mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, thế giới đã xảy ra biết bao nhiêu những biến động to lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới ở Việt Nam vẫn giành được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm phục. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sự nghiệp đổi mới của nước ta đang đứng trước những thời cơ và cả thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, phán đoán, xử lý kịp thời mới có thể giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh
114 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1629 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế. Để đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu tiên và cấp thiết nhất đối với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” từ Trung ương đến cơ sở. Bởi vì như Lênin người thầy của giai cấp vô sản đã từng nói: “Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”[34, tr.473]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc có thành công hoặc thất bại cũng do đội ngũ cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt việc gì cũng xong. Vì thế hơn lúc nào hết, chúng ta phải trở lại nghiên cứu một cách thấu đáo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng hiện nay, đặc biệt là phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ. Đó cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới thời kỳ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá”:
Cán bộ là khâu quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tuỵ, kiên cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng [14, tr.113].
Hiện nay, do những tác động ngày càng mạnh mẽ của mặt trái kinh tế thị trường dẫn đến hậu quả là “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên bị tha hoá về phong cách, lối sống, làm mất niềm tin trong nhân dân. Mặt khác, một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn mắc bệnh: độc đoán, chuyên quyền, phong cách làm việc thiếu khoa học, thiếu dân chủ. Chính vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của cán bộ được đặt lên hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng nói riêng và trong hệ thống chính trị nói chung. Vấn đề này còn đặc biệt có ý nghĩa đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp sơ sở ở tỉnh Hưng Yên – một tỉnh mới tái lập - địa phương nơi tôi đang công tác, bởi ở đây vấn đề cán bộ không chỉ chứa những đặc điểm chung mà còn nhiều yếu tố bức xúc,đòi hỏi cần có những phương hướng, những giải pháp nhằm nâng cao một bước năng lực của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi bên cạnh những mặt đã làm được, đội ngũ cán bộ ở Hưng Yên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vẫn còn nhiều bất cập về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản lý... làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công việc.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, năng lực của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên nói riêng, tôi chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí minh về cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề quan trọng, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ dưới nhiều góc độ khác nhau. Có những công trình đi vào nghiên cứu toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, có công trình chỉ đi vào khía cạnh nhỏ trong công tác cán bộ. Các công trình nghiên cứu của các tác giả được công bố dưới dạng chuyên đề, luận văn thạc sỹ, các bài đăng trên các sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học. Đó là nguồn tư liệu quý báu giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện đề tài của mình. Ví dụ như công trình: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh của GS. Đặng Xuân Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của PGS.TS Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, chuyên đề khoa học cấp nhà nước KX.02, chủ nhiệm đề tài: GS Đặng Xuân Kỳ; Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đảng viên hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, chủ nhiệm đề tài: TS. Hoàng Trang, 2002; Tập kỷ yếu hội thảo khoa học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ do Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức gồm hàng trăm bài nghiên cứu, đề cập nhiều khía cạnh trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh...
Ngoài ra, còn một số luận văn thạc sỹ, nhiều bài báo của các nhà nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học theo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ như: Thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: “cần, kiệm, liêm, chính”; chống tham ô, lãng phí và quan liêu của tác giả Trần Đình Quảng, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 289, 2003; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp lãnh đạo và việc xây dựng, rèn luyện phương pháp, phong cách công tác của cán bộ chính trị trong quân đội ta hiện nay của tác giả Bùi Thế Đăng, Tạp chí khoa giáo số 5, 2005; Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá, Luận văn Thạc sỹ khoa học kinh tế, tác giả Cẩm Bá Tiến, 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hoá hiện nay, Luận văn thạc sỹ của tác giả Bùi Khắc Hằng, 2004....
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ dưới nhiều góc độ khác nhau như vấn đề rèn luyện đạo đức, năng lực của cán bộ, một số nội dung quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ... song có thể nói chưa có nhà khoa học nào đi sâu nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở nước ta hiện nay một cách có hệ thống. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được công bố, tôi hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và vận dụng vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, luận văn vận dụng để đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt tới mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ làm rõ:
Phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ;
Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay, trọng tâm là phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác;
Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
- Phạm vi nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là vấn đề lớn. Trong phạm vi luận văn này, tôi chỉ nghiên cứu một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ: Vị trí cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ; phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của cán bộ.. từ đó làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng và đề ra phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp lôgic lịch sử biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp điều tra xã hội học, phân tích tổng hợp
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên, đưa ra một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên nói riêng.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cung cấp những luận chứng về cơ sở khoa học và thực tiễn cho lãnh đạo tỉnh Hưng Yên làm cơ sở để tham mưu cho lãnh đạo tiến hành đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở địa phương.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn được kết cấu làm 3 chương, 11 tiết.
Chương 1
Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ
Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong nhân dân ta. Nói đến cán bộ là nói đến một lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh cho cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân, gần gũi với dân chúng. Cán bộ có nhiều cách hiểu với phạm vi rộng hẹp và ở từng nước khác nhau. ở nước ta cán bộ được sử dụng phổ biến từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Nói đến định nghĩa cán bộ là gì? người ta thường nhắc tới hai phía cạnh: Người cán bộ có chức vụ ở cơ quan nhà nước hoặc trong một tổ chức nào đó.
Trong đời sống xã hội, theo cách hiểu thông thường, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, quân đội, được hưởng lương.
Trong Từ điển Tiếng Việt, xuất bản năm 1993, khái niệm cán bộ được định nghĩa là:
Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước (như cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị)
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ.
Trong suốt cuộc đời làm cách mạng của mình, Hồ chí Minh rất coi trọng vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. Người coi vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề then chốt quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, và “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. [45, tr. 54]. Do đó, Người yêu cầu mỗi cán bộ phải luôn tự rèn luyện, phải luôn giữ được tư cách của người cán bộ cách mạng. Trước hết, theo Hồ Chí Minh người cán bộ cách mạng phải là người luôn giữ chủ nghĩa cho vững, ít ham muốn về vật chất, ngày đêm nghĩ đến sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng hi sinh tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân loại. Đó là những con người biết phân biệt giữa “thiện” và “ác”, “chính” và “tà”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu những người cán bộ khi đã tự nguyện đi làm “công bộc của dân thì trước hết phải thực hiện nghiêm túc bốn đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, một lòng vì nước, vì dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Trong đội ngũ cán bộ đông đảo, cán bộ lãnh đạo (cán bộ chủ chốt) lại là nòng cốt của đội ngũ ấy. Đó là những người tham gia một tập thể lãnh đạo của tổ chức Đảng, cơ quan chính quyền, hành chính, sự nghiệp, đoàn thể hay tổ chức quản lý kinh doanh…từ cấp trung ương đến cấp cơ sở. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Để thực hiện tốt được những nhiệm vụ chiến lược quan trọng đó, Đảng xác định phải đổi mới công tác cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, coi đó là là khâu đột phá. Trong Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI nêu rõ: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng” [10, tr.126].
Trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác Lênin, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng giai cấp vô sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ trung thành, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng. Cán bộ đích thực phải là những cán bộ cách mạng chuyên nghiệp, là rường cột của đất nước. Đội ngũ cán bộ và vai trò lãnh đạo của Đảng có mối quan hệ biện chứng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ vững mạnh làm cho Đảng vững mạnh, tạo được uy tín trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh rất tâm đắc với quan điểm của V.I. Lênin: “Không một phong trào cách mạng nào vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo” [34, tr.158].
Theo Lênin không có một đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, đặc biệt đảm bảo về chất lượng thì không thể nói tới quyền lãnh đạo. Lênin cho rằng: “Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, ngày càng nhiều những người phụ tá…, biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ” [37, tr.407].
Khi bàn về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong tổng hoà các mối quan hệ đa chiều. Hồ Chí Minh xác định: “Cán bộ là những người đem chính sách của đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình dân chúng báo cáo cho đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy cán bộ là gốc của mọi công việc” [45, tr.269] . Trong quá trình tổ chức thực hiện, cán bộ phải nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thu nhận được những kinh nghiệm thực tiễn để phản ánh với đảng và nhà nước, hoàn thiện đường lối, chính sách ngày càng phù hợp với đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Tuy nhiên, để có đủ trình độ năng lực, có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, Đảng phải coi trọng công tác giáo dục, huấn luyện, đào tạo cán bộ. Người nói: huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [46, tr.46].
