Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay

Mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của toàn Đảng, toàn dân ta bao gồm nhiều nội dung, trong đó có các nội dung chủ yếu nhất: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Các nội dung đó hoà trong một tổng thể không tách rời, không thiếu mặt nào. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền tảng vật chất cho phát triển. Nhà nước pháp quyền xã

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội chủ nghĩa bảo đảm vận hành kinh tế - xã hội theo pháp luật. Đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá được xây dựng và vận hành bởi văn hoá pháp lý. Văn hoá pháp lý trong xã hội thực sự là công cụ, đồng thời là phương thức điều hành xã hội; nó vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn xã hội và khoa học hiện đại, cho thấy văn hóa là một yếu tố nội sinh của xã hội, nó không chỉ là mục tiêu và kết quả mà còn là chìa khóa và động lực của sự phát triển. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. ở nước ta, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, trong văn kiện các kỳ Đại hội và các Hội nghị Trung ương của Đảng, đã hết sức quan tâm đến vai trò và vị trí của văn hóa. Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” [7, tr.110]. Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta đã thu được nhiều kết quả to lớn trong đó có sự phát triển văn hóa. Tuy nhiên, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường cũng tác động đến môi trường văn hóa, đến một số cán bộ lãnh đạo làm nảy sinh nhiều điều đáng lo ngại, như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật đã chỉ ra: "Tình hình tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng" [9, tr.176]. Sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân rất cần một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đức, có tài. Đó là những người đảm nhiệm những trọng trách ở mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến cơ sở, đại diện cho Đảng, Nhà nước và sự ủy quyền của nhân dân để xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách, pháp luật; là nhân tố có tính chất quyết định đối với công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Cán bộ lãnh đạo là người đại diện cho lợi ích của quần chúng nhân dân, lãnh đạo quần chúng nhân dân, nên phải có uy tín trước dân. Uy tín của cán bộ lãnh đạo được tạo ra từ nhiều yếu tố, trong đó có văn hóa pháp lý. Tuy nhiên, trình độ văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là của đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay còn nhiều bất cập. Điều này được thể hiện thông qua nhiều hạn chế về chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là thông qua năng lực vận dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Những hạn chế đó không những không phát huy được sức mạnh và quyền lực của người lãnh đạo, mà có nơi còn gây nên những hậu quả, tác hại to lớn về người và của, làm suy giảm uy tín của người cán bộ lãnh đạo trong nhân dân. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc tích lũy kiến thức pháp luật dưới dạng kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo là cần thiết, nhưng cũng phải thấy rằng, đã đến lúc cần đào tạo một cách cơ bản, chính quy về kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Nhu cầu công tác đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo phải có trình độ văn hóa pháp lý tương ứng với cương vị mà họ đảm nhiệm. Việc xây dựng và phát triển văn hóa pháp lý nhằm làm cho cán bộ, đảng viên và công chức có nhận thức sâu sắc về vai trò và những giá trị xã hội của pháp luật và biết vận dụng, thực hành văn hóa pháp lý trong thực tiễn công tác. Đó là, pháp luật được xây dựng trên các giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, trung thực, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, sự khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý ... sẽ làm cho xã hội phát triển lành mạnh, pháp luật được tôn trọng; thức tỉnh ở mỗi con người về danh dự để chống lại mọi cám dỗ của lợi ích vật chất không chính đáng, giúp họ từ bỏ những động cơ xấu; không làm những điều trái với đạo đức và pháp luật. Với tất cả những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: "Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu Việc tìm hiểu, làm rõ bản chất, nội dung, đặc điểm của văn hóa pháp lý chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở của văn hóa nói chung. Nghiên cứu văn hóa trên thế giới đã từ lâu trở thành một ngành khoa học rộng lớn, trong đó được phân thành những lĩnh vực chuyên biệt. Đó là các công trình nghiên cứu của E.B. Tylor – Văn hóa nguyên thủy; G,Spencer – Chức năng thiết chế văn hóa; F.Ratxen – Vùng văn hóa; L. Phrobiniux – vùng văn hóa. Các xu hướng trong nghiên cứu văn hóa dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, sinh học xã hội, phát triển văn hóa; chức năng luận trong văn hóa; các lý thuyết cấu trúc văn hóa v,v… Có thể nói văn hóa học đã đi sâu nghiên cứu hầu hết các khía cạnh đời sống xã hội - con người. Đó là cơ sở lý luận quý báu để đề tài này tiếp cận với văn hóa pháp lý. ở Việt Nam, từ những năm giữa thế kỷ XX cho đến nay mấy thập niên gần đây đã xuất hiện rất nhiều công trình nghiên cứu văn hóa. Trong đó phải kể đến các tác giả như: Nguyễn Văn Huyên: Góp phần tìm hiểu văn hóa Việt Nam; Nguyễn Khánh Toàn: Đề cương lịch sử văn hóa Việt Nam; Trần Văn Giầu: Giá trị truyền thống Việt Nam; Vũ Khiêu: Bàn về văn hiến Việt Nam; Hồng Phong - Phạm Xuân Nam: Văn hóa và phát triển; Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam; Phạm Văn Đồng: Văn hóa và đổi mới; Đỗ Huy, Nguyễn Văn Huyên, Trường Lưu: Xây dựng văn hóa mới Việt Nam; Trần Văn Bính, Thành Duy, Huỳnh Khái Vĩnh: Văn hóa lối sống; Nguyễn Văn Huyên: Văn hóa - mục tiêu và động lực phát triển xã hội v,v… Cho đến nay, ở nước ta cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu văn hóa về một số lĩnh vực văn hóa chuyên ngành, thí dụ như văn hóa đạo đức, văn hóa lối sống, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa công sở, văn hóa môi trường, văn hóa kinh doanh... Đó là các công trình “Văn hóa và đạo đức” do tác giả, Trường Lưu chủ biên”; “Văn hóa lối sống và xây dựng đời sống văn hóa ở Việt Nam” do tác giả Khái Vĩnh chủ biên; “Văn hóa thẩm mỹ và phát triển con người trong thế kỷ XXI” do tác giả Nguyễn Văn Huyên chủ biên: “Mấy vấn đề của văn hóa môi trường” của tác giả Đỗ Huy; “Văn hóa kinh doanh” do tác giả Đỗ Minh Cương chủ biên… Từ năm 1995, Viện Chính trị học đã thực hiện đề tài “Văn hóa chính trị và nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh đạo”, xuất bản sách năm 1995 do tác giả Phạm Ngọc Quang chủ biên. Vào năm 2005 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh kết hợp với Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương tổ chức hội thảo về “Văn hóa Đảng”, đã có một số bài đăng trên một số tạp chí Trung ương và tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa liên quan chặt chẽ tới trình độ và năng lực lãnh đạo của cán bộ như văn hóa chính trị, văn hóa đảng, ở nước ta chưa được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt văn hóa pháp lý đối với chúng ta còn quá mới mẻ. Mấy năm gần đây bắt đầu xuất hiện một vài bài viết trên tạp chí chuyên ngành. Tác phẩm "Văn hóa pháp lý Việt Nam" của Luật sư Lê Đức Tiết là một trong số ít công trình đánh dấu sự khởi đầu lý luận và thực tiễn về văn hóa pháp lý (2005). Ngoài ra có một số bài viết đăng trên các tạp chí, như: Một số ý kiến về xây dựng văn hóa pháp lý ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9 (1999); Hoạt động tư vấn pháp luật và vấn đề nâng cao văn hóa pháp lý, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1 (1999) của Luật sư Trần Quang Mỹ; Văn hóa pháp lý - dòng riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10 (2004) của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế và luận văn thạc sĩ Luật học của Phan Bạt Tố: Văn hóa pháp lý và xây dựng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện nay. Vai trò quan trọng của văn hóa pháp lý và tính bức xúc của việc nâng cao văn hóa pháp lý cho cán bộ, viên chức nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng còn là một lĩnh vực khoa học bị bỏ trống, cần được nhanh chóng bổ khuyết. Bản luận văn này hy vọng góp một phần nhỏ vào việc khắc phục hạn chế đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của văn hóa pháp lý; trên cơ sở thực trạng văn hóa pháp lý ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất giải pháp nhằm nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay. * Nhiệm vụ: - Xác định khái niệm, phân tích kết cấu, chức năng và vai trò của văn hóa pháp lý, từ đó làm rõ sự cần thiết và yêu cầu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam. - Phân tích, làm rõ thực trạng văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay. - Đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở địa phương tỉnh và cán bộ lãnh đạo các cấp trên địa bàn tỉnh (không tính các thành phố trực thuộc Trung ương). - Trọng tâm của luận văn là nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực vận dụng văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay. - Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nhất là những năm gần đây. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; các kiến thức về chính trị học, luật học, giáo dục học, đạo đức học, tâm lý quản lý lãnh đạo... - Về phương pháp, luận văn sử dụng các phương pháp như lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so sánh đối chiếu, điều tra xã hội học, khái quát hóa v,v... - Luận văn sử dụng các văn kiện, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước có liên quan đến văn hóa pháp lý, công tác cán bộ; các tài liệu, công trình khoa học có liên quan của những người đi trước. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Góp phần làm chính xác hóa và sâu sắc thêm khái niệm văn hóa pháp lý. - Nêu nên được những yêu cầu về văn hóa pháp lý đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo và thực trạng văn hóa pháp lý của họ ở nước ta hiện nay. - Luận văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở địa phương. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy ở các trường chính trị tỉnh về lĩnh vực văn hóa pháp lý; là tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách nâng cao văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Văn hóa pháp lý và yêu cầu về văn hóa pháp lý đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay 1.1. Một số vấn đề về văn hóa pháp lý 1.1.1. Khái niệm văn hóa pháp lý Vốn là hiện tượng xã hội hết sức đa dạng, đa cấp độ, văn hóa từng được nhìn nhận theo nhiều cách thức khác nhau. ở trình độ lí luận và yêu cầu của xã hội hiện nay, văn hóa được coi là tất cả những gì liên quan đến con người, ít nhiều thể hiện được sức mạnh bản chất của con người. Theo đó, có thể hiểu: Văn hóa là những phương thức và kết quả hoạt động của con người đạt được trong lịch sử, bao gồm giá trị vật chất, giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra. Với nghĩa hẹp, văn hóa phản ánh hệ thống các giá trị và quy tắc ứng xử được xã hội chấp nhận, hàm chứa những quan điểm về mục đích và lí tưởng xã hội. Văn hóa hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Nói đến văn hóa là nói đến con người, văn hóa là thuộc tính biểu hiện bản chất xã hội của con người. Nguyên nghĩa tiếng Latinh, khái niệm “culture” - văn hóa có nghĩa là sự trồng trọt, vun xới. Từ nghĩa gốc của nó, ta có thể hiểu, văn hóa là quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục từ những cá thể sinh học trở thành những con người. Văn hóa là môi trường thứ hai để con người trở thành chính bản thân mình. Với cách hiểu trên đây, văn hóa có mặt trong tất cả các sản phẩm do con người tạo ra, từ công cụ sản xuất đến các vật dụng sinh hoạt, từ tri thức khoa học đến các tác phẩm nghệ thuật. Văn hóa cũng đồng thời là phương thức tạo ra các sản phẩm đó. Không chỉ có thế, văn hóa còn hiện diện và thấm sâu vào các quan hệ giữa con người với con người dù đó là quan hệ kinh tế hay quan hệ tôn giáo, quan hệ pháp luật hay quan hệ giao tiếp thông thường. Văn hóa còn là bản thân các năng lực cấu thành nhân cách con người, là tri thức, tình cảm, ý chí và mọi năng lực lao động sáng tạo... Văn hóa tồn tại trong hai tư cách, tư cách thực thể và tư cách thăng hoa. Tư cách thực thể của văn hóa là dạng hoạt động văn hóa đặc thù mà về thực chất là hoạt động tinh thần. Khác với hoạt động kinh tế, hoạt động chính trị-xã hội, hoạt động văn hóa trong tư cách thực thể lấy sự thể hiện, thực hiện cũng như sự đối tượng hóa các sức mạnh bản chất của con người làm mục đích tự thân. Các sản phẩm, kết quả của hoạt động văn hóa (tức là các giá trị văn hóa) không đáp ứng nhu cầu thực tiễn vật chất, mà thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, tức là các nhu cầu về nhận thức, về đạo đức và thẩm mỹẳTrong trường hợp này, văn hóa hiện diện trong khoa học, giáo dục, nghệ thuật. Với tư cách thăng hoa, văn hóa bộc lộ hoặc thăng hoa trên tất cả các hoạt động và kết quả hoạt động của con người, là sự thể hiện và thực hiện những sức mạnh bản chất của con người. Trong trường hợp này, văn hóa hiện diện trước hết là kiểu trình độ, kết quả của các hoạt động kinh tế, chính trị (trong đó có pháp luật), xã hộiẳ trước hết, mang ý nghĩa chức năng hữu dụng, thỏa mãn các nhu cầu thực tiễn vật chất, thực tiễn hoạt động chính trị - xã hội của con người. Trong các hoạt động đó, giá trị văn hóa không phải là mục đích trực tiếp, chính yếu. Các sản phẩm và kết quả của các hoạt động vật chất, hoạt động chính trị - xã hội ẳchỉ là giá trị văn hóa trong chừng mực chúng thể hiện hoặc biểu trưng cho các năng lực nhận thức, sáng tạo, cho tình cảm, thị hiếuẳ của con người. Nói cách khác, trong tư cách thăng hoa, văn hóa tồn tại như là phương diện hoặc nhân tố văn hóa cấu thành các lĩnh vực hoạt động xã hội. Sự phân chia văn hóa thành tư cách thực thể và tư cách thăng hoa chỉ mang tính chất tương đối. Vì rằng, trong bất kỳ tư cách nào, con người (với tổng thể năng lực nhân cách của họ) cũng là chủ thể của sáng tạo văn hóa và mọi thành tựu văn hóa đều phục vụ sự phát triển nhân cách của con người. Bởi vậy, chức năng chủ yếu của văn hóa là điều tiết sự phát triển của con người, nó lấy phát triển, tiến bộ làm mục đích tối hậu. Đó cũng là lý do tại sao văn hóa ngày càng thâm nhập, ngày càng thăng hoa, ngày càng có vai trò to lớn trong mọi quá trình phát triển, mọi hoạt động vì tiến bộ của con người. Trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, văn hóa tồn tại với tư cách là sự thăng hoa trong một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị đặc thù. Mức độ thăng hoa là khả năng đối tượng hóa những năng lực nhân tính trong hoạt động pháp luật, nó quy định hiệu quả và phát huy hết vai trò của pháp luật trong xã hội. Ngược lại, hiệu quả của pháp luật trong xã hội là một chỉ số, một thước đo trình độ phát triển của một nền văn hóa. Yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật, là sự thống nhất hữu cơ giữa quá trình hoạt động sống của con người trong quan hệ pháp lý và hiệu quả đối tượng hóa năng lực của con người trong lĩnh vực đó. Do đó, phát triển yếu tố văn hóa trong lĩnh vực pháp luật không những bảo đảm nâng cao hiệu quả của pháp luật mà còn bảo đảm cho sự phát triển nhân cách của con người. Nó biến hoạt động pháp luật với tư cách là một lĩnh vực hoạt động xã hội - chính trị thành một lĩnh vực hoạt động sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Như mọi lĩnh vực hoạt động xã hội khác, lĩnh vực pháp luật ở nước ta hiện nay, hơn lúc nào hết đòi hỏi phải tính đến vai trò và vị trí của nhân tố văn hóa. Nói khác đi, trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, vai trò của pháp luật đòi hỏi phải thể hiện được tối đa sức mạnh văn hóa. Hoạt động của bộ máy pháp luật với tính cách là một bộ phận, một mắt khâu của hoạt động xã hội- chính trị, cố nhiên không lấy văn hóa làm mục đích trực tiếp. Nhưng khi là địa bàn, là phương thức để con người thể hiện và thực hiện những năng lực nhân tính, đồng thời đối tượng hóa những năng lực ấy thì trong hoạt động pháp luật cũng hiện diện như một tư cách đặc thù của văn hóa. Trước hết, văn hóa trong lĩnh vực pháp luật được thể hiện như một phương thức quản lý để hoàn thiện một xã hội ngày càng vì con người, ngày càng đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho con người. Đồng thời, nó cũng thể hiện như kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong việc xây dựng các bộ luật, các đạo luật và trong các lĩnh vực hoạt động pháp luật khác hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ. Tính chất nhân đạo, tiến bộ và tính hướng thiện của các đạo luật không chỉ phản ánh tính chất tiến bộ của giai cấp thống trị mà còn phản ánh xu hướng phát triển của các quan hệ xã hội ngày càng hoàn thiện những giá trị nhân bản hơn. Trong bài: "Văn hóa pháp lý- dòng riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam” tác giả Hoàng Thị Kim Quế cho rằng: Văn hóa pháp lý là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động của pháp luật được thể hiện trong ý thức và hành vi của con người. Văn hóa pháp lý là quá trình và kết quả hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực pháp luật, thể hiện trong việc xây dựng, khẳng định và giữ gìn những giá trị pháp lý… [32, tr. ]. Trong quan niệm của mình, tác giả Hoàng Thị Kim Quế đã nhìn nhận, văn hóa pháp lý vừa là kết quả vừa là phương thức hoạt động sáng tạo của con người trong lĩnh vực pháp luật, biểu hiện trong ý thức, hành vi của con người và trong những giá trị pháp lý đã được xây dựng. Gần với quan điểm trên, tác giả Lê Minh Tâm cũng cho rằng, văn hóa pháp lý là: Tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm văn hóa pháp luật, những kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật [35, tr.18]. Theo chúng tôi, nói tới văn hóa pháp lý cần phải nhấn mạnh tới những mặt tiến bộ của một nền pháp luật, nghĩa là một nền pháp luật có những đóng góp tích cực vào sự phát triển, tiến bộ xã hội và sự hoàn thiện nhân cách của con người. Nếu xét từ giác độ cá nhân, người có trình độ văn hóa pháp lý là người có đầy đủ ba yếu tố, tồn tại trong thể thống nhất là tri thức, tình cảm và hành vi tích cực pháp luật. Nếu ai đó, có tri thức pháp luật nhưng lại không có tình cảm đúng đắn với pháp luật, và do đó, không có hành vi tích cực đối với pháp luật thì người đó không thể gọi là người có văn hóa pháp lý theo nghĩa đầy đủ của nó. Với tất cả những điều trình bày trên đây, có thể nói: Văn hóa pháp lý là những giá trị nhân đạo, tiến bộ, tích cực của hệ thống pháp luật trong xã hội được thể hiện trong các bộ luật, đạo luật và thiết chế xã hội nhằm bảo đảm cho xã hội vận hành đúng yêu cầu của nó. Đồng thời, các giá trị đó còn được thẩm thấu vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến thành nhu cầu thường trực trong hoạt động pháp lý, trong đời sống xã hội, trong ứng xử của họ. Rõ ràng, văn hóa pháp lý là toàn bộ các giá trị tinh thần và giá trị vật chất được hình thành nên trong lĩnh vực hoạt động chính trị- pháp lý, nó vừa là phương thức vừa là kết quả hoạt động sáng tạo của con người; chi phối hành vi của các cá nhân, chi phối hoạt động của các tổ chức xã hội và của các cơ quan nhà nước. Chính vì thế để hành động được một cách đúng đắn, đầy đủ về văn hóa pháp lý, chúng ta phải có quan điểm toàn diện khái quát toàn bộ các giá trị tư tưởng của hệ thống pháp luật đã được thiết lập và sự thể hiện tư tưởng đó trong hoạt động pháp luật. Xét về mặt kết cấu, văn hóa pháp lý là thể thống nhất của tư tưởng, tri thức pháp luật, phương thức tổ chức thực hiện pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi xử sự tích cực của người công dân đối với pháp luật. Trước hết cần phải làm rõ văn hóa pháp lý từ mặt kết cấu. Để hiểu rõ hơn nội hàm của khái niệm văn hóa pháp lý. 1.1.2. Kết cấu của văn hóa pháp lý 1.1.2.1. ý thức, hệ tư tưởng và tâm lý pháp luật Văn hóa là những giá trị xã hội được thể hiện qua ba yếu tố cốt lõi là ý thức (các giá trị tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ); hiện thực hóa ý thức (các giá trị vật chất do con người lao động sáng tạo ra), và yếu tố hành vi, lối sống (năng lực, cách thức sử dụng các giá trị đã sáng tạo ra để đáp ứng các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của con người). Các yếu tố này được giữ gìn, phát huy và lưu truyền qua nhiều thế hệ, hình thành bản sắc riêng của mỗi dân tộc trong từng lĩnh vực hoạt động xã hội. Theo đó chúng ta xác định, văn hóa pháp lý được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế xã hội bảo đảm pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật. ý thức pháp luật là sự thống nhất của tư tưởng và tâm lý pháp luật. Đó là tổng hòa các quan điểm tư tưởng, các trạng thái tâm lý thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người cũng như trong tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội. Nó hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của các kiểu, hình thức pháp luật trong lịch sử nhân loại. ý thức pháp luật phản ánh điều kiện tồn tại xã hội. Xã hội nào thì ý thức pháp luật đó, ý thức pháp luật thể hiện sâu sắc tính giai cấp. Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có tính chất lý luận, khoa học về pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng khái niệm, phạm trù. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề có tính chất bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật phổ biến, các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội. ý thức pháp luật nói chung, tâm lý pháp luật nói riêng có quan hệ mật thiết với pháp luật. Điều đó không có nghĩa là khi ban hành pháp luật mọi người đều có ý thức và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Thái độ đúng đắn đối với pháp luật chỉ có thể hình thành, xây dựng trên cơ sở ý thức pháp luật đã được định hướng phù hợp với nội dung của pháp luật. Trong đời sống pháp luật, trước hết phải nói đến nhu cầu điều chỉnh hành vi xử sự của con người nhằm tạo lập một xã hội ổn định. Hành vi của con người không diễn ra một lần mà thường lặp đi, lặp lại nhiều lần. Từ đó, nảy sinh nhu cầu điều chỉnh các hành vi xử sự của con người. Nhu cầu sử dụng các quy tắc để điều chỉnh hành vi con người trong đời sống cộng đồng vốn tồn tại khách quan, nhưng các cá nhân khác nhau lại nhìn nhận và nảy sinh tâm lý về nhu cầu đó khác nhau. Do đó, tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm xúc đối với đời sống pháp lý. Tâm lý pháp luật là những yếu tố có tính chất tự phát nhưng nó chịu sự chi phối của tư tưởng pháp luật. Không hình thành tâm lý pháp luật thì cũng không có ý thức pháp luật, không có ý thức pháp luật thì không thể có hành vi tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh. Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng, cảm xúc của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật cũng như các hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã hội. Nói cách khác, ở cấp độ này, ý thức pháp luật mới chỉ thể hiện sự thừa nhận, tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu điều hay lẽ phải, việc nên làm, điều cần tránh,ẳ theo tình cảm hướng thiện. Ngoài hai bộ phận nói trên, sự kết hợp hài hòa giữa tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật trong ý thức pháp luật thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội. Với tư cách là yếu tố cơ bản và quan trọng của văn hóa pháp lý, ý thức pháp luật tích cực và tiến bộ là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội và bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Củng cố và nâng cao ý thức pháp luật trong đời sống xã hội cần định hướng và bảo đảm tính tiên tiến và bản sắc dân tộc, là hai tính chất đặc trưng cơ bản của nền văn hóa pháp lý mà chúng ta xây dựng. Tính tiên tiến và bản sắc dân tộc của ý thức pháp luật Việt Nam được quy định bởi những tư tưởng, quan niệm, học thuyết pháp lý tiến bộ, nhân đạo của nhân loại và của lý tưởng XHCN kết hợp với những tình cảm pháp lý truyền thống của dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay. Đó là sự coi trọng và giữ gìn lối sống có kỷ cương, chuẩn mực, có tôn ti trật tự trên dưới từ trong gia đình đến ngoài xã hội, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, đạo lý, thật thà và lương thiện; ghét xa hoa, không cam chịu sự áp đặt bằng vũ lực, tiền tài và dám đối mặt với bạo quyền; cũng có nghĩa là phù hợp với quy luật cuộc sống hướng tới chân - thiện - mỹ. 1.1.2.2. Hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp luật Hệ thống pháp luật và các thiết chế xã hội bảo đảm pháp luật là những thành tố cơ bản và quan trọng cấu thành văn hóa pháp lý. Trong trường hợp này, văn hóa hiện diện trước hết là kiểu trình độ, kết quả của các hoạt động pháp luật có ý nghĩa thỏa mãn các nhu cầu thực tiễn hoạt động chính trị - pháp lý của con người. Trong các hoạt động đó, giá trị văn hóa như đã nói ở trên, không phải là mục đích trực tiếp, chính yếu. Các sản phẩm và kết quả của các hoạt động chính trị - pháp lý chỉ là giá trị văn hóa trong chừng mực chúng thể hiện hoặc biểu trưng cho các năng lực nhận thức, sáng tạo, cho tình cảm, thị hiếuẳ của con người. Xét theo phương diện hoạt động thực tiễn xã hội thì hoạt động văn hóa pháp lý là quá trình hiện thực hóa yếu tố ý thức pháp luật, là quá trình con người sáng tạo ra các giá trị pháp luật, đến lượt mình, các giá trị pháp luật lại nhằm đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu lợi ích về vật chất hay tinh thần của con người và xã hội. Hệ thống pháp luật được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức nhất định. Có thể nói, hệ thống pháp luật là một biểu hiện rất cao của văn hóa pháp lý, có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành và phát triển một nền văn hóa pháp lý. Các giá trị văn hóa pháp lý phải được kết tinh từ tính chặt chẽ, cụ thể và chính xác của từng quy phạm pháp luật; từ việc xác định rõ ràng giới hạn và nội dung của các chế định pháp luật, cũng như việc tính tới tính hoàn chỉnh và thống nhất của mỗi ngành luật. Mỗi bộ luật hay đạo luật được ban hành là sản phẩm trí tuệ tập thể, và phải được nhìn nhận như là những tác phẩm văn hóa pháp lý. Hệ thống pháp luật, ở chừng mực nhất định, được coi là thước đo, là chuẩn mực để đánh giá trình độ phát triển của nền văn hóa pháp lý ở mỗi quốc gia hay của một dân tộc. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa là một đòi hỏi khách quan của xã hội và văn hóa, vừa có tác dụng tạo cơ sở cho sự phát triển văn hóa pháp lý. Muốn có hệ thống pháp luật ở mức độ ngày càng hoàn thiện thì cần phải xuất phát từ những tiêu chuẩn cơ bản của nó: đó là tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp luật cao; đồng thời cũng mang tính tiên tiến và thấm đượm bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Các thiết chế pháp luật được hiểu là một tổng thể các tổ chức, cơ quan nhà nước được trang bị những phương tiện vật chất nhất định và được giao những quyền hạn, trách nhiệm nhất định nhằm thực hiện các chức năng soạn thảo, phê chuẩn và ban hành pháp luật; hoạt động giám sát, xét xử, bảo vệ pháp luật cũng như đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Các thiết chế pháp luật là công cụ rất quan trọng để thực hiện và bảo vệ pháp luật, chúng được xây dựng dựa trên các quy định của pháp luật, chịu sự chi phối của pháp luật. Đến lượt mình, các thiết chế pháp lý lại là phương tiện để cho các chủ thể sử dụng nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Điều đó tạo ra các ưu thế của thiết chế pháp lý trong việc thúc đẩy sáng tạo ra các giá trị văn hóa pháp lý và sử dụng những giá trị đó trong đời sống xã hội. ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phân cấp và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước. Theo đó, một cách tương đối, thiết chế pháp luật được chia thành ba loại: thiết chế lập pháp, thiết chế hành pháp và thiết chế tư pháp. Mỗi loại thiết chế đó theo tính năng của nó, đã và đang tham gia một cách tích cực vào sự phát triển văn hóa pháp lý. Chẳng hạn, theo thiết chế hành pháp, các nhà quản lý xã hội sử dụng pháp luật, các nguyên tắc, phương tiện pháp luật và quyền lực được trao để quản lý các mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Các thiết chế pháp luật với tư cách là một thành tố của văn hóa pháp lý có vai trò hết sức quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển nền văn hóa pháp lý, đối với sự sáng tạo các giá trị pháp lý. Sở dĩ như vậy là vì, thiết chế pháp luật có sức mạnh vật chất và tinh thần để xúc tiến sự sáng tạo, giáo dục và cổ vũ cho sự phát triển văn hóa pháp lý. 1.1.2.3. Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của con người diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Nói một cách khác, hành vi pháp luật là hành động có ý nghĩa tích cực của công dân, của cơ quan , tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội được xác định trước bằng các quy phạm pháp luật. Vì vậy, trong mọi trường hợp, các hành vi pháp luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc hành vi bất hợp pháp. Từ giác độ văn hóa, hành vi tích cực pháp luật không bao hàm nghĩa hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi xử sự pháp luật. Hành vi tích cực pháp luật được hiểu theo một nghĩa rộng hơn, đó là hành vi xử sự phù hợp với đòi hỏi của pháp luật tiến bộ, là hành động đấu tranh bảo vệ pháp luật ti._.ến bộ. Đồng thời, hành vi tích cực pháp luật còn là hành vi đấu tranh xóa bỏ tư tưởng và tâm lý pháp luật lạc hậu lỗi thời, phản động góp phần xây dựng chế độ xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, văn minh hơn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử nhân loại. Hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật là yếu tố cấu thành của văn hóa pháp lý. Nó thể hiện cách thức, khả năng, trình độ sử dụng pháp luật và các công cụ pháp luật của từng cá nhân, của cộng đồng và nhà nước trong quá trình đấu tranh vì sự bình đẳng xã hội và công lý theo định hướng Chân - Thiện - Mỹ. Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của công dân, của cơ quan, tổ chức nhà nước và tổ chức xã hội diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Hành vi pháp lý có thể mang ý nghĩa tích cực hay tiêu cực, nhưng với tư cách là yếu tố cấu thành văn hóa pháp lý, hành vi pháp luật phải được hiểu là hành vi xử sự tích cực đối với pháp luật và các hiện tượng pháp luật; tức là hành vi dựa trên cơ sở những tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với sự tiến bộ xã hội. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, hành vi pháp luật tích cực là hành vi hợp pháp có ý nghĩa văn hóa, một mặt, nói lên động cơ chi phối hành vi của chủ thể; mặt khác, nó phản ánh nhu cầu phát triển tiến bộ của xã hội nói lên sự hài hòa ở những mức độ khác nhau giữa lợi ích xã hội mà pháp luật phản ánh với lợi ích cá nhân, giữa nhu cầu của nhà nước và công dân, có tác dụng làm ổn định xã hội và tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật. Vì vậy, hành vi hợp pháp thể hiện trình độ văn hóa pháp lý và được pháp luật bảo vệ. Lối sống theo pháp luật gắn liền với hành vi pháp luật, là thành phần không thể thiếu tạo nên văn hóa pháp luật. Lối sống là tổng thể những nét cơ bản đặc trưng cho hoạt động sống và phương thức hành động của các giai cấp, các dân tộc, các nhóm xã hội hay cộng đồng xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định. Hoạt động sống và phương thức hành động của cộng đồng như thế nào thì sẽ tạo ra lối sống như thế ấy. Lối sống theo pháp luật là một hình thức biểu hiện của lối sống, trong đó, dựa trên nền tảng ý thức pháp luật xã hội tiên tiến, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội tổ chức các hoạt động sống, sản xuất, sinh hoạt và hành động sao cho phù hợp với các giá trị, chuẩn mực, yêu cầu của hệ thống pháp luật. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sống theo pháp luật là một biểu hiện cao của lối sống có văn hóa. Lối sống theo pháp luật mang tính cộng đồng, nó có tác dụng tạo ra môi trường tích cực cho quá trình xã hội hóa hành vi pháp luật của các cá nhân, của các cơ quan, tổ chức nhà nước và xã hội. Sự tích lũy và phát triển các giá trị văn hóa là kết quả bền vững nhất, mang tính chất nền tảng nhất của tiến bộ xã hội. Lối sống theo pháp luật vừa có tác dụng đóng góp vào quá trình sáng tạo ra các giá trị pháp lý, lại vừa là quá trình tiếp nhận và phát huy các giá trị pháp lý trong thực tiễn cuộc sống của cộng đồng xã hội, đỉnh cao của quá trình đó là “Sống, học tập, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Xây dựng lối sống theo pháp luật là mục tiêu và là nhiệm vụ cấp bách trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong phát triển Nền văn hóa pháp lý xã hội chủ nghĩa. Với tư cách là một bộ phận cấu thành văn hóa pháp lý, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật phải được thấm sâu trong từng hành vi; tuân thủ, thi hành pháp luật tự giác của mỗi người dân, trở thành thói quen; lối sống trọng tín, trọng tình, trọng lý của người Việt, tìm đến với nhau bằng thương lượng và hòa giải trước khi kiện tụng ra tòa, dù đó là tranh chấp trong gia đình, làng xóm hay trong sản xuất, kinh doanh; trong hành vi áp dụng đúng đắn pháp luật từ phía cán bộ, công chức nhà nước trên cơ sở lương tâm và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. 