Lời nói đầu
Quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển của xã hội là quy luật quan hệ sản xuât phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là cơ bản nhấ
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vận dụng quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất & trình độ của Lực lượng sản xuất trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t.
Trong quá trình phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia một vấn đề quan trọng không thể thiếu được là phải nắm rõ và vận dụng đúng đắn quy luật này. Bởi vậy đối với mỗi quốc gia, tùy vào trình độ phát triển và tính chất của lực lựong sản xuất hiện có mà phải xác lập cho mình một quan hệ sản xuất phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Đối với Việt Nam ta trong điều kiện hiện nay đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản, khi lực lượng sản xuất của chúng ta còn yếu kém, lạc hậu với mục tiêu hàng đầu là “phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội”. Muốn đạt được điều đó thì cần áp dụng triệt để quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy vấn đề nan giải, cần thiết đối với chúng ta hiện nay là phải xây dựng quan hệ sản xuất như thế nào cho phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có.
Phần I
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
I. Một số khái níệm:
1.Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định ở một thời kỳ nhất định. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất (mà trước hết là công cụ lao động) và người lao động với tri thức, phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen lao động của họ. Trong quá trình sản xuất sức lao động của con người và tư liệu sản xuất kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất người lao động là chủ thể bao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản quyết định nhất của xã hội, chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học công nghệ lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó nhận sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm với những phát minh sáng chế kỹ thuật công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính điều đó đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất, nó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay khoa học đã phát triển đến mức trở thành “ lực lượng sản xuất trực tiếp” . Những phát minh khoa học tạo điều kiện cho ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, nguyên vất liệu mới, năng lượng mới. Sự xâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất trở thành một yếu tố không thể thiếu được của sản xuất và làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của người lao động mà là tri thức khoa học.
2.Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng tồn tại khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người vì quan hệ sản xuất do tính chất và trình độ của lực lượng sản xuât quy định.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất biểu hiện mối quan hệ giũa người với người trên ba mặt chủ yếu:
Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất ( quan hệ sở hữu)
Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi hoạt động cho nhau (quan hệ tổ chức quản lý )
Quan hệ giữa người với người trong việc phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội (quan hệ phân phối và lưu thông)
Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuât quyết định quan hệ về tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Tuy vậy quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã có hai loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc rất ít tư liệu sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trong xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lôt và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Nhờ đó quan hệ giữa người với người trong cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuât trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy, kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp quan hệ tổ chức quản lý không phù hợp với quan hệ sở hữu làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý chi phối song nó kích thích trực tiếp tới lợi ích cuả con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
II . Nội dung qui luật quan hệ sản xuất phù hợp vối tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là một phạm trù dùng để chỉ tính chất của cả nền sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển, một người có thể đảm nhiệm tất cả các khâu sản xuất ra sản phẩm thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
Trình độ của lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ sự thay đổi về chất của tất cả các nhân tố trong lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đựoc đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lựong sản xuất thể hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách dời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất.
a.Vai trò của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất :
Trong một phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức. Ban đầu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất nhưng lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi và phát triển liên tục do sự thúc đẩy của quan hệ sản xuất phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất cũ trở nên lỗi thời và trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn tới thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Như vậy có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
b.Vai trò của quan hệ sản xuất với sự phát triển của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất biến đổi kéo theo sự biến đổi của quan hệ sản xuất không phải một chiều mà đến lượt nó quan hệ sản xuất có tác động trở lại sự phảt triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuât quy định mục đích của sản xuất, tác động đến ý thức, thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triền của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó theo quy luật chung quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới và một phương thức sản xuất mới ra đời.
Trong lịch sử loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất lần lượt từ thấp tới cao do tác động của quy luật này.
2 .Chủ nghĩa tư bản dưới ánh sáng của quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chât và trình độ của lực lượng sản xuất.
Trong chủ nghĩa tư bản lực lượng sản xuất rất phát triển nhưng hình thức sở hữu là hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Như vậy chủ nghĩa tư bản đã không đi đúng quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Trong nó luôn chứa đựng sự mâu thuẫn gay gắt giữa tính chất xã hội của quá trình sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa tư bản trở thành phản động kìm hãm sự phát triển của xã hội. Những cuộc khủng hoảng về kinh tế xã hội những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hai cuộc chiến tranh thế giới, cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế tư bản chủ nghĩa những năm 60-70 ... là những minh chứng đầy tính thuyết phục cho sự bất ổn của chủ nghĩa tư bản.
