BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
ĐINH HỒ MỸ NGỌC
Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn văn
Mã số : 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN ĐỨC ÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tình hình giáo dục trước yêu cầu của cơng cuộc cơng nghiệp
hĩa - hiện đại hĩa đất nước
Hai mươi năm qua, kể từ khi Đảng khởi xướng cơng cuộc đổi mới
tồn diện, sâu rộng, đất nước ta đã bướ
140 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1752 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vận dụng quan điểm loại thể vào dạy học 2 tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu ở Trung học phổ thông (THPT), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c sang một thời kỳ phát triển mạnh
mẽ, sơi nổi. Thành tựu to lớn của chặng đường vừa qua đã đưa tình hình
kinh tế - xã hội thốt khỏi giai đoạn khủng hoảng, tạo điều kiện để nền
chính trị ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt.
Từ cơ sở đĩ, tồn Đảng, tồn dân dốc sức thực thi chiến lược xây dựng,
phát triển đất nước theo hướng cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa với mục tiêu
“Dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”. Cĩ thể nĩi,
hiện nay trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế, vị thế của Việt Nam
được chú ý, nhân dân ta càng vững tin tiến theo xu thế hội nhập, giao lưu
mở rộng, tạo ra triển vọng tươi sáng để bước vào kỷ nguyên mới cùng nhân
loại.
Tuy nhiên, cho đến nay nền kinh tế nước ta, do điều kiện lịch sử vẫn
đang trong tình trạng kém phát triển, sức sản xuất cịn lạc hậu, thu nhập
quốc dân tính theo đầu người cịn thấp. Nhìn chung, mức tăng trưởng kinh
tế chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước, năng lực cạnh tranh kinh tế
thị trường chưa đủ mạnh, cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm. Những hạn chế,
khĩ khăn nĩi trên đã ảnh hưởng tới sự phát triển của văn hĩa – giáo dục,
mặc dù trong hai mươi năm đổi mới chúng ta cĩ tiến bộ
đáng kể trong việc củng cố, xây dựng nhà trường theo hướng xã hội hĩa.
Sự phát triển của cơng cuộc xây dựng đất nước theo đường lối đổi
mới hiện nay cĩ sức tác động mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của đời sống. Văn
hĩa giáo dục cũng chịu ảnh hưởng của quy luật đĩ. Bởi thế, trong hơn hai
thập niên vừa qua, giáo dục luơn được đặt vào vị trí chiến lược quan trọng,
được xác định là một lực lượng sản xuất của xã hội gĩp phần đào tạo con
người – tức là nhân tố quyết định tới sự thành cơng của quá trình cơng
nghiệp hĩa – hiện đại hĩa đất nước. Ngày nay, khái niệm nền kinh tế tri
thức đã trở thành một động lực khơng thể thiếu trong các yếu tố hợp thành
của cơ cấu kinh tế xã hội. Vì lẽ đĩ, liên tiếp trong các nhiệm kỳ của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khĩa VII, VIII, IX lần lượt ra đời các nghị
quyết về văn hĩa giáo dục; giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu. Nhờ
sự đổi mới tư duy lí luận nĩi đĩ, thời gian qua hệ thống giáo dục của nước
ta cĩ sự chuyển biến sâu rộng: “ Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển và
được đầu tư nhiều hơn. Cơ sở vật chất được tăng cường. Quy mơ đào tạo
mở rộng, nhất là ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trình độ dân
trí ngày càng cao”56. Trước yêu cầu to lớn của xã hội, nhà trường ngày
càng nhận thức rõ sứ mệnh cao quý của mình trong chiến lược xây dựng
con người, đã nổ lực vượt qua khuơn khổ xơ cứng, trì trệ của thời bao cấp
kéo dài. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, hệ
thống giáo dục nước ta cần phải vươn lên nhiều hơn nữa, với sự năng động
và quyết tâm cao hơn để thích ứng kịp thời với thực tiễn cuộc sống xã hội
vốn đa dạng và luơn chuyển động, biến đổi mau lẹ. Cĩ thể nhận ra những
mặt non kém, những lúng túng của ngành giáo dục khi cuộc cải cách giáo
dục lần III diễn ra khá dài nhưng cho đến nay dư luận xã hội vẫn băn
khoăn, lo lắng về chất lượng đào tạo của nhà trường. Nhiều vấn đề liên
quan đến nhà trường đang là đề tài nĩng hổi trên các phương tiện thơng tin
và chính tại diễn đàn của các kỳ họp Quốc hội. Rõ ràng, cơng tác giáo dục
và đào tạo là một điểm nĩng “trong một số vấn đề văn hĩa xã hội bức xúc
và gay gắt” hiện nay.
Để khắc phục hạn chế và bất cập nĩi trên, báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khố IX tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
X của Đảng đã khẳng định: “Cơng tác giáo dục đào tạo cần cĩ sự đổi mới
tồn diện”. Trước hết phải nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện; đổi mới
cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hĩa,
hiện đại hĩa và xã hội hĩa”. Theo yêu cầu cấp bách nĩi đĩ, chúng ta phải
chuyển dần mơ hình giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục mở – mơ
hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo suốt đời. Hệ
thống giáo dục cần nhanh chĩng điều chỉnh, khắc phục tình trạng quá tải,
thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục, sách giáo khoa phổ thơng cĩ
tính khoa học, đại chúng, phổ cập; phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ
thể ở Việt Nam. Giáo dục hiện nay chú trọng đến việc bảo đảm đủ số
lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ GV ở tất cả các cấp học, bậc học; hồn
thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Để nâng cao
chất lượng dạy và học, bộ giáo dục chủ trương cải tiến nội dung, phương
pháp thi cử nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp thu tri thức, khả năng học
tập ; khắc phục những mặt yếu kém và tiêu cực
trong giáo dục.
Hịa nhập với xu thế chung của thời đại, chúng ta tăng cường hợp tác
quốc tế về giáo dục và đào tạo; tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của
thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo
nhân lực khu vực và thế giới; cĩ cơ chế quản lý phù hợp đối với các trường
do nước ngồi đầu tư hoặc liên kết đào tạo.
Trước tình hình và yêu cầu đĩ, giáo dục phải cĩ bước chuyển biến cụ
thể, phù hợp. Yêu cầu của nhà trường ngày nay khơng chỉ là truyền thụ
kiến thức khoa học mà quan trọng hơn phải hình thành cho HS thái độ, khả
năng cần thiết để đảm bảo cho việc nắm vững kiến thức và sử dụng kiến
thức đĩ. Từ đấy, việc dạy học ở nhà trường đã thay đổi tồn diện từ mục
đích, nội dung đến phương pháp đào tạo. Chúng ta chủ trương dạy học theo
hướng tích cực hĩa người học, chuyển từ mơ phỏng ứng dụng sang hướng
tìm tịi, nghiên cứu lí luận, từ lối truyền thụ kinh nghiệm sang việc xây
dựng hệ thống phương pháp dạy học phù hợp theo phương châm: hãy làm
cho HS suy nghĩ nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, giao tiếp đối thoại với
nhau nhiều hơn qua trình bày nĩi và viết.
1.2. Tình hình của việc dạy học văn theo loại thể hiện nay
Từ khi triển khai cải cách giáo dục (1986), chúng ta tiến hành thay đổi
nội dung, chương trình, sách giáo khoa mơn văn, quan niệm dạy học văn
trong nhà trường cĩ sự chuyển biến rõ rệt. Điều đĩ được thể hiện trước hết
trong việc xác định khái niệm của mơn học, trong việc chọn lựa nội dung
chương trình và cách thức tiến hành việc dạy học văn. Chúng ta dần dần
từng bước khắc phục những quan điểm phiến diện một thời về mơn văn
cũng như cĩ sự sàng lọc, lựa chọn nội dung sách giáo khoa mơn học sao
cho đảm bảo đúng đặc trưng bản chất văn chương – vốn là một mơn nghệ
thuật ngơn từ, kết tinh bao giá trị tình cảm cao đẹp của dân tộc và nhân
loại. Từ đo, phương pháp dạy học văn cĩ sự thay đổi. GV văn ở Trung học
phổ thơng chú trọng nhiều đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của
tác phẩm. Bởi vì nội dung của tác phẩm văn học là tồn bộ hiện thực được
phản ánh trong tác phẩm thơng qua sự lựa chọn, đánh giá chủ quan của
người nghệ sĩ. Hình thức tác phẩm văn học là hệ thống các phương tiện,
phương thức thể hiện nội dung. Nĩi về tác phẩm cĩ giá trị, Biêlinxki cho
rằng, trong tác phẩm nghệ thuật, hình thức và tư tưởng phải hịa hợp với
nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt cũng cĩ nghĩa
là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy. Mặt khác, ơng lại viết, khi hình
thức là biểu hiện nội dung thì nĩ gắn chặt với nội dung tới mức là nếu tách
nĩ ra khỏi nội dung cĩ nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và ngược lại,
tách nội dung khỏi hình thức cĩ nghĩa là tiêu diệt hình thức.
Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn chương
tạo nên đặc trưng riêng của từng loại thể. Nĩi cách khác, loại thể văn học là
một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học cĩ liên quan khắng khít
với nội dung. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới một hình thức nhất
định, địi hỏi một phương pháp, một cách phân tích, dạy học phù hợp với
nĩ. Thế nhưng, trong một thời gian dài trước đây, vấn đề dạy học tác phẩm
văn chương theo đặc trưng loại thể cịn bị xem nhẹ. Ngày nay, nhờ sự tác
động tích cực của việc tiếp nhận lí luận mới, chúng ta đã nhận thức được
tầm quan trọng của nĩ. Trong lần cải cách chương trình gần đây, người
biên soạn khơng sắp xếp tác phẩm theo tiến trình lịch sử hay tách riêng hai
phần văn học Việt Nam và văn học nước ngồi như trước. Ở từng thời kì
hoặc giai đoạn, các văn bản được sắp xếp theo từng cụm thể loại: thơ,
truyện, nghị luận, phú, kịch, khúc ngâm, truyện Nơm, văn tế...Việc sắp xếp
này khơng chỉ làm nổi bật thể loại, nhân vật chính của lịch sử văn học mà
cịn thuận lợi cho việc dạy đọc – hiểu. Bởi đọc và cảm thụ văn học phải
tuân theo quy luật thể loại, gắn liền với việc bồi dưỡng tri thức thể loại và
đánh giá thành tựu văn học theo thể loại. Việc sắp xếp ấy cũng gĩp phần
thuận lợi cho HS làm văn, nhất là nghị luận xã hội và nghị luận văn học.Vì
thế, cuối mỗi cụm bài, sách giáo khoa Ngữ văn cĩ trình bày một số tri thức
lí luận về thể loại.
Mặc dù cĩ sự đổi mới nhận thức nhưng khơng phải bất cứ GV nào
cũng nắm kiến thức về loại thể thật đầy đủ. Hơn nữa, đến nay vẫn chưa cĩ
tài liệu đi sâu vào việc hướng dẫn dạy một tác phẩm văn chương theo đặc
trưng loại thể thật hồn thiện. Vì vậy, GV khơng tránh khỏi những khĩ
khăn, lúng túng trong cách soạn giáo án cũng như dạy học.
1.3. Tầm quan trọng của việc dạy học văn theo đặc trưng loại thể
Loại thể văn học là một hiện tượng tồn tại theo quy luật loại hình gắn
với quá trình sáng tạo nghệ thuật:
Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại
thể và người dạy cũng giảng theo loại thể. Nĩi một cách khác, phương thức
cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác quy định phương
thức cảm thụ hình tượng đĩ của người đọc và cũng từ đĩ quy định phương
thức giảng dạy của chúng ta 6, tr.30.
Vì thế, như sự tương quan tất yếu, khi dạy học tác phẩm văn chương
trong nhà trường, người dạy và người học cần thiết phải nắm được những
quy tắc của việc tổ chức xây dựng về loại hình để tạo nên những giá trị văn
chương đa dạng.
Trước hết, khi hướng dẫn HS tiến hành phân tích bài văn người GV
phải nắm chắc kiến thức lí luận về loại thể, từ đĩ mới cĩ phương cách thích
hợp để dẫn dắt người học tìm tới những khía cạnh độc đáo trong việc thể
hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Dạy một bài ca dao, một bài thơ, một
truyện ngắn, vở kịch người GV cần chỉ dẫn cho HS đi vào những đặc trưng
của loại thể như thế nào. Trong quá trình thâm nhập bài văn, HS sẽ lần theo
những điểm khác biệt giữa phong cách sáng tạo để nhận ra sự khám phá
độc đáo của ngừơi nghệ sĩ. Nhờ đĩ, qua quá trình cảm thụ, hiểu biết tác
phẩm HS sẽ dần dần tích lũy những loại hình văn học ra đời trong lịch sử
văn học. Đúng như nhà sư phạm Liên Xơ cũ – Nhikơnxki từng nhấn mạnh
phải tạo ra “cảm giác loại hình” trong đầu ĩc HS.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề loại thể văn học trong nhà trường
Loại thể đã được biết đến từ trong quá trình sáng tác của nhà văn. Mọi
tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất định. Khơng
cĩ tác phẩm văn học nào được sáng tạo nên lại nằm ngồi những hình thức
quen thuộc đĩ. Vì vậy, bên cạnh nhan đề tác phẩm, tác giả thường ghi tên
thể loại. Nhiều khi tên thể loại gắn liền với nhan đề tác phẩm: Bình Ngơ đại
cáo, Bạch Đằng giang phú, Văn tế Trương Quỳnh Như, Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc….
Thời nhà trường phong kiến, tuy về quan niệm, văn được xem là mơn
học cĩ tính chất nguyên hợp, nhưng khi đi vào phân tích bình giải các bài
văn, người dạy cũng chú ý đến đặc điểm loại hình của các tác phẩm. Các
nhà nho xưa vốn được đào tạo theo con đường cử nghiệp rất chú trọng tới
lối văn chương cử tử nên luơn chú tâm tới việc tuân thủ các quy tắc sáng
tạo thơ, phú nĩi chung. Nhờ đĩ, khi tiếp cận với tác phẩm, các nhà giáo và
học trị cũng xuất phát từ những điểm khác biệt về cách thể hiện nội dung
để tìm tới giá trị văn chương.
Mặc dù những quan niệm về lý thuyết loại hình chưa được xây dựng
thành hệ thống khoa học hồn chỉnh tồn diện, song một số kiến giải uyên
thâm về văn thơ của các bậc thức giả thời trước cũng giúp soi rọi cho
những quy luật sáng tạo văn chương. Vì thế, ngày nay chúng ta cĩ thể kế
thừa một phần di sản quý báu của người xưa để lại nhằm bổ sung mơn lí
luận văn học.
Đến thời nhà trường Pháp – Việt, do quá trình tiếp nhận nền giáo dục
Phương Tây ở một nước thuộc địa, nhà trường hiện đại đã bước đầu hình
thành. Để phục vụ cho chính sách bĩc lột khai thác thuộc địa, nhà trường
thời Pháp – Việt đã thay đổi mạnh mẽ về hệ thống, về niên chế và phương
thức đào tạo. Mơn Văn học được xem là mơn học đặt nền tảng cho việc
trau dồi kiến thức, kỹ năng suy nghĩ, diễn đạt cho người học, vì vậy mà
việc xây dựng chương trình sách giáo khoa thay đổi khác thời phong kiến
rõ rệt. Ngơn ngữ và văn học Pháp được đặt vào vị trí trọng yếu bên cạnh
mơn Quốc văn. Nhờ hệ thống kiến thức về văn chương ngơn ngữ là kết tinh
cho truyền thống văn hĩa Pháp được giảng dạy trong khĩa trình mà người
học cĩ thể mở rộng thêm tầm nhìn văn chương và cuộc sống một cách sâu
sắc. Điều nổi bật cần nĩi đến về mặt kỹ thuật dạy học - yếu tố mới mẽ – đĩ
là giờ dạy học văn khơng tách rời với việc nắm các kiến thức về triết học,
ngơn ngữ học, lí luận văn học, lơgic học. Do vậy, nguồn tri thức văn
chương được mở rộng và củng cố. Tính hợp lí của tư duy duy lí phương
Tây giờ đây cĩ điều kiện thực thi trong cấu tạo chương trình sách giáo khoa
văn. Tác phẩm văn học được tuyển chọn tương đối chặt chẽ, hệ thống, thể
hiện ở chỗ được sắp xếp theo thể loại: văn học dân gian, anh hùng ca, văn
hùng biện, hồi ký lịch sử, kịch. Giờ học văn giờ đây đã thốt khỏi lối
truyền thụ máy mĩc, áp đặt của thời nhà trường phong kiến để từ đĩ người
dạy và người học cĩ cơ hội tìm hiểu, lí giải, cảm thụ sâu sắc những giá trị
tạo nên tác phẩm từ nguồn kiến thức được mở rộng của các liên mơn như
nĩi trên. Giờ phân tích văn được gọi là Explication des Textes, được kết
cấu như một quy trình hợp lí từ những hiểu biết về bối cảnh lịch sử, tác giả,
tác phẩm để tìm tới ý tưởng nghệ thuật và giá trị đích thực của tác phẩm.
Sau ngày cách mạng tháng Tám 1945 thành cơng, nhà trường của chế
độ mới ta đời và phát triển cho tới nay đã trải qua chặng đường hơn sáu
mươi năm. Chúng ta cĩ thể tự hào những bước tiến của nhà trường cách
mạng với nỗ lực đào tạo thế hệ trẻ dựa trên việc xác định mục tiêu,
nội dung và phương pháp dạy học thích hợp.
Đối với lĩnh vực dạy học văn, thành tựu nổi bật ngay sau ngày độc lập
là nêu cao vị thế của nền quốc văn Việt Nam bằng việc tuyển chọn các tác
phẩm văn chương chứa đựng những giá trị yêu nước và nhân đạo của dân
tộc, khơi phục phát huy vị thế của tiếng Việt trong nhà trường. Nhờ đĩ, dần
dần chúng ta cĩ một chương trình ngữ văn thích hợp cho các bậc học, cấp
học. Để cĩ thể tự chủ, sáng tạo trong cơng việc dạy học văn, một mặt
chúng ta nỗ lực tìm tịi những tri thức mới mẻ, tiến bộ của lí luận khoa học
Mác – Lênin về lịch sử văn học ngơn ngữ làm nền tảng vững chắc cho việc
xây dựng và phát triển của khoa văn học, mặt khác chúng ta khơng chối bỏ
những kiến thức khoa học cĩ liên quan đến mơn văn của thời Pháp làm
nguồn tham khảo bổ ích cho việc xây dựng phương hướng dạy học văn
mới.