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì chủ trương chính sách của nhà nước có đúng, cán bộ làm sai, cán bộ yếu kém thì cũng không có hiệu quả. Hồ Chí Minh đã đi xa hơn, sâu hơn chỉ ra cội rễ của vấn đề một cách vừa cụ thể, vừa có tính tổng quát: Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách dù đúng mấy cũng vô ích. Đồng thời, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của người cán bộ trong xã hội mới không phải là “ông quan cách mạng”, càng không phải là người có “quyền sinh, quyền sát” như vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đại diện, người đại biểu của nhân dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ của nhân dân giao phó. Vai trò hết sức quan trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng còn thể hiện ở chỗ: nếu thiếu họ thì không có cách mạng, mục tiêu đề ra không thể hoàn thành, cán bộ có vai trò quyết định đối với công việc “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [45, tr.240].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên của đảng đều có thể xem là cán bộ. Người vẫn thường dùng khái niệm: “cán bộ, đảng viên” để chỉ đội ngũ cán bộ nói chung, có khi họ không nắm chức vụ gì, nhưng vẫn có vai trò lãnh đạo vì họ là một thành viên của Đảng, mà Đảng có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền và toàn thể nhân dân thực hiện sức mạnh của mình. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cơ sở. Bởi vì đội ngũ này là những người gần dân nhất, cách mạng có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ này. Người viết: “Cấp xã là người gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [45, tr. 371]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên hệ chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng. Nêú cán bộ lãnh đạo ở cấp Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định, hoặc gắn với việc hoạch định chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
1.2. Tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng
Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng, phải tự giác rèn luyện về mọi mặt, không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực, để xứng đáng: “Vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Người đề ra tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ không phải từ ý muốn chủ quan của bản thân, mà do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng. Muốn sự nghiệp cách mạng thành công, đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc để đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành đòi hỏi những người cán bộ phải vừa có “đức” vừa có “tài” vừa “hồng” vừa “chuyên” sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, ở mọi lúc mọi nơi luôn đặt lợi ích của đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Theo Hồ Chí Minh, những tiêu chuẩn căn bản của người cán bộ cách mạng là:
1.2.1. Đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ
Theo Hồ Chí Minh đã là người cán bộ cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng. Giữ được đạo đức cách mạng mới có thể trở thành người cán bộ cách mạng chân chính. Bởi vì: Mọi việc thành công hay thất bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không, Người cho rằng: Người đảng viên, người cán bộ tốt, muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điễm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm.
Đồng thời người nhắn mạnh: Người cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người coi đạo đức của người cách mạng như gốc của cây, ngọn nguồn của suối của sông; “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [45, tr.252 - 253].
Hồ Chí Minh cho rằng:
Làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang [49, tr.283].
Ngay từ những năm đầu chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã chỉ rõ tư cách của người cách mạng trong các mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với việc.
Từ giữa những năm 20 của thế kỉ XX cho đến khi qua đời (2/9/1969), Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh đến các tiêu chí, phẩm chất đạo đức của người cán bộ Đảng viên. Trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh nhiều lần đề cập đến những phẩm chất cơ bản của người cán bộ, đảng viên:
Một là, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Nho giáo phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên mệnh đề này đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào đó nội dung mới. Nếu như trước kia, trung quân là trung thành với vua, vì vua là Thiên tử gánh vác mệnh Trời trông coi vận nước, nước là nước của vua, thì nay phạm trù đó đã được mang nội hàm mới: Trung với Đảng, trung với nước. Còn hiếu trước đây chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, nay nội dung đó đã được mở rộng, ý nghĩa lớn lao hơn nhiều, không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình mà với toàn dân tộc.
Như vậy, tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước. Hiếu với dân là thương dân, là phục vụ hết lòng để được dân tin yêu, quý mến. Hiếu với dân trong đó có cha mẹ mình, phải biết phấn đấu hi sinh, đem lại độc lập tự do, dân chủ, hạnh phúc cho dân, sống cuộc sống của dân, nói tiếng nói của dân. Hiếu với dân là mỗi cán bộ, Đảng viên phải biết tin vào dân, dựa và dân, gần gũi, giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của dân ngày càng tốt hơn. Người nhấn mạnh: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [44, tr.47]. Chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Hiếu với dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dù mỗi cán bộ dù ở bất cứ cương vị gì, giữ trọng trách gì cũng phải xuất phát từ dân, thực hành dân chủ, “Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm” [52,tr.223].
Hồ Chí Minh dạy rằng, Đảng và Chính phủ trước hết là người lãnh đạo, và là công bộc của nhân dân chứ không phải là “ quan cách mạng”, không phải để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nói “điều chủ chốt nhất” của đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “ trung với nước, hiếu với dân”, hơn nữa là “ tận trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thực trung thành của nhân dân.
Hai là, gần dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, yêu thương con người
Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là danh nhân văn hoá, trước hết bởi tư tưởng nhân văn cao cả của Người. Đối với cán bộ, một trong những yêu cầu hàng đầu mà Người đặt ra là tinh thần hy sinh, phục vụ nhân dân, tin tưởng và yêu mến nhân dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, yêu thương đồng bào, yêu nhân loại. Đối với Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người trước hết được dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột: từ người phu đường đến người bạn tù trong ngục tối và cả em bé đang nằm trong nôi.
Hồ Chí Minh yêu thương dân tộc, yêu thương con người và đó là điểm xuất phát để Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại khỏi áp bức bất công. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [44, tr.161]. Tình yêu thương bao la và sâu sắc này mang lại sức mạnh cho Hồ Chí Minh, cho những người cách mạng vượt qua muôn trùng thử thách, khó khăn trên đường cách mạng.
Với Hồ Chí Minh, yêu thương con người không phải chỉ tồn tại như một đạo lý mà phải được thể hiện sinh động trong hoạt động hàng ngày giữa người với người. Điều đó đòi hỏi mọi người phải luôn luôn, chặt chẽ, nghiêm khắc với bản thân mình, rộng rãi, độ lượng với người khác, phải biết cách nâng con người lên chứ không phải là hạ thấp, càng không phải là vùi dập con người.
Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở sự bao dung đối với những người có sai lầm, khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ sai lầm, khuyết điểm và đang cố gắng sửa chữa. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức những gì tốt đẹp nhất mà Hồ Chí Minh tin tưởng rằng trong mỗi người đều có , tuy nhiều, ít có khác nhau. Với sự khoan dung và lòng bác ái, Hồ Chí Minh đã cảm phục được không chỉ nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình trên thế giới, mà còn làm cho ngay chính kẻ thù cũng kính phục nể sợ. Nhà báo Pháp Ôlivơ Thôndơ đã nói: Đối với một số người, Cụ Hồ Chí Minh là một kẻ thù quen biết lâu năm nhưng đáng kính phục, là địch thủ được kính trọng nhất trong cuộc chiến tranh thuộc địa Pháp.
Yêu thương con người còn được thể hiện bằng lẽ sống: sống có tình, có nghĩa, Hồ Chí Minh trước lúc đi xa còn dặn lại cán bộ, đảng viên phải có tình đồng chí, yêu thương lẫn nhau. Tình yêu thương được thể hiện trên nguyên tắc phê bình và tự phê bình một cách chân thành, nghiêm túc, giữa những người có cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hoà vi quý, bao che khuyết điểm cho nhau. Nó càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh, là nguy cơ đưa đến những tổn thất cho Đảng, cho cách mạng. Hồ Chí Minh nói:
Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Biết chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa, thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin. [ 52, tr. 554]
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người. vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập đến phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, từ “Đường cách mệnh” cho đến bản “Di chúc” cuối cùng.
Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Người đã giữ lại những gì tốt đẹp nhất của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới, với mục tiêu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi chữ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ, rất cụ thể và dễ hiểu đối với mọi người.
Theo Hồ Chí Minh: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ: Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Cần tức là: “Siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai…” [45,tr.632]. Nghĩa là cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy cũng làm được…
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời” [45, tr.633].
Lười biếng là kẻ địch của chữ cần và cũng là kẻ địch của dân tộc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to cho đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” [45, tr.636] , không phô trương, hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của người. Hồ Chí Minh còn ví cần mà không kiệm như thùng không đáy, “Kiệm tức là không lãng phí thời giờ, của cải nhân dân”.
Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của cải của nhân dân, không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải “trong sạch, không tham lam”. “ Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ” [45, tr.252].
Hồ Chí Minh đã chỉ ta những hành vi trái với chữ liêm như:
“Cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư”
“Dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc, nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lao.
Gặp giặc mà rút ra không dám đánh là tham sinh uý tử” [45, tr.640 - 641].
Hồ Chí Minh khẳng định một dân tộc biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
Chính: “ Nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn” [45, tr.643].
Đối với mình không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: Để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.
Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, Hồ Chí Minh còn ví hình ảnh như một cây cần phải có gốc, rễ, cần phải có cành, lá, hoa quả mới hoàn toàn. Con người cũng phải hoàn toàn như vậy, đối với người cán bộ cách mạng thì không thể thiếu bốn đức ấy. Bởi người cán bộ phải làm gương trước, tức là làm cái cho người ta soi sáng để sửa, do vậy cán bộ cách mạng phải chính trước mới giúp được người thành chính.