Nhưng trên thực tế chủ nghĩa tư bản lại đang chứng tỏ một sức sống mới, năng suất lao động, nhịp độ phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản đang tăng lên rõ rệt, trong thời gian tới còn hứa hẹn một sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Điều đó liệu có phải là một sự phủ nhận đối với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất?
Hiện tượng trên không hề mâu thuẫn với quy luật mà có đựoc sự phát triển là do chủ nghĩa tư bản tìm ra những sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất để có thể thích ứng được với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhờ những điều chỉnh đó chủ nghĩa tư bản không những không kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất mà còn thúc đẩy, tạo điều kiện cho nó phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đồng thời những điều chỉnh đó cũng làm biến đổi bản thân lực lượng sản xuât đặc biệt là đội ngũ giai cấp công nhân “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại” .
Quá trình điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản đối với quan hệ sản xuất diễn ra ở tất cả các yếu tố trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trước hết là sự điều chỉnh trong quan hệ sở hữu, trong các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay đã áp dụng chế độ “ sở hữu xã hội” dưới dạng cổ phần, cổ phiếu để dần dần thay thế cho chiếm hữu cá thể và chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Có thể nói đây là một trong những hình thức quan trọng nhất trong quan hệ sở hữu để phần nào phù hợp , thích ứng với tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất. Những người lao động công nhân làm thuê có thể được mua những cổ phần của một công ty và như vậy họ đã trở thành những người đồng sở hữu công ty, có thể tham dự chia sẻ lợi nhuận. Sở hữu cổ phần là một biện pháp xã hội hóa sở hữu không để cho tư liệu sản xuất tập trung trong tay một số ít người hoặc một công ty độc quyền nào đó nữa.
Một hình thức điều chỉnh khác về quan hệ sở hữu ở các nước tư bản là việc thành lập các hợp tác xã công nhân. Những hợp tác xã công nhân đã giải quyết đựoc một phần vấn đề thất nghiệp tức là đã giải quyết được một phần mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Đồng thời với sự điều chỉnh về quan hệ sở hữu là sự điều chỉnh về phương thức quản lý tổ chức nền sản xuất xã hội như sự tăng dần tính linh hoạt của tổ chức sản xuất nhờ áp dụng kỹ thuật mới, đặc biệt là phương tiện điều khiển bằng điện tử. Nền sản xuất trong chế độ tư bản chủ nghĩa ngày nay đã có khả năng nhanh chóng đáp ứng mọi đòi hỏi của thị trường, dễ dàng thích nghi với nhu cầu của người tiêu dùng. Một điểm cũng cần chú ý tới trong việc điều chỉnh quan hệ tổ chứcquản lý là sự giao kết chặt chẽ giữa lĩnh vực sản xuất với lĩnh vực nghiên cứu, phát minh khoa học, kế hoạch hóa và thiết kế. Những hoạt động như cung ứng tiêu thụ hoạt động tài chính, giao thông bưu điện cũng trở thành những yếu tố, những mắt khâu quan trọng của nền sản xuất.
Một sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất nữa mà chủ nghĩa tư bản đã thực hiện là sự điều chỉnh về quan hệ phân phối. Sỡ dĩ có thể thực hiện đữợc sự điều chỉnh này là nhờ sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra một năng suất lao động xã hội khá cao. Chính nhờ sự điều chỉnh quan hệ phân phối chủ nghĩa tư bản có thể ràng buộc chặt chẽ hơn nữa người công nhân cũng như mọi thành viên khác của xã hội qua đó có thể ổn định được chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự điều chỉnh quan hệ phân phối được thực hiện thông qua việc phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ cổ phần mà người công nhân tham gia trong các công ty, xí nghiệp cổ phần. Nhưng sự điểu tiết chủ yếu và quan hệ phân phối được thực hiện thông qua chức năng điều tiết vĩ mô của chính phủ.
Phần II
Vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
I. Những sai lầm của Đảng và nhà nước ta trong việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Thực tế lịch sử chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế nếu không vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thì nền kinh tế không thể phát triển.
