TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
VĂN HÓA KINH DOANH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện: Kiều Thị Bích Hương
Lớp: A2- CN9
Hà Nội- 2003
LỜI CẢM ƠN
Quả là không thể nói hết được về Văn hóa kinh doanh- một phạm trù quá rộng lớn và tinh tế. Nghiên cứu chuyên sâu, tỉ mỉ về Văn hóa kinh doanh đã khó, với một sinh viên còn chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế trong môi trường kinh doanh lại càng khó h
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Văn hóa kinh doanh trên thế giới và vấn đề xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn. Để đi trọn vấn đề (trong khả năng có thể), hoàn thành cuốn khóa luận hôm nay, em phải nhờ vào sự giúp đỡ của nhiều người. Trước hết, em xin chân thành cảm ơn thày Phạm Duy Liên- Phó Chủ nhiệm khoa Kinh tế Ngoại thương- người đã hướng dẫn và chỉ bảo em cặn kẽ trong suốt quá trình làm khóa luận. Sự đào tạo, dạy dỗ của thày cô giáo trong khoa Kinh tế ngoại thương- trường ĐH Ngoại thương hơn 3 năm qua đã cung cấp nhiều kiến thức bổ ích cho em khi nghiên cứu và trình bày nội dung khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời em xin được cảm ơn nhà văn Lê Lựu đã cung cấp nhiều thông tin quý báu để em áp dụng vào bản khóa luận này.
Mặc dù khóa luận đã hoàn thành nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu xót, hạn chế trong nội dung và cách trình bày. Rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của thày cô để em có thêm những kinh nghiệm cho công tác.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn!
Sinh viên Kiều Thị Bích Hương
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày 11/9/2002, Trung tâm văn hóa doanh nhân được thành lập và là đơn vị trực thuộc Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Trung tâm không những có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng đội ngũ văn nghệ sỹ sáng tác và phục vụ doanh nhân mà còn là nơi để doanh nhân tụ lại sinh hoạt, giao lưu và bồi dưỡng văn hóa kinh doanh. Vì sao văn hóa kinh doanh lại quan trọng đến vậy? Nhà văn Lê Lựu đảm nhiệm cương vị Tổng giám đốc Trung tâm văn hóa doanh nhân đồng thời cũng là người đưa ra sáng kiến thành lập Trung tâm tâm đắc: “Chiến tranh đã qua đi hơn 30 năm, trong thời kỳ xây dựng đất nước, ai là lực lượng chính? Đó là các doanh nhân, hiện nay chúng ta đã có khoảng 10 vạn doanh nghiệp- họ đụng chạm đến quyền lợi thiết thực của hơn 80 triệu dân và họ xứng đáng được tôn vinh, khẳng định. Một xã hội có văn minh hay không cũng một phần quan trọng quyết định ở yếu tố văn hóa doanh nhân. Bước vào hội nhập, phải xây dựng nền tảng văn hóa cơ sở cho từng ngành, từng người mới mong giữ gìn được bản sắc riêng của mình. Có ý kiến cho rằng nên thành lập Viện nghiên cứu văn hóa cho doanh nhân. Làm sao để doanh nhân cũng như người dân nói chung nhận thức được làm giàu không chỉ bằng tiền mà còn bằng trí tuệ, tình cảm văn hóa. Mối quan hệ của nhân loại chính là tình cảm, tất nhiên trong kinh doanh phải có cạnh tranh nhưng phải giáo dục văn hóa kinh doanh làm sao để cuộc cạnh tranh ấy có văn hóa hơn thì sẽ đỡ độc ác, tàn bạo, bẩn thỉu và khinh miệt con người hơn. Nếu đã xác định doanh nhân là dũng sỹ trong xây dựng đất nước hôm nay mà xã hội cứ nhìn người ta như là con buôn, đám chụp giật, cơ hội, lừa đảo... thì làm sao họ trở thành nhân vật tiêu biểu mới cho dân chúng theo được. Bởi vậy, thay đổi quan niệm này, tuy không dễ, cũng là nhiệm vụ của Trung tâm văn hóa doanh nhân”.
Văn hóa kinh doanh luôn hiện hữu trong mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi môi trường sản xuất... Đời sống, nhận thức và xã hội ngày càng phát triển, yếu tố văn hóa càng được đề cao. Là một đề tài rộng với những khái niệm đang dạng (đôi khi khó nắm bắt) nhưng càng đi sâu vào tìm hiểu văn hóa kinh doanh, chúng ta càng rút ra được nhiều giá trị của cuộc sống từ những điều tưởng như đơn giản nhất.
Xuất phát từ tầm quan trọng của Văn hoá kinh doanh như trên em đã lựa chọn đề tài Văn hoá kinh doanh trên thế giới và vấn đề xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam làm khoá luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu và kết luận khoá luận, khoá luận tốt nghiệp được chia thành các chương:
Chương I: Lý luận về văn hoá kinh doanh
Chương II: Thực trạng xây dựng và phát triển văn hoá kinh doanh ở
Việt Nam trong những năm qua.
Chương III: Các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hoá kinh doanh mang bản sắc dân tộc Việt Nam trong thời gian tới.
Để hoàn thành đề tài này em đã sử dụng các phương pháp diễn dịch, quy nạp; xuất phát từ những hiện tượng, sự kiện cụ thể để tổng quát tình hình và đi đến kết luận chung, rút ra các bài học cũng như đề xuất biện pháp giải quyết.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1. Khái niệm và đặc điểm của văn hóa kinh doanh
a. Thế nào là văn hóa?
Cho đến hôm nay, những định nghĩ về văn hóa có giá trị nhất vẫn chưa làm thỏa mãn giới nghiên cứu. Vô vàn những định nghĩa khác nhau về văn hóa, thậm chí ngay trong một định nghĩa về văn hóa cũng phụ thuộc vào văn hóa. Tuy nhiên khái niệm văn hóa dù được tiếp cận từ góc độ nào cũng đều làm lộ ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp những đặc trưng về con người và về đời sống của con người. Từ góc tiếp cận này, ta có thể hiểu văn hóa là một khía cạnh của quan hệ giữa con người với thế giới bên trong và bên ngoài của nó- một “lát cắt” đi qua toàn bộ mối quan hệ phong phú và phức tạp của con người với thế giới hiện thực [1. Hồ Sĩ Quý, Vai trò của nhân tố văn hóa trong nền văn minh, Tạp chí Triết học số 4/93].
Theo một bản phúc trình năm 1995 của Ủy ban thế giới về văn hóa và phát triển của Liên hợp quốc, “văn hóa” có thể được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, văn hóa của một nước là những sinh hoạt trong “lĩnh vực văn hóa”, hay là “khu vực công nghiệp văn hóa” của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ, soạn nhạc, tạc tượng, vẽ tranh... nói chung là những hoạt động có tính văn chương nghệ thuật. Thứ hai, nhìn theo quan điểm nhân chủng và xã hội học, văn hóa là tập hợp những phong thái, tập quán và tín ngưỡng, là nền tảng, là chất keo không thể thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn xã hội. Nó là hiện thân những giá trị
được cộng đồng chấp nhận, dù có thể biến đổi từ thế hệ này sang thế
hệ khác.
Như vậy văn hóa là biểu hiện của cách thức con người tồn tại, là tổng thể những giá trị mà con người đã, đang và sẽ tạo ra. Văn hóa là thứ đặc trưng nhất của dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
b. Văn hóa kinh doanh và đặc điểm:
Văn hóa là sản phẩm của một quá trình được tích lũy qua nhiều thế hệ. Các nền kinh tế đâu đâu cũng chiều theo những nét đặc thù của lịch sử, cấu trúc xã hội, tâm lý học, tôn giáo và chính trị địa phương. Các lực lượng này tác động đến sở thích làm việc, tiêu thụ, đầu tư, tiết kiệm và đối mặt với rủi ro. Bản chất con người có thể không đổi, nhưng nó được khắc họa bởi văn hóa. Khái niệm cho rằng thành tích kinh tế không thể tách khỏi những đặc thù quốc gia là hiển nhiên, đó cũng chính là yếu tố hình thành nên văn hóa kinh doanh. Tóm lại văn hóa kinh doanh chính là cách thức hình thành và xây dựng một môi trường (bao gồm tập tục, quy định, thông lệ, thói quen, tư duy...) sản xuất, buôn bán trao đổi sản phẩm hoặc dịch vụ giữa cá nhân với cá nhân, tập thể với cá nhân và tập thể với tập thể mà trong đó yếu tố địa lý, thiên nhiên, gia đình, quốc gia, dân tộc đóng vai trò quyết định.
Gần đây, nhiều học giả kinh tế và xã hội, tiên khởi là nhà xã hội học người Pháp Pierre Bourdieu cho rằng, muốn hiểu văn hóa như một nhân tố trong đời sống kinh tế, và nhất là muốn đánh giá vai trò của nó trong tiến trình phát triển, thì nên nhìn nó như một loại vốn- tương tự như ba loại vốn thường biết khác (vốn vật thể, như máy móc, thiết bị; vốn con người, như kỹ năng, kiến thức; vốn thiên nhiên, gồm những tài nguyên do thiên nhiên cống hiến và môi trường sinh thái).
