lời nói đầu
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam thời gian qua đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong 5 năm liền (1996-2000) đạt mức 7%, đời sống của nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, khó có thể phủ nhận rằng nền kinh tế nước ta vẫn đang tồn tại nhiều mâu thuẫn mà việc giải quyết những mâu thuẫn này đang là một thách thức lớn cho toàn thể chúng ta.
Trong Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ IX vừa qua đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng triết học Mác-Lênin với việc giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm đầu của thế kỷ XXI- Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu đó, yêu cầu về vốn là một trong những yêu cầu lớn và khó giải quyết nhất đối với nền kinh tế. Mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn hiện đang là một trong những mâu thuẫn bên trong nổi cộm nhất. Theo tính toán sơ bộ, trong giai đoạn 1997-2001, Việt Nam cần huy động khoảng 40-42 tỉ USD. Đây thực sự là con số khổng lồ khi biết rằng tổng sản phẩm quốc nội hàng năm của nước ta chỉ đạt 24 tỉ đô la.
Để nhận thức rõ hơn mâu thuẫn này, em đã chọn đề tài: "Vận dụng triết học Mác - Lê Nin với việc giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển nền kinh tế Việt Nam ".
Phần I
những vấn đề lý luận chung
I. Quy luật mâu thuẫn
1. Khái niệm mâu thuẫn
Mâu thuẫn là mối liên hệ tác động qua lại của các mặt đối lập.
Trong đó, mặt đối lập là những yếu tố, những bộ phận, những khuynh hướng trái chiều nhau.
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng, phát triển ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Ví dụ như điện tích âm và dương trong nguyên tử, đồng hoá và dị hoá trong sinh học, tích luỹ và tiêu dùng trong kinh tế...
Cần phân biệt rằng không phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong nó hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập nào tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau (sự chuyển hoá này tạo nguồn gốc, động lực, đồng thời quy định cả bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật) thì hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ, trong một nền sản xuất xã hội xuất hiện hàng loạt các mặt có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất; cung và cầu; tích luỹ và tiêu dùng; nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn...Trong đó, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối lập chính tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì hai mặt đối lập này không chỉ là nguồn gốc, động lực mà còn quy định rõ bản chất, khuynh hướng phát triển của nền sản xuất.
2 . Đặc điểm của mâu thuẫn
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan
Đối lập với các quan điểm của triết học cũ, phép biện chứng duy vật khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất kì một lực lượng siêu tự nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn mang tính phổ biến
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, giữa hạt và trường, hạt và phản hạt. Trong sinh học có hấp thụ và bài tiết, di truyền và biến dị. Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; giữa những giai cấp đối kháng như chủ nô và nô lệ, nông dân và địa chủ, tư sản và vô sản. Trong hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như mâu thuẫn giữa cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá, mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho nền sản xuất... Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và sai lầm...
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật, mâu thuẫn được hình thành không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Ăngghen chỉ ra rằng chính sự vận động đơn giản nhất của vật chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn thể hiện càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật. Đó chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn.
Như vậy, mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản thân thế giới khách quan. Do đó, trong hoạt động thực tiễn phải biết phân tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
3. Nội dung quy luật
Qui luật mâu thuẫn là qui luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật. Quy luật này là "hạt nhân của phép biện chứng". Nó vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng; đồng thời tác động đến tất cả các quy luật và phạm trù của phép biện chứng.
3.1. Thống nhất của các mặt đối lập:
"Thống nhất" của các mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất địn sẽ không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ tích luỹ và tiêu dùng là hai mặt đối lập thống nhất với nhau trong nền sản xuất. Không có tích luỹ thì không thể thực hiện được quá trình tái sản xuất mở rộng và như vậy không có điều kiện để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Ngược lại, nếu không đảm bảo thoả mãn nhu cầu về tiêu dùng thì cũng không thể đẩy mạnh sản xuất phát triển. Không đẩy mạnh sản xuất phát triển thì cũng không có tích luỹ.
