội chùa Hương, Hội bà chúa Sam…
Lễ Hội luôn đan xen xoắn xuýt nhau. Lễ đi kèm với hội dưới hình thức cúng kiến, bái viếng
đối với thần thánh, tiên, phật, hoặc người dưới cõi âm như lễ rước thần lúa, lễ cầu mưa, nghi lễ phồn
thực, lễ tảo mộ, lễ cúng cầu siêu cho các vong hồn… lễ diễn ra trong một không gian thời gian nhất
định. Người tham gia lễ thường có thái độ nghiêm túc và có một ý thức lễ nghi rõ rệt. Hội là cuộc
chơi, thường mang tính chất hội hè. Hội thường gắn với những trò chơi dân gian, gắn với những
cuộc thi thố, tranh tài trong một số lĩnh vực nào đó. Tính chất vui, trào tiếu trong hội là nét nổi bật.
Con người không chỉ sống trong cái thiêng mà còn sống trong cái vui. Vì vậy lễ phải có hội mới
cuốn hút, hội phải có lễ thì mới linh thiêng, mới đi vào nề nếp. Lễ hội còn là một ngôn ngữ hoạt
động làm phong phú, hấp dẫn hơn và dễ đi sâu vào tâm thức con người hơn nhưng triết lí giáo điều
khô khan của các tôn giáo, tín ngưỡng. Không có lễ hội thì cũng không còn tôn giáo và tín ngưỡng.
Do đó nhân dân ta rất thích lễ hội. Dù con người ta có ở xa đến mấy, mỗi khi có lễ hội họ đều tìm
đến. Lúc ấy, họ được sống trong một không gian thiêng, một khoảnh khắc thời gian thiêng. Chỉ là
khoảnh khắc thôi, nhưng để lại niềm lưyến lưu trong tâm hồn người để từ đó thêm có trách nhiệm
với cộng đồng, thêm gắn bó với xung quanh. Lễ hội là dịp để để các giai nhân tri ngộ, nam thanh nữ
tú gặp gỡ, trò chuyện, kết bạn, vui chơi, hẹn hò…, cũng là dịp biểu dương sức mạnh, đoàn kết, gắn
bó mọi thành viên với cộng đồng. Mỗi dịp lễ hội là một dịp chuyển giao văn hóa, sáng tạo văn hóa.
Vì thế, người Việt Nam rất cần đến lễ hội. Đó là sợi dây tâm linh kết nối tình cảm giữa con người
với con người, là nhịp cầu nối giữa quá khứ - hiện tại - tương lai. Cho nên, với sự kết hợp sâu sắc
giữa cái thiêng và cái phàm, giữa thần thánh cao xa và ước muốn bình dị của con người, lễ hội luôn
sống mãi với thời gian. Nói như GS Phùng Quý Nhâm lễ hội chính là “bảo tàng sống của văn hóa
dân tộc ta”. Vì vậy chúng ta cũng như thế hệ mai sau phải biết trân trọng, bảo tồn di sản văn hóa
thiêng liêng này.
*Tín ngưỡng dân gian chi phối đời sống xã hội
Do có niềm tin đặc biệt vào tín ngưỡng dân gian, nên người dân Việt tin rằng tín ngưỡng dân
gian có sự chi phối sâu sắc đời sống của họ. Biểu hiện dễ thấy nhất trong hoạt động xem bói, chấm
tử vi, phong thủy, coi ngày giờ.
Dẫu biết rằng chuyện gì đến sẽ đến, không nên lo lắng, sầu thương, vấn vương! Hãy để nó
đến tự nhiên rồi đi tự nhiên. Con người ai rồi cũng phải chết! Thế nhưng trong thực tế cuộc sống,
tuyệt nhiên, không ai bằng lòng với điều đó cả! Dẫu biết rằng thiên cơ bất khả lậu, nhưng không ai
là không muốn biết trước vận mệnh của cuộc đời mình. Phải chăng những băn khoăn này đã thôi
thúc con người đi tìm ẩn số bằng cách xem tử vi, xem tướng, xem tuổi, xem ngày cưới hỏi, xem giờ
động thổ làm nhà, xem giờ hạ huyệt v.v… Những việc làm này không thể thiếu trong cuộc sống của
người dân Việt. Đây là vấn đề tâm linh, xét cho cùng ranh giới giữa nó với mê tín di đoan gần nhau
trong gang tấc. Xưa đã thế mà nay cũng chẳng có gì khác hơn! Dù cho đây là thời đại của công nghệ
thông tin, của khoa học nhưng đây cũng chính là thời mà con người ta bàn về tâm linh, đời sống tâm
linh, văn hóa tâm linh nhiều nhất. Và có chăng cái điều mà các nhà khoa học đang làm là tìm cách
rút ngắn khoảng cách tâm linh với khoa học mà thôi. Tâm linh là mảnh đất vô cùng phong phú và
phức tạp như chính sự phức tạp và phong phú có trong cuộc đời của mỗi con người vậy! Chừng nào
con người còn đau khổ chừng đó tâm linh vẫn còn giá trị thiêng liêng. Cho nên, bỏ qua những gì gọi
là mê tín dị đoan, mụ mị thiết nghĩ đây là việc làm đáng quý, đáng trân trọng. Bởi phàm sinh ra
trong kiếp con người, bất luận như thế nào con người ta cũng ý thức được giá trị của bản thân, của
sự sống. Tránh xa cái rủi ro đem lại điều may mắn cho người đang sống mà không xúc phạm người
đã khuất quả là một việc rất nên làm. Từ đó chúng ta có thể khẳng định rằng: Niềm tin linh thiêng
chi phối sâu sắc đời sống xã hội, đời sống tinh thần của con người.