Trong giai đoạn trước năm 86, chúng ta đã mắc sai lầm khi xóa bỏ chế độ tư hữu xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trong khi lực lượng sản xuất còn lạc hậu. Như vậy quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mà tiến bộ hơn một cách giả tạo so với trình độ của lực lượng sản xuất. Kết quả là lực lượng sản xuất bị kìm hãm, nền kinh tế trì trệ không phát triển, đời sống nhân dân khó khăn. Đến đại hội VI của Đảng với tư duy mới, chúng ta nhận ra rằng quan hệ sản xuất là vật cản của lực lượng sản xuất không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất đi sau mà còn cả trong trường hợp vựợt lên trước, tách dời lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, từ sau đại hội VI của Đảng đến nay chúng ta luôn cố gắng thiết lập sự đồng bộ giữa các yếu tố trong quan hệ sản xuất, trong lực lượng sản xuất và giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Điển hình nhất là sự thay đổi trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Cơ chế “Khoán 100” và “Khoán 10” đã làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thúc đẩy sự tiến bộ vượt bậc của nền nông nghiệp nước ta.
II. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong nền kinh tê thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.Thực trạng của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
Cơ sở vật chất kỹ thuật hiện nay còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ(có lĩnh vực đến 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội.
Cơ sở vật chất kỹ thuật ở trình độ thấp cũng làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ. Nông nghiệp sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kỹ thuất công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.
2.Giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ hiện nay
Nhiệm vụ quan trọng nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sỏ vật chất cho CNXH. Muốn vậy nhất thiết phải thực hiện CNH, HĐH. Mỗi bước tiến của quá trình CNH HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triền mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện được điều đó chúng ta cần phải tạo dựng những tiền đề sau:
a.Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
Vốn để công nghiệp hóa hiện đại hóa có 2 nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ kỹ thuật khoa học công nghệ hợp lý hóa sản xuất. ở nước ta hiện nay để tăng năng suất lao động xã hội trước hết phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động, tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu ... Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm, vì vậy chúng ta phải triệt để tiết kiệm, coi tiết kiệm là quốc sách, đấu tranh triệt để với tham nhũng lãng phí. Ngoài ra, cần xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển.
Tuy nhiên, tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu làm cho việc làm cho việc tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế hết sức khó khăn. Vì vậy để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích lũy thấp, tích lũy thấp thì tăng trưởng kinh tế chậm và khó thoát khỏi đói nghèo ... Cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Đây là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng, không những giúp các nước nghèo khắc phục một phần khó khăn về vốn mà còn góp phần nâng cao trình độ quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao động ... Vì thế tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp CNH HĐH đất nước.
Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn xây dựng và phát triển thị trường vốn là giải pháp có ý nghĩa quan trọng. Nhờ có thị trường vốn, người sở hữu vốn nếu nhường quyền sử dụng vốn cho người khác sẽ có thu nhập. Đồng thời khi có thị trường vốn, đồng vốn sẽ dễ dàng chuyển dịch từ nơi có hiệu quả thấp tới nơi cớ hiệu quả cao. Do đó để đáp ứng nhu cầu vốn cho CNH HĐH, xây dựng và phát triển thì trường vốn là rất cần thiết.
b.Đào tạo nguồn nhân lực
Công nghiệp hóa hiện đại hóa không chỉ đòi hỏi phải có vốn kỹ thuật mà cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa bao gồm những con người có đức có tài, ham học hỏi, thông minh sáng tạo, cần cù ... đã đựoc chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp năng lực sản xuất kinh doanh .... Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa phải coi giáo dục đào tạo trở thành quốc sách hàng đầu. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật...Đi đôi với việc đào tạo bồi dưỡng, phải bố trí và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ.
CNH- HĐH đòi hỏi người lao động phải có sức khỏe thể lực tốt. Muốn vậy phải đảm bảo dinh dưỡng, phát triển y tế, cải thiện môi trường sống nhằm chăm sóc tốt sức khỏe cho người lao động.
c.Phát triển khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ được xác định là động lực của CNH- HĐH. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung, CNH- HĐH nói riêng của các quốc gia. Là một nước quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển lên tiềm lực về khoa học công nghệ của nước ta còn kém. Muốn tiến hành CNH- HĐH thành công thì phải xây dựng một tiềm lực khoa học công nghệ thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa. Muốn thực hiện được những việc trên cần phải xây dựng và thực hiện tốt cơ chế và chính sách đồng bộ cho phát triển khoa học và công nghệ. Để khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát triển thì trước hết phải tạo ra động lực cho sự phát triển của chính bản thân khoa học công nghệ.
3.Quan hệ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
a.Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
Xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của trình độ lực lượng sản xuất, trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp. Do đó cơ cấu của nền kinh tế xét về phương diện kinh tế xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau do đó sẽ có nhiều hình thức về sở hữu tư liệu sản xuất tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của các nước.
b.Thực trạng quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường chúng ta cần phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý, phân phối.