Thêm một bước, có thể phân biệt 2 dạng vốn văn hóa: vật thể và phi vật thể. Vốn văn hóa vật thể gồm những công trình kiến trúc, đền đài cung miếu, di tích lịch sử, những địa điểm có ý nghĩa văn hóa. Loại vốn này cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc đi vào sản xuất những sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, văn hóa cũng như ngoại văn hóa. Dạng kia, vốn văn hóa phi vật thể, là những tập quán, phong tục, tín ngưỡng và các giá trị khác của xã hội. Loại vốn văn hóa này- cùng những nghệ phẩm công cộng như văn chương và âm nhạc- là một loại dây, một thứ keo gắn kết cộng đồng. Nó cũng cung cấp một luồng dịch vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc dùng trong sản xuất những sản phẩm văn hóa trong tương lai. Từ những nhận xét trên, vài nét chính về liên hệ giữa văn hóa, kinh tế và phát triển dần hiện rõ.
Một là, muốn hội nhập vốn xã hội vào phân tích kinh tế ta phải xác định liên hệ giữa giá trị văn hóa và giá trị kinh tế. Lấy ví dụ vốn văn hóa vật thể, chẳng hạn như một ngôi nhà có tính di tích lịch sử. Ngôi nhà ấy có giá trị kinh tế như một kiến trúc (ngụ cư hoặc thương mại), biệt lập với giá trị văn hóa. Song giá trị kinh tế ấy có thể tăng lên, có thể là rất nhiều, nhờ giá trị văn hóa của nó. Do đó, lấy ví dụ, nhiều người sẽ sẵn sàng mua ngôi nhà đó một giá cao hơn giá trị vật thể thuần túy của nó. Giống như tranh của Van Gogh, Picaso... Hầu như mọi loại vốn văn hóa vật thể đều có thể được nghĩ đến như ngôi nhà lịch sử trong ví dụ, tức là chúng hòa quyện giá trị văn hóa vào giá trị kinh tế của vật thể, làm tăng thêm giá trị của vật thể ấy.
Trong trường hợp vốn văn hóa phi vật thể thì liên hệ giữa giá trị văn hóa và giá trị kinh tế phức tạp hơn, không phải cái này gây cái kia. Hiển nhiên, ngôn ngữ, âm nhạc và văn chương, tập quán và tín
ngưỡng... là những tài sản chung, có giá trị văn hóa vô cùng lớn, song chúng không có giá trị kinh tế theo nghĩa thông thường vì lẽ không thể được mua bán đổi chác trên thị trường như các hàng hóa hoặc dịch vụ khác. Nói cách khác, những dịch vụ xuất phát từ vốn văn hóa phi vật thể là có giá trị văn hóa và kinh tế, nhưng ở đây hai loại giá trị ấy hòa quyện lẫn nhau, không thể tách rời nhau.
Hai là, vốn văn hóa đóng góp được gì vào tổng thu nhập và tốc độ phát triển của một nước. Trong các mô hình phân tích tăng trưởng kinh tế, có hai yếu tố luôn được coi là cốt lõi cho phát triển: lao động và vốn vật thể.
Ba là vốn văn hóa giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Đóng góp của nó vào khả năng phát triển dài hạn không khác gì đóng góp của vốn thiên nhiên. Vì môi trường sinh thái là thiết yếu cho hoạt động kinh tế, bỏ bê môi trường qua sự khai thác quá đáng tài nguyên sẽ làm giảm sút sản năng và phúc lợi kinh tế. Không bảo dưỡng vốn văn hóa (để di sản đồi trụy, làm mất bẳn sắc văn hóa dân tộc) cũng phải gánh lấy những hậu quả tai hại như vậy.
2. Vai trò của văn hóa kinh doanh trong đời sống xã hội
Làm thế nào để tiếp cận được khách hàng? Đó là câu hỏi của tất cả doanh nhân. Đồng cảm chính là hai từ mà người kinh doanh mong muốn nhất để có được cảm tình của khách hàng. Và để có được sự đồng cảm, trước hết phải hiểu được tâm sinh lý, văn hóa của đối phương. Theo quan điểm của các nhà tâm lý học thì những người có thái độ và quan niệm về giá trị càng giống nhau thì sức hút giữa hai người càng lớn. Trong hoạt động kinh doanh, đó là yếu tố rất cần thiết để chinh phục khách hàng. Việc đưa hệ thống quản lý chất lượng ISO vào các doanh
nghiệp VN là rất sáng tạo, vì bản chất của ISO cũng là quá trình tái tạo. Có những doanh nghiệp thành công, có doanh nghiệp không thành công. Hiện nay nhiều doanh nghiệp chạy theo ISO không vì thực chất mà là muốn có cái danh để bán hàng. Thực tế ISO thì có danh nhưng không thể không thực chất. Các doanh nghiệp có thể tham khảo ISO để tái tạo, nhưng ISO là một quá trình chung, và mỗi công ty thì phải có một quá trình riêng để áp dụng tùy đặc điểm văn hóa kinh doanh của mỗi công ty. Vậy văn hóa kinh doanh là yếu tố vô cùng quan trọng.
Thử nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế ở một số nước châu á và Mỹ Latinh gần đây. Yuthavong- Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học công nghệ Thái Lan, phát biểu: “Có hai nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Thái Lan năm 1997 sau đó lan sang các nước Đông Nam Á và rộng hơn. Nguyên nhân trực tiếp là nợ nước ngoài quá nhiều, đầu tư không cân đối vào các ngành phi sản xuất, đặt tỷ giá đồng baht quá cao, thiếu rành mạch trong hệ thống ngân hàng và kinh doanh... làm cho các nhà đầu tư mất lòng tin. Cho dù trầm trọng đến mức nào, các nguyên nhân này cũng chỉ mới châm ngòi. Nguyên nhân cốt lõi dẫn đến cuộc sụp đổ là thiếu tri thức và trình độ lành nghề để có thể cạnh tranh và bảo đảm phát triển bền vững. Cái lợi thế truyền thống của Thái Lan về giá trị nhân công và nguyên liệu đã hoàn toàn mất hiệu lực và tan biến ngay trong cơn sốc kinh tế đó”. Thái Lan được liệt vào danh sách 49 nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao nhất thế giới bên cạnh các cây đại thụ ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật và các nền kinh tế mới trỗi dậy như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan v.v... [theo World Competitiveness Yearbooks]. Nhiều quy trình công nghệ hiện đại đã có mặt trên đất Thái Lan, song các tri thức và bí quyết công nghệ lại không nằm trong đầu
người Thái. Thành ra văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ mới chính là những yếu tố quyết định quá trình phát triển bền vững.
Yếu tố nào đã làm cho Sony, Toyota, Honda... chiếm lĩnh thị trường thế giới, làm thay đổi hẳn hình ảnh nước Nhật trên vũ đài kinh tế thế giới và đem lại vinh dự cho người Nhật vào thời kỳ 1960- 1980? Câu trả lời chỉ có thể là: sức sáng tạo và tinh thần doanh nghiệp. ở đây tinh thần doanh nghiệp cũng chính được khởi nguồn từ văn hóa kinh doanh. Người Nhật vốn nổi tiếng về chí lớn, tinh thần tự lập và tinh thần mạo hiểm, các yếu tố thuộc về tính cách đã hỗ trợ cho sức sáng tạo, làm sáng tạo thăng hoa cùng sự nhạy bén về tâm lý người tiêu dùng. Ví dụ chỉ cần bằng một ngữ cảm phong phú, Morita đã ghép 2 từ sound (âm thanh) và sonny (cậu bé) thành Sony- tên gọi vừa dễ nhớ, vừa có nhiều ý nghĩa đối với những sản phẩm phát ra âm thanh để đặt tên cho nhãn hiệu của sản phẩm và sau đó là tên công ty. Đánh trúng tâm lý người tiêu dùng, Morita đã làm cho tên Sony thẩm thấu nhanh chóng trên thị trường thế giới.
Văn hóa kinh doanh không phải thứ bất biến trong mỗi người, mỗi phương châm của công ty, mỗi vùng, mỗi dân tộc mà nó phải luôn được cập nhập thông tin để biến đổi phù hợp với sự phát triển của cuộc sống- đó là quy luật và cũng là lý do vì sao cần có văn hóa kinh doanh. Ví dụ đâu là bí quyết thành công của Công ty kinh doanh địa ốc Solo ở Bắc Kinh (Trung Quốc) hiện được đánh giá là một doanh nghiệp làm ăn phát đạt, có sản phẩm bán chạy nhất khu vực? Bí quyết thành công của Solo là đánh trúng thị hiếu của khách hàng trẻ tuổi, có học và bắt đầu có tiền. Trong cuộc sống hôm nay, người Trung Quốc không thể khư khư giữ lấy nếp cũ là hướng về một đại gia đình, nơi nhiều thế hệ sống với nhau, nơi bữa cơm phải lúc nào cũng đủ đầy các thành viên, người phụ nữ phải có trách nhiệm lo toan tất cả công việc gia đình... Solo đã xây dựng những căn hộ nhỏ, thiết kế đẹp, trang nhã, tiện nghi, hợp với túi tiền và nhu
cầu của giới trẻ độc thân, những gia đình trẻ ít người. Cụ thể người ta cho xây những căn hộ vừa và nhỏ từ 18m2 đến 80m2 để thu hút khách hàng trẻ tuổi. Những căn hộ này đáp ứng các tiêu chí: nhỏ nhưng đẹp, tiện nghi, có nhiều phòng, đủ ánh sáng và giá cả phải chăng phù hợp với các hộ độc thân và những gia đình gồm 3 thành viên.