Vì thế, cĩ thể xem những người gĩp cơng đầu vào quá trình này là
những nhà sư phạm, các học giả cĩ lịng yêu mến nền văn học dân tộc, cĩ
tâm huyết với việc tạo nền mĩng cho hoạt động nghiên cứu giảng dạy văn
học mà người tiêu biểu là giáo sư Đặng Thai Mai. Bằng việc biên soạn
Giảng văn Chinh phụ ngâm (1950), giáo sư là người cĩ cơng đầu trong
cơng việc này. Những quan niệm, những đề xuất về cách thức dạy học một
tác phẩm của tác giả cĩ những điểm mới mẻ về phương pháp luận của
người đứng trên lập trường Mác xít. Song chính ơng cũng là người kế thừa
những lí luận rất bổ ích về loại thể vốn đã cĩ từ thời trước. Nhờ đĩ, ơng
mạnh dạn đề xuất “Thử áp dụng một số ý kiến, cĩ thể là một lời đề nghị về
cách giảng văn”, xem xét khúc ngâm dưới gĩc độ loại thể
là một căn cứ quan trọng của việc giảng văn.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, vào năm 1954, hịa bình lập
lại, Miền Bắc hồn tồn giải phĩng, mở đầu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên đất nước ta. Trong điều kiện thuận lợi của bối cảnh mới, nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa được xây dựng và phát triển, hệ thống giáo dục từng
bước được hồn thiện. Nhờ sự giao lưu rộng mở với phe xã hội chủ nghĩa,
lần đầu tiên các giáo trình của bậc đại học được biên soạn. Cĩ thể nĩi,
nguồn tài liệu tuy chưa dồi dào nhưng trong điều kiện vừa trải qua một thời
gian dài chịu sự lệ thuộc của nhà trường thuộc địa, lại qua chiến tranh,
chúng ta chưa cĩ cơ sở vật chất, phương tiện dạy học cần thiết thì đến nay,
bước đầu đã cĩ tủ sách ở bậc đại học. Riêng về lí luận văn học và phương
pháp dạy văn, cĩ thể nêu: Nguyên lí lí luận văn học của Ti-mơ-fi-ep,
Phương pháp dạy văn học của Gơ-lu-cốp. Từ đĩ, lần lượt ra đời các giáo
trình Lí luận văn học của Nguyễn Lương Ngọc, Tu từ học của Đinh Trọng
Lạc, Phương pháp giảng dạy văn học của Đại học sư phạm Hà Nội (1963).
Từ giữa thập niên 60 trở đi, nguồn tài liệu đĩ được bổ sung tiếp. Đây là chỗ
dựa cần thiết để người GV văn ở bậc phổ thơng cĩ cơ sở khoa học và sư
phạm khi tiến hành giảng dạy tác phẩm văn.
Ở phạm vi hẹp, xét về quan niệm loại thể, các tài liệu nĩi trên đã đặt
cơ sở đầu tiên cho việc nắm loại hình văn học. Dầu sao cũng cĩ thể thấy
những quan điểm loại hình cịn đơn giản, phiến diện, nhưng đặt vào bối
cảnh của nhà trường lúc bấy giờ mới thấy sự cần thiết và bổ ích của nĩ.
Cuốn giáo trình Phương pháp giảng dạy văn học, sau khi trình bày những lí
luận chung về phương pháp dạy học và đã:
…Giành phần cịn lại để đề cập tới phương pháp giảng một bài văn
cụ thể. Cĩ thể xem đây là việc vận dụng lí thuyết loại hình, một lĩnh vực
của lí luận văn học rất gần gũi, gắn bĩ với cơng việc dạy học tác phẩm văn
học, từng được các nhà sư phạm quan tâm. Nhưng do phạm vi lí luận
tương đối rộng lại địi hỏi nhiều cơng sức nghiên cứu, vận dụng nên các
tác giả chưa cĩ điều kiện giải quyết thấu đáo mà chỉ nêu một vài ý kiến sơ
bộ khi trình bày 2, tr.42.
Tiếp tục theo hướng nghiên cứu đĩ, một số tác giả đã nhận rõ việc
thâm nhập vào loại thể, nắm bắt hiểu biết sâu sắc các loại thể văn học là
bước quan trọng để đi vào cảm thụ phân tích tác phẩm. Vì lẽ ấy, đến năm
1971, giáo sư Trần Thanh Đạm cùng các cộng sự biên soạn tài liệu Vấn đề
giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Chuyên luận này vừa trình bày
kiến thức lí luận lại vừa vận dụng nĩ vào dạy học các tác phẩm theo đặc
trưng loại thể. Cĩ thể xem đây là một chuyên luận đáp ứng đúng mong đợi
của người dạy học văn bấy lâu. Trong một thời gian khá dài, nĩ được xem
là tài liệu cần thiết, chủ yếu trong tủ sách tham khảo của GV phổ thơng và
đã được chỉnh lý bổ sung, tái bản nhiều lần. Vào lúc đĩ, tâm lý chung của
người dạy học thường dễ bằng lịng với những kiến thức sách vở nhất là
quen dựa vào các tài liệu hướng dẫn giảng dạy được biên soạn bởi cơ quan
chuyên mơn. Do vậy, vấn đề lí luận và cách dạy tác phẩm theo loại thể hầu
như khơng cĩ sự tìm tịi, bàn luận gì khác hơn. Chuyện cải cách dạy học
văn thường mang tính hình thức; cho nên hướng nghiên cứu và giảng dạy
văn học theo loại thể tuy được nêu từ lâu nhưng vào một thời kỳ phương
pháp tư duy ít chú ý tới sự trao đổi, tranh luận, vì thế tình hình dạy học văn
khơng cĩ chuyển biến mạnh. Trong thời gian tiếp theo, qua một số tài liệu
được biên soạn, các tác giả tuy cĩ chú ý vào hướng phân tích tác phẩm theo
loại thể nhưng việc làm này cũng chưa tạo ra sự đồng bộ, hệ thống. Cĩ thể
kể tới một số tài liệu nĩi đĩ: Giảng dạy văn học dân gian (Hồng Tiến
Tựu), Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể lọai (Bùi Văn Nguyên, Hà Minh
Đức)…
Cho đến thời gian gần đây, khi bước vào triển khai thay chương trình
và sách giáo khoa văn theo tinh thần cải cách giáo dục vào đầu thập niên 90
của thế kỷ trước, chúng ta mới thực sự cĩ điều kiện để bàn luận rộng và
thực thi chủ trương đổi mới cách thức dạy học văn vốn trì trệ trong thời
gian khá dài. Từ đây, nhiều vấn đề thay đổi về nội dung và phương pháp
dạy học văn thực sự cĩ sức cuốn hút đối với người GV ở trường phổ thơng.
Đặc biệt một số kiến thức lí luận văn học cĩ liên quan tới việc dạy học văn
như Thi pháp, Lí thuyết tiếp nhận, Loại thể văn học được cập nhật giúp
chúng ta nhận ra những quan điểm lí luận mới mẻ, bổ ích. Chỉ nĩi riêng
phạm vi của vấn đề loại thể văn học, nhờ soi rọi bằng lí giải thấu đáo, hợp
lí, chúng ta đã nhận ra thời gian qua cĩ phần xem nhẹ và lúng túng trước
tầm mức và ý nghĩa của hiện tượng loại hình trong dạy học tác phẩm văn
chương. Thực tế cho thấy lí luận phân chia loại thể qua các tài liệu chính
thống – các giáo trình lí luận văn học, các sách tham khảo – bấy giờ ở
trường học khơng hề thiếu. Nhưng gần đây, khi tiếp cận với một số tài liệu
biên dịch của nước ngồi, chúng ta dễ nhận thấy các nhà lí luận hiện đại đã
cĩ nhận thức đầy đủ, rõ ràng hơn vai trị, ý nghĩa của loại thể đối với quá
trình sáng tạo và tiếp nhận văn học. Cĩ thể nhận ra điều đĩ qua một số tài
liệu như: Nhập mơn văn học và phân tích lọai the của Hồng Ngọc Hiến,
Phê bình văn học của Đỗ Đức Hiếu.
Trong hướng tăng cường cung cấp kiến thức lí luận về loại thể và vận
dụng nĩ vào dạy học văn, nhiều tài liệu bồi dưỡng GV, sách tham khảo
Dạy học tốt mơn văn đã chú ý cập nhật những hiểu biết lí thuyết và thực
hành dựa vào kiến thức khoa học liên ngành nhằm giúp GV nắm vững
phương pháp dạy học văn theo hướng tích hợp hiện đại.