Lời thề cũng là một yếu tố thuộc về tâm linh. Lời thề được thể hiện giữa con người với con
người trong cuộc sống hàng ngày. Khi chứng minh một điều gì đó là đúng là chân xác, người Việt
thường nói “thề có trời đất chứng giám…”, “tôi thề, tôi mà nói sai sự thật thì…”. Hay cao xa hơn,
đó lời thề của công dân đối với đất nước. Trong hoàn cảnh chống giặc ngoại xâm, lời tuyên thệ của
các anh hùng vì tổ quốc quên thân trở nên thiêng liêng vô cùng… Và rõ nhất, dễ thấy nhất là trong
tình yêu, đôi lứa yêu nhau thường hay thề nguyền. Tin vào lời thề mà họ có thể chờ đợi nhau, hy
sinh cho nhau. Họ cũng rất sợ bị trừng phạt, quả báo nếu phản bội, phá vỡ lời thề. Cho nên lời thề
chính là khía cạnh tâm linh không thể không có ở mỗi con người.
Tóm lại, tín ngưỡng dân gian người Việt vô cùng đa dạng, bao gồm tín ngưỡng thờ thánh
thần, trời đất (thành hoàng làng, thần hộ mệnh cá nhân, thánh tổ nghề, thờ các vị phúc thần, các anh
hùng lịch sử văn hoá…); tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ mẫu…; niềm tin tướng số phép
thuật…Các tín ngưỡng song hành tồn tại trong đời sống nhân dân và trở thành những sinh hoạt văn
hoá tạo nên bản sắc văn hoá truyền thống Việt Nam. Và điều này cũng rất dễ thấy trong sáng tác của
Nguyễn Du đặc biệt là Truyện Kiều và Văn chiêu hồn. Trong ấy ta thấy cả một thế giới tâm linh ẩn
hiện, bàng bạc mang nhiều nét tín ngưỡng truyền thống của dân tộc. Đó là niềm tin thiêng liêng đối
với một số hiện tượng thiêng trong cuộc sống (trời, phật, cầu cúng cầu hồn, báo mộng…), đó là tập
tục khấn nguyện hay tướng số, tử vi… Cho dù sau này các tôn giáo khác từ bên ngoài du nhập vào
như : Đạo Phật, Thiên Chúa… thì cũng không thể nào xóa bỏ được văn hóa bản địa này, mà rốt
cuộc phải sống chung với nó, nếu muốn thu phục tín đồ…
1.2.2 Từ sự tiếp biến tư tưởng Nho – Phật – Đạo
Việt Nam nằm ở ngã tư đường thuộc khu vực Đông Nam Á, là nơi gặp gỡ giữa các nền văn
minh và đã có lịch sử ngàn năm Bắc thuộc do đó không tránh khỏi bị Trung Quốc hóa. Trên cái vốn
sẵn có của dân tộc là nền tảng yêu nước, thương nòi, ta tiếp thu những yếu tố ngoại lai, biến đổi nó,
đồng hóa nó để tự xây dựng và phát triển. Biểu hiện cụ thể là việc tiếp nhận và biến đổi ba hệ tư
tưởng Nho, Phật, Đạo và hòa trộn chúng theo cách thức của người Việt.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và có phạm vi ảnh hưởng sâu rộng. Đầu tiên,
Phật giáo Tiểu thừa được truyền trực tiếp từ Ấn Độ. Khoảng đầu công nguyên và hạ bán thế kỉ thứ
hai đã có một trung tâm văn hóa Phật giáo ở Luy Lâu. Về sau Phật giáo Đại thừa từ Trung Quốc
truyền vào nước ta với nhiều tông phái: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông.
Phái Thiền tông đề cao cái tâm, Phật tại tâm, tâm là Phật, là niết bàn, nên nó đòi hỏi người tu
thiền phải mất nhiều công phu và có trí tuệ, giữ tâm tĩnh lặng, suy nghĩ để tự mình tìm ra chân lí. Do
đó, Thiền tông chủ yếu gắn với tầng lớp trí thức, thượng lưu.
Khác với Thiền tông, Tịnh độ tông gần gũi và phổ biến trong đời sống quần chúng nhân dân
hơn. Đi đâu ta cũng gặp người dân tụng niệm câu: “Nam mô A - Di - Đà Phật”. Tịnh độ tông ra đời
ví như con thuyền bát nhã nâng đỡ con người đến với niết bàn tịch tịnh. Bởi quan niệm cho rằng,
đời sống của người bình dân khốn khó, vất vả, suốt ngày bận lo việc cơm áo nên không thể tự mình
tĩnh tâm thiền được và do đó sẽ khó lòng đạt được bản thể chân như.
Riêng Mật tông, chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí (linh phù, mật chú, ấn quyết…)
mau chóng được giải thoát để đến niết bàn. Do vậy khi vào nước ta, Mật tông hòa nhập vào dòng tín
ngưỡng của cư dân Việt như dùng pháp thuật yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh…
Đạo giáo gồm hai phái: phái thần tiên và phái phù thuỷ. Phái thần tiên có hai cách tu: nội tu
và dưỡng sinh. Dưỡng sinh thì người tu đạo dùng thuốc linh đan để được trường sinh. Nội tu là cách
con người chủ yếu dựa vào mình, tự mình rèn luyện khí công mà chứng ngộ Đạo. Phái Tu tiên khá
thịnh hành nhưng chủ yếu dành cho giai cấp thống trị. Phái phù thủy lấy bùa chú, phương thuật,
nước phép và cỏ dại chữa bệnh để thu hút mọi người.
Cũng như Phật giáo, Đạo giáo vào Việt Nam vào khoảng cuối thế kỉ thứ II gắn liền với tích
Cao Biền lùng tìm yểm huyệt, hy vọng cắt đứt long mạch hòng triệt tiêu nhân tài đất Việt. Đạo giáo
khi vào Việt Nam đã tìm thấy rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt
xưa như việc sùng bái ma thuật, phù phép, tin rằng có thể dùng bùa chú để chữa bệnh, trừ tà, làm
tăng sức mạnh…vì vậy đạo giáo phù thủy rất dễ dàng len lõi vào cuộc sống của người bình dân còn
phái tu tiên vì gắn liền với thoát tục nên chỉ thịnh hành với tầng lớp trên. Các nhà Nho ở nước ta, do
ảnh hưởng của phái tu tiên, nên có khuynh hướng ưa thanh tịnh, thích nhàn lạc. Nhất là đối với
những nhà nho sinh bất phùng thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường nên thường cáo quan
lui về ở ẩn, sống cuộc đời thanh bần, giản dị, làm bạn với thiên nhiên.