Vì sao Singapore- một đất nước vô cùng nhỏ bé- lại có sự phát triển đáng kinh ngạc như vậy? Hãy nhìn lại chính sách của ông Lý Quang Diệu, nhân vật của thế kỷ 20. Mặc dù về mặt cá nhân, ông Lý Quang Diệu có vẻ không cảm tình lắm với Mỹ nhưng ông ưu tiên cho đầu tư của Mỹ vì thường đi kèm công nghệ cao, so với đầu tư vào châu Á, thường mang kỹ nghệ thấp. Nếu ví nước Mỹ phát triển nhờ biết bước lên vai khổng lồ nhân loại thì cũng có thể ví Singapore phát triển nhờ biết bám thắt lưng Mỹ- một đất nước nhỏ hẹp, dân số ít như Singapore, bắt buộc con người phải có cách thức suy nghĩ, hành động khôn ngoan “núp bóng lớn mà tiến”, tính cách ấy cũng chính là một thứ văn hóa kinh doanh áp dụng trên thương trường.
Những gì thực sự thuộc về truyền thống thì chẳng thể nào biến mất, vì nó lắng đọng, bám chặt ở tầng sâu nhất trong tâm khảm, trong cách tư duy của mỗi người. Dân tộc Nhật có nền văn hóa lâu đời nên họ không sợ đánh mất truyền thống khi bắt chước phương Tây một cách toàn diện, kể cả các chi tiết nhỏ nhặt. Chiến lược bắt chước để tự vệ giúp họ làm nên nhiều chuyện thần kỳ. Người Nhật tự hào không một chút mặc cảm về tiến trình Âu Mỹ hóa nhanh kỳ diệu của mình, họ rất muốn biết người khác thấy họ bắt chước nước ngoài đã giống chưa. Điều đáng nói là đằng sau sự bắt chước có vẻ mù quáng ấy là cả một quyết sách khôn ngoan: bắt chước để cho mình tồn tại và giàu mạnh lên bằng và hơn kẻ mình bắt chước. Chiến lược này đã trở thành truyền thống dân tộc và là một trong
các bí quyết khiến Nhật trở thành một quốc gia châu á thịnh vượng nhất. Do đâu họ có tính hiếu kỳ và hay bắt chước như vậy? Có thể giải thích về đặc điểm địa lý và tính cách thế này: Nhật luôn ở ngoài rìa những nền văn minh lớn, bởi vậy họ luôn có mặc cảm của một anh nhà quê, khao khát muốn học hỏi, bắt chước người thành thị. Trước thế kỷ 19, họ hướng về Trung Quốc. Trong khi giai cấp thống trị Trung Quốc tự mãn luôn nghĩ nước mình là trung ương chi quốc, trung tâm tinh hoa, thì tầng lớp quan lại Nhật chưa bao giờ cho rằng nước mình là trung tâm của thế giới. Họ hăng hái tiếp thu văn hóa Trung Quốc: mượn chữ Hán để làm chữ viết, tổ chức triều chính phỏng theo triều đình Trung Quốc, tiếp nhận Khổng giáo, Phật giáo, tuy từ xưa họ đã có Thần đạo (Shinto)... Khi thấy trung tâm văn minh đã chuyển sang phương Tây, họ lập tức đổi hướng, vua Minh Trị tổ chức lại toàn bộ bộ máy nhà nước: xây dựng hệ thống chính trị theo kiểu Đức, hạm đội kiểu Anh, nền hành chính kiểu Pháp, công nghiệp hóa kiểu Mỹ, bỏ chế độ phong kiến... Nhờ chiến lược “bất đề kháng” và bắt chước phương tây, Nhật thoát khỏi bị ngoại bang chiếm đóng và nhanh chóng thực hiện tham vọng trở thành cường quốc số một châu Á... Bắt chước thành công như vậy là do người Nhật có hai ưu thế. Thứ nhất, họ thực sự khiêm tốn, vì bắt chước là tự thừa nhận người khác giỏi hơn mình. Hình như họ không bao giờ tự mãn và không có bệnh sĩ diện rởm. Thứ hai, họ tin chắc nền văn hóa Nhật thực sự xán lạn, bền vững, không việc gì phải sợ vì bắt chước mà bị xói mòn, ngược lại càng tỏa sáng hơn, tận sâu thẳm tâm hồn người Nhật không hề bị hoen ố bởi bất cứ cái gì xa lạ, họ gọi đó là “tinh thần Nhật, kiến thức phương Tây”. Sau mấy nghìn năm du nhập văn hóa Trung Quốc, nhưng văn minh Nhật vẫn được coi là một trong 8 nền văn minh lớn của thế giới. Ngày nay, văn hóa Nhật đang tác động mạnh mẽ tới cả thế giới qua các sáng tạo như karaoke, truyện tranh Doremon, trò chơi điện tử, máy nghe băng Walkman, đồng hồ Quartz, máy ảnh kỹ thuật số...
3.Sự khác biệt về văn hóa kinh doanh của các châu lục
a.Nhân tố văn hóa trong kinh doanh ở phương Đông:
Khác với phương Tây, văn hóa phương Đông có nguồn gốc nông nghiệp, đặc trưng là: trong ứng xử với môi trường tự nhiên thì nghề trồng trọt buộc người dân phải định cư chờ cây cối lớn lên, ra hoa, kết quả và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên cư dân có ý thức tôn trọng thiên nhiên và có ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Do vậy các thành tựu về chinh phục thiên nhiên của người phương Đông kém hơn phương Tây. Trong tổ chức cộng đồng, người phương Đông ưa sống theo nguyên tắc trọng tình nghĩa. Lối sống trọng tình cảm đó dần dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, tâm lý coi trọng tập thể (đối lập với phương Tây)- mang đậm tính nhân văn. ở phương Đông, Nhật Bản là nước đi tiên phong trong việc phát huy nhân tố văn hóa để phát triển kinh tế: “Sự thần kỳ kinh tế sau thế chiến thứ II chính là đỉnh cao vinh quang trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Nhật”. Đây là ví dụ điển hình cho sự thành công kỳ diệu trong lĩnh vực kinh doanh kết hợp với những nhân tố văn hóa dân tộc, cũng như với tư cách là một xã hội phát triển.
Văn hóa Nhật có 4 đặc trưng:
- Người Nhật có phương pháp suy nghĩ thiên về tư tưởng thực tế và kinh nghiệm chủ nghĩa. Nét tiêu biểu cho tư tưởng Nhật là tư tưởng chính trị và lý luận có tính chất thực tiễn.
- Về mặt kết cấu tinh thần, tâm linh người Nhật dựa trên cơ sở một tôn giáo khởi nguyên có tính chất “bài siêu việt”, đó là một tôn giáo không có thần thánh cao siêu, độc nhất như đức Phật trong Phật giáo hay trong Thiên chúa giáo. Trong quá trình phát triển người Nhật đã tiếp nhận các tôn giáo khác nhưng chỉ có Nho giáo là đã góp phần củng cố ý thức người Nhật. Cái mà Nho giáo đem lại cho người Nhật là lý luận cụ thể để thực hành.
- Khả năng cảm thụ thế giới tự nhiên xung quanh một cách tinh tế và giàu hình tượng. Một đặc trưng khác xuất hiện từ thời cận đại- đó là đặc trưng của “sức mạnh tạo nên một quốc gia có tốc độ phát triển đáng kinh ngạc”.
Những đặc trưng kể trên đã tạo cho người Nhật những đặc điểm có tính bền vững: yêu lao động, cần mẫn, hiếu học, yêu thiên nhiên, có lòng tự trọng dân tộc và nhạy cảm trước những thay đổi của cuộc sống. Trung thành với đất nước, tôn kính tổ tiên, tôn kính Hoàng đế, tôn kính người trên. Biết giữ thanh danh, trung thực, thích sống thực tế hơn là theo đuổi các tư tưởng, tín điều cao siêu, và “tôn giáo” thịnh hành nhất ở Nhật cũng là tiêu chuẩn đạo đức hàng đầu của người Nhật hiện này là: Lao động. Từ mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trên hình thành một khái niệm “kinh doanh kiểu Nhật”, nó đã tạo cho các xí nghiệp những động lực mạnh mẽ trong việc du nhập, áp dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh. Nó khắc phục sự đối lập trong mối quan hệ giữa người công nhân và người quản lý bởi người công nhân không sợ bị sa thải. Các mối quan hệ trong xí nnghiệp được biểu hiện như là mối quan hệ trong “gia đình”, trong “nhà” và được hình thành từ những biến thể của các giá trị văn hóa gia đình. Mọi người sống và làm việc trong “nhà” đều có chung một nhận thức rằng họ phải làm có trách nhiệm, quan tâm tới công việc và mọi mặt đời sống, tình cảm của nhau. Mặt khác, ở đây ta cũng thấy có ảnh hưởng của tư tưởng “danh, phận” của Khổng giáo, thể hiện ở lòng tự hào của mọi người khi được là thành viên của một công ty, một xí nghiệp có tiếng tăm, kinh doanh thành công trên thương trường. Bởi vậy người công nhân có thái độ tích cực, chủ động hợp tác, tìm tòi phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật...
Tuy nhiên, nước Nhật đã và đang bước qua những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 trong thời kỳ suy thoái. Nhận xét riêng về tinh thần của lớp trẻ, ông Masahiko Ishizuka- Tổng GĐ Trung tâm Báo chí quốc tế Nhật Bản cho rằng họ đang có phần bi quan về tương lai của đất nước, tỷ lệ thất nghiệp cao nhưng thanh niên lại thiếu kiên nhẫn với những công việc đơn điệu và không có cơ hội thăng tiến. Một cơ cấu kinh tế đang áp dụng đã có vẻ lỗi thời, phù hợp cho những trung niên- cần việc làm ổn định để nghĩ đến khoản tiền về hưu hơn là sự tích cực sáng tạo, đổi mới và phiêu lưu. Theo ông, vấn đề bây giờ là không nên chỉ nhìn vào tệ nạn xã hội cách sống để phê phán giới trẻ mà cần có một cơ chế kinh tế- xã hội thích ứng để nhận thức và khai thác đúng tiềm năng của thanh niên.