Mình không chính mà muốn người khác chính là điều không thể. Mỗi cán bộ, đảng viên cần, kiệm, liêm, chính là vô cùng cần thiết. Bởi vì: “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, ._.cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút” [45, tr.641].
Chí công vô tư: Người nói “đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Đối lập với chí công vô tư là dĩ công vi tư, đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.
Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính; cần, kiệm, liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công, vô tư một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và có nhiều tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít mà những tính tốt ngày càng thêm.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho con người vững vàng trước mọi thử thách: “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, và có thể: “trợn mắt coi khinh ngàn lực sỹ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng”.
Bốn là, có tinh thần quốc tế trong sáng
Người cán bộ cách mạng phải nêu cao tinh thần quốc tế vô sản thuỷ chung trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều là anh em” . Nhà văn Liên Xô E. Cabêlép, trong cuốn “Đồng chí Hồ Chí Minh” đã viết: Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như các chiến sĩ xuất sắc khác đấu tranh cho sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản, đã chứng minh cho chân lý bất di bất dịch sau đây: người nào yêu Tổ quốc mình tha thiết thì cũng không khi nào phản bội lại các lý tưởng của tình đoàn kết quốc tế và ngược lại, chỉ những người theo chủ nghĩa quốc tế một cách kiên định thì mới là người yêu nước chân chính, mới đem lại lợi ích to lớn cho Tổ quốc mình, nhân dân mình. Đó là đánh giá của bạn bè anh em về Người, có thể xem như là sự khái quát chung về tinh thần thuỷ chung trong sáng và tư tưởng suốt đời đấu tranh vì mục tiêu giải phóng nhân loại của người cộng sản quốc tế Hồ Chí Minh.
1.2.2. Người cán bộ cách mạng phải có tài năng để tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng
Đạo đức được xác định là yêu cầu đầu tiên, quan trọng nhất, là gốc của người cán bộ cách mạng, nhưng Hồ Chí Minh cũng không bao giờ xem nhẹ tài năng. Người yêu cầu người cán bộ phải vừa có đức, vừa có tài. Người luôn nhấn mạnh đến năng lực lãnh đạo và thực hành công việc của người cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ tốt nhất thiết phải là người có đủ phẩm chất và năng lực, mà những phẩm chất và năng lực đó phải được biểu hiện bằng những việc làm cụ thể, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hồ Chí Minh không viết riêng một bài nào dành cho tiêu chuẩn tài năng của người cán bộ, song tất cả các bài viết liên quan đến cán bộ của người đều toát lên các yêu cầu tiêu chuẩn, tài năng, năng lực của cán bộ.
Quý trọng người hiền tài: “Chiêu hiền đãi sĩ” được thể hiện rất rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ khi chuẩn bị giành chính quyền và nhất là trong những ngày đầu cách mạng còn non trẻ, Hồ Chí Minh đã có bài viết nổi tiếng để tập hợp người tài cho cách mạng Việt Nam là nhân tài và kiến quốc và tìm người tài đức:
“Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số hai mươi triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức”.… “nay muốn sửa đổi điều đó, trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết.
Báo cáo phải nói rõ: tên, tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó.
Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo ngay cho đủ” [44, tr.451].
Tài năng không bỗng dưng mà có, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ cách mạng phải luôn chăm lo, rèn luyện, thực hiện lời dạy của Lênin là: “Học, học nữa, học mãi !”, và chính Người là tấm gương sáng về tinh thần tự rèn luyện nâng cao trình độ, không ngừng học tập để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Tài luôn đi đôi với đức. Đức và tài có mối quan hệ biện chứng với nhau. Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ hai yêu cầu này khi đánh giá, giáo dục, sử dụng cán bộ. Hồ Chí Minh giải thích một cách đúng đắn rằng: đạo đức và tài năng là hai mặt không thể tách rời trong mỗi người cán bộ cách mạng. Người luôn coi trọng tiêu chí đạo đức, lấy đức làm gốc, làm nền tảng của người cách mạng. Nhưng người không bao giờ xem nhẹ tài năng. Cán bộ có tài mới làm được việc. Theo người: “cán bộ có đức, không có tài như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai” [48, tr.184]
Người yêu cầu cán bộ cách mạng phải vừa “hồng” vừa “chuyên”, trong Di chúc trước lúc đi xa, Người đã để lại những lời căn dặn tâm huyết của mình đối với thế hệ trẻ “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [52, tr.498].
Người cán bộ có tài là người có trình độ năng lực, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giàu về kinh nghiệm, có nhiều sáng kiến. Muốn trở thành người có tài, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ cách mạng không những phải thường xuyên nâng cao trình độ mà phải biết tự rèn luyện, học hỏi đúc kết từ thực tiễn hoạt động cách mạng. Người nói: “sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực” [45, tr.244].
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức, tài năng của người cán bộ cách mạng cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và sức sống trong thực tiễn. Nó càng có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới mà trước hết là đổi mới công tác tổ chức cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức của người cán bộ cách mạng là đạo đức hành động chứ không phải là điều mong muốn, là lời nói suông. Do đó, đức phải gắn liền với tài. Nếu có đức mà không có tài thì cũng vô dụng. Song có tài mà không có đức thì lại nguy hiểm, vì nó có thể làm điều xấu và gây ra cái ác một cách có tính toán. Đức là nhân tố làm cho tài năng trở lên hữu ích đối với con người và xã hội. Theo Hồ Chí Minh không thể tách rời cũng không thể tuyệt đối hoá mặt này mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia và ngược lại giữa hai mặt đức và tài.
1.3 Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ cách mạng
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng và sửa đổi cách lãnh đạo, cũng như lối làm việc của tổ chức Đảng và của cán bộ, đảng viên.
Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác hay nói theo cách mà Hồ Chí Minh thường dùng chính là cách lãnh đạo và tác phong làm việc. Những khái niệm cách lãnh đạo, lề lối làm việc từ khi bước vào đổi mới, dần dần được thay bằng khái niệm phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, nhưng về nội dung, bản chất quan niệm của Hồ Chí Minh không có gì thay đổi. Chính vì thế, tại Đại hội VI của Đảng, đã xác định bốn mặt cần đổi mới: tư duy, tổ chức, cán bộ, phong cách lãnh đạo và phong cách công tác. Phải đổi mới đồng bộ cả bốn mặt này, trong đó phong cách lãnh đạo và phong cách công tác là một mặt có ý nghĩa quan trọng, trực tiếp liên quan đến việc đưa đường lối đổi mới vào cuộc sống.
Đến Đại hội VII của Đảng, khái niệm phong cách lãnh đạo và công tác được thay bằng khái niệm phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Tại sao như vậy? Chính là để phân biệt rõ phương thức lãnh đạo là thuộc về các cấp uỷ Đảng (từ Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến các cấp uỷ đảng ở các ngành, các địa phương và cơ sở), còn phong cách công tác là thuộc về từng cán bộ, đảng viên. Như vậy có thể đi đến thống nhất về khái niệm: dù cách gọi có thể khác nhau, nhưng nội hàm của khái niệm phương pháp lãnh đạo hay phương thức lãnh đạo chỉ là một.
Có thể hiểu phương thức lãnh đạo của Đảng là những cách thức, hình thức, biện pháp gắn liền với những quan điểm và nguyên tắc xác định, được các tổ chức Đảng, các cấp uỷ Đảng lựa chọn và sử dụng để tác động vào những đối tượng mà Đảng lãnh đạo, với tính chất chỉ đường, hướng dẫn cho những đối tượng đó thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Phong cách công tác (vẫn thường gọi là tác phong) là lề lối làm việc, cung cách, cách thức, phong thái của một cán bộ, đảng viên, thể hiện trong hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ được giao.
Như vậy, phương pháp lãnh đạo (hay phương thức lãnh đạo) và phong cách công tác là những bộ phận của phương pháp cách mạng. Từ lâu Đảng ta đã tổng kết: Muốn lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, Đảng không phải chỉ đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, mà còn phải tìm ra được phương pháp cách mạng thích hợp. Trong phương pháp cách mạng thì phương thức lãnh đạo là nội dung chủ yếu nhất. Thực tế đã chứng minh cùng một đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, nhưng có nơi làm tốt, có nơi làm không tốt, điều này phụ thuộc chủ yếu vào phương thức lãnh đạo đúng hay sai, thích hợp hay không thích hợp của các cấp uỷ đảng.
Phương thức lãnh đạo không phải “nhất thành bất biến”, mà phải thay đổi cùng với sự thay đổi của nhiệm vụ cách mạng, của đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, của đối tượng mà Đảng lãnh đạo. Trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo, những kinh nghiệm tốt, những bài học hay của thời kỳ trước phải được kế thừa, phát triển trong thời kỳ sau; những gì sai phải loại bỏ, những gì không còn phù hợp phải vượt qua. Từ đó có thể thấy, phương thức lãnh đạo là một trong những lĩnh vực đòi hỏi chủ thể lãnh đạo phải năng động và có nhiều sáng tạo nhất.