Như vậy, nhờ sự thống nhất mà sự vật tồn tại là chính nó. Sự thống nhất tạo tính ổn định và tương đối của sự vật.
Khái niệm "sự thống nhất của các mặt đối lập" còn được dùng cùng một nghĩa với khái niệm "sự đồng nhất của các mặt đối lập". Tuy nhiên, trong trường hợp các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau thì hai khái niệm này không còn đồng nghĩa với nhau nữa. Mỗi một sự vật, hiện tượng vừa là bản thân nó, vừa là một cái khác với bản thân nó. Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, không có cái gì đồng nhất thuần tuý, không có đối lập, không có chuyển hoá.
3.2. Đấu tranh của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự bài trừ, gạt bỏ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Bởi vì do các mặt đối lập có xu hướng trái ngược nhau mà trong quá trình tồn tại, mỗi mặt đối lập này lại vận động theo xu hướng vốn có của mình dẫn đến chúng ảnh hưởng, hạn chế và kìm hãm lẫn nhau. Sự đấu tranh, chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau và được chia thành nhiều giai đoạn.
Giai đoạn hình thành mâu thuẫn: Ban đầu các yếu tố trong sự vật, hiện tượng chỉ tồn tại với tư cách là sự khác nhau. Những yếu tố ấy cứ vận động theo những xu hướng riêng làm cho sự khác nhau dần trở nên sự khác biệt. Sự khác biệt cứ tăng dần rồi chuyển thành sự đối lập. Các yếu tố lúc này trở thành các mặt đối lập. Các mặt đối lập tác động qua lại lẫn nhau để tạo nên sự vật và qua đó tạo nên mâu thuẫn. Như vậy, trong giai đoạn hình thành mâu thuẫn sự thống nhất là chủ yếu.
Giai đoạn phát triển mâu thuẫn: Các mặt đối lập cứ tiếp tục vận động theo những xu hướng riêng trái ngược nhau. Giữa chúng đã xảy ra sự hạn chế, kìm hãm lẫn nhau. Sự đấu tranh xuất hiện. Các mặt đối lập dần chuyển thành các đối cực. Mâu thuẫn đã phát triển đến đỉnh cao và yêu cầu được giải quyết.
Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn: Khi mâu thuẫn đã phát triển đến đỉnh cao và trong những điều kiện phù hợp thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết bằng cách xảy ra sự chuyển hoá của các mặt đối lập. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới được hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết, sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới. Hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới hơn xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy, Lê nin khẳng định: " Sự phát triển là một "cuộc đấu tranh" giữa các mặt đối lập"
Tuy nhiên không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kịên cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Đó là quá trình diễn biến rất phức tạp với rất nhiều hình thức khác nhau. Do đó không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách giản đơn, máy móc như A chuyển thành B và ngược lại. Thông thường mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức : Một là, mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất ở trình độ cao hơn. Hai là, cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Như vậy, đấu tranh đưa đến sự chuyển hoá làm các mặt đối lập thay đổi dẫn đến sự vận động. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc động lực của sự vận động, xuyên qua quá trình vận động mà thể hiện một xu hướng tiến lên. Có thể khẳng định đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc và động lực của sự phát triển.
3.3. Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh
Đó là hai mặt tồn tại trong cùng một quá trình giải quyết mâu thuẫn và có liên quan chặt chẽ với nhau. Thống nhất tạo tiền đề cho đấu tranh. Đấu tranh phá vỡ thể thống nhất cũ xác lập thể thống nhất mới.
Thống nhất là điều kiện để sự vật tồn tại là chính nó- nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ là tạm thời, tương đối. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết: "Sự thống nhất ( phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời thoáng qua của tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối".
ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, hình thành từ những cấu trúc và thuộc tính bên trong vốn có và tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Do đó trong hoạt động thực tiễn phải biết phân tích từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Sự vật khác nhau thì mâu thuẫn cũng khác nhau, mỗi sự vật đều có nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn lại có đặc điểm riêng của nó; quá trình phát triển của một mâu thuẫn, ở mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng. Do đó, phải biết phân tích cụ thể từng mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể cho từng loại mâu thuẫn đó.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả lĩnh vực kinh tế, xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, trong đó có nước ta. Việc nắm rõ nguyên nhân cũng như thực trạng của từng loại mâu thuẫn sẽ giúp ta tìm ra phương hướng giải quyết hợp lý. Tuy nhiên với phạm vi nghiên cứu của đề tài, em chỉ xin đi sâu nghiên cứu mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển nền kinh tế nước ta. Và để hiểu rõ vấn đề, trước hết ta đi tìm hiểu đôi chút về vốn đầu tư và vai trò của nó đối với việc phát triển kinh tế.
II. Vai trò của vốn đầu tư đối với sự phát triển của nền kinh tế
1. Khái niệm vốn đầu tư
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản suất xã hội.
2. Tầm quan trọng của vốn đầu tư
Bất kì một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện không thể thiếu được, đó là phải tạo vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó. Hoạt động đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, người ta không thể thực hiện đầu tư mà không có vốn.
Thực tế ở nhiều nước cho thấy: muốn giữ được mức tăng trưởng ổn định ở mức trung bình khoảng 6% - 7% năm cần phải duy trì mức đầu tư từ 15% - 20% GDP. Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Hàn quốc đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế thần kỳ trong 2-3 thập kỷ gần đây, vì họ đều kiên trì thực hiện đầu tư cao 30% - 40% so với GDP. Nhiều nước nếu tỷ lệ đầu tư bằng 30% GDP thì thường đạt tốc độ tăng trưởng 7% - 8% năm. Có thể nói, để đạt tốc độ tăng trưởng 1% thì tỷ lệ đầu tư phải là 4% GDP. Đối với nước ta, các chuyên gia kinh tế cho rằng muốn tăng GDP lên gấp 2 lần vào năm 2000 thì số vốn đầu tư từ 35 - 40 tỷ USD.
Trong văn kiện Đại hội VIII đã chỉ rõ "Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng" cụ thể là:
2.1. Với nguồn vốn đầu tư trong nước :
Trong lịch sử phát triển, các nước phát triển kinh tế cùng dựa trên lí luận chung là: nếu bản thân nền kinh tế không tiết kiệm nội bộ thì đó là nền kinh tế "tiêu hao' ăn dần vào của cải, kết cục sẽ đi vào con đường bế tắc cho sự phát triển.
Đối với pham vi vi mô, cùng với bên ngoài nhất thiết phải có vốn đối ứng bên trong mới có thể triển khai công trình thuận lợi. Thêm vào đó cần có vốn để đầu tư vào các công trình như: điện, cấp thoát nước, thông tin, giao thông và hạ tầng xã hội khác.
Kinh nghiệm ở các nước cho thấy cần có tích luỹ nội bộ nền kinh tế thì mới có khả năng trở thành nước công nghiệp hoá. Việt Nam ta trong thời gian dài có tích luỹ âm, đến nay mức tích luỹ gộp cũng chỉ dưới 20%, vẫn chưa đủ điều kiện cho sự phát triển nhanh trong những năm tới.
2.2. Với nguồn vốn nước ngoài:
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng, góp phần đáng kể vào việc đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế.Nhờ đó mà nước sở tại có thể tiếp nhận được công nghệ tiên tiến, đặc biệt là những nước có nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Việc tiếp thu này còn giúp nước sở tại tăng năng suất lao động, tạo ra những ngành nghề mới và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, nhờ học tập được kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài nên việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có hiệu quả hơn, tạo thêm được công ăn việc làm cho người lao động, góp phần đào tạo cán bộ có kỹ thuật và trình độ chuyên môn cao. Thông qua đó người lao động sẽ có nguồn thu nhập ổn định, đời sống được đảm bảo.