Nội các của Thủ tướng Koizumi mới hình thành trong thế kỷ 21 đang phải đáp ứng đòi hỏi của người dân về một chính sách ngoại giao và kinh tế quyết đoán, hiệu quả hơn. Giáo sư Osamu Nariai (Trường ĐH Reitaku) người coi ASEAN như ngôi nhà thứ 2 của mình trong buổi hội thảo về kinh tế Nhật đã dùng hình ảnh núi Phú Sĩ để minh họa biểu đồ các chỉ số tăng- giảm và nền kinh tế bong bóng không thành công của Nhật trong thập niên 90. Cuộc khủng hoảng tiền tệ châu á năm 1997 giúp người Nhật nhận ra mô hình của mình đang có vấn đề. Thành công ở thập kỷ 80 không thể là hình mẫu ưu việt và kéo dài mãi trước một thế giới đang thay đổi với tốc độ chóng mặt. Cái gọi là “Japan as number one” (Nhật Bản số một) thực tế đang bị lung lay trong thị trường quốc tế cạnh tranh khốc liệt. Tự hào nhưng không nên ảo tưởng. Có một cái tên không thể không nhắc tới trong các cuộc hội thảo về kinh tế, chính trị Nhật: Trung Quốc. Sản phẩm Nhật chất lượng số một nhưng muốn mua đồ ít tiền, dạo quanh các cửa hàng 100 yen hàng rẻ chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc. Sự phát triển và vươn mạnh của nền kinh tế Trung Quốc, Hàn Quốc, khu vực ASEAN... là cơ hội thuận lợi để hợp
tác nhưng cũng là thách thức cho thị trường tiêu thụ sản phẩm Nhật. Vẫn giáo sư Osamu Nariai cho rằng mỗi khi nước Mỹ cấp một khoản viện trợ nào đó, họ đều nắm được mục tiêu cụ thể, Nhật vốn được mệnh danh “nước viện trợ” nhưng cái đích cuối cùng lại chưa giải thích được, nói cách khác, phương thức thực hiện chưa thực sự hiệu quả như mong đợi. Cần phải xây dựng một chiến lược ngoại giao, hợp tác kinh tế dựa trên sự thay đổi của thế giới. “Cùng hành động, cùng tiến bộ” là khái niệm cơ bản đưa ra trong Năm Giao lưu Nhật Bản- ASEAN 2003.
Sự phát triển thường tuân theo bản đồ hình sin, tức là có lên có xuống. Khi nước Nhật đang trên đà suy thoái thì châu á lại nổi lên những ngôi sao kinh tế khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Ấn Độ, Thái Lan... Nằm bên những con sông huyền thoại, sông Hằng, sông Nil, sông Mê Kông... bù đắp phù sa và đời sống trồng trọt, chăn nuôi cũng như đời sống tinh thần cho người dân châu Á. Sự đông đúc (quan niệm trời sinh voi trời sinh cỏ nên đẻ nhiều...), tinh thần cần cù, gắn kết và tôn sùng các hiện tư ợng thiên nhiên của người dân châu Á đã đem lại cho họ sự trả công xứng đáng: đứng hàng đầu trong xuất khẩu gạo, cà phê, chè... và đặc biệt là xuất khẩu lao động chính là những nước châu Á như Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc... Không những thế sự kiên trì, khéo léo và khả năng... bắt chước tài tình là một trong những yếu tố quan trọng giúp Hàn Quốc vươn lên thành con rồng châu Á, chúng ta thử nghĩ về các sản phẩm điện tử của Hàn Quốc đang tràn ngập thế giới để chiêm nghiệm về điều này. Kim Woo Chong- ông chủ tập đoàn Daewoo đã xây dựng thương hiệu của mình bắt đầu từ ước mơ “sản phẩm làm ra thuộc hàng tốt nhất”, con đường phấn đấu của ông nổi tiếng bởi những quan niệm: coi giấc ngủ trưa “dẫn tới sự mất mát giờ lao động rất nghiêm trọng”, không có khái niệm “vừa đủ” mà phải là “đã cố gắng hết mình chưa”, “có thể làm được sản phẩm tốt hơn hay không”, “hãy
làm việc cần cù và sống thanh đạm”... Ấn Độ có thể không phải nước sáng tạo ra máy vi tính, Internet... nhưng các sản phẩm phần mềm của Ấn Độ hiện giờ khiến nước Mỹ và Tây Âu cũng phải kính nể với khả năng sản xuất phần mềm xuất khẩu tại Bangalore, nơi được coi là “Thung lũng Sillicon của Ấn Độ”. Và đất nước này còn tiến xa hơn nữa bởi nguồn nhân lực dồi dào, đôi bàn tay khéo léo và bộ óc tinh nhanh và có khả năng tiếp thu công nghệ cao: công nghệ thông tin, nghiên cứu vũ trụ, năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học. Đài Loan cũng phát triển mạnh nhờ đặc điểm này còn Thái Lan- đất nước nổi tiếng vì sản phẩm rẻ (nhân công, nguyên liệu rẻ), du lịch vừa kết hợp đặc trưng văn hóa dân tộc vừa thuận tiện kiểu Âu châu (cần gì có nấy) đã có những bước tiến nhảy vọt... Những điển hình trên cũng là minh họa sống động cho cách biết phát huy đặc trưng văn hóa phương Đông trong sự phát triển hôm nay.
b. Nhân tố văn hóa trong sản xuất kinh doanh ở phương Tây
Lịch sử đã hình thành 2 vùng văn hóa lớn là phương Tây và phương Đông: phương Tây là khu vực Tây- Bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến dãy Uran), phương Đông là khu vực Đông- Nam gồm châu á và châu Phi. Hai vùng này có sự khác nhau về mọi mặt, từ môi trường sống cho đến ngôn ngữ: trong khi ngôn ngữ phương Tây biến hình thì các ngôn ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập. Trong khi người phương Tây coi trọng cá nhân thì người phương Đông coi trọng cộng đồng. Môi trường sống của người phương Đông là xứ nóng, mưa nhiều, với các con sông lớn và đồng bằng trù phú. Còn phương Tây là xứ lạnh với khí hậu khô không thích hợp cho thực vật sinh trưởng. Hai loại môi trường này làm cư dân hai vùng phải sống bằng 2 nghề: phương Đông sống bằng nghề trồng trọt là chủ yếu còn phương Tây lại sống bằng nghề chăn nuôi. Do vậy làm xuất hiện hai loại hình văn
hóa: văn hóa gốc nông nghiệp đặc trưng phương Đông và văn hóa gốc du mục đặc trưng cho phương Tây.
Loại hình văn hóa gốc du mục có đặc trưng: trong ứng xử với tự nhiên thì nghề chăn nuôi buộc cư dân phải đưa gia súc đi đến những nơi có cỏ do đó phải sống du cư, nay đây mai đó, ít phụ thuộc vào thiên nhiên nên sinh ra coi thường tự nhiên dẫn đến tham vọng chinh phục tự nhiên. Đó cũng là một trong những nhân tố khiến phương Tây hơn hẳn phương Đông trong lĩnh vực chinh phục tự nhiên. Trong tổ chức cộng đồng thì coi trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ, coi trọng vai trò cá nhân và ứng xử theo nguyên tắc, luật định, do vậy người phương Tây có lối sống thực dụng, ganh đua, cạnh tranh nhau một cách khốc liệt. Trong dòng chảy của cuộc ganh đua, cạnh tranh này, người phương Tây đã quên mất một yếu tố: tính nhân văn. Vì vậy văn hóa phương Tây không mang đậm tính nhân văn như văn hóa phương Đông.
Đề cập về nhân tố văn hóa trong kinh doanh, ở phương Tây đã sớm được các nhà khoa học quan tâm. Trước hết phải kể nhà triết học Pháp A.Comte (1798- 1857), người đã nêu ra quy luật về ba trạng thái để trình bày ba giai đoạn phát triển tinh thần khác nhau tương ứng với 3 giai đoạn phát triển kinh tế- kỹ thuật khác nhau, đó là kỷ nguyên thần học, kỷ nguyên siêu hình và kỷ nguyên thực chứng. Nhà xã hội học Marx Weber (1884- 1920) trong “Tinh thần đạo Tin lành và Chủ nghĩa tư bản”, ông đã chứng minh sự ra đời của Chủ nghĩa Tư bản bắt nguồn từ đạo Tin lành ở Tây Âu. Đạo Tin lành là một tôn giáo cải cách chống lại Thiên chúa La Mã. Nó chủ trương chỉ tin vào kinh thánh, mỗi người nên tực tiếp “thắt lưng buộc bụng”, rất
cần thiết cho thời kỳ tích lũy tư bản, góp phần ra đời của chủ nghĩa tư bản châu Âu.