Tĩm lại, vấn đề quan niệm về loại thể và việc vận dụng vào dạy học
văn ở trường phổ thơng nước ta khơng phải là chuyện mới mẻ, xa lạ. Tuy
nhiên, ở gĩc nhìn cĩ phần tĩnh tại và ít nhiều cĩ tính chủ quan, chúng ta tự
bằng lịng với những gì đã cĩ, chưa cập nhật được những thành tựu lí luận
mới. Vì thế, tình hình dạy học văn rơi vào sự trì trệ, xơ cứng. Cũng cần
thấy rộng hơn, khơng riêng ở nước ta, ngay tại Hoa Kỳ, các nhà sư phạm
cũng đã tự ý thức về sự chủ quan trong dạy học văn vì cĩ lúc đã ít quan tâm
đến vai trị của loại thể văn học. Cho tới khi trào lưu phê bình mới xuất
hiện ở Châu Au mở ra những triển vọng làm đổi thay quan điểm nghiên
cứu phê bình văn học – trong đĩ cĩ vấn đề loại thể - thì người ta trở lại xem
xét, bổ sung điều chỉnh cách thức dạy học văn trong thời gian qua. Cĩ thể
nhận ra điều này từ cuốn giáo trình Dạy văn chương ở trường trung học
của Richard Beach, James Marshall. Khi các tác giả của nĩ đặt vị trí đúng
mức cho phần trình bày hướng dẫn khá
tỉ mỉ về các loại thể văn học.
Cũng trong xu thế chung, nhờ tiếp cận với cách thức dạy học văn hiện
đại, kể từ lúc tiến hành đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa văn
theo chủ trương cải cách giáo dục, phương pháp dạy học văn ở trường phổ
thơng nước ta cĩ những thay đổi cơ bản từ quan điểm cho tới cách thức tiến
hành. Để tổ chức, tiến hành hoạt động dạy học tác phẩm văn chương, giờ
đây ở phương diện tiếp cận, phân tích tác phẩm, chúng ta cĩ nhiều căn cứ
để lựa chọn, vận dụng, cốt làm sao người dạy phải nắm bắt được một cách
vững vàng và cĩ hệ thống các yếu tố tạo nên quan hệ biện chứng của nội
dung và hình thức tác phẩm. Từ đĩ, việc nắm chắc kiến thức loại thể là
điều kiện cần để GV và HS thâm nhập vào thế giới nghệ thuật phong phú,
đa dạng của tác phẩm văn chương.
Gần đây, việc dạy học văn theo đặc trưng loại thể được chú ý nhiều
trong các tài liệu bồi dưỡng cho GV văn ở Trung học phổ thơng. Nhờ
nguồn tài liệu phong phú, việc dạy học văn ngày càng đi vào bản chất mơn
học, đặc biệt là sự nhìn nhận loại thể theo thi pháp học của trường phái phê
bình mới ở phương Tây. Giáo trình Phương pháp giảng dạy văn học của ba
tác giả P.IU.Bogđanơva, X.A.Lêonốp và V.Ph.Trertốp đã khẳng định: Việc
làm rõ loại thể của tác phẩm là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trước khi
bước vào nghiên cứu tác phẩm cụ thể.
Hiện nay, nguồn tài liệu, sách chuyên mơn về dạy học văn theo đặc
trưng loại thể được cập nhật khá phong phú. Các nhà nghiên cứu nước ta đã
biên dịch và vận dụng vào thực tế giảng dạy văn. Cĩ thể kể đến một số
cơng trình như: Nhập mơn văn học và phân tích loại thể của Hồng Ngọc
Hiến, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể của
Nguyễn Viết Chữ; Xã hội, văn học, nhà trường của Phan Trọng Luận.
Những cuốn sách cĩ liên quan trực tiếp đến chuyên ngành phương pháp và
việc dạy học văn trong nhà trường hầu như đều cĩ quan hệ đến vấn đề loại
thể văn học. Ngồi ra, những tài liệu về lịch sử văn học, các chuyên khảo
về từng loại thể văn học đã giúp GV cĩ những cách nhìn nhận rõ hơn về
loại thể ở hai phương diện hình thức và nội dung:Thơ ca Việt Nam (Hình
thức và thể loại) của Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức;Văn xuơi Việt Nam
hiện đại của Phan Cự Đệ; Tìm hiểu các thể thơ của Lạc Nam…
2.2. Lịch sử vấn đề phân chia loại thể văn học
Tác phẩm văn học là sản phẩm độc đáo, nhà văn muốn đưa đến cho
người đọc một sự hiểu biết, một sự cảm nhận nào đĩ. Hiện thực sáng tạo rất
phong phú, đa dạng nên tác phẩm văn học thường được quy tụ lại trong
những dạng khác nhau. Do đĩ, sự phân chia loại thể văn học là một hiện
tượng khách quan trong nghiên cứu văn học.
Ở phương Tây:
Vào thế kỉ IV trước Cơng nguyên, trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote đã
dựa vào nguyên tắc phản ánh chia văn học thành ba loại. Ơng cho rằng
nghệ thuật là sự bắt chước, mơ phỏng thực tại. Văn học cĩ ba phương thức
mơ phỏng hiện thực hoặc như Hơme kể về sự kiện như một cái gì ở ngồi
mình, hoặc là người mơ phỏng vẫn là bản thân anh ta khơng thay đổi bộ
mặt mình hoặc trình bày mọi nhân vật được miêu tả như những người hành
động, hoạt động.
Tương ứng với ba hình thức mơ phỏng đĩ là ba loại hình văn học: loại
tác phẩm tự sự, loại tác phẩm trữ tình và loại kịch. Nhìn chung, cách phân
loại này được nhiều nhà mỹ học tán thành, trong đĩ cĩ Secnưxepxki và
Đơbrơliubốp. Tuy nhiên, quan niệm này chỉ mới nhìn ra
được ở yếu tố hình thành, cách nhà văn tạo ra tác phẩm.
Đến Horace, Boileau cùng quan điểm phân loại với Aristote nhưng
đồng thời nhấn mạnh đến giá trị cao thấp của từng loại thể. Theo ơng, loại
thơ chủ yếu gồm bi kịch, hài kịch và anh hùng ca, cịn thơ trữ tình chỉ là
thứ yếu.
Sau đĩ, Hêghen cũng phân chia văn học làm ba loại: tự sự, trữ tình,
kịch nhưng dựa vào đối tượng miêu tả. Theo ơng, loại tự sự miêu tả sự
kiện, loại trữ tình thể hiện những trạng thái tâm hồn, cịn kịch thì miêu tả
hành động. Biêlinxki tán thành ý kiến của Hêghen, đồng thời lại nĩi rõ
thêm: tác phẩm tự sự chủ yếu miêu tả sự tiếp xúc, va chạm giữa con người
và xã hội; tác phẩm trữ tình chủ yếu bộc lộ cảm xúc cá nhân; kịch chủ yếu
miêu tả sự xung đột, mâu thuẫn giữa các tính cách. Biêlinxki cũng đã cho
rằng, trong thực tế văn học, nhiều khi các loại trên cĩ sự thâm nhập, chuyển
hĩa lẫn nhau chứ khơng tách biệt một cách tuyệt đối. Theo Biêlinxki,
những tác phẩm của thời cận đại cĩ nhiều nhân tố kịch, đến lượt mình các
yếu tố tự sự lại xuất hiện cả ở kịch, cịn loại trữ tình được các nhà viết kịch
và viết văn tự sự sử dụng rộng rãi hơn. Quan điểm của Hêghen và Biêlinxki
gần chân lí hơn. Nhưng xuất phát từ bản chất nhân đạo của sáng tạo nghệ
thuật, nĩ cần được xác định rõ ràng hơn. 12, tr.221.
Ở Trung Quốc:
Sự phân chia văn học xuất hiện khá sớm, lúc đầu chia làm hai loại: thơ
và văn xuơi. Sau này, Tào Phi chia văn học làm bốn loại: tấu nghi, thư luận,
minh lỗi và thơ phú. Sau Tào Phi, Lục Cơ, Tiêu Thống cũng cĩ nêu lên
những cách phân loại khác. Tuy nhiên, cách phân loại của các tác giả này
khá vụn vặt, chi li nhưng khơng thốt khỏi cách phân loại đã cĩ từ đầu.
Thời kì cận và hiện đại, Trung Quốc thừa nhận cách phân chia làm
bốn loại: thơ ca, văn xuơi, tiểu thuyết, kịch. Theo cách phân loại này, thơ
ca bao gồm tất cả các loại thơ trữ tình và tự sự. Văn xuơi bao gồm tất cả
các loại ngồi thơ ca, tiểu thuyết và kịch. Thật ra tiểu thuyết phải thuộc loại
văn xuơi nhưng do tầm vĩc cũng như dung lượng hiện thực nên được xếp
vào một loại riêng, cịn kịch thì thống nhất với kịch phương Tây.
Ở Việt Nam:
Các giáo trình lí luận văn học của ta vận dụng cách phân loại của
phương Tây nhưng trình bày bốn loại chủ yếu: thơ, tiểu thuyết, kí và kịch.
Ưu điểm của cách chia này nhằm bổ sung những hạn chế của cách chia ba,
khẳng định vị trí của loại văn xuơi và nhấn mạnh vai trị của thể loại tiểu
thuyết. Theo Trần Đình Sử, chia tác phẩm văn học làm ba loại là: “chưa
bao quát hết các hiện tượng văn học nghệ thuật, nhất là loại kí và tạp văn.