2.3. Mối quan hệ giữa vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài.
Đối với một nước đang phát triển, để phát triển kinh tế để từ đấy thoát ra khỏi cảnh đói nghèo thì vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn gay gắt. Từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ cần thiết khác cho sự phát triển như công nghệ, cở sở hạ tầng... Do đó, để có được những bước đi ban đầu cho sự phát triển kinh tế không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Không một nước đang phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện kinh tế mở.
Tuy nhiên, để tiếp thu và phát huy tác dụng của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế đất nước lại chính là khối lượng vốn đầu tư trong nước.
Muốn hiểu rõ tầm quan trọng của vốn đầu tư trong nước ở nước ta chúng ta nghiên cứu mối tương quan giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Tương quan (1): vốn trong nước > vốn nước ngoài: Là xu hướng chúng ta mong muốn duy trì nhằm tự chủ về vốn.
Tương quan (1): vốn trong nước < vốn nước ngoài: Sớm muộn đất nước sẽ bị phụ thuộc vào vốn bên ngoài, bị bóc lột tài nguyên, sức lao động... quốc gia sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính khi có sự cố bên ngoài.
Tương quan (3): vốn trong nước = vốn nước ngoài: Tương quan này rất ít xảy ra, nếu có sẽ không bền vững. Nó tạo ra sự bình đẳng giữa hai bên về kinh tế nhưng thực tế chỉ là sự giả tạo và khó duy trì.
Tóm lại, tương quan (1) là tốt nhất, tương quan (2), (3) tạm chấp nhận ban đầu và tuyệt đối tránh những tiêu cực phát sinh liên quan. Để đạt được tương quan (1) thì cần phải duy trì các tỷ lệ (so với GDP) như sau:
- Tỷ lệ tích luỹ tăng nhanh hơn tỷ lệ tiêu dùng.
- Tỷ lệ tiết kiệm nhanh hơn tỷ lệ đầu tư.
- Tỷ lệ đầu tư không quá nhanh hơn so với tỷ lệ tích luỹ.
Do đó, xét về lâu dài thì nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc chắn và không phụ thuộc, phải là nguồn vốn đầu tư trong nước.
Như vậy, vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế. Đặc biệt, trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều mâu thuẫn như nước ta hiện nay, việc nghiên cứu mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn để từ đó đưa ra các phương pháp giải quyết là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, do thời gian không cho phép, em chỉ xin đi sâu phân tích mâu thuẫn này ở một số điểm sau đây.
Phần II
phân tích thực trạng mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển kinh tế việt nam
I. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Việt Nam
1. Mục tiêu phát triển nền kinh tế
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII sau khi đã phân tích đặc điểm tình hình trong nước và trên thế giới, những thời cơ mà chúng ta phải chủ động nắm lấy để vươn lên phát triển nhanh và vững chắc tạo thế và lực mới đã đề ra mục tiêu phát triển nền kinh tế giai đoạn 1996- 2000 như sau:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân năm đạt 9-10%; đến năm 2000, GDP bình quân đầu người gấp đôi năm 1995.
- Phát triển toàn diện nông, lâm ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản và đổi mới cơ cấu nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hàng năm là 4,5-5%.
- Phát triển các ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực vận tải, thông tin liên lạc, du lịch, các dịch vụ tài chính, nhân hàng... Tốc độ tăng giá trị dịch vụ bình quân năm đạt 12-13%.
- Tăng nhanh đầu tư phát triển toàn xã hội. Chú trọng tăng cả tích luỹ và đầu tư trong nước thông qua ngân sách cũng như của doanh nghiệp và nhân dân. Giải quyết tốt quan hệ tích luỹ- tiêu dùng theo hướng cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không tiêu dùng quá khả năng nền kinh tế cho phép; tăng năng suất và hiệu quả để vừa cải thiện được đời sống, vừa có tích luỹ ngày càng nhiều cho đầu tư phát triển. Huy động tối đa mọi nguồn lực bên trong, đồng thời thu hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài để đưa tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 lên khoảng 30% GDP.