Ta có thể lấy đặc tính trong kinh doanh của người Mỹ để minh chứng cho “tinh thần phương Tây”: thực dụng và hiệu quả là những yếu tố tiên quyết. Mọi nơi trên nước Mỹ dựa hẳn vào tiếng tích tắc của thời gian, tán gẫu được xem là “ngựa bị nhốt trong lồng” vì nó không đua được. Công việc là trên tất cả và làm như thế nào không cần biết, chỉ biết ở kết quả. Hợp doanh với nhau cụ thể và có hiệu quả trước, sau đó mới có quan hệ tình cảm- xã hội. Người tiêu thụ sẵn sàng lái xe đi xa cả hàng trăm km chỉ để mua được vài món hàng sale rẻ vài cent. Chỉ có 2 món hàng duy nhất trong hệ thống có mặc cả là xe ô tô và nhạc. Mọi món hàng bán lẻ, đều cộng gộp thêm từ 6%- 8% trị giá, gọi là “thuế bán”, thuế này chính quyền thu sau. ăn quán đều phải cho tiền tip từ 1 USD đến 20% trị giá bữa ăn. Bí ẩn sau cùng và quyết định doanh thu, đó là lobby- tức “vận động hành lang”. Để có được một thương vụ, để lọt vào hệ bán lẻ, hay để có một cơ hội tốt, đều phải biết lobby, tức “đút lót chiêu đãi”, những nơi thuận lợi là trường đua ngựa nổi tiếng Churchill Down, khu sòng bài Las Vegas.
Biế._.t mình biết người, trăm trận trăm thắng, đó chính là lý do tại sao các doanh nghiệp khi muốn làm ăn với người Mỹ đều tìm hiểu phong cách kinh doanh của họ. Ví dụ bạn có thể kinh doanh với một người Mỹ mà không cần một quan hệ cá nhân nào (điều này hoàn toàn ngược lại với phong cách kinh doanh Việt Nam nói riêng, phương Đông nói chung). Hãy bắt đầu công việc bằng cách nêu rõ mục đích của bạn. Hãy tập trung vào mục tiêu thay vì rào trước đón sau, quanh co. Người Mỹ thường dứt khoát trong việc từ chối hoặc nhận lời mời. Người ta nói người Mỹ thực dụng vì trong bữa ăn họ cũng có thể ký được hợp đồng, nhiều bữa ăn hoặc các buổi chiêu đãi tại nhà hàng là nhằm trao đổi kinh doanh với
khách hàng. Người Mỹ luôn tận dụng thời gian một cách triệt để. Trong một cuộc họp, nếu có vấn đề không hiểu, bạn nên hỏi trực tiếp người diễn thuyết, không nên quay sang người bên cạnh, người Mỹ có thể hiểu lầm đó là một hành động thô lỗ, không quan tâm đến người nói. Nói chung họ không chịu đựng được những lời thì thầm của người châu á. Người Mỹ luôn sử dụng hợp đồng trong mọi tình huống. Với họ hợp đồng là kết thúc. Sau khi ký hợp đồng họ sẽ không chịu mang theo bất cứ một trách nhiệm nào ngoài những điều khoản của hợp đồng. Do vậy, một bản hợp đồng của người Mỹ thường rất dài. Trong công việc làm ăn, người Mỹ coi việc nhận quà tặng đồng nghĩa với việc nhận hối lộ, họ cũng không bao giờ tán gẫu hoặc bàn tán về đồng nghiệp. Đó là điều tối kỵ.
Xét một cách tổng thể, văn hoá kinh doanh với những đặc điểm nội hàm của nó đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong nền kinh tế mỗi gia đình, quốc gia, khu vực, thế giới mà còn giúp chúng ta nhận diện, khám phá về nhân sinh quan, thế giới quan và thúc đẩy xã hội tiến bộ của loài người ngày một hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
1. Sự ra đời và phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong vùng văn hóa phương Đông, thuộc góc tận cùng phía đông- nam nên có một nền văn hóa gốc nông nghiệp điển hình mang đầy đủ các đặc trưng của văn hóa phương Đông.
Các đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
Tiêu chí
Văn hoá gốc nông nghiệp
Đặc trưng gốc: - Địa hình
- Nghề chính
- Cách sống
- Đồng bằng
- Trồng trọt
- Định cư
Ứng xử với môi trường tự nhiên
Tôn trọng, sống hoà hợp với thiên
nhiên
Lối nhận thức, tư duy
Thiên về tổng hợp và biện chứng
(trong quan hệ); chủ quan, cảm tính và kinh nghiệm
Tổ chức cộng đồng:
- Nguyên tắc
- Cách thức
- Trọng tình, trọng đức, trọng văn
- Linh hoạt, dân chủ trong tập thể
ứng xử với môi trường xã hội
Dung hợp trong tiếp nhận, mềm
dẻo, hiếu hoà trong đối phó
[7. nguồn: Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá VN, NXB Giáo dục, 1997]
Cuộc sống nông nghiệp, nhất là nông nghiệp lúa nước cùng một lúc phụ
thuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên, vì vậy, người nông dân
phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà sống. Do vậy trong văn hóa Việt Nam, “tính cộng đồng” rất được đề cao, đó là nét đặc trưng số một của làng xã Việt Nam. Cũng chính vì lẽ đó mà tổ chức cộng đồng của Việt Nam có nét riêng biệt khác hẳn các nước khác. ở Việt Nam, con người luôn hòa vào tập thể. Ngược lại, ở phương Tây, vai trò cá nhân được coi trọng và khuyến khích. ở cấp độ làng xã, thì làng xã phương Tây có tổ chức lỏng lẻo, rời rạc. Còn ở Việt Nam, làng xã có tổ chức chặt chẽ, nó chính là môi trường sống, là tập thể cộng đồng chủ yếu của người Việt Nam. Do nhu cầu ứng phó với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, cả làng phải hợp sức mới có hiệu quả. Vì thế ở nông thôn, người dân Việt Nam liên kết chặt chẽ với nhau tới mức “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Song cũng không phải vì thế người Việt Nam xem nhẹ quan hệ huyết thống, “một giọt máu đào hơn ao nước lã”.
Đối với nền văn hóa gốc nông nghiệp như Việt Nam thì làng xã là đơn vị cơ sở quan trọng nhất. Làng xã là một hình thức tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, nguyên tắc cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng với nhau, mỗi người đều hướng tới người khác. Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất. Do vậy, người Việt Nam luôn đoàn kết, sẵn sàng giúp đỡ nhau. Và đó cũng chính là cơ sở tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng. Mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo lấy mọi việc để đảm bảo đời sống của mình, từ đó hình thành nên nếp sống tự cấp tự túc ở nông thôn Việt Nam.
Trong làng xã Việt Nam, người dân ứng xử theo nguyên tắc trọng nghĩa, tất yếu dẫn đến trọng đức, trọng văn... Thái độ trọng đức thể hiện ngay trong việc tuyển lựa nhân tài: “ngoài những khoa thi mở hàng năm ta còn có thêm khoa Hiếu liêm... để tuyển dụng cả những người không có học hay vì một lẽ gì đó học mà không đi thi, phần nhiều là người hiền đức
được dân chúng cả vùng hâm mộ mà đề cử lên cho vua dùng, tin tưởng rằng những người ấy được dùng thì dân sẽ được nhờ” [2. Lê Văn Siêu, Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, NXB Cà Mau, 1993]. Nguyên tắc trọng tình kết hợp lối tư duy tổng hợp và biện chứng đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn biến đổi cho thích hợp với từng hoàn cảnh sống cụ thể. Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện: co giãn giờ giấc, thiếu tôn trọng pháp luật... Nó dẫn đến tệ “đi cửa sau” để giải quyết công việc. Lối sống trọng tình nghĩa, đạo lý, lối ứng xử thiên về tình cảm là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển ý thức pháp luật và các quan hệ pháp lý. Nhưng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của nó trong việc góp phần làm ổn định xã hội tạo nên nét đẹp độc đáo trong quan hệ giữa con người với con người.
ở Việt Nam, văn hóa làng xã càng nổi bật, rõ nét bao nhiêu thì văn hóa đô thị càng mờ nhạt bấy nhiêu. Sức mạnh của truyền thống văn hóa nông nghiệp đã không cho phép nông thôn Việt Nam tự chuyển thành đô thị. Vì vậy ở Việt Nam có những làng xã nông thôn thực hiện chức năng kinh tế của đô thị, đó là các “làng công thương” như làng Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), làng làm đồ gốm, làng Bưởi (Từ Liêm, Hà Nội), làng giấy... Do tính cộng đồng, cả làng làm cùng một nghề tạo ra cùng một loại sản phẩm hay buôn cùng một mặt hàng nên không có trao đổi nội bộ. Mặt khác do tính tự trị, người dân trong làng sống tự túc khép kín, ít có nhu cầu buôn bán giao lưu với bên ngoài nên đã khiến cho các “làng công thương” này không thể trở thành đô thị được. Nông thôn Việt Nam không những kìm hãm không cho làng xã phát triển thành đô thị mà còn chi phối đô thị một cách quá đáng làm cho đô thị chịu ảnh hưởng và mang đậm nét văn hóa nông thôn. Một sự ảnh hưởng “vô lý” nhất của tính cộng đồng của nông thôn đối với đô thị là việc hình thành
“phường” ở đô thị. Phường là cộng đồng những người làm cùng một nghề ở một một làng quê nhưng vì lý do khác nhau, họ rời bỏ làng quê vào đô thị làm ăn, cùng sống trên một dãy phố. Mỗi phố thường sản xuất, buôn bán một loại hàng hóa riêng. Nếu như áp dụng phương pháp suy lý hình thức của phương Tây để giải thích hiện tượng này thì sẽ khó mà có kết quả. Nhưng nếu nhìn nhận vấn đề theo “nhân tố văn hóa” thì nguyên nhân của hiện tượng này dường như rất rõ ràng. Đó vẫn là tính cộng đồng và tính tự trị. “Trước hết do tính cộng đồng mà cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người bán: họ có điều kiện tương tự, giúp đỡ nhau trong việc định giá, giữ giá, vay mượn hàng, giới thiệu khách hàng cho nhau... Mặt khác do tính tự trị dẫn đến nếp sống tự cấp tự túc, dân không có nhu cầu mua bán, cho nên người buôn bán phải gian lận để kiếm sống..., về mặt này, cách tổ chức theo phường tỏ ra có lợi cho người mua: tuy mất công đi xa để mua hàng, nhưng bù vào đó người mua có điều kiện khảo giá, và vì hàng nhiều nên ít có nguy cơ hàng giả” [7. Trần Ngọc Thêm, sách đã dẫn, trang 118].