Mặt khác, cách chia ba chỉ chú ý nhiều đến phương thức nội tại mà ít quan
tâm hình thức văn học của tác phẩm”51. Để thể hiện sự phân loại triệt để
hơn, Trần Đình Sử chia văn học làm năm loại: tự sự, trữ tình, kịch, kí,
chính luận. Sở dĩ tách kí ra làm một loại riêng vì tác giả quan niệm kí thật
sự là một lĩnh vực văn học đặc thù. Đĩ là các tác phẩm văn xuơi, tái hiện
các hiện tượng đời sống và nhân vật như các sự thật xã hội, khơng tơ vẽ. Kí
phản ánh sự thật của đời sống khơng đưa vào lịch sử, cũng chưa hĩa thân
vào các hình tượng nghệ thuật bay bổng của trí tưởng tượng. Đây là nguyên
nhân làm cho kí cĩ một sức sống riêng, khơng thể nhập chung với các loại
khác. Theo đĩ, tác phẩm văn học chính luận cũng được tách ra vì những tác
phẩm ấy cĩ những nét đặc thù. Chúng cĩ sự kết hợp tài tình giữa sự thật
hiển nhiên, logic đanh thép, cảm xúc mãnh liệt để trở thành các hiện tượng
thẩm mỹ cĩ sức lơi cuốn sâu xa tình cảm và lí trí con người. Thể kí và văn
chính luận là các loại văn học giao nhau giữa các nhu cầu nghệ thuật và
nhu cầu thực tiễn, nhu cầu nhận thức hiện thực khách quan và nhu cầu
thẩm mỹ.
Với cách chia năm, giáo sư cho rằng: “nĩ đáp ứng yêu cầu nghiên cứu
giảng dạy văn học ở các khoa ngữ văn cũng như yêu cầu giảng dạy bộ mơn
văn ở các trường trung học. Cách chia này cĩ ưu điểm là kết hợp truyền
thống phân loại phương Tây với đặc điểm của văn học dân tộc cổ xưa và
hiện tại, đồng thời khắc phục nhược điể._.m của cách chia bốn” 51.
3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn vận dụng những cơng trình nghiên cứu lí luận trong nước và
tài liệu nước ngồi được biên dịch cĩ liên quan về vấn đề loại thể văn học.
Người viết tìm hiểu những bài giảng, những bài phân tích của các nhà
nghiên cứu, nhà giáo về tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng và Rừng xà nu,
kết hợp với việc xem các tư liệu (sách, băng hình) cĩ liên quan tới các tác
giả của tác phẩm thực nghiệm.
Văn bản Rừng xà nu và Mảnh trăng cuối rừng trong sách giáo khoa
hiện hành.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu, nắm bắt các kiến thức lí luận về loại thể từ đĩ khẳng định sự
cần thiết của việc dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể là một điều
cần thiết nhằm đổi mới việc dạy học văn chương trong nhà trường.
Việc thực hiện đề tài này nhằm bổ sung, củng cố kĩ năng vận dụng lý
thuyết loại thể văn học vào dạy học tác phẩm văn chương trong chương
trình trường THPT.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn xác định nhiệm vụ tìm hiểu cập nhật một cách hệ thống
những kiến thức về lí luận loại thể đã được đúc kết để cĩ thể cảm thụ và
tiếp nhận đúng hai tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và
Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu được dạy học theo chương
trình văn học ở THPT hiện hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là cách thức lựa chọn, tìm hiểu nguồn tài liệu hiện cĩ (các sách lí
luận, giáo trình) để gĩp phần vào việc lí giải cơ sở lí luận cĩ liên quan tới
vấn đề loại thể. Mặt khác, việc nắm bắt thực tiễn dạy học tác phẩm văn
chương theo hướng chú trọng tới đặc điểm loại thể cĩ tác dụng bổ sung và
làm phong phú thêm những đổi mới phương pháp dạy học văn đang đặt ra
cấp thiết, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
5.2. Phương pháp quan sát
Thơng qua việc dạy thực nghiệm, tiếp xúc, trao đổi, chúng tơi cĩ cơ
hội nắm bắt những phản ứng và năng lực cảm thụ, hiểu biết tác phẩm của
HS trong quá trình học tác phẩm văn chương. Đĩ là sự thu thập thơng tin từ
việc tổ chức hướng dẫn của GV và cách tham gia xây dựng bài học của HS.
Trên cơ sở đĩ, cĩ thể nắm bắt được những thuận lợi cũng như khĩ khăn của
việc vận dụng đặc trưng loại thể vào phân tích tác phẩm cụ thể.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
Vận dụng lí luận và kinh nghiệm dạy học văn theo đặc trưng loại thể
vào thực nghiệm hai tác phẩm Rừng xà nu và Mảnh trăng cuối rừng để
kiểm chứng hiệu quả của việc dạy học văn dựa trên yêu cầu cải tiến và đổi
mới quan điểm và phương pháp dạy học bộ mơn. Đồng thời, thơng qua kết
quả thực nghiệm, cĩ thể đánh giá hướng đi đúng đắn của đề tài đã chọn,
cũng như tính khả thi của những đề xuất trong luận văn.
5.4. Phương pháp thống kê
Vận dụng phương pháp thống kê tốn học trong nghiên cứu khoa học
giáo dục để thống kê và xử lí số liệu nhằm đánh giá khả năng cảm thụ,
phân tích hai tác phẩm của HS bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách
quan, tự luận. Phương pháp thống kê khơng thể thiếu trong khảo sát và
thực nghiệm khoa học.
6. Giới hạn đề tài
Vận dụng những hiểu biết về loại thể và kinh nghiệm dạy học vào
phân tích hai tác phẩm Rừng xà nu và Mảnh trăng cuối rừng cho HS lớp
12 Trường THPT Chợ Lách A-Bến Tre.
Ngồi ra, để kiểm chứng hiệu quả của việc dạy thực nghiệm, chúng tơi
sẽ cộng tác với nhĩm đồng nghiệp tổ chức một số tiết dạy để đối chứng.
Rừng xà nu và Mảnh trăng cuối rừng là hai tác phẩm tự sự mang yếu
tố trữ tình nên trong phần lí luận chung về loại thể, chúng tơi chỉ giới thiệu
đặc trưng về loại tự sự và loại trữ tình mà khơng đề cập đến thể loại khác
theo quy tắc phân loại chung.
7. Giới thiệu cấu trúc của luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương chính sau:
Chương 1: LOẠI THỂ VÀ DẠY HỌC VĂN THEO LOẠI THỂ Ở
THPT- LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.
Chúng tơi giới thiệu khái niệm loại thể, nguyên nhân của sự phân chia
loại thể và ý nghĩa của sự phân chia đĩ trong dạy học văn. Tiếp theo, luận
văn trình bày một số đặc trưng cơ bản của thế loại trữ tình, thể loại tự sự và
sự chuyển hố giữa chúng với việc dạy học văn theo đặc trưng loại thể.
Chương 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM LOẠI THỂ VÀO DẠY
HỌC HAI TÁC PHẨM RỪNG XÀ NU - NGUYỄN TRUNG THÀNH
VÀ MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG – NGUYỄN MINH CHÂU.
Vận dụng lí thuyết về sự chuyển hố, thâm nhập lẫn nhau giữa loại thể
tự sự và trữ tình vào việc hướng dẫn HS phân tích tác phẩm cụ thể: Rừng
xà nu - Nguyễn Trung Thành và Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh
Châu.
Điểm nổi bật của hai tác phẩm này là được viết theo khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn. Vì vậy, luận văn sẽ làm rõ nguyên nhân vì sao
chúng được viết theo khuynh hướng, cảm hứng đĩ. Đồng thời, luận văn sẽ
trình bày cách dạy hai tác phẩm này.
Chương 3: THỰC NGHIỆM.
Người viết tập trung mơ tả quá trình thực nghiệm và trình bày những
kết quả thu được cùng với những kết luận sư phạm.
Phần tài liệu tham khảo
Phần phụ lục: Giáo án thực nghiệm đối chứng
Chương 1:
LOẠI THỂ VÀ DẠY HỌC VĂN THEO LOẠI THỂ Ở
THPT- LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái niệm loại thể và ý nghĩa thực tiễn của sự phân chia loại thể
văn học
1.1.1. Khái niệm loại thể
Khái niệm loại thể cũng như mọi khái niệm khác trong lí luận văn học
là kết quả của sự trừu tượng hĩa, khái quát hĩa thực tế cụ thể, sinh động
của sáng tác văn học. Tác phẩm của dân tộc và nhân loại là vơ vàn phong
phú, đa dạng nhưng xét cho cùng giữa chúng cĩ những nét chung nhất định
về mặt cấu tạo nội dung và hình thức nghệ thuật. Sự giống nhau ấy là tương
đối ổn định. Điều này tạo cơ sở và điều kiện cho sự phân chia các tác phẩm
văn học ra thành loại thể văn học. Lí luận văn học cũng khái quát các tác
phẩm khác nhau thành một số loại thể nhất định dựa trên những quy luật
loại hình. Những quy luật này chi phối các yếu tố khác của tác phẩm văn
học. Mỗi thể loại khác nhau cĩ kết cấu, nhân vật, lời văn ….khác nhau.
Chẳng hạn, tác phẩm trữ tình cĩ nhân vật trữ tình, tác phẩm tự sự cĩ nhân
vật tự sự, tác phẩm kịch cĩ nhân vật kịch….
Vậy thể loại văn học là gì ? Theo sách Văn học 11, tập 2, cải cách giáo
dục năm 2000, quan niệm: “Thể loại văn học là phương thức tái hiện đời
sống và thể thức cấu tạo văn bản. Tên gọi loại thể thơng báo cho người đọc
ít nhất hai điểm: phạm vi, phương thức tiếp xúc, tái hiện đời sống và hệ
thống các phương tiện, biện pháp thể hiện tương ứng”.