Khác với Phật, Đạo, Nho giáo với thế mạnh “trị quốc bình thiên hạ” không đi sâu được vào
các tầng lớp lao động mà chỉ đến với tầng lớp trí thức trong xã hội. Nhưng khi nhà nước giành lại
được chủ quyền, các triều đại phong kiến Việt Nam, nhất là triều Lê, Nguyễn đã học tập rất nhiều
cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật của người Trung Hoa. Giáo dục và khoa cử lúc đầu
còn lấy nội dung của ba giáo Phật, Đạo, Nho, nhưng từ đời Hậu Lê trở đi chỉ dùng Nho học. Nho
học do đó lan rộng trong xã hội. Từ thế kỉ XVI về sau, chế độ phong ki._.ết. Bất kì ai, khi đọc Văn chiêu hồn, dù một lần thôi,
cũng bị ám ảnh bởi một thế giới oan hồn, kẻ thì lộn sấp chôn nghiêng, người thì chết vùi đường
quan.
Góp phần làm tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm Truyện Kiều phải nói đến nữa là hiện tượng
bói toán, xem tướng số. Tuy rằng dân gian vẫn thường nói “bói ra ma quét nhà ra rác” nhưng với
người xưa, để thông linh với thế giới siêu nhiên, dự báo về thời gian định mệnh theo cách nào đó
như đoán định tương lai hậu vận, tiền tri số mệnh, nói chuyện với hồn ma… thì phải qua những
người có năng lực siêu phàm, có cảm ứng tâm linh như thầy tướng số, Giác Duyên, Tam Hợp đạo
cô, đồng cốt, đạo nhân… Và trong cuộc đời Kiều, những người đều xuất hiện, thầy tướng số đoán
vận mệnh của Kiều là tài hoa mà bạc mệnh; Giác Duyên, Tam hợp đạo cô, và cả Đam Tiên cũng
báo cho Kiều đường đi nước bước... Nhưng quan trọng là Thúy Kiều đã tin:
“Vả trong thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong
Kiếp này trả nợ chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau”
“Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây”
Điều này chứng tỏ, người xưa có lòng tin vào số phận, bói toán - một thực tại đời sống tâm
linh của con người.
Nói tóm lại, cúng tế, cầu Phật, cầu tiên, gọi hồn, bói toán… là những hiện tượng bình
thường trong đời sống nhân dân lao động dưới thời chế độ phong kiến và khi khoa học kĩ thuật chưa
có điều kiện phát triển. Song theo dòng thời gian, những sinh hoạt tín ngưỡng, niềm tin vào cái
thiêng, cái đẹp, cái cao cả sẽ không mất đi mà ngày nay với sự phát triển của khoa học, của tư duy lí
trí, người Việt đã biết phát huy những yếu tố tích cực và từng bước đẩy lùi vấn nạn “mê tín dị
đoan”.
Hình 3.2
Phần mộ của Đại thi hào Nguyễn Du tại Tiên Điền, Hà Tĩnh
Khi Nguyễn Du sáng tạo nên đứa con tinh thần “vô tiền khoáng hậu”, ông đã xác định “Phải
viết không phải bằng những rung cảm của bản thân mình trước tác phẩm Trung Quốc, mà bằng
rung cảm của mình trước cuộc đời và con người ở xứ sở mình”.
* *
*
Thi ca Việt Nam xưa nay ít có tác phẩm nào sánh được với Truyện Kiều, Văn chiêu hồn của
Nguyễn Du. Bằng những nét đẹp tâm linh cũng như những giá trị thiết thực do các yếu tố tâm linh
mang lại, hai tác phẩm Truyện Kiều, Văn chiêu hồn đã đi vào lòng công chúng suốt hai thế kỷ qua.
Phạm Đan Quế trong lời nói đầu của cuốn “Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện
Kiều” nhận xét: “Truyện Kiều là tác phẩm kỳ diệu của nền văn học Việt Nam, một thi phẩm tuyệt
vời mang tinh thần dân tộc”. Còn người bình dân thích Kiều vì ít nhiều đã bắt gặp mình trong đó.
Bắt gặp mình trong những lời buồn thương, trong những câu oán thán, trong thân thế trầm luân của
Thúy Kiều, trong giấc mơ Từ Hải,…Những tình, những cảnh trong đời Kiều cũng là những tình
những cảnh trong đời họ. Nói rộng ra, người bình dân thấy cuộc sống diễn ra muôn hình vạn trạng
trong Truyện Kiều cũng như trong thực tế. Truyện Kiều là cả một thế giới. Người ta bói Kiều, lẩy
Kiều, vịnh Kiều… Người ta từng nói “đó là những trang thơ “Đọc trăm lần vẫn trăm lần mới
mẻ”, hoặc “Mỗi lần giở những trang Kiều là mỗi lần thấy lung linh nét mới”... Truyện Kiều chưa
bao giờ cũ, nàng Kiều chưa bao giờ già, và Nguyễn Du chưa bao giờ là người xưa” [107, tr5]. Với
Văn chiêu hồn thì lưu truyền rộng rãi trong các bài văn khấn nôm cúng cô hồn của tâm linh người
Việt.
KẾT LUẬN
Văn hóa tâm linh đang là một đề tài “nóng” của thế kỉ XXI, chưa bao giờ chúng ta thấy, tâm
linh được bàn nhiều đến như vậy: điện ảnh, hội họa, điêu khắc, văn học…không chỉ giới bình dân
mà cả những nhà trí thức bác học khoa học ngay nay cũng đang quan tâm, nhìn nhận, đánh giá vấn
đề tâm linh, văn hóa tâm linh, đời sống tâm linh của con người trên mọi phương diện. Trên tinh thần
đó, qua việc khảo sát, tìm hiểu “văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn
Du”, chúng tôi xin rút ra một số kết luận sau:
1. Vấn đề văn hóa tâm linh trong dòng chảy văn hóa dân tộc sẽ mãi có giá trị nhất định. Cuộc
đời còn đau khổ, còn rủi ro thì giá trị tâm linh vẫn còn hữu ích cho con người.