Đã kinh doanh thì phải có lời. Nhưng phương Tây thường đạt đồng lời bằng cách cạnh tranh và cố gắng chiếm giữ lòng tin của khách hàng . Còn ở Việt Nam truyền thống thì ngược lại, các thương nhân cấu kết với nhau để chèn ép khách hàng. Xét về nguồn gốc sâu xa những cách thức đó chịu ảnh hưởng rất lớn của nhân tố văn hóa. Đó là trong quá khứ, còn trong hiện tại? Nhân tố văn hóa cho đến nay vẫn tác động đến sản xuất kinh doanh, đặc biệt hoạt động huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Theo số liệu báo cáo của Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội thuộc Bộ Lao động, thương binh và xã hội thì đối với các doanh nghiệp thành thị, 91%
vốn doanh nghiệp là vốn tự có, tiếp đến là vốn vay bạn bè, anh em họ hàng không phải trả lãi (3%), vốn vay ngân hàng chiếm chưa đến
1%. Đối với doanh nghiệp nông thôn thì con số tương ứng là
90%, 4% và 2%. Điều đó chứng tỏ một thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh không tiếp cận được các nguồn vốn từ khu vực tài chính chính thức (Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng...) và ngoài nguồn vốn tự có thì nguồn vốn vay bạn bè, anh em họ hàng không phải trả lãi có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thể hiện tính cộng đồng của văn hóa Việt Nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hay cụ thể hơn, nó thể hiện sự tương trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống nói chung và trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng. Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì vốn của doanh nghiệp luôn luôn vận động. Sẽ có một khoản vốn đầu tư vào tài sản cố định và khoản vốn này thường là vốn tự có hoặc vốn vay dài hạn. Một khoản vốn khác được đầu tư để mua các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất gọi là vốn lưu động. Vốn lưu động luôn biến động về số lượng cũng như hình thái. Có lúc lượng vốn lưu động không cần nhiều nhưng lượng vốn lưu động cần cho sản xuất kinh doanh lại rất lớn. Để đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp thường phải đi vay. Khi đi vay thì trước tiên là các khoản vay của anh em bạn bè, họ hàng... vì nguồn vốn này có đặc điểm là không phải trả lãi suất, không phải thế chấp tài sản, cách thức tiến hành dễ dàng. Sau đó họ mới tìm đến các nguồn vốn chính thức vì nguồn vốn này có khả năng đáp ứng nhu cầu lớn về vốn.
2. Điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt
Nam
Trong kinh tế thị trường hiện đại, toàn cầu hóa là thành tựu của văn minh, văn hóa nhân loại, nó tự điều chỉnh, hoàn thiện và thúc đẩy nhân loại tiến lên. Nó không chỉ thích hợp cho sáng tạo mà nó còn đòi hỏi sự
sáng tạo, và đó là động lực cho tiến bộ của khoa học công nghệ được vận dụng vào thực tế. Nhà nước phải bổ sung cho kinh tế thị trường, khắc phục hay giảm bớt những khuyết tật của nó để hướng tới một xã hội phồn vinh hơn. nơi mà “của cải tuôn ra dào dạt”, công bằng và tự do, nơi mà “sự tự do của mỗi một người là điều kiện cho sự tự do của tất cả mọi người” [3. trích từ Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Karl Mark].
*Phác họa chân dung tính cách người Việt
Suốt trong toàn bộ tiến trình lịch sử quốc gia dân tộc, người Việt Nam nói chung, cư dân nông nghiệp nói riêng, có một ý thức rất yếu ớt, mờ nhạt về pháp quyền, trong đó trước hết là ý thức pháp quyền về quyền sở hữu. Trong hơn tám mươi năm có sự hiện diện của chủ nghĩa thực dân trên đất Việt Nam, ngoài người Pháp ra, có lẽ chỉ có các đại địa chủ, các nhà tư sản và tầng lớp vô sản là có thể cảm nhận sâu về pháp quyền tư hữu, trong đó người vô sản cảm nhận sâu là do bị tước đọat triệt để chứ không phải do đã từng có tư hữu. Trong ý thức đại đa số cư dân, quyền vương hữu hay quyền Nhà nước bảo hộ, rồi về sau quyền sở hữu “tập thể” hay “toàn dân” là không mấy khác biệt. Tính “phù hoa” của quyền tư hữu được gắn với cả việc tư hữu chính bản thân mình. Cho nên người dân, nhất là nông dẫn dễ dàng chấp nhận, bỏ qua, kể cả bỏ qua bản thân đời sống. “Sống gửi, thác về” không phải là một tín ngưỡng, một niềm tin thuộc về một tôn giáo cụ thể nào đó, mà trở thành cảm quan đời sống trực tiếp. Mà nói như Nguyễn Du “đã không biết sống là vui, tấm thân nào biết thiệt thòi là thương”. Họ chắc chắn cũng không hào hứng, không xúc động mãnh liệt trước một quyền công hữu trừu tượng, vừa không thiết thực vừa không năng sản. Không phải chỉ ngày xưa người tiểu nông mới mỉa mai “Cha chung không ai khóc” mà ngày nay, họ vẫn coi là vô bổ cái sự “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”. Đối diện với
“tài sản quốc gia”, họ sẵn sàng nghĩ và làm theo tập tính cũ “Trống làng ai đánh thì thùng/Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng”, nhưng họ vừa không có cơ hội mà cũng không có sự tham lam tư hữu để mà tham nhũng. Xét từ góc độ nào đó, quốc nạn tham nhũng hiện nay trong bộ máy quyền lực là hệ qủa của một khát vọng tư hữu hóa kéo dài suốt trường kỳ lịch sử chưa được thỏa mãn. Trước khi quan hệ sản xuất thuộc công hữu đóng vai trò đột phá, mở đường, thì tư hữu phải là động lực của nền sản xuất xã hội. Người tiểu nông, hiện thời vẫn là đa số cư dân, không tham lam quá quắt, không mơ ước cao xa, nên cũng không hào hứng làm giàu, không quyết chí làm giàu bằng mọi giá. Họ chuộng lối sống tùng tiệm, cần kiệm “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”, thích một thứ chủ nghĩa bình quân, cào băng hơn là năng động suy nghĩ và chấp nhận mạo hiểm cạnh tranh. ở những vùng nghèo, càng dễ quan sát thấy hiện tượng “thà nhịn đói nằm co còn hơn ăn no vác nặng”. Người tiểu nông và cả các biến tướng của họ, nhạy cảm trước bất công nhiều hơn so với nhạy cảm trước cái mới, cái tiến bộ.
Tuy ngày nay nước ta vẫn còn khoảng 70% dân số sống ở nông thôn nhưng không thể chờ đợi ở đó 70% tổng thu nhập quốc dân, 70% đóng góp ngân sách. Một kết luận không dễ nghe lọt tai vẫn buộc phải nói ra: nền kinh tế tiểu nông truyền thống đã đi hết cung đường cuối cùng của vận mệnh lịch sử của nó, tính tích cực lịch sử của nó. Nói cách khác, việc xây dựng văn hóa kinh doanh cũng phải được hình thành và phát triển phù hợp với sự chuyển đổi của thời cuộc.
Trước hết phải xây dựng văn hóa làng thế nào?