Theo Trần Đình Sử : “Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy
luật lọai hình của tác phẩm, trong đĩ ứng với một loại nội dung nhất định
cĩ một lọai hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại
chỉnh thể” 51, tr.154.
Quan niệm về loại thể và lí luận về loại thể văn học đã cĩ từ rất lâu
trong lịch sử nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, đến nay chúng ta vẫn chưa cĩ
quan điểm thống nhất và triệt để. Bên cạnh quy luật loại hình, thực tiễn văn
học bao giờ cũng phong phú, đa dạng hơn nhiều. Nhà văn sáng tác tác
phẩm là nhằm diễn đạt một cách đúng đắn nhất và đầy đủ nhất những vấn
đề đời sống mà họ quan tâm, những rung động thẩm mỹ độc đáo. Chính vì
vậy, khi nghiên cứu tác phẩm văn học, chúng ta khơng chỉ nắm vững tính
lặp lại của quy luật mà cịn phải biết nhận ra cái độc đáo trong sự vận dụng
và sáng tạo của nhà văn.
1.1.2. Ý nghĩa thực tiễn của việc phân chia loại thể trong dạy học
văn
Việc làm rõ loại thể là khâu đầu tiên và quan trọng nhất khi bước vào
nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm cụ thể. Trong sự tương tác giữa thể và
loại thì chất của loại vẫn là yếu tố khĩ nắm bắt nhất, phải nắm bắt được nĩ
thì hiệu quả của các khâu tiếp theo mới cĩ thể đi đến đích một cách đúng
đắn.
Cho đến nay, việc dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường
chưa thốt khỏi tình trạng rập khuơn, cơng thức máy mĩc. Người dạy cịn
bị chi phối bởi thể của tác phẩm nhiều hơn là tính chất của loại thể trong
thể. Và cũng từ thực tế giảng dạy, một số GV thuộc cả những tài liệu
hướng dẫn phân tích tác phẩm nhưng cũng khơng thể dạy tốt được. Trong
dạy học văn dù cĩ phát huy vai trị chủ thể mà khơng chú ý đến vai trị chủ
động của thầy thì vẫn khơng mang lại hiệu quả. Chỉ khi thầy chỉ đạo tốt,
HS hoạt động tích cực thì việc tìm hiểu tác phẩm mới cĩ thể đi đúng
hướng. Bất kì GV nào cũng nhận thức được điều đĩ. Thế nhưng, từ thực
tiễn, nhiều trường hợp GV cịn lúng túng trong việc xử lí tài liệu hướng
dẫn. Giờ dạy cịn diễn ra theo một bài bản định sẵn. GV chưa nhận thức
đầy đủ bản chất thực sự và trọng tâm của từng tác phẩm cụ thể: “Nguyên
nhân chính là GV chưa xác định loại thể của tác phẩm với tính chất nội
dung của nĩ là khơng chính danh. Và đã khơng chính danh thì dù việc phân
tích cĩ sắc sảo đến đâu cũng vẫn chỉ là võ đốn” 5, tr.94.
Mặc khác, mục đích của mơn văn trong nhà trường là giúp HS cảm thụ
được đầy đủ nhất, lĩnh hội được sâu sắc nhất mọi giá trị tư tưởng và nghệ
thuật trong hình tượng văn học của tác phẩm. Thơng qua đĩ, HS sẽ phát
triển về nhận thức, tư tuởng, tình cảm đạo đức, thẩm mỹ, tư duy và ngơn
ngữ học. Nhưng hiệu quả cảm thụ của HS tùy thuộc vào mức độ hiểu và
cảm của người thầy giáo. Phân biệt loại thể văn học cần thiết cho người GV
trong việc bản thân mình xúc cảm và tìm hiểu tác phẩm trước khi giảng cho
HS.
Bên cạnh đĩ, chúng ta biết rằng: “Phương thức cấu tạo hình tượng mà
tác giả đã sử dụng khi sáng tác quy định phương thức cảm thụ hình tượng
đĩ của người đọc và cũng từ đĩ quy định phương thức giảng dạy của
GV”6. Từ trước đến nay, các bước lên lớp của GV phải tuân theo cơng
thức nhất định. Ví dụ, khi phân tích bất kì tác phẩm truyện nào, người dạy
thường tuân theo một trình tự phân tích cĩ phần cứng nhắc máy mĩc: tĩm
tắt, chia bố cục, phân tích nhân vật và nhận xét về nghệ thuật. Thậm chí,
khi phân tích những truyện dân gian, họ cũng tuân thủ cơng thức ấy. Sỡ dĩ
tình trạng đĩ kéo dài vì chúng ta chưa biết dựa trên tiêu chí phân biệt thể
loại để cĩ sự lựa chọn cách thức phân tích thích hợp. Điều này cũng là hệ
quả của một quan niệm lệch lạc - chưa đặt sự chú ý đúng mực tới loại thể
trong tiến trình đổi mới. Hiện nay, từng bước, người dạy văn đã dần dần
khắc phục được những hạn chế đĩ nhờ sự soi sáng của lí luận, đã cĩ một sự
đổi mới, một cách nhìn nhận đúng đắn, khoa học, hợp lí và linh hoạt hơn.
Tuỳ thuộc vào thực tiễn mà GV vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp.
1.2. Dạy học tác phẩm tự sự theo đặc trưng loại thể
1.2.1. Những đặc trưng cơ bản của loại thể tự sự
1.2.1.1. Tác phẩm tự sự tái hiện đơi sống trong tính khách quan
Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote cho rằng thế giới của tác phẩm tự sự
tồn tại bên ngồi người trần thuật, khơng phụ thuộc vào ý muốn và tình
cảm của họ. Ở đây, nhà văn như đứng bên ngồi kể lại. Tất cả những sự
việc của đời sống được nhà văn kể lại như một đối tượng khách quan ở bên
ngồi mình. Chính vì vậy, tác phẩm tự sự mang tính khách quan.
Để cĩ cái nhìn khách quan, tác phẩm tự sự tập trung phản ánh đời sống
qua các sự kiện, hệ thống sự kiện. Nhiều nhà lí luận đã khẳng định tính sự
kiện cĩ ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là đặc điểm hàng đầu của tác phẩm
tự sự. Các biến cố, sự kiện này cĩ thể là những biến cố sự kiện bên ngồi,
tức là phần tồn tại vật chất với các việc làm, hành động cụ thể cĩ thể thấy
được, cũng cĩ thể là những biến cố, sự kiện bên trong bao gồm cả tâm
trạng, cảm xúc, ý nghĩ…Nhưng ở đây, những cảm xúc, ý nghĩ …được xem
như là đối tượng để đem ra phân tích, nhận biết.
Tác phẩm tự sự miêu tả cuộc sống thơng qua các sự kiện, hệ thống sự
kiện mà sự kiện là sản phẩm của mối quan hệ giữa con người với con
người, con người với mơi trường, với hồn cảnh. Vì vậy, phương thức này
phản ánh cuộc sống của con người trong những mối quan hệ phức tạp của
nĩ với mơi trường xung quanh. Như thực tiễn văn học cho thấy, tác phẩm
tự sự mở ra một phạm vi hết sức rộng lớn trong việc miêu tả hiện thực
khách quan, được thể hiện trong mối quan hệ đa dạng, phong phú. Nhà văn
cĩ thể xây dựng khơng gian nhất định hoặc tạo ra nhiều miền đất khác
nhau. Về thới gian, người viết cĩ thể kể về một khoảnh khắc hay hàng chục
năm, khi lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong hiện tại, đơi khi chỉ lướt qua
hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đĩ mà mình cho là quan trọng.
1.2.1.2.Nhân vật là yếu tố trung tâm của tác phẩm
Đối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đĩ con người
luơn luơn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
những bức tranh thiên nhiên…đều gĩp phần tạo nên sự phong phú đa dạng
cho tác phẩm, nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là
việc xây dựng nhân vật. Nhân vật là một trong những yếu tố quan trọng
biểu hiện những biến đổi ở cấp độ ý thức, quan niệm văn học. Đối với
phương thức tự sự, vai trị của nhân vật được xác định là then chốt, giữ vị
trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư tưởng tác phẩm.
Nhân vật văn học là những con người được miêu tả trong tác phẩm
bằng phương tiện văn học. Những con người này cĩ thể được miêu tả kĩ
hay sơ lược, sinh động hay khơng rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần,
thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trị quan trọng nhiều hay ít, hoặc khơng
ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Nhân vật văn học khơng giống với
nhân vật ở các loại hình nghệ thuật khác. Ở đây nhân vật được thể hiện
bằng chất liệu riêng: ngơn từ. Người đọc phải vận dụng khả năng liên
tưởng, tưởng tượng để dựng lại con người hồn chỉnh trong tất cả các mối
quan hệ của nĩ. Nhân vật là yếu tố trung tâm chi phối tồn bộ tác phẩm.