Ra đời và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, qua các thế hệ, các yếu tố tâm linh
được gìn giữ và phát huy lên một tầm cao mới, nó không chỉ là một bộ phận thiết yếu của cuộc sống
mà còn góp phần làm thăng hoa đời sống tinh thần của người dân Việt. Bởi nhu cầu tâm linh là nhu
cầu chính đáng, không thể thiếu của con người. Thể hiện niềm tin thiêng liêng của con người vào
thế giới thiêng, niềm tin vào cái đẹp, cái cao cả trong cuộc sống đời thường. Tuy rằng ngày nay, một
số biểu hiện tâm linh được xem là hành động mê tín dị đoan, duy tâm, siêu hình… nhưng xét cho
cùng, nó sẽ rất cần thiết khi muốn đi sâu, khám phá hết những chiều kích phong phú của đời sống
tâm linh con người. Nói như vậy để thấy rằng, trong dòng chảy văn học Việt Nam, yếu tố tâm linh
được thể hiện trong tác phẩm Truyện Kiều, Văn chiêu hồn của Nguyễn Du thực sự giữ một vài trò
quan trọng trong việc lưu giữ những giá trị truyền thống của dân tộc bên cạnh việc đi sâu vào nội
tâm sâu thẳm của con người thời trung đại. Với ý nghĩa to lớn đó, người thời nay nên phát huy hơn
nữa những truyền thống văn hóa dân tộc trong việc bồi dưỡng tinh thần cho con người Việt nam,
nhất là giúp cho thế hệ trẻ hiện nay đang xa dần với truyền thống văn hóa của nước nhà, tìm lại nét
đẹp đích thức của các yếu tố tâm linh với những ý nghĩa tích cực, đậm chất nhân sinh nhân bản
trong đời sống tinh thần của con người.
2. Tuy không được sống trong bầu không khí văn hóa xã hội của thời đại Nguyễn Du, nhưng
chúng ta, những con người hiện đại có thể cởi bỏ lớp vỏ bọc của hiện thực đương đại để trở về với
tác phẩm Truyện Kiều, Văn chiêu hồn từ bên trong, bắt đầu từ điểm nhìn của chính tác giả Nguyễn
Du và những người cùng thời với ông. Phát hiện trong tầng sâu nhận thức của con người thời trung
đại, luôn có một lực lượng huyền bí trên cao xanh định đoạt, chi phối và sắp sẵn mọi đường đi nước
bước của trần gian. Là một qui luật huyền bí nhưng Nguyễn Du cảm nhận nó một cách nhất quán, từ
những lời triết luận cho tới sự miêu tả chân dung nhân vật và nhất là diễn tả ám ảnh định mệnh đã
ăn sâu vào tiềm thức, tư tưởng, hành động của cuộc đời Kiều. Chính niềm tin vào lực lượng siêu
hình này đã chi phối cái nhìn, tư tưởng, quan niệm của ông. Và như vậy, con người không chỉ ở
trong thế giới hiện thực, khách quan, có thể nhìn thấy, cầm nắm, đánh giá nhận xét cụ thể các sự vật
hiện tượng mà còn ở một thế giới khác, thế giới của Trời Phật Thần thánh, của những linh hồn, ma
quỷ… và để thông linh với thế giới ấy, con người trần thế có thể thắp hương cúng bái, thề nguyền,
gọi hồn…cũng như tin rằng bằng nỗ lực hết mình của bản thân có thể thay đổi được những gì đã
định sẵn cho mình. Phải chăng, từ những yếu tố tâm linh được Nguyễn Du đưa vào tác phẩm là
thông điệp mà tác giả Truyện Kiều muốn gửi gắm vào mọi người hãy tin vào chính mình, nỗ lực hết
mình thì có khó khăn mấy rồi cũng vượt qua, và hãy sống bằng chính cái “tâm” của mình.
Căn cứ vào việc khảo sát tìm hiểu những yếu tố tâm linh xuất hiện bàng bạc rộng khắp ở hai
tác phẩm của cụ Nguyễn Du, chúng tôi phân chia ra làm tám nhóm như sau:
1. Lễ hội
2. Lực lượng siêu nhiên
3. Cõi âm, hồn ma
4. Mồ mả, tha ma
5. Cầu cúng, khấn vái
6. Chiêm bao
7. Bói toán
8. lời thề
Đối với mỗi nhóm, Nguyễn Du có những cách nhìn nhận đánh giá cũng như bày tỏ cảm xúc
khác nhau. Nhưng nhìn chung, tác giả mô tả đời sống tâm linh, sinh hoạt tâm linh và ứng xử tâm
linh của người xưa - một trong những phương diện đời sống tinh thần của người Việt Nam.
3. Nghiên cứu tác phẩm Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du dưới góc nhìn văn
hóa là một lĩnh vực “quen mà lạ” để tìm ra “chất dân tộc” của văn hóa Việt. Chất dân tộc được biểu
thị trong cả văn hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ xưa cho đến nay. Cho nên, nằm trong dòng
chảy liên tục của nền văn học, lại là một thời kì văn học thuộc về thời đại văn hóa khác, văn học
trung đại nói chung và sáng tác của Nguyễn Du nói riêng có vị trí nối liền văn hóa, văn học thời cổ
đại đến với nên văn hóa văn học hiện đại.
Một thực tế không thể phủ nhận đó là sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc vẫn còn tồn tại
đến ngày nay. Không những trên bình diện vật chất: kiến trúc, cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông…
mà còn diễn ra sâu đậm trên bình diện tinh thần: ngôn ngữ, tư tưởng, quan niệm sống… Nhưng
cũng cần phải khẳng định rằng, tín ngưỡng dân gian Việt Nam là một phần của văn hóa Việt, một
phần của đời sống tinh thần người Việt, cũng là phần dưỡng chất nuôi dưỡng nên nền văn học Việt
Nam.