Là một lãnh tụ của Đảng, hơn ai hết, Hồ Chí Minh sớm thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc chấn chỉnh, xây dựng phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên. Do đó, ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đang gay go ác liệt, năm 1947, Người đã viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Bởi vì Người hiểu rằng, để đưa cách mạng đến thắng lợi, trước hết Đảng phải hoạch định đường lối đúng. Nghị quyết của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là phải làm cho nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng thấm sâu vào tâm lý quốc dân, đi vào cuộc sống, biến nghị quyết của Đảng thành hành động của quần chúng, tạo ra các đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Muốn cho công việc thành công phải có cán bộ tốt, có năng lực và điều quan trọng là phải có phương pháp lãnh đạo đúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những chức năng cơ bản của hoạt động lãnh đạo là xác định đường lối, tổ chức lựa chọn và bố trí cán bộ; vận động, tuyên truyền, tổ chức cho quần chúng thực hiện và kiểm soát việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng… Để làm tốt những chức năng trên, người chỉ ra phương pháp lãnh đạo đúng phải tuân thủ ba khâu lớn:
Lãnh đạo đúng nghĩa là:
Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
Phải tổ chức kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được [45, tr.285 - 286].
Trước hết phải quyết định mọi vấn đề cho đúng mà muốn quyết định mọi vấn đề cho đúng thì “bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm đấu tranh, lòng ham muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà tính cách làm việc, cách tổ chức… Nếu không vậy, nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình rồi đem cột vào cho quần chúng thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… “ai cũng đóng giầy theo chân, không ai đóng chân theo giầy”. Điều đó đòi hỏi muốn có nghị quyết đúng, người lãnh đạo phải sâu sát, lắng nghe ý kiến của cơ sở, của quần chúng, chú trọng nghiên cứu những sáng tạo của địa phương, đơn vị… hết sức tránh việc tuỳ tiện, phiến diện, chủ quan trong việc định ra những chủ trương lãnh đạo: “vì vậy muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại” [45, tr.286].
Sau khi có nghị quyết, thì việc tổ chức thi hành cho đúng là khâu có ý nghĩa quyết định. Việc đó lại phụ thuộc ở việc lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp với yêu cầu, nội dung, tính chất của nhiệm vụ, của công việc.
Trong việc bố trí, giao nhiệm vụ cho cán bộ, Hồ Chí Minh căn dặn khi giao công tác cho cán bộ, cần phải chỉ rõ ràng, sắp đặt đầy đủ, vạch rõ những điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra, những vấn đề quyết định rồi thả cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ sẽ như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến. Và Người cũng dạy rằng, trước khi giao công tác cũng phải bàn kỹ với cán bộ. Nếu họ gánh vác không nổi, chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ, khi đã trao cho họ phải hoàn toàn tin họ. Không nên sớm ra lệnh này, trưa ra lệnh khác. Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào, kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn không xong, cán bộ thì vơ vẩn cả ngày, buồn rầu, nản chí. Ví vậy, Bác chỉ rõ: “Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công. Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng” [45, tr. 281].
Người kịch liệt phê phán tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, người cho rằng những người mắc bệnh này thích ngồi bàn giấy hơn là đi xuống cơ sở để hiểu đúng thực tế. Thích dùng mệnh lệnh hành chính hơn là kiên nhẫn giáo dục quần chúng một cách có lý, có tình. Do đó mà đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng không thấu đến quần chúng, thi hành lệch lạc, hỏng công việc, lại mất lòng người. Người lên án hiện tượng lạm dụng chức quyền, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức nọ, chức kia. Người coi chủ nghĩa cá nhân là thứ “giặc nội xâm trong lòng. Do chủ nghĩa cá nhân mà đẻ ra những tư tưởng sai lệch khác: công thần, kiêu ngạo, kèn cựa, địa vị, tham ô, lãng phí, quan liêu… Cho nên chủ nghĩa cá nhân là “kẻ thù nguy hiểm, nó không mang gươm, mang súng, nó nằm ngay trong tổ chức để làm hỏng việc của chúng ta”. Người yêu cầu phải chống giặc này như giặc ngoại xâm vì chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí làm tha hoá mất bao nhiêu cán bộ, đảng viên. Nhiều đồng chí vào sinh, ra tử trong chiến tranh vẫn vững vàng vượt qua thì ngày nay trong hoà bình đã bị kẻ thù này đánh gục. Đây là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, thực hiện thắng lợi đường lối, nghị quyết của Đảng trong thời kỳ mới.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phương pháp lãnh đạo là phải gắn với công tác kiểm tra. Điều này Đảng ta cũng xác định rõ: Lãnh đạo mà không kiểm tra coi như không có lãnh đạo. Muốn kiểm tra có hiệu quả phải coi trọng hai vấn đề: “Một là, việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín” [45, tr.287]. Công tác kiểm tra phải tiến hành ở mọi cấp, từ trung ương đến cơ sở, phải có một hệ thống cơ quan chuyên trách, việc kiểm tra phải tiến hành thường xuyên và người được chọn làm cán bộ kiểm tra phải có phẩm chất, năng lực tốt và có uy tín. Đồng thời phải “khéo” kiểm tra theo hai cách:
Một là từ trên xuống: “tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình.
Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng là cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sữa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên” [45, tr.288].
Tổng kết kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn cũng là vấn đề cực kỳ quan trọng của phương pháp lãnh đạo để bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển đường lối, nghị quyết đã đề ra. Muốn tổng kết thực tiễn có kết quả tốt, yêu cầu người lãnh đạo phải liên hệ mật thiết với quần chúng, với thực tiễn, không mắc bệnh quan liêu, bàn giấy và với thái độ khiêm tốn, cầu thị, học hỏi nhân dân, học hỏi quần chúng. Tổng kết thực tiễn có hai cấp độ: Thứ nhất là để rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm hay cho mọi nơi cùng làm, thứ hai là tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách. Người chỉ rõ:
Gom góp ý kiến và kinh nghiệm trong sự chỉ đạo từng bộ phận, đem làm ý kiến chung. Rồi lại đem ý kiến chung đó để thí nghiệm trong các bộ phận. Rồi lại đem kinh nghiệm chung và mới, đúc thành chỉ thị mới. Cứ như thế mãi. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo [45, tr.291].
Phương pháp lãnh đạo đúng là liên hợp lãnh đạo với quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, người lãnh đạo phải tìm cho được trong đội ngũ cán bộ một số người hăng hái, trung kiên cho sự lãnh đạo. Nhóm trung kiên này phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, công việc mới thành. Người lãnh đạo phải dùng những người hăng hái trong quần chúng làm trung kiên cho sự lãnh đạo bởi vì: “Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém. Mà trong ba hạng đó, hạng vừa vừa, hạng ở giữa nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn”[45, tr.289].
Từ đó dùng nhóm hăng hái trong quần chúng làm trung kiên mà nâng cao hạng vừa và hạng kém lên.
Lõi cốt của vấn đề trong lãnh đạo: “ắt phải từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng” [45, tr.290]. Nghĩa là, gom góp các ý kiến lẻ tẻ của quần chúng rồi phân tích, tìm hiểu, sắp đặt những ý kiến đó thành hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền giải thích cho quần chúng và làm cho nó trở thành ý kiến của quần chúng, làm cho quần chúng hiểu và thực hành ý kiến đó, trong lúc quần chúng thực hành ý kiến, ta xem xét lại coi ý kiến đó có đúng hay không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ vững và thực hành. Theo Hồ Chí Minh, đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt. Cách lãnh đạo đúng còn là học hỏi quần chúng nhưng không được theo đuôi quần chúng.
Về phong cách công tác: Theo Hồ Chí Minh tác phong hay lề lối làm việc của người cán bộ cách mạng chính sự thể hiện những phương pháp, biện pháp, cách thức tiêu biểu, ổn định mà người cán bộ sử dụng để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Phong cách công tác của người cán bộ giữ vai trò quan trọng trong tất cả các khâu hoạt động và thực thi của cán bộ. Nó được quy định bởi chức năng, nhiệm vụ, phẩm chất, tri thức và điều kiện hoạt động của người cán bộ, phương pháp, cách thức làm việc là bộ phận cấu thành phong cách công tác của người cán bộ. Kết quả của việc thực hiện chủ trương, nhiệm vụ phụ thuộc một phần rất quan trọng vào phong cách công tác của đội ngũ cán bộ nói chung và của từng cán bộ nói riêng. Phong cách công tác tuy là cái đời thường, dung dị, được biểu hiện trong hành động, cử chỉ, hành vi thực thi nhiệm vụ, trong cách đối nhân xử thế, giải quyết công việc, nhưng lại phản ánh phẩm chất bên trong, như tấm gương phản chiếu tâm hồn, tư tưởng và phẩm chất và năng lực của cán bộ.Vì vậy, phong cách công tác với nghĩa đích thực được coi là phẩm chất và năng lực hoạt động và hiệu quả thực thi nhiệm vụ của người cán bộ.
Trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc, Hồ Chí Minh viết: “ Nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa” [45, tr.233].
Ngay từ thời kỳ đầu của hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã rất chú ý rèn luyện cho cán bộ, đảng viên không những về phẩm chất đạo đức mà còn rèn luyện về phong cách công tác. Trong cuốn sách giáo khoa đầu tiên “Đường cách mệnh” (năm 1927) do Người biên soạn, đã nêu tương đối toàn diện về tư cách của một người cách mạng. Người đã chỉ rõ cho những người cách mạng trong hoạt động của mình phải đối xử như thế nào đối với người, đối với mình và đối với công việc.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đứng đầu bộ máy của Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về phong cách làm việc. Dù hết sức bận việc, Người vẫn tiếp xúc thường xuyên với quần chúng, chăm sóc cho đời sống mọi người. Bằng phong cách làm việc khoa học, lòng nhân ái bao la, Người đã nhận được lòng tin và tình yêu thương thật sự của các tầng lớp nhân dân. Chúng ta không thể nhận thấy ở Người một biểu hiện nào về quyền cao chức trọng. Phong cách và đức độ của Người đã làm cho quần chúng nhân dân tự đáy lòng mình, đã đặt cho Người một tên gọi thân thương: người Bác, người Cha…
Theo Hồ Chí Minh, điều quan trọng trong phong cách công tác của người cán bộ là nêu cao tính Đảng: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính Đảng mới làm được việc, kém tính Đảng thì việc gì làm cũng không nên” [45, tr.267].
Người giải thích tính Đảng phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, việc gì cũng phải điều tra rõ ràng và phải làm đến nơi đến chốn. Lý luận và thực hành phải luôn đi đôi với nhau. Đây chính là đặc trưng nổi bật nhất trong phong cách công tác mang tính đảng của người cán bộ. Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh suốt đời phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.Trong di chúc trước lúc đi xa, Người nói rõ không có điều gì phải hối hận, mà chỉ tiếc có một điều là không được phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Đây là tư tưởng chủ đạo chi phối mọi hoạt động của Người. Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ: Phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng, đó là “tính Đảng” và Người yêu cầu: mọi hoạt động của người cán bộ phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết; phong cách công tác của người cán bộ đều phải hướng tới mục đích trên. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khi mà mặt trái kinh tế thị trường đã có ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, thì việc rèn luyện tính Đảng trong phong cách công tác của đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh càng trở lên quan trọng và cấp thiết.
Trong phong cách công tác của người cán bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu: Người cán bộ cách mạng phải có tác phong quần chúng. Tác phong quần chúng được thể hiện bằng những hành động cụ thể: phải gần gũi nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, không xa nhân dân. Sâu sát quần chúng nhân dân, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt của đời sống quần chúng. Tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu sự phê bình của quần chúng và sửa chữa những khuyết điểm của mình. Người cán bộ là người giáo dục quần chúng, lãnh đạo quần chúng, đồng thời không ngừng học hỏi quần chúng, tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng theo tinh thần: lãnh đạo là đầy tớ, nhân dân là chủ. Người cán bộ phải tự mình mực thước để xứng đáng với sự tin cậy của quần chúng.
Hồ Chí Minh thường yêu cầu người cán bộ cách mạng phải thực hiện ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm để hiểu rõ quần chúng và nắm được những khó khăn nguyện vọng của họ ra sao. Người đã nhiều lần phê phán tệ xa rời quần chúng, lên mặt làm “quan cách mạng”, “quan nhân dân”, không thấy mình là đầy tớ, người học trò của nhân dân. Những thói quen mệnh lệnh, cửa quyền đối với quần chúng, cưỡng bức, ức hiếp quần chúng, bỏ mặc không xem xét những yêu cầu khiếu nại của quần chúng là hoàn toàn xa lạ với tác quan điểm và tác phong quần chúng của Người. Hồ Chí Minh yêu cầu tác phong quần chúng của người cán bộ không chỉ trong quan hệ với dân mà còn là tác phong của các cấp lãnh đạo trên, dưới, cán bộ đối với cán bộ, cán bộ đối với đồng nghiệp của mình. Hồ Chí Minh yêu cầu tác phong đối với người cán bộ cách mạng phải: óc nghĩ, mắt nhìn, chân đi, tay nghe, miệng nói, tay làm có như vậy mới sát quần chúng, mới xâm nhập được vào quần chúng.
Nhân dân từ già đến trẻ, thuộc mọi tầng lớp, dân tộc, mọi thế hệ đều gọi Hồ Chí Minh bằng hai tiếng Bác Hồ, ai cũng thấy Người gần gũi với mình như người thân trong gia đình. Dù bận trăm công, nghìn việc, nhưng đến với quần chúng, đến với những con người bình thường là nhu cầu thường trực của Bác Hồ. Đã hàng trăm lần Người đi thăm các cơ sở của Hà Nội, hàng trăm lần Người đến thăm các đơn vị của các lực lượng vũ trang nhân dân thuộc đủ các quân, binh chủng ngay trên bãi tập hay ngoài trận địa. Người đã có mặt ở hàng trăm công trường, nhà máy, hợp tác xã, bệnh viện, trường học, nhà giữ trẻ, lớp mẫu giáo và nhiều nơi ở của công nhân, cán bộ bình thường. Dấu chân Người đã để lại ở nhiều địa phương từ thành phố đến nông thôn, từ trung du đến đồng bằng, từ miền núi đến vùng duyên hải và các đảo xa. Hồ Chí Minh đến với mọi người một cách rất tự nhiên, bình dị. Mọi nghi thức đối với Người hình như đều trở thành không cần thiết. Một hàng rào danh dự có khi thừa vì Người đã lặng lẽ vào thăm chỗ ăn, chỗ ở, chỗ vệ sinh trước khi gặp mặt những người phụ trách nơi Người đến thăm.
Năm 1961, về thăm lại Pắc Bó, Cao Bằng, thấy đồng bào tổ chức đón tiếp, Người nói: “tôi về thăm nhà mà sao lại phải đón tôi”. Khi đi thăm dân, Người không muốn có nhiều người bảo vệ vì nhân dân đã bảo vệ Người. Khi xuống cơ sở, Người không muốn tiệc tùng tốn kém để mang tiếng với dân. Vì vậy, một bữa cơm nắm mang theo ở một ven đồi hay dưới một gốc cây cổ thụ trước khi gặp dân, thăm dân là chuyện thường tình ở Hồ Chí Minh, điều chưa thấy có ở bất cứ một vị chủ tịch nào khác. Khi đến thăm dân, Người gặp gỡ bà con nông dân ngay trên đồng ruộng, bỏ dép, xắn quần, lội xuống nước nơi bà con đang cấy, hoặc cũng đạp nước, tát nước như một lão nông quen việc đồng áng, kéo lưới cùng với ngư dân trên bãi biển thật gần gũi, thân thương. Đến với dạ hội thanh niên, Người bắt nhịp cho hàng ngàn thanh niên cùng hát “kết đoàn”. Những hình ảnh ấy còn tồn tại mãi với thời gian, mãi với lòng người và có ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
Hồ Chí Minh đã tiếp hàng ngàn lượt người trong khu Phủ Chủ tịch, không phải chỗ ở trong phòng khách long trọng, mà còn cả ở dàn hoa, bên bờ ao cá, trên đường xoài hoặc trên sàn gỗ của ngôi nhà sàn. Đón các cháu thiếu niên, nhi đồng, Người cũng nói với các đồng chí phục vụ: ở nhà các cháu là con, là cháu của các chú, nhưng vào đây các cháu là khách của Bác.