Các làng tiểu nông từng có dạng thâm canh, làng quảng canh, muộn hơn có làng nghề, rồi làng buôn. Việc xuất hiện hai loại làng nói sau đó là những bước khởi đầu bất thành hướng tới kinh tế TBCN. Nguyên nhân
quyết định sự không xuất hiện nổi bộ phận kinh tế TBCN đủ mạnh để trở thành mặt đối lập chắc chắn phải tìm ở sự khống chế của chế độ chuyên chế. Quyền vương hữu không cho phép bất kỳ ai “giàu vượt phận”. Tục ngữ Việt Nam khẳng định “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Sự khủng hoảng triền miên của chế độ chuyên chế ở Việt Nam các thế kỷ 18- 19 dẫn tới hiện tượng dân lưu tán, tới “thế kỷ khởi nghĩa nông dân”, nhưng chưa hề thấy trong bất cứ một cuộc khởi nghĩa nông dân nào ở Việt Nam xác lập nổi một cương lĩnh kinh tế, cương lĩnh chính trị xã hội mới về chất. Chủ nghĩa thực dân dĩ nhiên không phải là đáp án lịch sử cho con đường phát triển, tiến hóa của làng tiểu nông nhưng những gì mà chủ nghĩa thực dân đã làm đối với làng tiểu nông cũng cần được rút kinh nghiệm nghiêm túc. Vào những năm 60 ta từng hướng tới một cuộc cách mạng công nghiệp hóa nông thôn và những bước đi đầu tiên là hợp tác hóa. Quan niệm về công nghiệp hóa như một sự phát triển thu nhỏ, rút gọn mô hình và các bước tiến hành của lịch sử công nghiệp hóa thế giới đã thất bại, trong đó có bình diện liên quan đến nông thôn. Các hình dung về ngả đường hiện đại hóa của các nước trên thế giới hiện nay hết sức đa dạng. Dựa trên cơ sở những tiền đề cụ thể của nông thôn nước ta hiện nay, sự lựa chọn tối ưu mang tính khả thi là hiện đại hóa tại chỗ, đô thị hóa tại chỗ. Kinh nghiệm thành công và thất bại nữa của việc hiện đại hóa nông thôn Trung Quốc đáng để tham khảo: các đợt phát động phong trào triền miên hao người, tốn của với kết quả thảm hại như toàn dân làm gang thép, mô phỏng công xã đại trà, toàn dân diệt chim sẻ... những năm 50- 70 thế kỷ trước lẫn chủ trương phát triển công nghiệp hương trấn vài thập niên gần đây, tạo ra vô khối phế phẩm kể cả phế phẩm tân kỳ như xe máy, đầu video, tivi mà ta đang phải tự biến mình thành bãi rác công nghiệp cho họ, là những bài học phản diện thấm thía. Đưa tri thức và nghề nghiệp hiện đại về nông thôn là hướng giải quyết tích cực. Tuy nhiên, muốn vậy cần có sự thay đổi,
thay đổi về quan niệm và mục tiêu giáo dục- cũng có nghĩa xây dựng tinh thần văn hóa kinh doanh mới cho mỗi người dân, mỗi làng xã, và cả một cộng đồng.
Lý thuyết phát triển cộng đồng xác định mục tiêu cuối cùng của một chương trình phát triển cộng đồng là đi từ tình trạng kém phát triển không tự mình giải quyết các vấn đề của riêng mình tiến tới tự lực giải quyết tốt các yêu cầu để phát triển cho mình:
Cộng đồng còn yếu kém Æ Cộng đồng thức tỉnh (tự tìm hiểu và phân tích, phát huy tiềm năng) Æ Cộng đồng đã gia tăng năng lực (phát huy tiềm năng, huấn luyện, hình thành các nhóm liên kết) Æ Cộng đồng tự lực (hình thành các nhóm liên kết, Tăng cường năng lực tự quản) [4. Nguồn: Nguyễn Thị Oanh: Phát triển cộng đồng- ĐH Mở Bán công TP.HCM, 1995, tr26].
3. Tình hình sử dụng văn hóa kinh doanh trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam
* Thực trạng
Phát biểu tại cuộc gặp hàng năm giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp (TP HCM ngày 24-25/3/2003), Thủ tướng Phan Văn Khải đặc biệt nhấn mạnh tới 4 vấn đề để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp từ những sự kiện kinh tế đang vẫn còn nóng tính thời sự. Một trong 4 vấn đề đó chính là phải đề cao văn hóa kinh doanh.
Vậy tình hình sử dụng văn hóa kinh doanh của ta trong thời gian qua thế nào? Xin thưa, chúng ta đang thiếu văn hóa trong kinh doanh: gian lận thương mại, làm hàng giả, trốn thuế, gian lận sổ sách, đầu cơ, chụp giật, lừa đảo, phô trương, lãng phí... Năm 2002 được coi là năm ghi dấu ấn
quan trọng trong lịch sử phát triển ngành thủy sản nước ta với kỳ tích xuất khẩu 2,003 tỷ USD hàng thủy sản. Thế nhưng chính tại hội nghị mừng công của toàn ngành, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hồng Minh rất không vui khi báo tin rằng các nước thuộc thị trường EU đã gửi thông báo gần đây lại phát hiện dư lượng kháng sinh trong các lô hàng của Việt Nam. Hậu quả của việc này là EU tuyên bố không xét bổ sung 32 doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu thủy sản vào EU đồng thời cảnh báo sẽ áp dụng trở lại chế độ kiểm tra 100% lô hàng thủy sản Việt Nam nếu tình hình không được cải thiện... Nó cho thấy phải đề cao văn hóa trong kinh doanh là yêu cầu hết sức cấp bách, có ý nghĩa sống còn không chỉ với một doanh nghiệp. Thủ tướng Phan Văn Khải cho rằng: “Đối với doanh nghiệp và doanh nhân, lợi nhuận là động lực trực tiếp, song người kinh doanh có văn hóa luôn đặt lợi ích của mình trong sự kết hợp hài hòa với lợi ích của cộng đồng, của đất nước. Điều đó vừa bắt nguồn từ lòng yêu nước, từ ý thức cộng đồng, vừa xuất phát từ nhận thức về sự thống nhất giữa ba lợi ích này. Với tinh thần đó, doanh nghiệp phải xây dựng nền nếp kinh doanh minh bạch và trung thực, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật”. Lại nhìn xa hơn, văn hóa kinh doanh phải được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, sẽ có những sản phẩm trở thành truyền thống gắn với những thương hiệu uy tín. Đáng mừng là chúng ta đã có những thương hiệu uy tín: Vinamilk, Vinataba, May 10, Biti’s, Vietel, Việt Tiến... Văn hóa kinh doanh được thể hiện ở chữ TÍN.
Hiện nay chúng ta đã bước sang năm thứ 11 thực hiện Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU (Hiệp định đầu tiên ký ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 01/01/1993). Từ năm 2002 chúng ta lại có thêm Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ với ưu đãi tối huệ quốc cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhờ vậy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2002 tăng gấp 10 lần năm 1993. Với việc mở thêm thị trường Mỹ
đầy tiềm năng, triển vọng ngành dệt may xuất khẩu sẽ sáng sủa, tuy vậy không phải không còn nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp và các bộ, ngành liên quan sẵn sàng chủ động đón nhận mọi thách thức trong quá trình hội nhập và quyết tâm đạt mục tiêu xuất khẩu 3,5- 4 tỷ USD hàng dệt may vào năm 2005. Để có thể thành công trên thị trường thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu, theo ông Lê Quốc Ân- Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam- mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho riêng mình một chiến lược xuất khẩu phù hợp, trong đó cần cụ thể hóa khách hàng, nâng cao đẳng cấp, chất lượng và tăng khả năng đáp ứng nhanh. Hiệp hội đã khuyến cáo 6 chương trình hành động trọng điểm đến các doanh nghiệp trong thời gian tới, trong đó chú trọng hạ giá thành sản phẩm; xây dựng nhãn hiệu và thương hiệu có đẳng cấp, uy tín; áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là ISO 9001/14000, SA 8000, OHSAS 18000; đào tạo lực lượng chuyên gia tiếp thị xuất khẩu có chất lượng cao. Và cũng không thể không nhắc lại, phải giữ bằng được chữ Tín mới mong làm ăn với người phương Tây một cách lâu dài.
*Thiếu văn hóa trong kinh doanh:
Những tháng cuối năm 2002, Bộ Thương mại cảnh báo về việc thiếu gạo để xuất khẩu, một số mặt hàng khác thuộc loại chủ lực cũng lâm vào tình trạng thiếu hàng. Theo các chuyên gia phân tích, thiếu hàng xuất khẩu bởi một phần do bệnh thành tích nâng “sản lượng ma”. Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề truyền thống, bởi vậy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm vai trò quan trọng. Tuy nhiên mặt hàng này đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực. Nhìn chung, chất lượng hàng của ta chưa cao, kiểu dáng mẫu mã chưa phong phú, đa dạng. Hàng của ta không “thực dụng” như hàng nước khác, xuất khẩu chủ yếu ở dạng “thô”, bao bì không hấp dẫn. Nhiều doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài nên gây lãng phí, không hiệu quả.
Doanh nghiệp còn nhỏ nên khả năng tài chính, vốn và công nghệ còn hạn chế, không có điều kiện bồi dưỡng đội ngũ thợ, nghệ nhân. Sản xuất nhỏ lẻ, phân tán và hiện tượng “tranh mua tranh bán” dẫn đến phá giá. Bên cạnh đó, mặt bằng sản xuất, hạ tầng cơ sở thấp kém và tình trạng ô nhiễm môi trường cũng ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp.
*Chất và lượng chưa tương xứng:
Mặc dù mỗi năm Việt Nam dành hơn 450 tỷ đồng cho hoạt động xúc tiến thương mại nhưng nhiều doanh nghiệp và cả một số cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực này đều thừa nhận, xúc tiến thương mại chưa phát huy được vai trò hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm- dịch vụ...