Tiên sinh Nguyễn Du được sinh ra từ cái nôi văn hóa này, các giá trị truyền thống lâu đời
thấm vào máu thịt, tâm hồn như chính hơi thở của ông vậy. Dấu ấn văn hóa dân gian in đậm trong
các sáng tác của Nguyễn Du đặc biệt là Truyện Kiều và Văn chiêu hồn. Cho nên với nhiều biểu hiện
của văn hóa tâm linh trong hai thi phẩm, một lần nữa chứng minh mối liên hệ mật thiết hữu cơ giữa
văn học, văn hóa dân gian với văn học, văn hóa bác học.
4. Các yếu tố tâm linh luôn tràn ngập trong Truyện Kiều, Văn chiêu hồn của Nguyễn Du. Ẩn
sau nó là những vấn đề nóng bỏng của thực tại, những tâm tư nguyện vọng, khát vọng của nhân dân.
Nó luôn ám ảnh, chi phối khiến các tác phẩm của ông luôn thấm chất bi thương, đau buồn song lại
vẫn tìm thấy ở đó những nét tích cực, tốt đẹp của một tấm lòng với đời.
Cùng với các yếu tố khác trong truyền thống văn hóa Việt, yếu tố tâm linh thực sự góp phần
làm cho Truyện Kiều và Văn Chiêu hồn cũng như các sáng tác khác của Nguyễn Du có giá trị, sức
sống lâu bền và tìm được sự đồng điệu, chia sẻ ở người đọc các thế hệ. Nói như Đào Quý Thích
“Càng đọc Nguyễn Du chúng ta càng sung sướng và tự hào mà nhận ra rằng: Có được Nguyễn Du,
đó chính là niềm vui lớn của dân tộc”. [17, tr.119]
Nguyễn Du là một nghệ sĩ, một nghệ sĩ vô song, Nguyễn Du là một trái tim lớn mà nhịp đạp
của nó đập cùng trái tim của hàng triệu người qua các thế kỉ... “Thời gian trôi qua, các chân trời
lịch sử lùi xa mãi, nhưng vĩnh viễn sẽ truyền qua các thế kỉ hai tiếng Nguyễn Du như là biểu tượng
bất diệt của tinh hoa văn hóa Việt Nam” [11, tr.150]
4. Trong giới hạn của một luận văn, chúng tôi đã cố gắng bước đầu thống kê, phân loại, hệ
thống hóa các biểu hiện của văn hóa tâm linh để từ đó tìm hiểu những chiêm nghiệm, suy tư của
Nguyễn Du về nhân sinh, thời thế. Kết quả bước đầu còn ít ỏi và nhiều thiếu sót, chúng tôi sẽ hi
vọng có điều kiện và cơ hội để khảo sát đề tài một cách công phu và có hiệu quả hơn.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Hội nhà văn, H.
2. Đào Duy Anh (2005), Nghiên cứu văn hoá và ngữ văn, Nxb Giáo dục, H.
3. Toan Ánh (2005), Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Quyển hạ, Nxb Trẻ.
4. Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. L. Cadierre (1997), Về văn hoá và tín ngưỡng truyền thống của người Việt, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
6. Lê Nguyên Cẩn (2007), “Tiếp nhận truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá”, Nxb GD.
7. Hà Như Chi (2000), Việt Nam thi văn giảng luận, NXB Văn hóa thông tin.
8. Lý Khắc Chung (2002), Chuyện tâm linh Việt Nam, NXB Văn học dân tộc, Hà Nôi.
9. Nguyễn Đình Chú (2002), Hiện tượng Văn- Sử- Triết bất phân trong văn học Việt Nam thời
đại trung đại, Tạp chí Văn học (5).
10. Hoàng Dân, Đường Văn (2002), Nguyễn Du - Truyện Kiều, Một hướng cảm luận và dạy học
mới . Nxb Trẻ
11. Ngô Viết Dinh (tuyển chọn và biên tập), (1999), Đến với những chân dung Truyện Kiều, Nxb
Thanh Niên.
12. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin.
13. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
14. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Duy (2001), Đạo giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội.
17. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu), (2001), Nguyễn Du
tác gia và tác phẩm, NXBGD, tái bản.
18. Thái Kim Đĩnh (1988), Giai thoại và tư liệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều, NXB Nghệ Tĩnh.
19. Đại học sư phạm Hà Nội- trung tâm Trung Quốc học (2000), Đạo gia và văn hoá Việt Nam,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
20. S.Freud, C.Jung, E.Fromm, R.Assagioli (2004) - Đỗ Lai Thuý (biên soạn), Phân tâm học và
văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin.
21. Đoàn Lê Giang (2000), “Thần trong tư tưởng nghệ thuật cổ Trung Quốc và Việt Nam”, Tạp
chí văn học (3).
22. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (biên khảo và chú giải), (2000), “Nguyễn Du niên phổ
và tác phẩm”, Nxb Văn hoá thông tin, Sơn La.
23. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nxb VHTT.
24. Mai Thanh Hải (2003), Từ điển tôn giáo, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
25. Vũ Hạnh (1998), “Đọc lại Truyện Kiều”, Nxb Đà Nẵng.
26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1999), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Chơn Hạnh (1970), Nguyễn Du trên con đường trở về của Phật giáo, tạp chí tư tưởng (8).
28. Nguyễn Hữu Hiếu (006), Tìm hiểu văn hoá tâm linh Nam Bộ. Nxb Trẻ, TPHCM.
29. Nguyễn Duy Hinh (2003), Người Việt Nam với Đạo giáo. Nxb KHXH, Hà Nội.
30. Trần phương Hồ (1997), Từ mộ Đạm Tiên tới sông Tiền Đường, Nxb Văn hóa dân tộc.
31. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
32. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb GD.
33. Trần Ngọc Hưởng (2000), Luận đề về Nguyễn Du và truyện Kiều, Nxb Văn nghệ TPHCM.
34. Đoàn Thị Đặng Hương (2000), “Con mắt tâm linh văn hóa phương Đông trong thơ Hàn Mặc
Tử”, Tạp chí văn học (11).
35. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1998), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb GD.
36. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
37. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam,
Nxb chính trị quốc gia.
38. Đinh Gia Khánh (2002), Văn học Việt Nam từ nửa đầu thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII,
Nxb Giáo dục.
39. Đinh Gia Khánh (1990), “Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam”, Tạp chí văn hóa dân
gian (3).
40. Đinh Gia Khánh (1992), “Tục thờ mẫu và những truyền thống văn hoá dân gian ở Việt
Nam”, Tạp chí văn học (3).
41. Vũ Ngọc Khánh (1987), “Văn hóa dân gian và việc tìm hiểu lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Tạp
chí văn học (10).
42. Vũ Ngọc Khánh (2001), “Truyện thần linh ma quái và vấn đề giáo dục con người”, Tạp chí
văn học (10).
43. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (2005), Từ điển Việt Nam văn hoá tín ngưỡng phong tục,
NxbVăn hoá thông tin, Hà Nội.
44. Lê Đình Kỵ (1992), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực, Nxb Hội nhà văn, TP HCM.
45. Lê Thị Lan (2005), “Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng của Nguyễn Du”, tạp chí triết
học (168).
46. Thanh Tâm Langlet (1998), “Tâm linh và thơ ca Việt Nam giai đoạn cổ trung đại”, tạp chí
văn học (9).
47. Nguyễn Hiến Lê (1965), “Thân phận con người trong truyện Kiều”, tạp chí (209).
48. Nguyễn Quang Lê (1992), “Một số suy nghĩ về nguồn gốc và bản chất của lễ hội cổ truyền
dân tộc”, Tạp chí Văn hoá dân gian (1).
49. Nguyễn Quang Lê (1992), “Tìm hiểu mối quan hệ lễ hội cổ truyền với Phật giáo qua tín
ngưỡng dân gian”, tạp chí văn hóa dân gian (4).
50. Đặng Thanh Lê (1979), “Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm”, Nxb KHXH.
51. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân, Lê Thu Yến và nhiều tác giả khác (1996), Nguyễn Du
tòan tập, tập 2, NXB Văn học.
52. Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư, tập 1, 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
53. Hồ Liên (2002), Đôi điều về cái thiêng và văn hoá, Nxb Văn hóa dân tộc.
54. Lê Xuân Lít (sừu tầm, tuyển chọn, giới thiệu), (2005), Hai trăm năm nghiên cứu – bàn luận
Truyện Kiều, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
55. Nguyễn Hồi Loan (2006), “Niềm tin trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt”, tạp
chí tâm lí học (4).
56. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII-nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Giáo
dục.
57. Đặng Văn Lung, Nguyễn Sông Thao, Đặng Văn Trụ tuyển chọn (1997), Phong tục tập quán
các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
58. Theo dore.M.Ludwig (2000), Những con đường tâm linh phương Đông, Nxb VHTT.
59. Lê Minh (chủ biên) (1994), Văn hoá gia đình Việt Nam và sự phát triển xã hội, Nxb Lao
động, Hà Nội.
60. Nguyễn Đăng Na (2000), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
61. Nguyễn Đăng Na (1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại – những bước đi lịch sử,
Nxb
62. Sơn Nam (2001), “Nói thêm về tâm linh trong liên hệ với văn hoá Việt Nam”, Văn hoá Việt
nam- Đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục.
63. Bùi Mạnh Nhị chủ biên, (2001), Văn học dân gian – những tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo
dục.
64. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
65. Phan Ngọc (2007), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Thanh Niên.
66. Mai Ngữ (1994), “Thử bàn về thế giới tâm linh”, Báo văn nghệ (37).
67. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới.
68. Nhiều tác giả (1999), Lịch sử văn hoá Trung Quốc, tập 1, Nxb VHTT, Hà Nội.
69. Nhiều tác giả (1996), Trái tim Kiều, Nxb Trẻ.
70. Nhiều tác giả, Bách Khoa tri thức phổ thông, Nxb Văn hóa thông tin.
71. Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb KH XH
72. Hoàng Phê chủ biên (2003), Từ điển Tiếng Việt 2000, Nxb Đà Nẵng, Trung Tâm Từ điển
học.
73. Hoàng Thị Minh Phương (2007), Văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại, luận văn thạc sĩ,
ĐHSP. TP HCM.
74. Diêu Vi Quân (chủ biên), (1996), Bí ẩn của chiêm mộng, Nxb VHTT, H.
75. Phạm Đan Quế (2000), Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện, Nxb Văn hóa.
76. Vũ Quỳnh, Kiều Phú (2001), Lĩnh Nam chích quái, Nxb văn học, Hà Nội.
77. Vũ Tiến Quỳnh (1995), “Nguyễn Du- Phê bình, bình luận văn học”, Nxb Văn nghệ
TPHCM,.
78. Nguyễn Quốc Quýnh (2004), Thử tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du qua Truyện Kiều, Nxb
KHXH, H.
79. Nguyễn Minh San (1994), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà
Nội.
80. Phạm Côn Sơn ( 2002), Văn hoá phong tục Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc.
81. Nguyễn Hữu Sơn, Phan Trọng Thưởng (tuyển chọn, giới thiệu), (2004), Nghiên cứu văn sử
địa (1954 – 1959) những vấn đề lịch sử ngữ văn, Quyển I, Những vấn đề văn học Trung đại,
Nxb KHXH.
82. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb GD.
83. Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo Dục.
84. Đặng Đức Siêu (2002), Hành trình văn hoá Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
85. Hồ Anh Thái (2003), Cõi người rung chuông tận thế - Tác phẩm và dư luận, Nxb. Đà Nẵng.
86. Tô Ngọc Thanh (1992), “Vai trò của niềm tin trong đời sống văn hoá dân gian cổ truyền”,
Tạp chí văn học (3).
87. Hồ Bá Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian - Một lĩnh vực trong đời sống tâm linh cần sự
quan tâm của toàn xã hội”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (4).
88. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Tổng hợp TPHCM.
89. Trần Ngọc Thêm ( 2001), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb GD, TPHCM.
90. Trần Nho Thìn (2002), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, Nxb GD.
91. Trương Thìn (2005), Tôn trọng tự do tín ngưỡng-Bài trừ mê tín dị đoạn, NxbVăn hoá thông
tin, Hà Nội.
92. Hoàng Bá Thịnh, Vài nét về đời sống văn hóa - tâm linh của cư dân Vạn Đò, tạp chí dân tộc
học, số 3, 2007.
93. Ngô Đức Thịnh (1992), “Tục thờ mẫu Liễu Hạnh- một sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá cộng
đồng”, Tạp chí văn học (3).
94. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
Hội, Hà Nội.
95. Nguyễn Trí Tích (2001), Viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều, NXb Thanh Niên.
96. Nguyễn Tài Thư (1999), “Tam giáo đồng nguyên- Hiện tượng tư tưởng chung của các nước
Đông Nam Á”, Tạp chí Hán nôm (3).
97. Pháp Vương Tử, Luật Nhân quả và cuộc cách mạng tâm linh, tạp chí Nghiên cứu Phật học,
98. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương thẩm mĩ và văn hóa, Nxb Giáo Dục.
99. E.B.Tylor (2000), Văn hóa nguyên thuỷ, Tạp chí văn hoá nghệ thuật, H.
100. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, Nxb
GD.
101. GS Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB khoa học xã hội, Hà
Nội.
102. Lê Trí Viễn (2001), “Từ Văn học Việt Nam thử nghĩ về văn hoá Việt Nam”, Văn hoá Việt
Nam- Đặc trưng và cách tiếp cận, Nxb Giáo dục.
103. Christine White (1992), Hữu Ngọc (dịch), “Cô hồn Mỹ ở đất Việt và Văn chiêu hồn của
Nguyễn Du”, tạp chí quan hệ quốc tế (29).
104. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm Nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên.
105. Lê Thu Yến (chủ biên), (2000), Văn học Việt Nam – Văn học trung đại, những công trình
nghiên cứu”, Nxb Giáo Dục.
106. Lê Thu Yến (2001), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau (Từ 1930
đến nay), Nxb Giáo Dục.
107. Lê Thu yến (2002), Nhà văn trong nhà trường – Nguyễn Du, Nxb Giáo Dục.
108. Lê Thu Yến (2005), “Thế giới tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du - một biểu hiện của
truyền thống văn hoá Việt”, Tạp chí văn học (7).
PHỤ LỤC
I/ Những câu thơ có nói đến “trời” :
1. “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” (6)
2. “Thông minh vốn sẵn tư trời” (29)
3. “Văn chương nết đất, thông minh nết trời” (150)
4. “Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây” (282)
5. “Khuôn thiêng dù phụ tấc thành” (343)
6. “Vuông xanh biết có vuông tròn mà hay?” (412)
7. “ Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” (420)
8. “Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!” (494)
9. “Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời” (546)
10. “Oan này còn một kêu trời, nhưng xa” (596)
11. “Trời làm chi cực bấy trời” (659)
12. “Trời Liêu non nước bao xa” (703)
13. “Cơ trời dâu bể đa đoan” (715)
14. “Trời hôm mây kéo tối rầm” (783)
15. “Rủi may âu cũng sự trời” (817)
16. “Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham” (832)
17. “Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên”(892)
18. “Từ đây gốc bể bên trời” (899)
19. “Gốc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm” (910)
20. “ Một trời thu để riêng ai một người” (914)
21. “Nàng rằng: Trời thẳm đất dày” (979)
22. “Người dù muốn quyết , trời nào đã cho!” (998)
23. “Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi” (1030)
24. “Bên trời gốc bể bơ vơ” (1041)
25. “Than ôi sắc nước hương trời” 1065)
26. “Tức gan riêng giận trời già” (1069)
27. “Trời tây lãng đãng bóng vàng”(1085)
28. “Mà xem con tạo xoay vần đến đâu” (1116)
29. “Hóa nhi thật có nỡ lòng” (1129)
30. “Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu đến trời” (1132)
31. “Nàng rằng: Trời nhé có hay!” (1179)
32. “ Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?” (1346)
33. “ Khuôn duyên có biết vuông tròn cho chăng?” (1634)
34. “ Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời” (1638)
35. “Bây giờ đất thấp trời cao” (1817)
36. “ Bây giờ một vực một trời” (1877)
37. “tâng tâng trời mới bình minh” (1917)
38. “Trời đông vừa rạng ngàn dâu” (2033)
39. “Bóng hoa rợp đất, vẻ ngân ngang trời” (2062)
40. “Không dưng chưa dễ mà bay đường trời” (2100)
41. “Chứng minh có đất có trời” (2115)
42. “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!” (2154)
43. “ Hồng quân với khách hồng quần” (2157)
44. “ Biết thân chạy chẳng khỏi trời” (2163)
45. “ Đội trời đạp đất ở đời” (2171)
46. “ Trông vời trời bể mênh mang” (2215)
47. “Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm” (2248)
48. “Ngất trời sát khí mơ màng” (2251)
49. “Đạo trời báo phục chỉn ghê” (2309)
50. “ Cho hay muôn sự tại trời” (2391)
51. “Dễ đem gan óc đền nghì trời mây” (2426)
52. “ Triều đình riêng một góc trời” (2241)
53. “ Chọc trời quấy nước mặc dầu” (2471)
54. “ Ầm ầm sát khí, ngất trời ai đang” (2524)
55. “Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ” (2528)
56. “ Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi” (2550)
57. “Năm năm trời bể ngang tàng” (2555)
58. “ Chân trời mặt bể lênh đênh” ( 2603)
59. “ Trời cao sông rộng một màu bao la” (2628)
60. “Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!” (2634)
61. “Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!” (2648)
62. “Sư rằng: Họa phúc đạo trời” (2655)
63. “Có trời mà cũng tại ta” (2657)
64. “Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!” (2684)
65. “Khi nên trời cũng chiều người” (2689)
66. “Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!” (2694)
67. “Tấm thành đã thấu đến trời” (2715)
68. “Điều đâu sét đánh lưng trời” (2763)
69. “Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?” (2830)
70. “Cửa trời rộng mở đường mây” (2861)
71. “Hơn đời trí dũng, nghiêng trời uy linh” (2904)
72. “Nghĩ điều trời thẳm vực sâu” (2943)
73. “ Trùng sinh ân nặng bể trời” (3049)
74. “ Khuôn thiêng lừa lọc đã đành có nơi” (3072)