Nhân vật tự sự được khắc họa đầy đủ nhiều mặt, cĩ thể được triển khai sâu
rộng trong nhiều mối quan hệ đa dạng, phong phú. Hệ thống nhân vật, đặt
biệt là nhân vật chính được khắc họa từ hành động, tâm lí, ngoại hình, qua
đĩ tính cách nhân vật được bộc lộ. Nhân vật thường cĩ số phận, con đường
đi và quá trình phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau. Nhà văn tạo ra
nhân vật nhằm hai mục đích: phản ánh những con người trong xã hội đồng
thời qua đĩ bày tỏ thái độ và nhận thức của mình đối với đời sống.Vì vậy,
khi tìm hiểu nhân vật văn học, bên cạnh việc xác định những nét tính cách,
chúng ta cần nhận ra được vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn
muốn thể hiện.Ngồi ra, nhân vật cịn gắn với những chi tiết khác của đời
sống như:ngoại cảnh, phong tục, lịch sử, văn hĩa…
1.2.1.3. Cốt truyện thể hiện hoạt động và mối quan hệ xã hội của nhân
vật.
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động
trong tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong
một hồn cảnh xã hội nhất định, làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Nhờ cốt truyện mà người ta cĩ thể kể lại được tác phẩm. Cốt truyện cĩ thể
chứa nhiều tình tiết hay một tình tiết. Mỗi tình tiết là một sự việc, một biến
cố, thường diễn ra như một quá trình, cĩ mở đầu, cao trào và cĩ kết thúc,
giải quyết mâu thuẫn.
Cốt truyện và tính cách nhân vật cĩ mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
được thể hiện khác nhau trong quá trình phát triển của lịch sử văn học.
Trong thời kì trung đại, cốt truyện được coi là yếu tố đặc biệt quan trọng, là
nơi xuất phát và quyết định của sự sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn sáng tác là
dựng nên cốt truyện và người thưởng thức chủ yếu cũng phải nắm bắt cốt
truyện. Nhà văn chưa thể sáng tác nếu chưa tìm ra một cốt truyện hấp dẫn.
Ở đây cốt truyện quy định và chi phối tính cách. Nhà văn khơng xây dựng
tính cách cĩ sự phát triển phù hợp với logic đời sống mà chỉ dùng nĩ triển
khai cho hệ thống biến cố của tác phẩm.
Đến thời kì hiện đại, mối quan hệ giữa cốt truyện và tính cách hồn
tồn thay đổi. Cốt truyện khơng cịn giữ vai trị chủ yếu mà thay vào đĩ là
tính cách. Chính tính cách quyết định cho diễn biến của cốt truyện. Trong
Một số kinh nghiệm viết văn của tơi, Tơ Hồi viết: “Một sáng tác mà ta cĩ
thể thêm vào hay bớt ra bao nhiêu cũng được là một sáng tác hỏng. Vì
khơng thể nào kiểm tra chặt chẽ được khi vị trí của nhân vật đã phải rút
xuống hàng dưới của cốt truyện. Chỉ cĩ nhân vật mới kiểm tra được cốt
truyện, nhân vật mới cĩ quyền phân phối ý chính, ý phụ”. Trong quá trình
xây dựng tác phẩm, nhà văn thường đặt tính cách vào hồn cảnh nên tính
cách phong phú, đa dạng và luơn luơn phát triển theo sự phát triển của hồn
cảnh. Nhà văn khơng ép nhân vật vào cốt truyện đã định trước của mình.
Như vậy, trong văn học hiện đại, cốt truyện là phương tiện để bộc lộ
tính cách, cốt truyện được sử dụng để triển khai tính cách chứ khơng quy
định và chi phối tính cách như trước kia.Tuy nhiên, chúng ta khơng nên
xem thường vai trị của cốt truyện vì tính cách chỉ cĩ thể được biểu hiện và
phát triển thơng qua cốt truyện. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, các
nhà văn luơn cố gắng xây dựng những cốt truyện hấp dẫn và chân thực
đồng thời thể hiện được chiều sâu tâm lí của tính cách nhân vật.
1.2.1.4. Hình tượng người kể chuyện với phong cách nhà văn
Do phản ánh hiện thực trong tính khách quan nên ở tác phẩm tự sự cịn
cĩ một nhân tố thứ ba: người trần thuật hay cịn gọi là người kể chuyện.
Hình tượng người kể chuyện thường hiện diện trong hai dạng: đại từ nhân
xưng ngơi thứ nhất hoặc ngơi thứ ba.Ở dạng thứ nhất, người kể chuyện là
một trong những nhân vật tham gia vào các sự kiện trong tác phẩm với đại
từ nhân xưng ngơi thứ nhất “tơi”. Lúc này, hình tượng người kể chuyện
chính là tác giả, nhân danh chính bản thân mình mà kể chuyện. Dạng thứ
hai, phổ biến hơn, người kể chuyện kể lại câu chuyện như là một người
ngồi cuộc, khơng tham gia vào diễn biến câu chuyện và gọi nhân vật mình
bằng đại từ nhân xưng ngơi thứ ba: họ, anh, nàng, hắn, thị,…Bấy giờ tác
giả ẩn mình sau những nhân vật hư cấu. Chẳng hạn, cái Dần trong Một đám
cưới là một sáng tạo của Nam Cao. Nhà văn đã nhập hẳn vào vai nhân vật,
theo nhân vật, nĩi bằng ngơn ngữ, bằng giọng điệu nhân vật. Và rồi, Nam
Cao lần lượt nhập vào vai mẹ Dần, bố Dần đến bà mẹ chồng Dần để phản
ánh số phận người nơng dân cực khổ đủ đường. Cuộc sống ấy đã gây ấn
tượng ám ảnh và day dứt mãi trong lịng người đọc. Dù dưới hình thức nào,
người trần thuật cũng làm nhiệm vụ tường thuật, kể chuyện để phân tích,
nghiên cứu, khêu gợi, bình luận, cắt nghĩa những quan hệ phức tạp giữa
nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hồn cảnh. Trong tác phẩm tự sự,
hình tượng người kể chuyện giữ vai trị hết sức quan trọng và luơn luơn
muốn dẫn dắt người đọc nên hiểu nhân vật, hồn cảnh thế này hay thế khác.
Mỗi nhà văn cĩ cách kể chuyện và giọng điệu kể chuyện riêng, cĩ thể
là giọng kể bình tĩnh, khách quan hoặc giọng kể thể hiện rõ cảm xúc, tác
giả trực tiếp bình luận sự kiện, nhân vật. Ngơn ngữ người kể chuyện và
ngơn ngữ nhân vật cĩ sự hịa quyện chặt chẽ. Do vậy, giọng điệu trong tác
phẩm tự sự là giọng điệu đa thanh. Lời kể của truyện là những sợi tơ dệt
nên tình tiết và nhân vật, dệt nên tồn bộ hình tượng. Sự hấp dẫn của một
tác phẩm tự sự khơng chỉ ở các chi tiết, sự kiện mà cịn ở cách kể chuyện
của nhà văn, cách lí giải, cách nhìn nhận, đánh giá của nhà văn với các sự
kiện đĩ.
1.2.2. Thực tế dạy học tác phẩm tự sự theo đặc trưng loại thể
Hiện nay, khi dạy tác phẩm tự sự (chủ yếu là truyện) ở trường phổ
thơng, GV thuờng chú ý đến những vấn đề sau:
1.2.2.1.Phân tích kết cấu tác phẩm
Việc phân tích kết cấu hay cịn gọi là bố cục của tác phẩm khơng phải
chỉ là chia tác phẩm hay trích đoạn tác phẩm ra làm mấy đoạn và nêu ý
chính mỗi đoạn. Kết cấu tác phẩm bao gồm các yếu tố sau: sự sắp xếp,
phân bố các chương đoạn, tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và
khơng gian nghệ thuật, trình bày, bố trí các yếu tố ngồi cốt truyện…Thực
chất của việc phân tích kết cấu tác phẩm là phải giúp cho HS nắm được sự
sắp xếp, tổ chức các sự kiện, sự vận động của các sự kiện trong tác phẩm
và ý nghĩa của sự kiện đĩ.
Bước đầu tiên, đơn giản nhất của việc phân tích kết cấu là giúp cho HS
xác định tác phẩm gồm mấy đoạn, ý chính của các đoạn. Với các tác phẩm
cĩ cốt truyện phức tạp, nhiều sự kiện, nhân vật, việc xác định bố cục của
tác phẩm được tiến hành trước khi đi vào phân tích từng đoạn để giúp cho
HS cĩ cái nhìn tổng thể về tác phẩm.
Ví dụ: để xác định kết cấu truyện ngắn Đơi mắt của Nam Cao, GV đặt
câu hỏi sau: Câu chuyện được mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh nào?
Cách mở đầu và kết thúc như vậy gĩp phần thể hiện tư tưởng và chủ đề gì
của tác phẩm ?
Ngồi ra, GV cĩ thể yêu cầu HS lập sơ đồ miêu tả trình tự câu chuyện,
chú ý đến mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, lí giải ý nghĩa của các sự
kiện đĩ. Với những tác phẩm cĩ nhiều tình tiết phức tạp, GV cung cấp bảng
trộn lẫn các sự kiện và yêu cầu HS sắp xếp lại theo đúng trình tự của câu
chuyện.
Nắm vững kết cấu là tiền đề cho việc phân tích nhân vật vì tính cách
nhân vật được thể hiện và phát triển qua sự vận động của các sự kiện trong
tác phẩm. GV thường hướng dẫn HS phân tích từng đoạn dựa trên kết cấu
của tác phẩm. Tác phẩm được phân tích theo mấy đoạn hoặc mấy tuyến
nhân vật là tùy theo cấu trúc của từng tác phẩm.