Đông nhưng không tinh: Trước năm 1990, chỉ vài doanh nghiệp nhà nước được phép tổ chức và kinh doanh Hội chợ triển lãm và hoạt động quảng cáo, hiện con số này lên tới hàng trăm. Hơn 30 tỉnh, thành đã có trung tâm xúc tiến thương mại, đặc biệt tại Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng. Chi phí quảng cáo doanh nghiệp không ngừng tăng: trước những năm “đổi mới” không đáng kể, năm 2000 đạt khoảng 108 triệu USD. Nhưng sự yếu kém và thiếu kinh nghiệm là hạn chế nổi bật của xúc tiến thương mại hiện nay. Phần lớn doanh nghiệp đang hoạt động là vừa và nhỏ nên thiếu về nhân lực và tài chính. Hoạt động xúc tiến thương mại hầu như chỉ đơn thuần là duy trì, tìm kiếm và mở rộng thị trường để bán mặt hàng sẵn có chứ chưa phải thị trường cần với giá cả dễ chấp nhận, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu thị trường và lợi thế cạnh tranh để tạo sản phẩm độc đáo. Một thói quen giải pháp tình thế, không có kế hoạch nhìn xa trông rộng đã ăn sâu trong tiềm thức người dân và nó thể hiện ngay cả trong hoạt động xúc tiến thương mại. Đang có hiện tượng lạm phát hội chợ, không ít hội chợ, triển lãm như cái chợ tạm để bán hàng lẻ, và thậm
chí hàng tồn kho. Hầu hết các trung tâm xúc tiến thương mại mới làm nhiệm vụ mời doanh nghiệp tham gia hội chợ, quảng cáo... chứ chưa nắm được phản ứng của người tiêu dùng và phản hồi của cho doanh nghiệp thông tin về thị trường. Cần có một giải pháp đồng bộ cho xúc tiến thương mại. Riêng trong lĩnh vực quảng cáo thương mại, Bộ Văn hóa thông tin cần hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện Pháp lệnh Quảng cáo, thúc đẩy Hiệp hội Quảng cáo phát triển. Các cơ quan quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại tăng cường giám sát việc thực hiện theo pháp luật của các tổ chức khuyến mãi, làm được điều này phải phát huy nguồn lực, vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, trong đó có Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng, các doanh nghiệp và bản thân khách hàng được coi là yếu tố quan trọng nhất.
Điều kiện để phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
*Biết nhận thức về cái mạnh và khắc phục cái yêu của người Việt Nam: Dân tộc nào phát triển đến một trình độ nhất định cũng đều có tính cách riêng, dễ nhận và phân biệt. Đó là tổng thể những đặc tính, đức tính ít nhiều cố định, đôi ba nét nổi trội, ít thay đổi. Khi nói tới người Việt Nam thông minh thì có nghĩa là có thể suy ra: bất cứ ai là người VN đều thông minh ở mức độ ít nhiều, từ người dân bình thường đến danh nhân, vĩ nhân. Phó Thủ tướng Vũ Khoan từng nhận xét về người Việt Nam- người mình như sau:
- Cái mạnh: thông minh, nhạy bén với cái mới, cần cù sáng tạo, rất
đoàn kết đùm bọc nhau trong thời kỳ chống ngoại xâm.
- Cái yếu: thiếu sót kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn.
*Tận dụng và phát huy văn hóa kinh doanh: chữ tín phải hàng đầu và xây dựng môi trường pháp lý hiệu quả
Theo thống kê của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), Nhật là một trong những nước đứng đầu danh sách các nước nhập khẩu hàng Việt Nam. Năm 2001, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật đạt 2,51 tỷ USD, chiếm tỷ lệ cao nhất là hàng dệt may 24 %, hàng thủy sản
19%, dầu thô 15%, giày da 3%... Hàng của ta xuất khẩu sang Nhật đang có nhiều triển vọng bởi hiện nay ở Nhật, hình ảnh về Việt Nam được nhắc đến thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những cửa hàng bán hàng hóa và món ăn Việt Nam mở ra khá nhiều. Người Nhật rất thích các sản phẩm thủ công của Việt Nam như đồ gốm, hàng thêu, đồ gỗ gia dụng, hàng mây tre lá và thích đi du lịch Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay hàng hóa Việt Nam trên thị trường Nhật bị cạnh tranh bởi hàng từ Trung Quốc và các nước châu Á khác. Nguyên nhân hạn chế khả năng xuất khẩu hàng Việt Nam sang Nhật có nhiều vấn đề. Nhưng một trong những nguyên nhân chính đó là lượng hàng đúng tiêu chuẩn như hợp đồng không đạt được 100% khiến khách hàng mất lòng tin. Ví dụ, một công ty sản xuất đồ gỗ nhận đơn hàng 1000 khay trà, nhưng khi giao hàng chỉ có 980 khay đạt yêu cầu. Khách hàng đòi công ty trên bù đổi số hàng không đạt và chịu những chi phí phát sinh nhưng không được nên quan hệ giữa 2 công ty này bị phá vỡ. Có trường hợp, doanh nghiệp Việt Nam không lượng sức, nhận đơn đặt hàng vượt quá năng lực sản xuất nên không bảo đảm được thời hạn giao hàng và chất lượng sản phẩm. Các công ty Nhật, khi nhập hàng kiểm tra rất kỹ, chất lượng không đồng nhất, không bảo đảm đúng tiêu chuẩn đã thỏa thuận sẽ không được chấp nhận. Mặt khác, xu hướng tiêu dùng và thời trang Nhật thay đổi rất nhanh, đòi hỏi các nhà sản xuất phải luôn sáng tạo những mẫu mã mới. Khi một khách hàng Nhật đặt quan hệ làm ăn với doanh nghiệp Việt Nam, đơn hàng đầu tiên họ thường đặt số lượng nhỏ
nhưng nhiều mẫu mã và yêu cầu thời gian giao hàng ngắn. Trong khi đó một số mặt hàng của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến việc sản xuất đôi khi bị động. Đối với hàng thủy sản, người Nhật đặc biệt nhạy cảm với những vật lạ bị lẫn trong sản phẩm, mà điều này đã từng xảy ra với mặt hàng của vài doanh nghiệp Việt Nam.
Các nhà nhập khẩu Nhật rất thận trọng khi ký hợp đồng, do đó doanh nghiệp Việt Nam cần tạo sự tin cậy ngay từ những hợp đồng đầu tiên, và nỗ lực củng cố uy tín của mình nhằm thiết lập được quan hệ thương mại lâu bền: chú trọng chất lượng, tuân thủ tuyệt đối hợp đồng, tích cực tham gia các hội chợ thương mại.
Một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là may mặc. Xuất khẩu may mặc năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD một phần cũng nhờ thị trường Mỹ rộng lớn (trên 900 triệu USD). Sang năm 2003, EU quyết định tăng hạn ngạch hàng dệt may cho Việt Nam nhưng ngược lại, các nhà sản xuất Hoa Kỳ đang hối thúc Chính phủ áp dụng chế độ hạn ngạch với các sản phẩm dệt may Việt Nam, vậy con số xuất khẩu 1,7 tỷ USD (đã ký) trong năm 2003 thực hiện như thế nào? Theo nhận xét của đại diện thương mại châu Âu, thì cho dù thời gian qua Việt Nam đã đẩy mạnh công tác tiếp thị, nhưng nếu so với các nước khác thì vấn đề quảng bá hình ảnh của Việt Nam trên thị trường quốc tế vẫn còn quá khiêm tốn. Bằng chứng là, khi nói đến Việt Nam người ta thường nghĩ đến quá khứ của lịch sử hơn là những cải cách và thành tựu kinh tế Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, sự mất lòng tin của các đối tác về việc giao hàng chậm của các doanh nghiệp Việt Nam phần nào cũng làm ảnh hưởng đến uy tín dệt may Việt Nam.
Chúng ta tiếp tục xem xét một mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của
Việt Nam: giày dép. Đến nay, hàng giày dép của Việt Nam có mặt ở gần
40 nước và khu vực trên thế giới, nhiều thị trường nhập khẩu đang có chiều hướng tăng từ năm 2002: Hà Lan tăng 32%, Anh 21,3%, Pháp
20%, Đức 18,6%, Italia 18%. Có kết quả khả quan này bởi cơ chế, chính sách của Nhà nước khuyến khích xuất khẩu dần đi vào cuộc sống và phát huy có tác dụng. Bên cạnh đó phải kể đến giá nhân công rẻ, nên giá thành hạ, điều này rất thuận lợi khi các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Tuy nhiên, khi phân tích sâu thì hàng giày dép của Việt Nam vẫn chưa thực sự an tâm khi “đá” ở thị trường quốc tế. Ví như về thị trường, nếu EU không khống chế hạn ngạch với Trung Quốc thì điều gì sẽ xảy ra, chuyện doanh nghiệp Việt Nam phải nhường thị phần cho doanh nghiệp Trung Quốc là điều không có gì phải bàn cãi. Đơn cử ở thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc đều bình đẳng, thực tế cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đã không thể đẩy nhanh tốc độ thâm nhập thị trường này. Các doanh nghiệp xuất khẩu của ta còn nhiều hạn chế như quy mô nhỏ, phân tán, khâu sản xuất nguyên phụ liệu còn yếu, giá thành cao, doanh nghiệp chủ yếu phải nhập khẩu nguyên liệu nên không chủ động trong tổ chức sản xuất. Hiện các doanh nghiệp chủ yếu là gia công nên hiệu quả kinh tế không cao. Ngoài ra còn phải kể đến yếu tố khách quan là sự biến động bất thường của đồng USD và đồng EURO, kinh tế các nước nhập khẩu lớn vẫn chưa thực sự hồi phục. Để giày dép thực sự là mặt hàng xuất khẩu lớn mạnh của Việt Nam thì các doanh nghiệp cần tăng cường nâng cao chất lượng, đặc biệt là chú trọng yếu tố văn hóa kinh doanh ở việc đảm bảo uy tín sản phẩm, đa dạng hóa, giảm thiểu các chi phí không đáng có, đầu tư nâng cấp trang thiết bị để giảm giá. Doanh nghiệp cần nghiêm túc thực hiện Hiệp định chống gian lận thương mại mà Việt Nam đã ký với EU. Chúng ta phải tăng cường khai thác, mở rộng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8390.doc