1.1.3. Vai trò của văn hóa pháp lý Văn hóa pháp lý thực sự là một bộ phận quan trọng trong đời sống của xã hội hiện đại, chính là nhờ sự kết hợp hài hòa và ngày càng hoàn thiện các giá trị cơ bản chân - thiện - mỹ. Văn hóa pháp lý là sự định hướng hoạt động pháp luật tuân theo cái Chân, củng cố và xác lập ý thức pháp lý theo quy luật hướng Thiện, từ đó mà vươn tới cái Mỹ. Sự phát triển của văn hóa pháp luật đánh dấu sự tiến bộ mang tính chất nhân văn trong đời sống của một cộng đồng, của một thời đại. Các thế hệ sinh ra và lớn lên muốn thích ứng được với đời sống cộng đồng, phải được giáo hóa bằng chính nền văn hóa của cộng đồng, trong đó có văn hóa pháp lý. Nếu tự nhiên là môi trường thứ nhất nuôi dưỡng con người lớn lên về thể xác, thì văn hóa là môi trường thứ hai nuôi dưỡng con người lớn lên về tinh thần, trí tuệ và nhân cách. Văn hóa pháp lý đã và đang góp phần tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, mang tính nhân văn để các thế hệ hôm nay và mai sau dựa trên công lý mà vươn tới hạnh phúc, tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình xã hội hóa cá nhân để hình thành ý thức, năng lực pháp luật và nhân cách không thể thiếu được hoạt động giáo dục về vai trò của văn hóa pháp lý. Dựa trên cơ sở củng cố và xác lập một hệ thống giá trị pháp lý cho xã hội với các khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực hành vi của con người sao cho phù hợp với quy tắc, yêu cầu của pháp luật; văn hóa pháp lý có tác dụng định hướng cho các thành viên của xã hội vươn tới tiếp thu, vận dụng các giá trị đó, đồng thời sáng tạo nên những giá trị mới, tiến bộ cho một hệ thống pháp lý tiến bộ, phù hợp với thực tiễn xã hội. Giữa các lĩnh vực văn hóa thường có sự thẩm thấu và tương tác lẫn nhau. Văn hóa pháp lý thông qua các đặc trưng và cơ chế tác động của nó, có tác động tới các lĩnh vực khác của nền văn hóa nói chung như văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị, văn hóa nghệ thuật v,vẳ Đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với nhu cầu, lợi ích của nhân dân lao động, với truyền thống chính trị - đạo đức pháp lý của cộng đồng và của dân tộc. Văn hóa pháp lý tác động tích cực tới các chính sách của Đảng và Nhà nước với yêu cầu hệ thống pháp luật phải ngày càng hoàn thiện hơn, đem lại lợi ích và giá trị cho nhân dân lao động, sự phồn vinh và thịnh vượng cho đất nước. Đảng và Nhà nước không chỉ cần đề ra chính sách, pháp luật đúng đắn, kịp thời mà còn phải tổ chức thực hiện tốt các chính sách, pháp luật đó để mang lại hiệu quả xã hội cao trên cơ sở những biện pháp mang tính nhân văn. Phát triển văn hóa pháp lý là cơ sở, nền tảng quan trọng và cần thiết để hình thành và xây dựng lối sống có văn hóa, lối sống theo pháp luật. 1.1.4. Các chức năng cơ bản của của văn hóa pháp lý Với tư cách là một bộ phận cấu thành của một nền văn hóa, văn hóa pháp lý tuân theo quy luật vận động và phát triển của nền văn hóa đó. Tuy nhiên, văn hóa pháp lý cũng tồn tại một cách tương đối độc lập, với những giá trị, chuẩn mực, biểu hiện riêng trong lĩnh vực hoạt động pháp luật. Vì thế, văn hóa pháp lý cũng có những chức năng nhất định của nó. Từ vai trò đã nêu chúng ta thấy, văn hóa pháp lý có ba chức năng cơ bản, đó là chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức năng thực tiễn. Chức năng nhận thức là chức năng đầu tiên của bất kỳ hoạt động văn hóa nào, trong đó có văn hóa pháp lý. Một bộ luật, đạo luật nào đó với tư cách một sản phẩm văn hóa pháp lý, trước khi có thể đi vào thực tiễn cuộc sống, phát huy vai trò và hiệu lực điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, thì nó phải được mọi người hiểu về các bộ luật, các đạo luật; trên cơ sở hiểu biết đó, những khái niệm, phạm trù, nguyên tắc lại trở thành công cụ để con người nhận thức các hệ thống pháp luật, các quan hệ và hành vi pháp luật. Các công trình nghiên cứu về văn hóa pháp lý cung cấp và trang bị cho mọi người những kiến thức, thông tin lý luận cần thiết, những hiểu biết đầy đủ hơn, cụ thể hơn về văn hóa pháp lý, như một bộ phận cấu thành hữu cơ của văn hóa nói chung; tạo ra các tiền đề và cơ sở khoa học để nhận thức văn hóa pháp lý như là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần mà nhân loại đã sáng tạo ra trong các lĩnh vực hoạt động pháp luật, được kết tinh thành những giá trị pháp lý, thể hiện trong hệ thống các quy phạm pháp luật đã được ban hành qua các thời kỳ lịch sử, trong các quan điểm, tư tưởng, nguyên tắc pháp lý, trong các tác phẩm văn hóa pháp lý, trong hành vi pháp lý của con người ẳ và phát triển theo quy luật hướng tới chân - thiện - mỹ. Dù còn có những ý kiến khác nhau, nhưng tìm hiểu cấu trúc của văn hóa pháp lý với các bộ phận cấu thành của nó là cơ sở quan trọng để nhận thức xu hướng phát triển một nền pháp luật nói chung và của văn hóa pháp lý nói riêng. Dưới giác độ văn hóa pháp lý, mỗi con người chúng ta có được sự nhận thức rõ ràng về mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật. Văn hóa, nếu xét dưới khía cạnh là nền tảng tinh thần của xã hội, là một mặt cơ bản của đời sống xã hội thì chủ nhân của văn hóa lại chính là yếu tố đầu tiên khởi nguồn cho mọi giá trị. Nhà nước, một sản phẩm cao của tư duy con người - là sản phẩm cao của những giá trị văn hóa. Quá trình sáng tạo, quá trình ứng xử của con người đối với tự nhiên, đối với các vấn đề nảy sinh của xã hội như: sự bất bình đẳng về vị thế xã hội, về sự phân chia quyền lực, về tài sảnẳ đưa con người đến một sự nhận thức cần thiết phải kiến tạo một thiết chế quyền lực nhằm duy trì trật tự xã hội (trong vòng lợi ích của một giai cấp) để các giai cấp không đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau và làm hủy hoại cả xã hội. Trong lịch sử xã hội ta thấy có một thiết chế xã hội ra đời từ xã hội, nhưng dường như lại đứng trên xã hội - đó là nhà nước. Pháp luật là phương tiện mà con người sử dụng để giữ gìn thiết chế nói trên. Hiểu theo nghĩa đó, chúng ta thấy pháp luật cũng là sản phẩm của tư duy văn hóa, là sản phẩm của văn hóa. Với tư cách là sản phẩm của văn hóa, pháp luật biểu hiện những quy tắc mà con người sử dụng để định hướng và ảnh hưởng tới sự sáng tạo những giá trị văn hóa khác như văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa tôn giáo v,vẳ Nghiên cứu văn hóa pháp lý đòi hỏi phải đặt nó trong mối tương quan và sự liên hệ với các hình thức văn hóa khác, với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Sự định hướng và phát triển văn hóa pháp lý đặt ra vấn đề nhận thức lý luận về trình độ lập pháp nói chung. Trình độ lập pháp là một biểu hiện rất cao của văn hóa pháp lý. Các chuẩn mực, quy phạm pháp luật quan trọng chỉ có thể được hình thành khi các nhà làm luật nhận thức một cách sâu sắc các quy luật của đời sống xã hội trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Những quan hệ xã hội mới phát sinh cần phải có luật điều chỉnh, phạm vi và mức độ điều chỉnh? Văn hóa pháp luật với chức năng nhận thức của nó, giúp cho các nhà làm luật hiểu biết và xử lý tốt các tình huống mà cuộc sống đặt ra. Nâng cao trình độ nhận thức của con người cũng chính là phát huy những tiềm năng, năng lực bản chất của con người. Đó là bước đầu rất quan trọng để hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói riêng luôn luôn chứa đựng tính chất nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động trong lĩnh vực văn hóa pháp lý cũng là khát vọng hướng tới cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ - ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa, ba giá trị phổ quát của mọi nền văn hóa. Trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc dĩ nhiên cần chú trọng xây dựng và phát triển văn hóa pháp lý - một đòi hỏi mang tính khách quan và cấp thiết. Phát triển văn hóa pháp lý mang lại một sự nhận thức mới mẻ về các quy tắc, chuẩn mực, quan điểm pháp luật theo định hướng chân - thiện - mỹ như là những giá trị xã hội, chứ không phải chỉ thuần túy là pháp luật. Giá trị pháp lý là nhân tố quan trọng đối với hành vi của cá nhân, điều chỉnh các nguyện vọng và hành động của con người, là tiêu chuẩn pháp lý để đánh giá hành động và nghĩa vụ của mỗi công dân, để xác định lợi ích của các thành viên xã hội; do đó giá trị pháp lý xác định các chuẩn mực của thang bậc xã hội, làm nền tảng cho cuộc sống chung. Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, yêu cầu xây dựng xã hội văn minh, dân chủ, kỷ cương, công bằng, bình đẳng; xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh đang đòi hỏi nhiều ở chức năng nhận thức của văn hóa pháp lý. Đã đến lúc cần khẳng định rằng: việc phát huy chức năng nhận thức của văn hóa pháp lý, đặc biệt đối với các tầng lớp nhân dân lao động, sẽ là một động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa pháp lý, tạo ra sự nhận thức sâu sắc về vai trò và các giá trị xã hội của pháp luật; là tiền đề cần thiết để thực hiện các chức năng giáo dục và chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý. Chức năng giáo dục là hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ và qua đó mà tác động tới, con người, xã hội và có sức giáo hóa con người và xã hội. Con người sinh ra và lớn lên phải tiếp nhận sự tác động, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và xã hội là nhà nước và pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, phong tục tập quán, các sinh hoạt tinh thần khác và chịu sự tác động của quá trình giáo dục. Văn hóa pháp lý là sản phẩm của hoạt động pháp luật của con người. Trong môi trường xã hội có sự điều chỉnh của pháp luật, toàn bộ các hành vi, hoạt động xã hội của con người thể hiện ra qua các tình huống ứng xử. ở đó, con người tiếp xúc với nhau, tác động đến nhau, trao đổi với nhau, yêu cầu và tiếp nhận ở nhau một điều gì đó trong khuôn khổ luật định. Văn hóa pháp lý với các yếu tố chân - thiện - mỹ, chỉ đường cho các thành viên xã hội lựa chọn cách xử sự để tránh xung đột với các cá nhân khác, mỗi người sẽ phải tự giải quyết vấn đề của mình khi lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân bị xâm hại mà không vi phạm pháp luật. Các cách xử sự được chọn lọc, được kiểm nghiệm qua thời gian và trở thành khuôn mẫu ứng xử; thẩm thấu vào ý thức của mỗi người; biểu hiện ở tư tưởng, quan điểm về pháp luật ở thái độ, tình cảm đối với pháp luật. Như vậy, văn hóa pháp lý tạo ra "môi trường văn hóa" giáo dục và nuôi dưỡng đời sống tinh thần, ý thức pháp luật của con người. Nói đến chức năng giáo dục của văn hóa pháp lý là nói tới việc định hướng văn hóa cho hành vi pháp luật của con người. Hành vi pháp luật, như chúng ta đã biết, là hành động có ý thức của con người diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật; trong mọi trường hợp, hành vi pháp luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp. Tuy nhiên, ý nghĩa giáo dục từ định hướng văn hóa cho hành vi pháp luật nổi bật ở chỗ giáo dục cách xử sự tích cực đối với pháp luật dựa trên tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật đúng đắn, phù hợp với các giá trị văn hóa pháp lý. Bản thân mỗi cá nhân, theo quy luật hướng thiện, không muốn thực hiện các hành vi vi phạm, phá vỡ các quy tắc, yêu cầu hay đòi hỏi của chuẩn mực pháp luật. Nhưng để đạt được điều này, bên cạnh ý thức tự giác tích cực của mỗi người còn cần đến chức năng giáo dục. Định hướng giá trị văn hóa pháp lý là xu hướng của con người muốn vươn lên chiếm lĩnh hoặc tiếp cận các giá trị văn hóa cao đẹp của pháp luật, nhờ đó mà dần dần hoàn thiện nhân cách của mình; định hướng giá trị đó, xác định thái độ lựa chọn hành động của con người trước mỗi tình huống cụ thể của cuộc sống, quy định hành vi pháp luật của cá nhân, quy định khuynh hướng và tính tích cực xã hội của nó. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, do những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử riêng nên đã hình thành những truyền thống văn hóa pháp lý riêng phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức, pháp luật, phong tục tập quán của dân tộc. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta qua các thời kỳ lịch sử đã tạo dựng nên nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Các công trình nghiên cứu về văn hóa pháp lý phải hướng vào các di sản văn hóa pháp lý mà cha ông ta đã sáng tạo ra trong các thời kỳ lịch sử; từ đó mà phát hiện những giá trị pháp lý, phát huy những giá trị truyền thống trong xã hội hiện đại. Điều đó cũng có nghĩa là văn hóa pháp lý góp phần vào việc giáo dục lòng tự hào dân tộc, giáo dục thái độ tôn trọng, giữ gìn các giá trị văn hóa pháp lý của dân tộc. Nó cũng chứng minh rằng: việc giáo dục con người bằng văn hóa, bằng các giá trị và truyền thống văn hóa có vai trò hết sức quan trọng. Dĩ nhiên, quan tâm đến chức năng giáo dục của văn hóa và văn hóa pháp lý không có nghĩa là biến các hoạt động văn hóa đó thành những bài giáo huấn khô khan hay giáo điều và trừu tượng. Chức năng giáo dục được thực hiện trong mối liên hệ với chức năng nhận thức và thực tiễn của nó. Tức là thông qua các chức năng cụ thể, các hoạt động văn hóa tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách, tới sự phát triển toàn diện của con người. Đặc trưng của chức năng giáo dục của văn hóa là ở đó. Sức mạnh và hiệu quả giáo dục của văn hóa và văn hóa pháp lý là ở chỗ, nó huy động được toàn bộ các năng lực tinh thần, tác động tới nơi sâu kín nhất đời sống tinh thần của mỗi cá nhân con người. ở nước ta hiện nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, cùng với quá trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, bên cạnh những thành tựu tích cực, tiến bộ đã đạt được cũng còn nhiều vấn đề bức xúc đang đặt ra, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành trung ương khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã chỉ rõ thực trạng những mặt yếu kém của văn hóa nước ta: Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ ẳ đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội ẳ[8, tr.46]. Thực trạng nêu trên có nhiều khía cạnh liên quan đến pháp luật. Trong tình hình như vậy, đề cao và phát huy chức năng giáo dục của văn hóa pháp lý là một vấn đề cấp thiết. Cần phải thông qua các hoạt động văn hóa pháp lý để tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật trong các tầng lớp nhân dân đi đôi với giáo dục đạo đức và nhân cách; giáo dục nếp sống, lối sống có văn hoá với phù hợp với các quy định của pháp luật. Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý có mối quan hệ mật thiết với chức năng nhận thức và chức năng giáo dục, vì mọi hoạt động thực tiễn chỉ có thể đạt hiệu quả cao dựa trên cơ sở nhận thức và tiếp nhận sự giáo dục nâng cao nhận thức. Nói đến chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý, trước hết, là nói đến sự vận dụng và phát huy các kết quả nghiên cứu văn hóa pháp lý vào hoạt động thực tiễn của việc hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước; chính sách pháp luật là khâu quan trọng đối với hoạt động lập pháp nói chung và việc ban hành các bộ luật, đạo luật nói riêng. Chính sách pháp luật có ảnh hưởng quan trọng tới tâm lý và ý thức của con người, góp phần hình thành ý thức pháp lý mang tính tích cực của các cá nhân và các nhóm xã hội. Dưới tác động của văn hóa pháp lý, việc hoạch định và xây dựng chính sách pháp luật đúng đắn là định hướng quan trọng cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. ở đó phải có sự phù hợp của nội dung hệ thống pháp luật thực định so với những đòi hỏi khách quan của cuộc sống xã hội trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; trong tính thống nhất của hình thức văn bản; trong tính khoa học, dân chủ của quy trình, thủ tục soạn thảo và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Trong chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý có đặt ra vấn đề dự báo về tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật. Cơ sở của dự báo là sự nhận thức sâu sắc các quy luật phát triển của đời sống kinh tế - xã hội; là sự hiểu biết đầy đủ về các yếu tố, các điều kiện làm phát sinh các quan hệ xã hội mới. Khi văn hóa lập pháp đạt tới trình độ cao và các nhà làm luật nêu ra được các chuẩn mực cơ bản thì khả năng dự liệu quy tắc điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh cũng sẽ đạt tới một mức độ cần thiết nhất định. Đến lượt mình, dự báo tình hình và xu hướng phát triển của pháp luật lại là cơ sở để định hướng chính sách pháp luật. Chức năng thực tiễn của văn hóa pháp lý cũng gắn liền với sự tham gia tư vấn cho Đảng và Nhà nước xây dựng các văn bản pháp quy nhằm tác động và bảo đảm cho văn hóa phát triển hoàn thiện, phù hợp với sự phát triển của nhà nước và xã hội nói chung. Để văn hóa có thể phát triển và hoàn thiện không ngừng thì nhà nước phải ban hành những luật định về bảo vệ, tôn tạo và phát huy những giá trị văn hóa (truyền thống và hiện đại). Chỉ có thể giữ gìn được bản sắc văn hóa khi có những chính sách phù hợp, những luật định thiết thực. Người ta rất có thể xa rời những giá trị văn hóa truyền thống khi mà nhà nước, các cơ quan pháp luật không có những quy định ràng buộc nhằm duy trì mối quan hệ giữa con người với những giá trị văn hóa do nó sáng tạo ra. Với chủ trương phát triển và bảo vệ các giá trị văn hóa, truyền thống của dân tộc, chúng ta đã từng bước khắc phục được xu hướng chạy theo lối sống thực dụng - xu hướng phản văn hóa. 1.2. Yêu cầu về văn hóa pháp lý đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Cán bộ lãnh đạo và đặc trưng cơ bản của cán bộ lãnh đạo 1.2.1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ lãnh đạo Cán bộ được hiểu theo hai nghĩa: Một là, người làm công tác có nghiệp vụ nào đó trong cơ quan nhà nước; chẳng hạn, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị v,v…Hai là, người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân biệt với người thường, người không có chức vụ; chẳng hạn, cán bộ và chiến sĩ, cán bộ và nhân viên v,v…Đội ngũ cán bộ ở nước ta hiện nay, nếu xếp theo tính chất của tổ chức mà cán bộ hoạt động, có thể phân thành năm loại hình: Cán bộ đảng và đoàn thể; cán bộ hoạt động trong bộ máy nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp); cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế; cán bộ khoa học - kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, xã hội và cán bộ quản lý thuộc các ngành này; cán bộ lực lượng vũ trang. Trong mỗi loại hình lại có thể phân thành các nhóm: Nhóm công chức, viên chức; nhóm chuyên gia; nhóm cán bộ quản lý; nhóm lãnh đạo và chính khách. Trong luận văn này chỉ nghiên cứu nhóm cán bộ lãnh đạo có mặt trong hầu hết các loại hình cán bộ và cũng chỉ đề cập đến cán bộ lãnh đạo ở địa phương. Người lãnh đạo là người đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên lực lượng thực hiện; chẳng hạn, lãnh đạo quần chúng…, lãnh đạo hội nghị v,v…Ghép cụm từ cán bộ với lãnh đạo, ta có khái niệm cán bộ lãnh đạo: cán bộ lãnh đạo là những người có chức vụ, giữ trọng trách cao nhất trong một cơ quan, một tổ chức xã hội; có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của đơn vị, của tổ chức; đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên quần chúng thực hiện. Chẳng hạn, cán bộ lãnh đạo trong các tổ chức Đảng, Đoàn và đoàn thể xã hội khác là Ban chấp hành, cấp ủy, Bí thư, Phó bí thư, hoặc Chủ tịch, Phó chủ tịch; Cán bộ lãnh đạo trong tổ chức chính quyền xã, huyện, tỉnh là Ban chấp hành đảng bộ cùng cấp và Chủ tịch, các Phó chủ tịch và trưởng, phó các ban, ngành; Cán bộ lãnh đạo trong một trường đào tạo cán bộ là Giám đốc, các Phó giám đốc, Bí thư Đảng ủy, các ủy viên Ban chấp hành Đảng ủy, Bí thư thanh niên, Chủ tịch công đoàn. Tóm lại, cán bộ lãnh đạo là những cán bộ chủ chốt có ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của tổ chức. Sự khác biệt giữa cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý là ở chỗ: mặt nổi trội trong hoạt động của cán bộ lãnh đạo là định hướng, quán xuyến mọi hoạt động của đơn vị, của tổ chức thông qua, đường lối, chủ trương, chính sách cơ chế, khơi dậy ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm trong hành vi của đối tượng chịu sự lãnh đạo để họ hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao. Còn cán bộ quản lý là người điều hành công việc, chức năng cơ bản của họ là tổ chức và phối hợp thực hiện tốt công việc chuyên môn. 1.2.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay Một là, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, với Tổ quốc, bảo vệ danh dự quốc thể và lợi ích quốc gia. Người cán bộ lãnh đạo phải trung thành với lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, người cán bộ lãnh đạo có ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức nên không có lòng trung thành với lý tưởng cách mạng sẽ phá vỡ tổ chức, sẽ lái tổ chức do mình phụ trách trệch khỏi sự định hướng xã hội chủ nghĩa, hoặc chí ít cũng làm khó khăn cho đơn vị, đưa tổ chức vào tình trạng rối loạn, mất đoàn kết v,v…Vì thế, theo V.I.Lênin: "lòng trung thành với cách mạng là điều kiện, các tiêu chuẩn đầu tiên đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Lòng trung thành được kết hợp với năng lực hiểu biết về con người, với năng lực giải quyết những vấn đề tổ chức, thì chỉ có lòng trung thành đó mới có thể rèn luyện ra những nhà tổ chức lớn" [22, tr.94]. Người cán bộ lãnh đạo trung thành bao giờ cũng đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Dưới chế độ phong kiến, trung với nước là trung thành với cá nhân nhà vua, bảo vệ uy tín của nhà vua là bảo vệ quốc thể. Còn người cán bộ cách mạng trung thành với nhà nước Việt Nam XHCN là trung với nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong nhà nước đó, Nhân dân là chủ nên cán bộ là công bộc của dân. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ phải "tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” [25, tr.285]. Trung thành với Đảng với nhân dân là “bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, luôn gương mẫu cho quần chúng… phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân” [25, tr.287-288]. Hai là, cán bộ lãnh đạo luôn tận tụy phục vụ nhân dân. Hồ Chủ tịch căn dặn người cán bộ lãnh đạo: Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng [25, tr. 288]. Người cán bộ lãnh đạo phải hiếu với dân – nghĩa là, tuyệt đối trung thành phục vụ nhân dân. “Lấy dân làm gốc” phát huy quyền dân làm chủ. Trong các cơ quan hành chính, các đơn vị cơ sở cán bộ lãnh đạo khi xây dựng, ban hành các chủ trương, chính sách, thể chế quản lý với tinh thần phục vụ nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ăn sinh sống, bảo đảm thực hiện các quyền con người; phải tạo điều kiện thuận tiện, không sách nhiễu phiền hà, tôn trọng dân, tránh thái độ cửa quyền, ban ơn. Đối với các đơn vị, tổ chức sự nghiệp phục vụ các dịch vụ xã hội, dân sinh như các tổ chức y tế chăm sóc sức khỏe cho dân, các cơ sở giáo dục, các cơ sở dịch vụ văn hóa tinh thần và các dịch vụ dân sinh khác, cán bộ phải lãnh đạo đơn vị làm hết trách nhiệm, nghĩa vụ với tinh thần tận tình; tôn trọng nhân cách của con người, thương yêu con người, phấn đấu vì một xã hội tốt đẹp. Thứ ba, cán bộ lãnh đạo là người có tinh thần và thái độ trách nhiệm trong công việc; thông minh, am hiểu và nhạy cảm khi giải quyết công việc. Thái độ và hành vi của con người thường có tính thống nhất, thái độ quyết định hành vi và hành vi là biểu hiện ra bên ngoài của thái độ. Thái độ trách nhiệm cao trong công việc là thể hiện nhân cách của cán bộ lãnh đạo với tập thể, nhà nước và nhân dân. Có trách nhiệm cao mới cầu thị, học hỏi để nâng cao năng lực lãnh đạo, trình độ chuyên môn, không ngần ngại khó khăn, gian khổ, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trách nhiệm cao là làm đúng, làm hết trách nhiệm thể hiện rõ năng lực, phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo cách mạng. Cán bộ lãnh đạo là người tham gia, hoặc đề ra chủ trương, chính sách, phương hướng hoạt động của đơn vị, cơ sở mình lãnh đạo nên phải là người thông minh có trí tuệ, am hiểu công việc và đơn vị của mình. Đây là điều V.I.Lênin - vị lãnh tụ của giai cấp công nhân - luôn luôn nhắc nhở trong công tác cán bộ: "cán bộ lãnh đạo, quản lý ở lĩnh vực nào phải có tri thức, có kinh nghiệm trong lĩnh vực đó" [23, tr.16-17]. Dân trí nước ta ngày càng cao, trình độ khoa học, kỹ thuật - công nghệ thế giới phát triển rất nhanh chóng, để đáp ứng được trọng trách, trình độ học vấn và năng lực tư duy của cán bộ lãnh đạo phải cao hơn trình độ học vấn trung bình của xã hội. Thứ tư, cán bộ lãnh đạo là người có phẩm chất đạo đức trong sạch và lối sống gương mẫu. Người cán bộ lãnh đạo có phẩm chất đạo đức trong sạch là người không tham nhũng, không tham ô tài sản của nhà nước và của nhân dân, thực hiện công vụ vô tư không đòi hỏi, sách nhiễu, gây khó khăn cho tổ chức và nhân dân. Khi thi hành công vụ không lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác để vụ lợi và mưu cầu lợi ích cá nhân. Sử dụng các phương tiện, cơ sở vật chất của cơ quan, nhà nước tiết kiệm và giữ gìn, bảo vệ của công. Lối sống của cán bộ công chức phải là lối sống mẫu mực, có văn hóa, lành mạnh. Chấp hành nghiêm chỉnh các nghị định, pháp lệnh của chính phủ, nhà nước trong việc chống các tệ nạn xã hội. Sống giản dị, gần gũi, chân tình trong quan hệ với cấp dưới và nhân dân; không được gây bè phái, mất đoàn kết, cục bộ; không được cửa quyền, hách dịch sách nhiễu, gây phiền hà khi giải quyết công việc. Thứ năm, người cán bộ lãnh đạo là người có tinh thần hợp tác với những người có liên quan trong công tác lãnh đạo và có khả năng tập hợp quần chúng. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã chứng minh người Việt Nam có tính cộng đồng rất cao. Nếu không có tính cộng đồng, người Việt Nam không thể tồn tại và phát triển như ngày nay. Lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai khắc nghiệt đã rèn đúc và thử thách tính cộng đồng của người Việt Nam. Không chỉ ở tầm vĩ mô, khi vận mệnh của đất nước lâm nguy, đứng trước sự tồn vong của dân tộc, người Việt Nam mới thể hiện tính cộng đồng mà ở cả tầm vi mô,._. năng lực trên, người cán bộ lãnh đạo phải có trình độ văn hóa pháp lý. Qua khảo sát về thực trạng trình độ văn hóa pháp lý của cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay, như (chương 2) đã phân tích, còn quá nhiều điều bất cập, trình độ hiểu biết pháp luật còn thấp, không đồng đều, khả năng áp dụng luật còn hạn chế…thậm chí trên 50% chưa biết gì về luật. Vì vậy, trong công tác lựa chọn cán bộ, ngoài những tiêu chuẩn chung (đã nêu) cần chú ý đến những người đã được đào tạo cơ bản có bằng cấp về luật. Tất nhiên, mỗi cương vị lãnh đạo, mỗi loại cán bộ lãnh đạo khác nhau có yêu cầu khác nhau về trình độ hiểu biết và chuyên sâu về luật. Trong điều kiện cán bộ lãnh đạo được bổ nhiệm chưa có sự hiểu biết về luật phải có kế hạch đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật. Xây dựng chương trình, hình thức và phương pháp bồi dưỡng kiến thức pháp luật phải phù hợp với từng loại cán bộ lãnh đạo. Chẳng hạn, ngoài kiến thức chung như lý luận chung về nhà nước pháp luật, Hiến pháp, Luật Hành chính, kỹ thuật soạn thảo văn bản, đối với cán bộ lãnh đạo cấp xã, cần chú trọng bồi dưỡng về Luật Hợp tác xã nông nghiệp, Luật Đất đai, Luật Lao động, Luật Hình sự, Luật Dân sự... Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo có trình độ văn hóa và chuyên môn tương đối cao, ít nhiều đã có sự hiểu biết về pháp luật, việc bồi dưỡng, giáo dục pháp luật cho họ không thể dừng lại ở mức độ thông qua các hình thức, phương pháp phổ cập thông thường mà đòi hỏi phải có hình thức, phương pháp riêng, có trường, có lớp, có đội ngũ giảng viên, giáo trình riêng và nhất thiết là phải trang bị kiến thức ở trình độ lý luận cao. Nâng cao kiến thức pháp luật ở trình độ lý luận là yếu tố quan trọng và cần thiết để cán bộ lãnh đạo có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ góp phần cải cách nền hành chính và hiện đại hoá hoạt động của bộ máy nhà nước. Đối với công tác đào tạo cán bộ lãnh đạo, khi đã có sự quy hoạch, Ban Tổ chức đảng các cấp, Bộ, Sở nội vụ, kết hợp với ngành Tư pháp và các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trung ương và các tỉnh, cần xây dựng một chương trình chuẩn bắt buộc đối với từng loại và từng cấp cán bộ lãnh đạo. Đào tạo cán bộ lãnh đạo không quan tâm đúng mức đến mảng kiến thức pháp luật là một lỗ hổng không thể chấp nhận được trong điều kiện hiện nay của đất nước. Trong công tác bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ lãnh đạo cũng vậy, ngoài những kiến thức quan trọng khác, kiến thức pháp luật cũng phải được chú ý một cách đúng mức cả về chương trình, giáo trình, đội ngũ giảng viên, lẫn hình thức và phương pháp. Đã có những dự án tài trợ của nước ngoài về việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ cấp cơ sở ở một số khu vực. Nhưng có thể nói là chưa được bao nhiêu. Hiện nay, chúng ta có một đội ngũ chuyên gia được đào tạo một cách chính quy ở các trường đại học luật, có đội ngũ cán bộ giảng viên chuyên ngành luật đông đảo, nhưng chưa tận dụng hết để họ tham gia công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở trên địa bàn cả nước và cho nhân dân. Pháp luật chỉ phát huy được vai trò và những giá trị của mình khi nó được tôn trọng và thực hiện trong cuộc sống để duy trì trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển. Vì thế, pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén và thực hiện pháp luật là một hoạt động không thể thiếu được kể từ khi pháp luật xuất hiện. Nhà nước không chỉ ban hành ra thật nhiều các quy phạm pháp luật mà phải tổ chức để chúng được thực hiện trong thực tế cuộc sống làm cho những yêu cầu, quy định của pháp luật trở thành hiện thực. Triển khai thực hiện pháp luật, cán bộ lãnh đạo đóng một vai trò quan trọng. Qua khảo sát việc thực hiện và áp dụng pháp luật của cán bộ lãnh đạo, thấy rõ một thực trạng, cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành đều có những sai phạm. Để tránh những sai phạm trong lĩnh vực áp dụng pháp luật, cán bộ lãnh đạo cần phải được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng đó trong thực thi công vụ. Kỹ năng áp dụng pháp luật là sự vận dụng những kiến thức, sự hiểu biết pháp luật thu nhận được vào thực tiễn cuộc sống. Nhiệm vụ trang bị kỹ năng áp dụng kiến thức lý luận vào thực tiễn liên quan đến việc giáo dục kỹ năng áp dụng quy phạm pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Để thực hiện nhiệm vụ này trong lĩnh vực áp dụng pháp luật, chương trình đào tạo và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho cán bộ lãnh đạo phải có hệ thống bài tập rút ra từ thực tiễn công tác lãnh đạo phù hợp với từng đối tượng, từng địa phương. Qua hướng dẫn giải các bài tập tư liệu thực tế, đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng không chỉ được nâng cao những hiểu biết về nội dung các quy phạm pháp luật, mà còn được làm quen với những tình huống có thể xảy ra trên thực tế. Điều đó giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo nắm được quy trình thực hiện và áp dụng pháp luật giúp cho công tác lãnh đạo có hiệu quả hơn. Và qua đó, thể hiện một trình độ văn hóa pháp lý cao hơn. 3.2.2. Người cán bộ lãnh đạo phải được giáo dục và tự giáo dục tình cảm pháp luật đúng đắn Trong ý thức pháp luật, tâm lý pháp luật là một bộ phận quan trọng, là “nguồn sữa” nuôi sống hệ tư tưởng pháp luật, nó bảo vệ sự tồn tại và phát triển hệ tư tưởng pháp luật. Bởi vì, nếu không có cảm xúc lành mạnh con người không thể và không bao giờ tìm kiếm được chân lý. Tâm lý pháp luật đúng đắn của người cán bộ lãnh đạo, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện pháp luật, đó là trong việc vận dụng pháp luật để xem xét giải quyết các vụ việc cụ thể. Không có tâm lý pháp luật đúng đắn, người cán bộ lãnh đạo không thể có ý thức pháp luật đầy đủ để thực hiện các quy định của pháp luật trong thực tế cuộc sống. Cũng là thuộc tính vốn có của tâm lý con người, tâm lý pháp luật của cán bộ lãnh đạo phản ánh trực tiếp, trực diện các hiện tượng pháp lý bên ngoài và biểu hiện dưới các dạng tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của chủ thể đối với hiện tượng đó. Tình cảm pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, được hình thành dưới ảnh hưởng của giao tiếp với môi trường xung quanh. Tình cảm là thái độ thể hiện sự rung cảm của các chủ thể hoạt động xã hội đối với sự vật, hiện tượng có liên quan tới nhu cầu và động cơ của họ. Tình cảm có quan hệ và chi phối toàn bộ các thuộc tính tâm lý của cá nhân như nhu cầu, thị hiếu, lý tưởng, niềm tin…, là yếu tố có quan hệ qua lại với khí chất của con người, và là điều kiện để hình thành năng lực và phẩm chất cá nhân. Vì vậy, nói đến ý thức pháp luật phải đề cập đến tình cảm pháp luật. Tình cảm tích cực pháp luật thường tồn tại dưới các dạng: tình cảm không khoan nhượng đối với hành vi vi phạm pháp luật; tình cảm công bằng và tình cảm trách nhiệm pháp lý. Với tình cảm không khoan nhượng những hành vi vi phạm pháp luật, người cán bộ lãnh đạo giữ được mình, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật của người khác, có ý nghĩa giáo dục rất lớn trong cơ quan và xã hội. Thái độ không khoan nhượng hành