*Về các hình thức sở hữu :
Để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, Đảng ta chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong đó công hữu phải giữ vai trò chi phối. Điều đó cho phép phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đồng thời giữ vững đựợc bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Các hình thức sở hữu cơ bản là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Để đạt được điều đó, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều làm bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường ở nước ta.
*Về chế độ phân phối
Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều chế sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Mỗi chế độ sở hữu có nguyên tắc phân phối tương ứng với nó, vì thế trong thời kỳ quá độ tồn tại cơ câú đa dạng về hình thức thu nhập.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động, phân phối theo các quỹ phúc lợi xã hội.
Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị truờng tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
*Về quan hệ quản lý
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như nền kinh tế thị trường ở các quốc gia khác đều có sự quản lý của nhà nước để sữa chữa ở mức độ nào đó những thất bại của thị trường. Tức là cơ chế vận hành của nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản mà là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sửa chữa “ những thất bại của thị trường” , thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân cơ chế thị truờng không thể làm được, đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt đảm bảo công bằng xã hội.
Như vậy, quan hệ sản xuất ở nước ta hiện nay đã được điều chỉnh để phù hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất mà chúng ta có. Việc duy trì quan hệ sản xuất đó là hoàn toàn đúng đắn để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, góp phần đảm bảo cho thắng lợi của CNXH.
c.Những mặt hạn chế và giải pháp khắc phục quan hệ sản xuất trong giai đoạn hiện nay
Bên cạnh những ưu điểm của quan hệ sản xuất hiện nay là đã phù hợp với lực lượng sản xuất, trong quan hệ sở hữu còn những thiếu sót, hạn chế:
- Do nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường nên nền kinhtế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất cùng tồn tại đan xen nhau trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán còn phổ biến.
- Sự quản lý của nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhận định về vấn đề này như sau: “Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm”.
-Công tác ngân hàng tài chính, giá cả, kế hoạch hóa, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở tiêu cực.
- Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc. Còn có sự chênh lệch lớn giữa các vùng các miền về mức sống, phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng...
Để khắc phục những yếu kém trên có thể đưa ra một số giải pháp sau:
- Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh.
- Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Muốn vậy cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước.
kết luận
Trong phạm vi bài viết này đã đề cập đến quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất .Từ sự hiểu biết về quy luật đó , cho chúng ta thấy sự cần thiết phải áp dụng quy luật này vầo quá trình phát triển kinh tế ở nước ta .Trên cơ sở đó, chúng ta hiểu được đường lối của Đảng trong việc chỉ đạo phát triển kinh tế như hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật và góp phần quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Việc nghiên cứu quy luật này cũng giúp ta hiểu được bản chất, nguyên nhân sâu xa của các biến đổi xã hội từ thời đại kinh tế này sang thời đại kinh tế khác. Từ đó chỉ ra tính tất yếu cuả việc tiến lên chủ nghĩa xã hội không sớm thì muộn của tất cả các quốc gia. Nghiên cứu vấn đề này rất cần thiết cho sinh viên đặc biệt là với sinh viên kinh tế vì nó giúp ta hiểu rõ hơn con đường, chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Chúng ta có thể tin tưởng rằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản của nước ta là đúng đắn hợp thời. Vấn đề là chúng ta cần cố gắng thực hiện tốt chiến lược đề ra trong việc phát triển, hoàn thiện quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Giáo trình triết học Mac-Lênin- Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
2.Giáo trình kinh tế chính trị- Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
3.Thực trạng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Hoàng Bình.
4. Tài liệu học tập văn kiện đại hội IX của Đảng- Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
5.Tạp chí cộng sản.
Mục lục
Lời nói đầu………………………………………………………………………………… ..1
phần I : Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất………………………………………………………………..2
I-Một số khái niệm……………………………………………………………….2
1. Lực lượng sản xuất. …………………………………………………………...2
2. Quan hệ sản xuất. ……………………………………………………………..3
II-Nội dung quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX……..4
1.Mối quan hệ biện chứng giữa QHSX và LLSX.………………………………...4
2.Chủ nghĩa tư bản dưới ánh sáng của quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX…………..…………………………………………………… 6
Phần II- Vận dụng quy luật trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam…………………………………………………………………8
I-Những sai lầm của Đảng trước Đại hội VI.……………………………………8
II-Việc vận dụng quy luật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.……………._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0466.doc