- Đến năm 2000 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 34-35% trong GDP; nông lâm ngư nghiệp chiếm khoảng 19-20%; dịch vụ chiếm khoảng 45-46%.
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh và dịch vụ.
- Tăng khả năng tiếp nhận vốn đầu tư và công nghệ từ bên ngoài.
Để thực hiện được mục tiêu phát triển như trên nhất thiết phải có vốn. Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển trở nên rất cấp thiết.
2. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế Việt Nam
Sau khi nhắc lại các mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 1996-2000, đề tài đã tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế Việt Nam thời kì này là: Mục tiêu chung để đạt tốc độ tăng trưởng 9-10% một năm thì phải có ít nhất 41-42 tỷ đô la. Trong đó, cơ cấu vốn đầu tư được phân chia như sau:
+ Vốn đầu tư trong nước: 52%
+ Vốn đầu tư ngoài nước: 48%
Trong phần vốn đầu tư trong nước thì:
+ Vốn từ ngân sách nhà nước chiếm 21%, tương đương với 8,6 tỷ đô la.
+ Vốn tích luỹ từ hộ gia đình và lợi nhuận doanh nghiệp: 31% (12,8 tỷ đô la).
Còn phần vốn nước ngoài 48% thì bao gồm:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): 30%
+ Đầu tư gián tiếp (ODA): 17%
Về đối tượng thực hiện đầu tư thì:
+ Từ ngân sách: 21% (khoảng 6% GDP), trong đó khoảng 7% là ODA.
+ Từ doanh nghiệp nhà nước: 31% (khoảng 9% GDP), trong đó có 16% là từ ODA cho vay lại.
+ Từ các hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân trong nước: 17% (5% GDP).
+ Từ doanh nghiệp nước ngoài: 31% (khoảng 8% GDP).
Mục tiêu đầu tư theo đối tượng đầu tư thì :
+ Lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thuỷ lợi: 20%.
+ Lĩnh vực công nghiệp 43%.
+ Dịch vụ ( bao gồm giao thông, bưu điện, y tế.....): 37%.
Với nhu cầu đề ra như vậy nhưng khả năng huy động vốn ở nước ta còn nhiều hạn chế dẫn đến mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng huy động. Nhu cầu thì nhiều mà khả năng thì không thể đáp ứng một cách đầy đủ.
II. Thực trạng khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế
1. Huy động vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các kênh chủ yếu sau đây:
+ Tiết kiệm của ngân sách nhà nước.
+ Tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước.
+ Nguồn vốn tư nhân: Nguồn vốn này bao gồm vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tiết kiệm của các tầng lớp dân cư.
Để thấy rõ mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn còn hạn chế ta đi vào phân tích thực trạng đảm bảo vốn của từng bộ phận cấu thành.
1.1 Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Mặc dù nguồn thu ngân sách của Việt Nam từ năm 1992 đến nay không ổn định, đặc biệt có xu hướng ngày càng giảm về tỷ trọng so với GDP, đến năm 1998 chỉ còn chiếm 19% và năm 1999 là 18% GDP. Tuy vậy, chính phủ Việt Nam đã cố gắng tìm mọi cách để đảm bảo nguồn chi cho đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bằng việc cắt giảm các khoản chi thường xuyên, hành chính nên ngân sách chi cho đầu tư luôn duy trì ở mức 5,5% GDP. Mặc dù vậy, con số này còn thấp hơn so với nhiệm vụ đặt ra là 6%. Lý do cơ bản của tình trạng thiếu vốn đầu tư từ ngân sách là do tỷ trọng thu từ ngân sách có xu hướng giảm. Theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng thế giới thì tỷ trọng thu từ ngân sách giảm chủ yếu do giảm nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu.