vi vi phạm pháp luật là động lực thúc đẩy ý thức đấu tranh chống tiêu cực, là sự khẳng định nhân cách trọng danh dự, trung thực của người cán bộ lãnh đạo. Trạng thái tình cảm này, hình thành do một quá trình rèn luyện, tu dưỡng không mệt mỏi của mỗi cá nhân, trong một môi trường xã hội lành mạnh; lý tưởng, lẽ sống của con người rõ ràng, trong sáng. Tình cảm pháp lý không khoan nhượng với các hành vi vi phạm pháp luật, sẽ không bao giờ "vô cảm" trước hành vi vi phạm pháp luật của người khác. Với tình cảm đó, người cán bộ lãnh đạo không bao giờ dung thứ bao che cho các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là, lại xảy ra trong địa bàn lãnh đạo của mình. Tình cảm pháp lý về sự công bằng là người cán bộ lãnh đạo làm việc và giải quyết công việc tôn trọng nguyên tắc: mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, hợp đạo lý; không vụ lợi, thiên lệch, không ỷ quyền cầu lợi. Người cán bộ lãnh đạo không công bằng sẽ có những biểu hiện như: mềm nắn rắn buông, bắt nạt kẻ yếu, sợ sệt người mạnh, cậy quyền ỷ thế; đối với dân chúng tì nghênh ngang, kiêu ngạo… Tình cảm pháp lý về sự công bằng đòi hỏi phải có sự rèn luyện, có ý thức và bản lĩnh chính trị vững vàng. Tình cảm trách nhiệm pháp lý, đối với cán bộ lãnh đạo là ý thức được đầy đủ về vị trí, vài trò của mình trước Đảng, trước dân; luôn luôn nghĩ đến công việc, tận tụy với công việc, làm hết khả năng của mình để mang lại kết quả tốt nhất. Người cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm luôn học hỏi, nâng cao năng lực lãnh đạo, khiêm tốn, đoàn kết, bao giờ cũng lấy lợi ích chung của tập thể, của nhân dân chi phối mỗi việc làm của mình. 3.2.3. Xây dựng và rèn luyện hành vi pháp luật đúng đắn của người cán bộ lãnh đạo Hành vi pháp luật là hành động có ý thức của con người diễn ra trong môi trường điều chỉnh của pháp luật; là hành động có ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của công dân, cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội được xác định trước bằng các quy phạm pháp luật. Vì vậy, trong mọi trường hợp các hành vi pháp luật chỉ có thể là hành vi hợp pháp hoặc là hành vi bất hợp pháp. Khi cá nhân tự đánh giá về hành vi xử sự của mình trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành là yếu tố đặc biệt của tâm lý pháp luật. Tự đánh giá có thể là biểu hiện dưới dạng cảm xúc như xấu hổ, buồn loẳCảm xúc xấu hổ ở một mức độ nào đó cũng tham gia điều chỉnh hành vi của con người. Trạng thái xúc động trước hành vi thể hiện ý thức tự giác chấp hành pháp luật một cách đúng đắn là biểu hiện cao của lương tâm con người, hướng cá nhân con người tới ý muốn noi theo những người có hành vi chấp hành tốt pháp luật. Trong một thể chế xã hội đang phát triển, để có được hành vi ứng xử tích cực pháp luật, trước hết phải có ý thức pháp luật. Đó là phải có sự hiểu biết tối thiểu về các giá trị của pháp luật, phải có lòng tin vào pháp luật, phải có thái độ đúng đắn với pháp luật - nghĩa là, có thái độ đồng tình và ý thức chấp hành pháp luật, không đồng tình và lên án những hành vi vi phạm pháp luật; qua đó, tạo thành thói quen hành động theo pháp luật. Vì vậy, người cán bộ lãnh đạo là người, hơn ai hết, phải tự đánh giá, tự ý thức được về bản thân mình, về cương vị của mình, không bán rẻ danh dự vì những hư danh và vì những đồng tiền bất chính (như có cán bộ lãnh đạo đã mắc phải). Hơn nữa, người cán bộ lãnh đạo phải là người có lòng tin tuyệt đối vào sự đúng đắn và công minh của pháp luật, bao giờ cũng đứng về phía pháp luật, bảo vệ pháp luật và hiểu rằng, mỗi hành vi pháp luật đúng đắn của mình là một tấm gương cho quần chúng noi theo. ý thức được điều đó, rèn luyện, điều chỉnh hành vi theo chuẩn mực đó, người cán bộ lãnh đạo đã nâng hành vi của mình thành những hành vi văn hóa pháp lý. Hành vi ứng xử tích cực đối với pháp luật tiến bộ là một dạng của văn hóa ứng xử: ứng xử theo pháp luật, ứng xử bằng pháp luật. Nghĩa là trong quan hệ pháp luật ứng xử sao cho có văn hóa. Nói cách khác,văn hóa pháp lý biểu hiện trong hành vi ứng xử là việc thực hiện pháp luật được tiến hành một cách tự nguyện. Một xã hội có văn hóa pháp lý là một xã hội mà trong đó pháp luật biến thành một thứ văn hóa ứng xử bình thường, nề nếp, tự nhiên, trong xã hội đó, các chuẩn mực pháp luật được đối xử như giá trị đạo đức. ứng xử theo pháp luật, ứng xử bằng pháp luật thì ở xã hội nào cũng có. Xã hội nào cũng đều phải thực hiện như vậy. Nhưng ứng xử theo pháp luật, ứng xử bằng pháp luật sao cho có văn hóa thì không phải ở trình độ xã hội nào cũng đạt tới. Khi việc thực hiện pháp luật chưa trở thành một thứ văn hóa ứng xử thì pháp luật hiện ra trần trụi chỉ là một công cụ cưỡng bức. Lúc đó luật pháp hiện ra như là "lưỡi gươm" khắc nghiệt của lẽ công bằng. Kẻ vi phạm pháp luật nếu có bị xa lưới pháp luật cũng chưa chắc thấy hết tội lỗi của mình. Khẩu có thể buộc phải phục mà tâm không phục. Người được pháp luật bênh vực cũng chưa chắc nhận ra lẽ công bằng mà luật pháp có trách nhiệm bênh vực. Khi việc thực hiện pháp luật trở thành một thứ văn hóa ứng xử, nghĩa là khi luật pháp được chấp hành và tuân thủ theo nề nếp một cách tự nhiên như người ta cần cơm ăn, nước uống hàng ngày thì pháp luật hiện ra như là một phương diện của lương tâm thuộc phạm trù đạo đức. Trong trường hợp đó,nếu người bị xâm hại về mặt pháp lý ngay cả khi chưa được pháp luật bênh vực cũng đã nhận ra, về nguyên tắc pháp luật sẽ đứng về phía mình để bảo vệ lẽ công bằng tự nhiên của cộng đồng. Kẻ vi phạm pháp luật nếu chưa bị xa lưới pháp luật cũng đã buộc phải nhận ra tội lỗi của mình, tự ăn năn hối lỗi. Lúc đó, giá trị luật pháp sẽ hiện ra trong mỗi con người và trong cộng đồng như là các giá trị đạo đức và văn hóa. Khác với đạo đức, tôn giáo hoặc thẩm mỹ, khi quyết định phương thức ứng xử trong đời sống xã hội, người ta có thể tán thành hoặc phản đối, chấp hành hoặc không chấp hành, tuân theo hoặc chống lại,v.v.. Nhưng với pháp luật thì không thể lựa chọn hành vi như vậy được. Với pháp luật chỉ có phục tùng. Nói đến văn hóa ứng xử là nói tới sự tự nguyện, sự tự do trong lựa chọn hành vi. Văn hóa pháp lý với tư cách là một dạng văn hóa ứng xử, nghĩa là nó cũng đòi hỏi người chấp hành luật pháp, phải chấp hành một cách tự do, tự nguyện. Thực hiện sự cưỡng bức một cách tự nguyện. Điều này có vẻ như là mâu thuẫn, nhưng đó lại là một trong những mặt bản chất của văn hóa pháp lý. Do vậy, xây dựng hành vi tích cực pháp luật của cán bộ lãnh đạo, ngoài việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật phải có một môi trường xã hội công khai, dân chủ; ở đó, lẽ công bằng, sự bình đẳng đều được mọi người tôn trọng; có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật của cán bộ lãnh đạo và nhân dân chặt chẽ. Hoạt động trong cơ chế đó, lúc đầu với cảm giác là bắt buộc nhưng khi đã trở thành thói quen, người cán bộ tự giác tuân thủ, mất đi cảm giác bắt buộc lúc đó giá trị văn hóa pháp lý được xác lập. Như vậy, đó không phải là sự lựa chọn hành vi pháp lý của người cán bộ lãnh đạo một cách tùy ý theo địa vị xã hội của mình, mà là năng lực phân biệt và sự lựa chọn hành vi pháp lý trên cơ sở nhận thức được tính tất yếu khách quan. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật của cán bộ lãnh đạo, tạo môi trường cho việc hình thành văn hóa pháp lý Văn hóa pháp lý là cơ sở quan trọng để củng cố nền pháp chế, đồng thời nền pháp chế vững mạnh sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa pháp lý. Bởi vì, trình độ văn hóa pháp lý của công dân có ảnh hưởng rất lớn tới việc củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung của pháp chế xã hội chủ nghĩa rất phong phú, nhưng cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội và công dân. Thiếu nguyên tắc này, hoạt động quản lý hành chính nhà nước sẽ không có cơ sở pháp lý bền vững, sẽ rơi vào tình trạng khủng hoảng không thống nhất hoặc thiếu đồng bộ. Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức pháp lý do các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả đem lại lợi ích cho xã hội và cho người lao động. Bảo đảm pháp chế không chỉ dựa vào việc thực thi pháp luật, mà hơn thế nữa, phải nhấn mạnh việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của mọi chủ thể trong xã hội; dù ở bất cứ đâu, ở cương vị nào, là cơ quan, tổ chức hay cá nhân đều phải xử sự theo pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật. Các biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý nhà nước như kiểm tra, giám sát là những biện pháp cơ bản mang tính nguyên tắc tối cao. Kiểm tra là phương tiện quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý những vi phạm pháp luật, phát hiện những yếu kém trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ trong thực thi công vụ. Kiểm tra là hoạt động không thể thiếu trong việc thực hiện quyền hạn của các chủ thể quản lý có thẩm quyền, được tiến hành thường xuyên, liên tục. Thông qua hoạt động kiểm tra, các chủ thể quản lý vừa có nhiệm vụ hoàn thiện các văn bản quản lý vừa có nhiệm vụ cải tiến biện pháp cũng như cách thức quản lý, đáp ứng yêu cầu của hoạt động chấp hành, điều hành và thực tiễn đặt ra. Giám sát là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đúng hay sai với những điều đã được quy định. Giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định. Đó là một nội dung của hoạt động quản lý nhà nước, là quyền của nhân dân lao động thông qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát hiện những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động, cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định. Cán bộ lãnh đạo trong mỗi cơ quan phải nắm được những yếu kém, những khó khăn, vướng mắc và những nhiệm vụ cần phải giải quyết để kịp thời điều chỉnh. Trong công tác cán bộ cũng vậy, kiểm tra, giám sát là hoạt động nhằm nắm chắc thông tin, diễn biến tư tưởng và hoạt động của cán bộ, để phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh, kịp thời tác động, điều chỉnh khi cần thiết làm cho cán bộ luôn hoạt động đúng hướng, đúng nguyên tắc, đúng pháp luật và những quy định khác… Qua thực tế chúng ta đã biết, có một số cán bộ lãnh đạo (cả ở trung ương lẫn ở địa phương), khi mới được bổ nhiệm hoặc được bầu, đều là những người có đầy đủ các phẩm chất theo yêu cầu đặt ra. Nhưng do thiếu tu dưỡng, rèn luyện và quan trọng hơn nữa là thiếu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức nên sau một thời gian hoạt động đã biến cơ quan, đơn vị hoặc địa phương mình tham gia lãnh đạo, thành một vương quốc riêng dần dần tha hóa, biến chất, sa ngã. Do đó, để giữ gìn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Cần thiết phải đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của cơ quan, tổ chức, đặc biệt là của quần chúng nhân dân đối với cán bộ lãnh đạo. Trong những năm qua thực tế đã cho thấy, quần chúng có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát cán bộ, phần lớn những vụ việc tiêu cực lớn là do quần chúng tố giác. Phải có quy chế để quần chúng thực hiện một cách tích cực hơn nữa trong vấn đề này. Chính V.I.Lênin đã từng nói, chỉ khi nào quần chúng thực sự tham gia vào kiểm tra, kiểm soát và thực sự kiểm tra, kiểm soát được hoạt động của bộ máy nhà nước thì lúc đó sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mới có thể coi là chắc chắn được. Kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo bằng pháp luật, trên cơ sở pháp luật để cán bộ thực hiện tốt chức năng, vai trò lãnh đạo của mình là một điều kiện cơ bản để phát triển và không ngừng nâng cao văn hóa pháp lý của người cán bộ lãnh đạo. Việc kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo phải chú trọng tính toàn diện, kịp thời, thận trọng, đều đặn, thường xuyên, đôi khi thực hiện một cách đột xuất để loại trừ tính chất đối phó. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ góp phần hạn chế bớt tiêu cực, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng, tránh được sự nghi ngờ của nhân dân đối với những cán bộ lãnh đạo tốt, giữ uy tín cho Đảng, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Qua đó, ý thức về tuân thủ và thực hiện pháp luật của cán bộ, cán bộ lãnh đạo, Đảng viên và quần chúng nhân dân ngày được nâng cao. Kết luận Văn hóa pháp lý là giá trị tinh thần trong lĩnh vực hoạt động pháp luật, vừa là phương thức vừa là kết quả hoạt động sáng tạo của con người; chi phối hành vi của các cá nhân, chi phối hoạt động của các tổ chức xã hội và của các cơ quan nhà nước. Văn hóa pháp lý được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế xã hội bảo đảm pháp luật, hành vi và lối sống theo pháp luật. Văn hóa pháp lý của cán bộ lãnh đạo là văn hóa pháp lý của một chủ thể xã hội đặc biệt - chủ thể giữ vai trò quyết định sự thành công hay thất bại trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị hoặc địa phương, cũng như nhiệm vụ chính trị của đất nước. Chủ thể đó là cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp chiến lược. Trong những năm qua, với chủ trương từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức văn hóa, chính trị, chuyên môn, thì kiến thức pháp luật cũng được quan tâm một cách đúng mức hơn. Trình độ hiểu biết pháp luật của cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo nói riêng đã từng bước được nâng cao; ý thức "sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật" đã ngày càng được nâng cao. Đa số quần chúng nhân dân và cán bộ lãnh đạo đã có nhận thức đúng về vị trí, ý nghĩa của sự hiểu biết pháp luật trong việc thực thi công vụ có hiệu quả. Cùng với quá trình thực hiện cải cách hành chính, văn hóa pháp lý trong lĩnh vực áp dụng pháp luật của cán bộ lãnh đạo cũng được quan tâm và từng bước nâng cao. Tuy vậy, ý thức pháp luật của một bộ phận cán bộ lãnh đạo còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ .Trong khi đó, việc phát triển nền kinh tế thị trường, mở rộng các mối quan hệ quốc tế, mở rộng và khuyến khích đầu tư nước ngoài đã làm nảy sinh nhiều mối quan hệ xã hội mới, phức tạp như, vấn đề pháp luật có yếu tố nước ngoài, sự va chạm với các quy phạm pháp luật nước ngoài v,v… khiến cho nhiều cán bộ lãnh đạo còn bỡ ngỡ. Thêm vào đó, phẩm chất chính trị, đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo giảm sút, họ lo thu vén cho lợi ích cá nhân, coi quyền lực của dân do dân ủy thác, khi nắm trong tay là phương tiện để kiếm chác và ban phát quyền lợi cho người cùng "cánh hẩu". Trong bối cảnh hiện nay, có thể nói, sự suy giảm phẩm chất chính trị, đạo đức của một bộ phận cán bộ lãnh đạo là nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến những hạn chế trong hoạt động của bộ máy chính quyền Nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức xã hội. Do vị trí xã hội, yêu cầu về đạo đức cá nhân của cán bộ lãnh đạo, tất yếu phải cao hơn người bình thường. Có đáp ứng được yêu cầu đó, thì người cán bộ lãnh đạo mới giữ được quyền uy trong quá trình thực thi công vụ. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do đó là điều kiện nhằm tạo ra một cơ chế xã hội bảo đảm thực hiện các giá trị văn hóa pháp lý của cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay. Để Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, nhận thức sâu sắc vấn đề hội nhập, thấm nhuần bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”, Đảng cộng sản Việt Nam đặt vấn đề: phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những năm vừa qua, nền kinh tế thế giới có những chuyển biến sâu sắc dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của quá trình phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo nên xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ. Đó cũng là một điều kiện để mở rộng và nâng cao văn hóa pháp lý của cán bộ lãnh đạo. Cán bộ lãnh đạo phải là người đi tiên phong, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật, coi sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật là một nguyên tắc. Từ đó sẽ hình thành một thói quen trong bất cứ hành vi thực thi công vụ nào của người cán bộ lãnh đạo, mỗi khi ra các văn bản, bao giờ cũng chú trọng tới việc kiểm tra, đối chiếu với các quy định hiện hành của pháp luật, kiên quyết thực hiện đúng những quy định của pháp luật và chỉ làm những gì pháp luật cho phép. Bởi lẽ, người cán bộ lãnh đạo là người, hơn ai hết, phải tự đánh giá, tự ý thức được về bản thân mình, về cương vị của mình, không bán rẻ danh dự vì những hư danh, vì những đồng tiền bất chính. Xây dựng hành vi tích cực pháp luật của cán bộ lãnh đạo, ngoài việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật phải có một môi trường xã hội công khai, dân chủ; ở đó, lẽ công bằng, sự bình đẳng đều được mọi người tôn trọng; có cơ chế và các chế tài kèm theo để kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật của cán bộ lãnh đạo và nhân dân chặt chẽ. Thực tế có một số cán bộ lãnh đạo, khi mới được bầu hoặc bổ nhiệm, đều là những người có đầy đủ các phẩm chất theo yêu cầu đặt ra. Nhưng do thiếu tu dưỡng, rèn luyện và quan trọng hơn nữa là thiếu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, của quần chúng nhân dân, nên sau một thời gian hoạt động đã biến cơ quan, đơn vị hoặc địa phương mình tham gia lãnh đạo thành vương quốc riêng, dần dần tha hóa, biến chất, sa ngã. Do đó, để giữ gìn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát cán bộ lãnh đạo bằng pháp luật, trên cơ sở pháp luật để cán bộ thực hiện tốt chức năng, vai trò lãnh đạo của mình cũng được xem là một điều kiện cơ bản để phát triển và không ngừng nâng cao văn hóa pháp lý của cán bộ lãnh đạo. Như vậy, để phát huy vai trò động lực của văn hóa pháp lý trong thực tiễn công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, phải tăng cường và tạo đầy đủ những điều kiện cần thiết cả cơ sở vật chất, cơ chế lẫn biện pháp như giáo dục, kiểm tra, giám sát… Điều đó, không chỉ có ý nghĩa đối việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà còn góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc./. Danh mục tài liệu tham khảo Lương Gia Ban (2003), Dân chủ ở nước ta hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Báo Công an nhân dân (2006), "Cần loại bỏ hai văn bản trái luật của ủy ban nhân dân thành phố”, (439). Bảy lăm năm Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Khang Thức Chiêu (chủ biên) (1996), Cải cách thể chế văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS. PTS. Thành Duy (1998), Cơ sở khoa học và nền tảng văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Vũ Dũng (1996), Văn hóa giao tiếp, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đại học quốc gia Hà Nội – Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đồng(1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Fernand Brauden (1992), Tìm hiểu các nền văn minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Tĩnh Gia (2001), "Giáo dục lý luận chính trị và đạo đức cho cán bộ hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (22), tr.48. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1994), Chủ nghĩa Mác - Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Khoa Văn hóa Xã hội chủ nghĩa (1996), Văn hóa dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Trung tâm nghiên cứu quyền con người (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội Luật gia Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Hồ Chủ Tịch và pháp chế. Thành phố Hồ Chí Minh. GS, PTS, Đỗ Huy (1997), Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Đình Khiên (1996), "Một số biện pháp chủ yếu nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ quản lý hành chính hiện nay", Tạp chí Quản lý nhà nước, (3). PGS, PTS, Trần Ngọc Khuê (1998), Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, NxbChính trị quốc gia, Hà Nội. Thanh Lê (1998), Văn hóa với đời sống xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mongtesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Quang Mỹ (1999), "Một số ý kiến về xây dựng văn hóa pháp luật ở nước ta", Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. GS. Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam – Truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Phạm Ngọc Quang (2000), Góp phần tìm hiểu sự phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Thị Kim Quế (2003), "Bàn về ý thức pháp luật", Tạp chí Luật học. Hoàng Thị Kim Quế (2004), "Văn hóa pháp lý - dòng riêng giữa nguồn chung của văn hóa dân tộc Việt Nam", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10). Sở Nội vụ Tuyên Quang (2006), Biểu tổng hợp trình độ cán bộ lãnh đạo các cấp tỉnh Tuyên Quang. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo (2005), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Minh Tâm (1998), "Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Luật học, (5). Lê Minh Tâm (chủ biên) (2004), Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng dtj sử dụng cán bộ pháp lý và những giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng cán bộ pháp lý hướng tới sự phát triển của đất nước thế kỷ XXI, Trường Đại học Luật Hà Nội. Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa (1998), Mấy vấn đề về quản lý Nhà nước và củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS. Chu Khắc Thuật, PTS. Nguyễn Văn Thủ (chủ biên) (1998), Văn hóa lối sống với môi trường, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam, Nxb.Tư pháp, Hà Nội. GS. VS. Hoàng Trinh (1996), Vấn đề văn hóa và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Phú Trọng (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (1996), Văn hóa trong phát triển và toàn cầu hóa, Hà Nội. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học hiện đại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Viện Khoa học chính trị (2000), Tập bài giảng chính trị học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Nghiên cứu nhà nước và Pháp luật (1996), Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1997), Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Thông tin khoa học xã hội (1992), Thuyết “Tam quyền phân lập" và Bộ máy nhà nước tư sản hiện đại, Hà Nội. Web: ngày 28 tháng 7 năm 2006. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV ve VHPL.doc
  • doc1.doc
  • docbia.doc
  • docCHU VIET TAT.doc
Tài liệu liên quan