75. “Dưới dày có đất, trên cao có trời” (2086)
76. “ Trời còn để có hôm nay” (3121)
77. “ Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời” (3122)
78. “ Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau” (3166)
79. “ Gà đà gáy sáng. Trời vừa rạng đông” (3216)
80. “ Ngẫm hay muôn sự tại trời” (2341)
81. “Trời kia đã bắt làm người có thân” (2342)
82. “Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa” (2350)
II/ Những câu thơ nói về giấc chiêm bao (giấc mộng):
1. Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao (214)
2. Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao (230)
3. Cứ trong mộng triệu mà suy (233)
4. Dạy rằng: mộng huyễn cứ đâu (235)
5. Bụi hồng liều nẻo đi về chiêm bao (250)
6. Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê (436)
7. Tiếng sen đã động giấc hòe (437)
8. Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng (440)
9. Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao (444)
10. Trong mê dường đã thấy bên một nàng (994)
11. Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan (1003)
12. Vả trong thần mộng mấy lời (1017)
13. Giấc hương quan luống những mơ canh dài (1266)
14. Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì (1646)
15. Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì (2646)
16. Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê (2835)
17. Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao (2836)
18. Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai (1714)
19. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai (1715)
20. Nhớ lời thần mộng rõ ràng (2621)
21. nàng còn thiêm thiếp giấc vàng (2710)
22. Mơ màng phách quế hồn mai (2711)
23. Tỉnh ra lại khóc, khóc rôi lại mê (2798)
24. Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng (2878)
25. Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao (3014)
III/ Những câu thơ thề, nguyền, nguyện:
1. “Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông” (396)
2. “Tiên thề cùng thảo một chương” (447)
3. “Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” (449- 452)
4. “Mái tây để lạnh hương nguyền” (517)
5. “Trăng thề còn đó trơ trơ” (541)
6. “Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
“Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai” (555-556)
7. “Để lời thệ hải minh sơn” (603)
8. “Thề hoa chưa ráo chén vàng.
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa” (701- 702)
9. “Biết bao duyên nợ thề bồi” (705)
10. “Tái sinh chưa dứt hương thề” (707)
11. “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề” (728)
12. “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” (740)
13. “Hồn còn mang nặng lời thề” (745)
14. “Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm” (936)
15. “Nàng rằng: “Thề thốt nặng lời” (1167)
16. “Nhớ lời nguyện ước ba sinh” (1259)
17. “Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời” (1368)
18. “Tóc thề đã chấm ngang vai”
“Nào lời non nước nào lời sắt son” (1631- 1632)
19. “Quá lời nguyện hết thành hoàng thổ công” (2132)
20. “Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng” (2212)
21. “Ấy ai hẹn ngọc thề vàng” (2879)
22. “Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều” (3168)
23. “Ba sinh đã phỉ mười nguyền” (3225)
IV/ Các lễ hội được nói đến:
1. Lễ tảo mộ
2. Hội đạp thanh
3. Trò chơi đố lá
4. Rằm tháng bảy, lễ Vu lan
5. Cúng cô hồn
6. Hàn thực, ngày Nguyên tiêu:
“ Đêm đêm Hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu” (942)
V/ Hình ảnh mồ mả, tha ma:
1. “Ngổn ngang gò đống kéo lên,” (49)
2. “Sè sè nấm đất bên đàng” (57)
3. “Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa” (78)
4. “Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm” (80)
5. “Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra” (96)
6. “Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên” (229)
7. Ở đây âm khí nặng nề (113)
8. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang (VCH)
9. Hoặc nơi gò đống hoặc vùng tre lau (VCH)
10.Truyền cho cảo táng di hình bên sông (2654)
VI/ Thế giới cõi âm, hồn ma :
1. Họa là người dưới suối vàng biết cho (94)
1. Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây (734)
2. Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan (710)
3. Dạ đài cách mặt khuất lời (747)
4. Trên tam đảo, dưới cửu tuyền (1685)
5. Hay đâu điạ ngục ở miền nhân gian (1706)
6. Dạ đài con biết sẽ đền lai sinh (2788)
7. Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên (3000)
8. Cõi dương còn thế nữa là cõi âm (VCH)
9. Hồn ma Đạm Tiên ( Truyện Kiều)
10. Chiêu hồn thiết vị lễ thường (2967)
11. Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào (2972)
12. Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên (3202)
13. Chiêu hồn thập loại chúng sinh ( Nhan đề VCH)
14. Hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người
15. Hồn mồ côi lần lữa đêm đen
16. Ma oan hồn biết bao giờ cho tan
17. Hồn ngẩn ngơ bãi cói ngàn sim
18. Trăm loài ma xắm nắm chung quanh
19. Cô hồn thất thểu dọc ngang
20. Cô hồn nhờ gửi tha phương
21. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao.
22. Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
VII/ Nói về cái chết:
1. Khéo thay thác xuống làm ma không chồng (88)
2. Thác là thể phách, còn là tinh anh (116)
3. Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề (532)
4. Rảy xin chén nước cho người thác oan (748)
5. Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người (890)
6. Đến điều sống đục sao bằng thác trong (1026)
7. Bây giờ sống thác ở tay (1143)
8. Con người thế ấy, thác oan thế này (1678)
9. Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho (1694)
10. Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ (1976)
11. Thà liều sống thác một ngày với nhau (2532)
12. Trong mình nghĩ đã có người thác oan (2584)
13. Thôi thì một thác cho rồi (2633)
14. Làm cho sống đọa thác đày (2675)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5184.pdf