Tác phong quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ Người luôn quan tâm đến mọi việc của các ngành, các địa phương, các cơ sở, qua các báo cáo cũng như báo chí hàng ngày của cả trung ương và địa phương. Đặc biệt Người thường xuyên chú ý đến những gương người tốt, việc tốt trong các ngành, các giới, các lứa tuổi, các tầng lớp nhân dân để động viên, khen thưởng, qua đó giáo dục mọi người. Tập hợp trên 4.000 trường hợp đã được thưởng “huy hiệu Bác Hồ”, giữa năm 1968 Người đã mời một số cán bộ đến bàn cách làm và xuất bản loại sách Người tốt, việc tốt. Tầm quan trọng của loại sách này được Người khẳng định: Những chiến công và thành tích nổi bật, vang dội thì ai cũng có thể thấy được. Còn những việc nhỏ bé, bình thường thôi, nhưng ích nước, lợi dân thì hay bị xem thường. Theo Người thì biển cả phải từ bao nhiêu giọt nước nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng thì mới thành suối, thành sông rồi thành biển. Thấy biển lớn phải tìm về những giọt nước nhỏ. Thấy thắng lợi vĩ đại, phải trở về với những con người bình thường, với quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải có phong cách công tác dân chủ, tập thể. Đây là phong cách không thể thiếu được của người cán bộ. Vì người cán bộ bao giờ cũng gắn với tổ chức và có trọng trách trong một tập thể lãnh đạo. Sức mạnh và trí tuệ của người cán bộ đều bắt nguồn từ tập thể, nhưng cán bộ phải có phong cách làm việc dân chủ, tập thể mới quy tụ và phát huy được sức mạnh và trí tuệ của tập thể. Bản thân Hồ Chí Minh trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong công tác với cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, nhưng Người không bao giờ thực hiện sự áp đặt, độc đoán hoặc gia trưởng, mà Người luôn luôn dùng cách lãnh đạo dân chủ, tập thể bàn bạc đề ra quyết định một cách chính xác, nên không chỉ khai thác được trí thông minh, sáng tạo của tập thể mà còn tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ, tạo ra được sự thống nhất ý trí và hành động của tập thể trong các giai đoạn cách mạng nước ta. Người là mẫu mực tuyệt vời về phong cách làm việc dân chủ, tập thể. Chính vì thế, Người chỉ rõ: “Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo” [45, tr.244].
Phong cách công tác dân chủ, tập thể hoàn toàn đối lập với sử dụng quyền hành, mệnh lệnh hành chính và quan liêu. Đây là một điều không hề giản đơn đối với những cán bộ có chức, có quyền. Vì thế, Người đã nhiều lần nhắc nhở cán bộ rằng: “ Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực” [45, tr.243], rằng nếu cứ làm theo ý muốn chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng thì khác nào: “Khoét chân cho vừa giầy”. Người khuyên cán bộ: “Trong lúc thảo luận, mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh.” [45, tr.232]. Với tác phong dân chủ, tập thể Hồ Chí Minh hết sức chú ý thực hiện và phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng cũng như đối với quần chúng, phát huy tinh thần làm chủ tập thể với mọi người. Khi bàn cách làm và xuất bản loại sách Người tốt việc tốt với một số cán bộ, Người nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác cứ cãi, nhất trí rồi về làm tốt mới được. Không nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa” [ 50, tr. 256].
Dù ở cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, có uy tín tuyệt đối trong Đảng và trong nhân dân, Hồ Chí Minh vẫn giữ tác phong tập thể, dân chủ với Bộ Chính trị, với các cơ quan Đảng và Nhà nước, chú ý lắng nghe ý kiến của cán bộ, Đảng viên và người dân bình thường. Đến những năm cuối đời, Người vẫn thường làm việc với Bộ Chính trị vào những ngày “só._.ựa chọn giống cây trồng, vật nuôi, phát triển nghề truyền thống, tìm hướng đi thích hợp với điều kiện của cơ sở mình, dám chịu trách nhiệm trước sự lựa chọn của mình sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương mình.
Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm không phải là hành động mạo hiểm, liều lĩnh mà phải trên cơ sở nắm vững toàn diện thực tiễn địa phương với sự phán đoán thận trọng, chu đáo để chớp thời cơ sản xuất ra những sản phẩm mà thị trường cần, thu lợi ích cho tập thể, cho nhân dân. Hơn bao giờ hết, muốn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước, việc đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của cả nước nói chung và của Hưng Yên nói riêng có phương pháp làm việc năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm sẽ góp phần thắng lợi không nhỏ cho sự nghiệp đổi mới đất nước ta nói chung và của Hưng Yên nói riêng.
3.3.6. Học tập và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xử lý tình huống và trong các mối quan hệ
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua và ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Học tập, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là việc xử lý chính xác các tình huống trong công tác lãnh đạo, đồng thời xử lý đúng đắn, hiệu quả trong các mối quan hệ đa chiều.
Theo phương châm Hồ Chí Minh đã dạy: cán bộ luôn vì dân, vì nước, gần dân, sát dân, việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chắc chắn đó sẽ là người cán bộ được dân tin yêu, có phong cách làm việc dân chủ, tập thể, vừa “hồng” vừa “chuyên” đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong nhân dân, biến ý tưởng của Đảng thành niềm tin, sức mạnh cho nhân dân. Do vậy, phải học tập tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, vận dụng một cách hiệu quả nhất. Chỉ khi có được kiến thức, phương pháp làm việc mà Người đã dạy, cán bộ mới có thể xử lý bất cứ tình huống nào một cách khoa học và chính xác.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và tuyên truyền giáo dục tư tưởng của Người đối với các tầng lớp nhân dân, cũng là cách thức mới, góp giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi sự thoái hoá đạo đức, lối sống, ổn định chính trị của địa phương.
Để làm được vấn đề này một cách hiệu quả, tôi xin đưa ra kiến nghị: hiện nay trong chương trình trung cấp lý luận chính trị không có chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, cho nên việc đưa chuyên đề này vào giảng dạy (một cách ngắn gọn, dễ hiểu) sẽ đạt được hiệu quả rất lớn, nó góp phần làm cho đội ngũ cán bộ hiểu được vị trí, vai trò, nhiệm vụ của mình cũng như tránh mắc phải những sai lầm, khuyết điểm mà cán bộ thường mắc phải trong điều kiện Đảng cầm quyền, đồng thời giúp họ có cái nhìn đúng về phương pháp, lề lối làm việc của mình. Việc đưa chuyên đề này vào giảng dạy có ý nghĩa rất lớn đối với học viên cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường chính trị các tỉnh phải trở thành yêu cầu và nội dung chính trong chương trình học tập chính trị đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Môn tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay trong chương trình trung cấp chính trị chỉ có số tiết rất ít và giảng viên giảng dạy môn học này ở các trường trung cấp chính trị chủ yếu là kiêm nhiệm chưa được đào tạo cơ bản. Muốn biến tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực sinh động trong cuộc sống trước hết phải đào tạo được đội ngũ giảng viên này một cách cơ bản. Có như vậy chất lượng học tập của học viên mới được nâng lên.
3.3.7. Đổi mới cung cách tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ làm tăng hiệu quả lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Đối với cán bộ chủ chốt cần: xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng bộ, chi bộ cơ sở mà mình lãnh đạo, làm đúng vai trò là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân vững mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân và thực hiện tốt ở cơ sở. Phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của dân , khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh, dân trí và dân chủ ở cơ sở.
Cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải biết động viên, giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân, phấn đấu để trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực. Đảng viên hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh phải phấn đấu làm kinh tế giỏi, đi đầu trong việc áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới, ra sức làm giàu chính đáng và hướng dẫn vận động nhân dân cùng làm giàu, không cam chịu đói nghèo.
Tăng cường công tác phát triển đảng viên mới theo tiêu chuẩn và quy định của Điều lệ đảng…
Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần tiến hành: đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của các cấp uỷ đảng; đối với những vấn đề lớn, quan hệ tới cuộc sống và quyền lợi của đông đảo nhân dân địa phương đòi hỏi sự phối hợp của cả hệ thống chính trị ở cơ sở, đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng đề ra các chủ trương và các giải pháp có tính định hướng và phân công, giao trách nhiệm cho từng cấp uỷ viên phụ trách và các tổ chức trong hệ thống chính trị đề ra biện pháp, tổ chức thực hiện theo quyền hạn, trách nhiệm.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần xây dựng và hoàn thiện quy chế làm việc giữa Bí thư đảng uỷ với Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận tổ quốc và những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân và giải quyết kịp thời những công việc quan trọng và bức xúc trên địa bàn, đảm bảo cho cấp uỷ đảng quán xuyến được các mặt công tác ở cơ sở, thực hiện chế độ giao ban hàng tháng.
Đảng bộ, chi bộ và cấp uỷ đảng chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên đồng thời phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo những người là bộ đội, công an đã qua thử thách còn trẻ, xuất ngũ về địa phương và những người có tài, đức để đảm đương các vị trí công tác.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần tăng cường việc kiểm tra, chấp hành nghị quyết của đảng uỷ, chi uỷ, kiểm tra nhiệm vụ được phân công và tư cách đảng viên. Chú trọng tìm hiểu, lắng nghe ý kiến nhận xét, đánh giá của quần chúng nhân dân đối với đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền cơ sở, tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, hướng dẫn và giám sát hoạt động tự quản của nhân dân, tạo thuận lợi để nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội hoạt động theo pháp luật.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần sắp xếp hợp lý việc thu, chi ngân sách, quản lý cán bộ, quản lý đất đai, bảo vệ đê điều và các công trình thuỷ lợi, quản lý hộ tịch, quản lý các dự án đầu tư thuộc vốn của ngân sách nhà nước và vốn huy động trong nhân dân, quản lý cơ sở vật chất về giáo dục, văn hoá, y tế phục vụ nhân dân.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần đưa ra các giải pháp: đổi mới tổ chức cơ quan hành chính, cấp cơ sở, giảm bớt số thành viên Uỷ ban nhân dân để bộ máy năng động hơn... Kiện toàn bộ máy giúp việc gồm văn phòng Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và ba khối công việc: khối kinh tế – tài chính (kể cả kế toán), khối văn hoá - xã hội và khối nội chính; có sự phân biệt giữa xã, thị trấn và phường.