Nếu xét đầu tư từ ngân sách nhà nước phân theo ngành kinh tế trong 10 năm 1990-1999 thì tỷ trọng đầu tư cho các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại có xu hướng giảm mạnh (hiện nay chỉ chiếm 0,5-0,6% GDP); đầu tư cho thuỷ lợi ở mức 0,5-0,7% GDP, trong khi đó đầu tư vào nông nghiệp và giao thông lại có xu thế tăng đáng kể. Trong điều kiện khó khăn, chính phủ đã cố gắng đảm bảo vốn đầu tư từ ngân sách để thực hiện các chương trình phát triển các ngành kinh tế song vẫn còn nhiều thiếu thốn.
1.2 Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư từ tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước
Tỷ trọng vốn đầu tư do các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ 1996-1999 chỉ chiếm khoảng 13% tổng vốn đầu tư xã hội. Như vậy thấp hơn so với nhiệm vụ đặt ra cho tích luỹ ở khu vực doanh nghiệp nhà nước là đảm bảo 16% tổng tích luỹ nội bộ. Không những thế bộ phận vốn đầu tư này đang có những biến động thất thường.
Nhìn chung, nguồn tiết kiệm của các doanh nghiệp nhà nước còn rất nhỏ bé so với số lượng các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới thì chỉ khoảng 2/5 tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam là làm ăn có lãi, còn 3/5 số doanh nghiệp còn lại hoạt động không hiệu quả, trong đó 711 doanh nghiệp còn yếu kém, 1989 doanh nghiệp đang trong tình trạng mắc nợ. Sự kém cỏi trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước một mặt không làm cho chúng ta mong đợi vào nguồn vốn mà họ tự tích luỹ, mặt khác còn làm tốn kém những khoản đầu tư khác để duy trì sự hoạt động của họ.
1.3 Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư từ nguồn vốn tư nhân
1.3.1 Vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân
Khu vực tư nhân của Việt Nam có xu hướng phát triển tương đối mạnh mẽ. Từ chỗ gần như không có vào đầu năm 1990 cho tới nay, khu vực này đã tạo nên khoảng 51% GDP của cả nước, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước lên đến 26,4% tổng thu ngân sách. Mặc dù có sự gia tăng đáng kể như vậy nhưng quy mô vốn đầu tư được cung cấp bằng nguồn vốn từ các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn ở con số rất hạn chế so với mong đợi và chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này. Qua điều tra phỏng vấn chọn mẫu doanh nghiệp, lý do của tình hình trên có thể quy tụ lại là:
Khó khăn trong vấn đề tìm và tiếp cận nguồn tín dụng (53% số doanh nghiệp được hỏi).
Do sự tác động của khủng hoảng (19% số doanh nghiệp được hỏi).
Do thiếu thông tin và sự minh bạch trong các chính sách của nhà nước (57% số doanh nghiệp được hỏi), cụ thể là các vấn đề về Luật doanh nghiệp, chính sách xuất nhập khẩu...
1.3.2 Nguồn vốn dân cư
Nguồn tiết kiệm của nhân dân ở Việt Nam từ năm 1997 trở lại đây là một con số không nhỏ. Theo ước tính thì hiện tại 90,46% các hộ gia đình ở Việt Nam có tiết kiệm và tổng tiết kiệm dân cư cả nước khoảng 66 000 tỷ đồng, bằng 21% GDP.
Tuy vậy, con số huy động còn rất bé so với tổng tiết kiệm dân cư. Nhiều chuyên gia ngân hàng đã tính toán và ước tính khoảng 60% tiết kiệm của dân cư vẫn còn tồn đọng trong chính khu vực dân cư. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê và ngân hàng thế giới năm 1997-1998, khoảng 76% nguồn tiết kiệm dân cư còn tồn đọng, chưa được huy động vào sản xuất kinh doanh. Điều đó có thể do các nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
Chất lượng của hệ thống tài chính còn thấp kém, gây khó khăn cho người dân trong việc rút và gửi tiền.
Thị trường chứng khoán và các hình thức trung gian tài chính phi ngân hàng chưa phát triển mạnh.