Tóm lại, trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có phong cách làm việc nhanh gọn, dứt khoát, tránh rườm rà, lề mề và thói quen quan liêu, bàn giấy như thời bao cấp, muốn làm được điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.
3.3.8. Đổi mới cách lãnh đạo, lấy hiệu quả công việc làm thước đo đánh giá năng lực cán bộ, đề cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ đứng đầu
Hồ Chí Minh đã chỉ ra bốn hướng tiếp cận về đổi mới cách lãnh đạo:
Một là, khiêm tốn học hỏi quần chúng, không chỉ là vấn đề đạo đức mà phải xác định như là điều kiện cần và đủ của lãnh đạo.
Hai là, nhân dân thi hành quyết định của lãnh đạo do đó nhân dân phải là người tham gia quá trình ra quyết định. Đây là hướng tiếp cận tới dân chủ trực tiếp, nó vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa thể hiện trách nhiệm cao trước quyền lực mà người lãnh đạo được nhân dân uỷ thác.
Ba là, kiểm soát phải được xác định là điều kiện bắt buộc của lãnh đạo, nó như là tiêu chí xác định có lãnh đạo và có biết lãnh đạo hay không: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không, muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát” [45, tr.287].
Bốn là, hai cách liên hợp được coi là nguyên tắc phổ quát của phương pháp lãnh đạo.
Đổi mới cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trước hết người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở phải quán triệt nguyên tắc lấy hiệu quả công việc làm thước đo đánh giá năng lực cán bộ. Hiệu quả công việc chính là sản phẩm của quá trình công tác của người cán bộ. Hiệu quả công việc được thể hiện bằng sự phát triển mọi mặt của địa phương: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là những người trực tiếp đưa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống, chính vì vậy người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần được giao nhiệm vụ và quyền hạn rõ ràng hơn, khắc phục tình trạng khi công việc thành công thì cá nhân nào, ngành nào cũng vơ thành tích cho mình, nhưng khi thất bại thì không ai chịu trách nhiệm, người này đùn đẩy cho người nọ. Trong tổ chức thực hiện, cần đề cao trách nhiệm cá nhân, phát huy tính chủ động, năng động, sáng tạo của cán bộ. Về phía mình, mỗi người cán bộ chủ chốt cần phải nêu cao tính tổ chức kỷ luật, tự giác chịu sự phê bình, giám sát của tập thể đã bầu ra mình, của tổ chức đã giao chức vụ cho mình; khắc phục tình trạng cá nhân, độc đoán, lộng quyền, kiêu ngạo, đặt mình lên trên tập thể, đứng ra ngoài tổ chức. Đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở sẽ góp phần nâng cao ý thức dám làm, dám chịu trách nhiệm, tránh tình trạng ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể, ba phải. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường cạnh tranh quyết liệt, nếu người cán bộ chủ chốt chậm đổi mới tư duy, không tìm ra được con đường đi thích hợp để phát triển mọi mặt của cơ sở thì sẽ phải trả giá. Ngược lại, khi người cán bộ chủ chốt được giao nhiệm vụ rõ ràng, tư duy năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm trước những quyết định của mình, thậm chí khi thấy quyết định của mình là phù hợp với thực tiễn dám quyết đoán sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của đơn vị mình. Đề cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu nhưng phải quán triệt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nếu bỏ qua nguyên tắc này, sẽ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, coi thường tập thể.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nếu làm tốt vai trò trách nhiệm của người đứng đầu một đơn vị, họ tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước cấp trên về những quyết định của mình, sẽ góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm, rèn luyện tính Đảng và giúp cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có cách nhìn khách quan, cẩn trọng trước khi xem xét, ra quyết định hoặc giải quyết công việc ở cơ sở góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác.
Bên cạnh đó, người cán bộ cần đổi mới cơ chế quản lý, áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào công tác quản lý, thanh giảm bộ máy hành chính, chất lượng, gọn nhẹ.
Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có năng lực là người biết vận hành bộ máy cơ sở mình một cách hiệu quả nhất, muốn vậy điều đầu tiên trong đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ chủ chốt là phải đổi mới cơ chế quản lý. Quản lý tốt không có nghĩa là chỉ quản lý theo giờ hành chính, quản lý theo cách ngồi bàn giấy. Người cán bộ chủ chốt phải quản lý cán bộ theo kết quả công tác và hiệu quả công việc. Người cán bộ cơ sở là người phải biết bám dân, gần dân, hiểu dân, học dân và biết cách lãnh đạo nhân dân. Chính vì vậy, người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần quán triệt nguyên tắc quản lý: giữa làm việc tại trụ sở và làm việc trên ruộng đồng, chỉ đạo nhân dân sản xuất, chỉ đạo các hoạt động khác ở cơ sở như: văn hoá, y tế, an ninh, quốc phòng… Người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải xác định trong nhiệm vụ quản lý thì quản lý con người là phức tạp nhất vì như Mác đã nói trong tính hiện thực trực tiếp của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, mỗi con người họ có ý kiến riêng, có suy nghĩ riêng và có cách hành động riêng. Người cán bộ quản lý giỏi là người biết phát huy cái riêng, biết biến cái riêng thành cái chung, biết vì tập thể.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế tri thức đã phát triển, khoa học công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, vậy điều đó đòi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở không đứng ngoài xu thế chung dó, người cán bộ lãnh đạo quản lý phải biết áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quá trình quản lý và làm việc của mình. Hiện nay, ở Hưng Yên có 161 xã, phường, thị trấn thì có 161/161 máy vi tính, chính vì vậy, người cán bộ chủ chốt phải biết truy cập thông tin trên mạng về: giá cả thị trường, về giống, về phân bón, thuốc trừ sâu, về cầu trên thị trường qua mạng… Bởi vì chỉ có nắm bắt, tiếp cận với điều đó hàng ngày, người cán bộ quản lý mới biết được mình sẽ sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cái gì thị trường cần chứ không phải sản xuất những cái gì mình có, không chỉ trong lĩnh vực sản xuất, phát triển kinh tế mà trên cả những lĩnh vực khác như: dân số, y tế, môi trường, văn hoá… Nếu được cập nhật thường xuyên trên mạng sẽ giúp cho người cán bộ quản lý có định hướng đúng đắn, có giải pháp cho riêng cho cơ sở mình, đồng thời có máy vi tính và biết sử dụng nó trong công việc sẽ giúp cho công việc được nhanh chóng, hiệu quả hơn, tránh tình trạng mua máy về chỉ là hình thức, không biết phát huy tác dụng của nó.
Bên cạnh việc áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào quá trình quản lý đòi hỏi người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải biết tạo ra một bộ máy những người giúp việc làm việc có hiệu quả. Muốn vậy, phải từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, lựa chọn những người vừa có năng lực, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa “hồng” vừa “chuyên”, năng động sáng tạo. Bộ máy những người giúp việc đó không cần số lượng nhiều mà chủ yếu là chất lượng từng bước thay thế lớp cán bộ già, cán bộ kiêm nhiệm không có chuyên môn, nghiệp vụ. Có như vậy mới đáp ứng được mọi nhiệm vụ mà cơ sở mình đề ra.
Trên đây là một số những vấn đề cơ bản đưa ra nhằm đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Những quan điểm này có được trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và thực trạng phương pháp lãnh đạo, phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở làm nền tảng. Việc quán triệt và vận dụng các quan điểm trên vào thực tiễn địa phương sẽ là những đóng góp nhỏ về mặt lý luận và thực tiễn để góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà.
Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam đưa đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghiên cứu những nội dung cơ bản về cán bộ và công tác cán bộ trong di sản tư tưởng của Người, để trên cơ sở đó vận dụng vào việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của Hưng Yên là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, không chỉ đối với địa phương, mà còn có ý nghĩa trên phạm vi cả nước.
Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, công tác tổ chức cán bộ của Đảng vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: Nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm, công tác xây dựng Đảng là then chốt. Do đó, công tác xây dựng Đảng, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của Đảng mang tính cấp bách hơn lúc nào hết.
Đối với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, khâu cán bộ mang tính quyết định. Song để làm tốt được công tác cán bộ, không có con đường nào khác là chúng ta phải trở lại với những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, vận dụng tư tưởng của Người để giáo dục, rèn luyện cán bộ trở thành những con người có đức có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mới.
Trong công tác cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề thiết thực, bởi đây là lực lượng trực tiếp tác động đến tư tưởng tình cảm của quần chúng nhân dân, họ còn là những người lãnh đạo gần dân nhất, những người chuyển tải chủ trương đường lối của Đảng, trực tiếp chỉ đạo nhân dân thực thi chính sách của Nhà nước, họ giữ vai trò hết sức quan trọng quyết định đến thành công hay thất bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, vốn là một tỉnh thuần nông ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đang vươn lên mạnh mẽ trong quá trình chuyển đổi cơ cấu công nông nghiệp, có nét tương đồng với nhiều địa phương khác trong cả nước, để tìm ra những bài học kinh nghiệm về công tác cán bộ.
Từ việc phân tích những mặt ưu điểm và khuyết điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở của địa phương, tìm ra những nguyên nhân tồn tại, trên cơ sở đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới một bước phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Hy vọng, những vấn đề tôi dưa ra sẽ góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện các quy trình trong công tác cán bộ.
Tôi cho rằng, trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và sự nghiệp xây dựng tỉnh Hưng Yên nói riêng, việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở chính là khâu đột phá trong công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng. Nếu làm tốt, chắc chắn sẽ có sự chuyển biến trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế - chính trị của Hưng Yên nói riêng và cả đất nước nói chung.
Việc đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề lớn, phức tạp, do đó ngay một lúc chúng ta khó có thể thực hiện trọn vẹn, đầy đủ yêu cầu, nội dung của việc đổi mới. Quá trình đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là quá trình lâu dài, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, vừa bổ sung những vấn đề mới cho phù hợp với thực tiễn. Đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là giải pháp then chốt trong điều kiện Đảng cầm quyền . Điều quan trọng để đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là chúng ta phải trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời có những chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng và đội ngũ cán bộ ở cơ sở nói chung.
Tuy nhiên, “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hưng Yên” , do đó chắc chắn còn chưa hoàn thiện và còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu, công trình sẽ góp phần nhỏ bé vào việc củng cố và kiện toàn hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh nhà và từng bước thực hiện mục tiêu: xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” đúng lòng mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Danh mục tài liệu tham khảo
Ban Tổ chức cán bộ chính phủ, Viện khoa học tổ chức nhà nước (1998), Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1998), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tập I, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1998), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên, tập II, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Thường vụ tỉnh uỷ Hưng Yên (2005), Bác Hồ với Hưng Yên, Hưng Yên với Bác Hồ, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Hội nhà báo, Hội văn học nghệ thuật Hưng Yên (2005), Hưng Yên trong tôi, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương – Ban Tổ chức (2003), Hướng dẫn số 17 HD/TCTW ngày 23/4 về quy hoạch công tác cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Khánh Bật (2002), giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Chỉnh (2000), Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hiện nay, Nxb Đà Nẵng.
Thành Duy (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương (Khoá VII), Lưu hành nội bộ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương (Khoá VIII), Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương (Khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (Khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương (Khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 11 NQ/TW ngày 25/11/2002 của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương (Khoá IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Bạch Đằng (2005), Đến với tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ.
Nguyễn Hữu Đổng (2002), “Học tập phương pháp tuyên truyền giáo dục tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh”, Lý luận chính trị, trang 11 - 13.
Bùi Thế Đăng (2005), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp lãnh đạo vào việc xây dựng, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác của cán bộ chính trị trong quân đội ta hiện nay”, Tạp chí quốc phòng toàn dân (5), trang 73 - 75.
Trần Đình Hoan (2002), “Luân chuyển cán bộ, khâu đột phá nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển mới”, Tạp chí Cộng sản (7), trang 6 – 12.
Trần Đình Hoan (2002), “ Mười năm công tác tổ chức cán bộ của Đảng và những yêu cầu của nhiệm vụ trong thời gian tới”, Tạp chí Cộng sản, (2), trang 7.
Trần Đình Hoan (2003), “Về quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9), trang 31-35.
Trần Đình Huỳnh (2005), Hồ Chí Minh kiến trúc sư lỗi lạc của nền hành chính nhà nước Việt Nam, Nxb Lao động xã hội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1993), Cơ cấu và tiêu chuẩn đội ngũ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới ở nước ta. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài KX.05.11, Hà Nội
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Đào tạo và nâng cao kỹ năng lãnh đạo, Hội nghị thông tin khoa học, Hà Nội.
Học viện Nguyễn ái Quốc (1992), Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở, Hà Nội.
Đặng Xuân Kỳ (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Xuân Kỳ, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Hoà (đồng chủ biên) (2005), Một số vấn đề về xây dựng Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
V.I. Lê nin – Stalin (1971), Vấn đề cán bộ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật.
V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 40, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
V.I. Lênin (1975), Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva
Các Mác và Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các Mác và Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Các Mác và Ph Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hà Quang Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn luyện cán bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, (7), trang 2 – 3.
Dương Xuân Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn luyện cán bộ”, Tạp chí xây dựng Đảng, (7), trang 2 – 3.
Bùi Đình Phong (2002, Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nxb Lao động.
Bùi Đình Phong, Phạm Ngọc Anh, Một số vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Lao động, (2005)
Nguyễn Trọng Phúc (2002), “Lênin, Hồ Chí Minh nói về vai trò luân chuyển cán bộ”, Tạp chí Cộng sản, (9), trang 31 – 35.
Trần Đình Quảng (2003), “Thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”, chống tham ô, lãng phí và quan liêu”, Tạp chí Lao động và công đoàn, (289) trang 9, 34.
Trần Đình Quảng (2003), “Thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ”, Tạp chí Thanh tra, (9), trang 33 - 36.
Trần Đình Quảng (2005), “Chủ tịch Hồ Chí Minh tấm gương sáng ngời về phong cách làm việc”, Tạp chí Lao động và công đoàn, (331), trang 5,6,11.
Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (chủ biên) (2003), Làm người cộng sản trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tỉnh Uỷ Hưng Yên, Quyết định số 350/QĐ/TU: Quyết định ban hành đề án đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
Trường chính trị Nguyễn Văn Linh: Báo cáo thành tích của Trường chính trị Nguyễn Văn Linh (1997 – 2003)
Tỉnh uỷ Hưng Yên số 84/BC/TU: Báo cáo tổng kết năm năm thực hiện chỉ thị 30-CT/TW của Bộ chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
Tỉnh uỷ Hưng Yên số 349 – QĐ/TU: Quyết định ban hành đề án công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn
Tỉnh uỷ Hưng Yên (2005), Dự thảo báo cáo chính trị trình Đại hội XVI của Đảng bộ tỉnh
Trần Hậu Thành (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (5), trang 5 - 6.
Nguyễn Đức Thắng (2005),“Phương pháp, tác phong làm việc của người cán bộ cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa giáo, (5), trang 15 – 17.
Nguyễn Xuân Thông (2003), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Cộng sản (22+23), trang 59-62.
Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Thị Thuý (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (12), trang 310.
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2001), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đức Vượng (1195), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phụ lục
Phụ lục 1
Bảng tỷ lệ cơ cấu giới tính, độ tuổi của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh hưng yên
(Tại thời điểm tháng 6 năm 2005)
Đơn vị tính: %
TT
Hạng mục
Bí thư, Phó bí thư đảng uỷ
Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND.
Giới tính
1
Nam
93,19
97,27
2
Nữ
6,81
2,73
Độ tuổi
3
Từ 31 – 45
26,32
38,8
4
Từ 45 – 50
36,84
40,62
5
Từ 51 trở lên
38,39
20,58
Nguồn: Đề án quy hoạch đào tạo ĐNCB theo tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ cấp xã, phường, thị trấn tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 của UBND tỉnh tháng 6 năm 2005
Phụ lục 2
Bảng phân tích chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh hưng yên
(Tại thời điểm tháng 6 năm 2005)
Đơn vị tính: %
TT
Hạng mục
Bí thư, Phó bí thư đảng uỷ
Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND
Chuyên môn nghiệp vụ
1
Sơ cấp
2,48
2,73
2
Trung cấp
23,219
27,41
3
Cao đẳng
0,619
1,545
4
Đại học
12,419
12,568
Lý luận chính trị
5
Sơ cấp
17,96
22,04
6
Trung cấp
77,72
59,925
7
Đại học, cao cấp
0
0,1821
Nguồn: Đề án quy hoạch đào tạo ĐNCB theo tiêu chuẩn từng chức danh cán bộ cấp xã, phường, thị trấn tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 của UBND tỉnh tháng 6 năm 2005.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2755.doc