Môi trường đầu tư chưa thông thoáng.
Cơ hội đầu tư thấp, sức mua thị trường thấp.
2. Huy động vốn nước ngoài
Căn cứ vào thực tế của Việt Nam, ta đi sâu phân tích thực trạng đảm bảo vốn đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài theo các nguồn: đầu tư trực tiếp (FDI), và các hình thức đầu tư gián tiếp (ODA và vay thương mại).
2.1 Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư từ nguồn FDI
Nhu cầu đặt ra đối với vốn FDI của Việt Nam rất cao. Theo kế hoạch 1996-2000 thì lượng vốn FDI cần phải huy động là 12.450 triệu đô la, nhưng trên thực tế chúng ta chỉ huy động được 9352 triệu đô la (75% nhu cầu) và xu hướng kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực thì lượng FDI càng giảm đi. Nếu thời kỳ 1995-1997, bình quân luồng vốn FDI đạt bình quân 2 tỷ đô la một năm thì đến năm 1999 chỉ còn 1,2 tỷ đô la. Đặc biệt rõ nét là sự giảm sút đầu tư từ Nhật Bản và các nước Đông á khác.
Nguyên nhân chủ yếu của sự giảm sút FDI trong thời kỳ qua ở Việt Nam một phần là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước châu á. Lượng vốn đầu tư từ các nước này chiếm 25% tổng FDI vào Việt Nam nên khi các nước này gặp khó khăn về tài chính thì ảnh hưởng trực tiếp ngay đến tình hình thu hút FDI của Việt Nam. Ngoài ra còn một số nguyên nhân chủ quan khác về phía Việt Nam. Đó là hệ thống pháp luật và hệ thống chính sách đối với đầu tư nước ngoài của nước ta chưa hoàn thiện, kết cấu hạ tầng yếu kém, lạc hậu, các thủ tục hành chính rườm rà...
2.2 Thực hiện đảm bảo vốn đầu tư từ nguồn ODA
Để đảm bảo mức tăng trưởng kinh tế thời kì 1996-2000 thì nhiệm vụ đặt ra đối với nguồn ODA là phải thu hút được 7,5 tỷ đô la đầu tư có có hiệu quả. Tuy nhiên mức độ giải ngân so với con số ODA đã cam kết còn quá thấp. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư thì tỷ lệ giải ngân của thời kì 1995-1997 chỉ đạt 32-42% , thời kì 1998-1999 có khá hơn, khoảng 60%. Mức độ giải ngân như vậy chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu về vốn ODA của Việt Nam trong cả thời kỳ. Bên cạnh đó, theo đánh giá của UNDP, lượng ODA trong thời kỳ 1996-2000, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội mới đạt 5,5% tổng ODA, trong khi đó theo quy định của Hội nghị Quốc tế về sử dụng ODA tại Hà Nội năm 1998 thì lượng này phải chiếm 20%.
III. Phân tích mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động vốn cho phát triển nền kinh tế Việt Nam. Một số nguyên nhân của mâu thuẫn.
1. Phân tích mâu thuẫn
Như ta đã thấy, trong số những mâu thuẫn của nền kinh tế nước ta thì mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng huy động vốn được thể hiện khá rõ nét. Với những mục tiêu đã đặt ra nhằm phát triển kinh tế thì nhu cầu về vốn là một nhu cầu cấp thiết. Phải có vốn để đầu tư nâng cao trình độ của người lao động. Phải có vốn để đầu tư đổi mới phương tiện lao động hiện đại. Phải có vốn để phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ. Vốn là chiếc chìa khoá để mở ra cánh cửa phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, với thực trạng đất nước còn khó khăn, khả năng huy động vốn để đáp ứng những mục tiêu đó còn nhiều hạn chế. Ai cũng biết muốn phát triển kinh tế một cách nhanh và mạnh mẽ thì cần có thật nhiều vốn. Song đất nước còn nghèo thì làm sau có thể huy động._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35228.doc