Ví dụ: khi phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của
Nam Cao, chúng ta thường tập trung vào quá trình hình thành và biến đổi
nhân cách của Chí qua ba giai đoạn:
Chí Phèo trước khi bị đi tù
Chí Phèo sau khi đi tù về
Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở
Trong thực tế, dạy học tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi, GV
phân tích theo hai tuyến nhân vật Mỵ và A Phủ qua từng giai đoạn trong
cuộc đời nhân vật:
Nhân vật Mỵ:
Trước khi về làm vợ A Sử
Khi làm vợ A Sử
Khi gặp A Phủ
Nhân vật A Phủ:
Trước khi đánh A Sử
Khi làm đầy tớ cho nhà thống lí
Sau khi cùng chạy trốn với Mỵ
Với những trích đoạn tiểu thuyết, bao giờ GV cũng tĩm tắt nội dung
tác phẩm trước khi tiến hành phân tích để giúp HS hình dung được đoạn
trích đang học ở phần nào của tác phẩm, câu chuyện sẽ tiếp tục như thế
nào.
Ví dụ: Khi dạy đoạn trích Hạnh phúc một tang gia trong Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng, GV kể tĩm tắt tác phẩm Số đỏ, sau đĩ yêu cầu HS vẽ sơ đồ
thống kê nhân vật và mối quan hệ của họ trong đoạn trích, nhằm mục đích
để HS nhớ tên nhân vật và trình tự diễn biến câu chuyện.
1.2.2.2. Phân tích nhân vật
Sự vận động của các chi tiết, sự kiện gắn liền quá trình sự vận động
của các nhân vật. Do đĩ, phân tích nhân vật phải kết hợp với phân tích các
sự kiện vì sự kiện, tình tiết là mơi trường, mảnh đất cho nhân vật hoạt động
và bộc lộ tính cách. Nhân vật là yếu tố trung tâm của tác phẩm nên GV sẽ
dành nhiều thời gian để phân tích: “Phân tích nhân vật trong tác phẩm
khơng phải đơn thuần là dùng một số từ xác định nào đĩ để đánh giá, để
khen hoặc chê nhân vật đĩ”6. Khi phân tích nhân vật, GV thường chú ý
đến việc phân tích tính cách nhân vật qua các yếu tố sau:
- Đặc điểm ngoại hình
- Hành động: cách phản ứng với các sự kiện, mối quan hệ qua
lại giữa nhân vật này với nhân vật khác
- Những cảm xúc, suy nghĩ, diễn biến nội tâm nhân vật
- Ngơn ngữ và phong cách ngơn ngữ của nhân vật
Ví dụ: đặc điểm ngoại hình của Chí Phèo sau khi đi tù về được Nam
Cao mơ tả rất sinh động từ hình dáng, gương mặt, đến cách ăn mặc. Tất cả
nĩi lên tính cách của một tên lưu manh, một con quỷ dữ làng Vũ Đại. GV
hướng dẫn HS tìm hiểu chi tiết này bằng câu hỏi sau:
Nam Cao đã dùng những từ ngữ giàu tính gợi hình để
miêu tả nhân vật Chí Phèo, đĩ là những từ ngữ nào?
Ngoại hình đĩ bộc lộ nét gì mới trong tính cách của Chí
Phèo sau khi đi tù về? Thái độ của tác giả ra sao?
Phân tích nhân vật, sự kiện đồng thời phân tích thái độ tác giả đối với
các nhân vật và sự kiện đĩ vì nhân vật là tiêu điểm quy tụ kết cấu nghệ
thuật của tác phẩm, là nơi tập trung khuynh hướng tư tưởng, thái độ đạo
đức và tình cảm của tác giả. Tất cả các yếu tố trên được thể hiện qua ngơn
từ và thủ pháp nghệ thuật được dùng trong tác phẩm. Bên cạnh hình tượng
nhận vật, tác phẩm tự sự cịn cĩ hình tượng thời gian nghệ thuật và khơng
gian nghệ thuật.
Ví dụ: phân tích sự đối lập giữa hình ảnh viên quản ngục và Huấn Cao
vào đêm cho chữ trong Chữ người tử tu nhằm thể hiện tư tưởng của
Nguyễn Tuân. Để giúp HS hiểu được điều này, GV cĩ thể đặt câu hỏi sau:
Nhận xét về tư thế của hai nhân vật trong cảnh cho chữ này? Ý nghĩa của
sự so sánh đĩ?
Ngồi ra, hai yếu tố khơng gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
cũng cĩ vai trị quan trọng trong việc chi phối cuộc sống, hành động của
nhân vật.
Ví dụ: yếu tố thời gian trong tác phẩm Chí Phèo đã tạo nên phong cách
độc đáo của Nam Cao. Kết cấu tác phẩm thoải mái, đảo lộn trình tự thời
gian tạo nên sức hấp dẫn ngay từ đầu truyện. Cuộc đời của nhân vật Chí
Phèo khơng được kể theo trình tự thơng thường. Mở đầu tác phẩm là lời
giới thiệu về một kiểu người ở thực tại “hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng
thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Tác giả đang hướng về người đọc, thơng
báo cho người đọc về một tên say rượu, hay gây gỗ và đang chất chứa một
nỗi uất ức muốn được trút bỏ, muốn được phá phách. Cách mở đầu đột
ngột của thiên truyện đĩ chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc
đáo của nhân vật mà cịn hé mở cho ta thấy tình trạng bi đát của một số
phận.
Khơng gian trong một đêm trăng sáng đã biến một gã lưu manh bị xã
hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, bị loại ra khỏi lồi
người, phải sống kiếp tối tăm của thú vật thành một con người thật sự trong
tấn bi kịch đầy đau khổ, dằn vặt của Chí Phèo. Trong một đêm rười rượi
những ánh trăng, cĩ những tàu chuối nằm ngửa ưỡn cong lên hứng lấy
trăng xanh rười rượi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị giĩ lay lại giãy lên
đành đạch như là hứng tình. Chí Phèo rất say và cảm thấy bứt rứt, ngứa
ngáy da thịt, đã xơng tới người đàn bà khốn khổ dại dột đã nằm ềnh ệch mà
ngay gần nhà hắn. Trong đêm vắng vẻ trăng thanh giĩ mát, Thị Nở như sự
đưa đẩy của số phận cĩ mặt tại đĩ, đã khơi dậy bản năng người của gã Chí
Phèo. Và sau đấy là sự chăm sĩc giản dị đầy ân tình và lịng yêu thương
mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy
bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo.
1.2.2.3. Phân tích hình tượng người kể chuyện
Hình tượng người kể chuyện là một trong những yếu tố khơng thể
thiếu của tác phẩm tự sự được thể hiện qua: cách kể chuyện, cách chọn lựa
chi tiết, giọng điệu kể chuyện.…Trong thực tế giảng dạy, vai trị của người
kể chuyện thường khơng được GV quan tâm đúng mức. Mặc dù, giờ dạy cĩ
bước phân tích bố cục tác phẩm, phân tích nhân vật nhưng hầu như GV lại
bỏ qua bước phân tích nhân vật người kể chuyện.
Đối với hình tượng người kể chuyện, GV cần làm rõ vai trị ấy thể
hiện trong mọi yếu tố của tác phẩm: cách kể chuyện, giọng điệu kể chuyện,
cách miêu tả nhân vật, sắp xếp sự kiện. Khi phân tích vai trị người kể
chuyện, người dạy kết hợp với quá trình phân tích các yếu tố khác của tác
phẩm, tăng cường việc cảm thụ, phân tích tác phẩm từ gĩc độ chủ thể sáng
tác. Cảm thụ được hình tượng người kể chuyện cĩ nghĩa là HS nắm được
phong cách nghệ thuật của tác giả.
Lời kể chính là ngơn ngữ nghệ thuật của tác phẩm tự sự. Cái hay
nhất của lời kể là nhờ ở giọng điệu tự nhiên, sinh động, nhuần nhị và truyền
cảm của người kể. Ngơn ngữ trong tác phẩm tự sự là ngơn ngữ đa thanh,
đan xen ngơn ngữ kể chuyện, miêu tả của tác giả và ngơn ngữ của nhân vật.
Thơng thường, để giúp HS thấy được những yếu tố trên, GV sử dụng kết
hợp các biện pháp như đặt câu hỏi gợi mở, nêu vấn đề, lập bảng phân loại
các nhân vật, sắp xếp các sự kiện….
Ví dụ: hướng dẫn HS phân tích sự đan xen trong ngơn ngữ của các
nhân vật và ngơn ngữ miêu tả, kể chuyện của tác giả trong tác phẩm Đơi
mắt của Nam Cao. Với đoạn văn đối thoại giữa Hồng và anh nơng dân,
GV hướng dẫn HS tiến hành phân tích như sau:
GV hướng dẫn HS đọc diễn cảm đoạn văn, sau đĩ chia nhĩm, mỗi
nhĩm thống kê ngơn ngữ từng nhân vật sau:
Ngơn ngữ của nhân vật Hồng
Ngơn ngữ của anh nơng dân
Ngơn ngữ miêu tả, kể chuyện của nhà văn
Trả lời câu hỏi:
Sự đan xen giữa các loại ngơn ngữ đĩ tạo cho người
đọc ấn tượng gì? Phân tích nghệ thuật sử dụng ngơn
ngữ của nhà văn?
Tính cách của nhân vật Hồng được bộc lộ qua những
yếu tố nào? Những từ ngữ, hình ảnh nào bộc lộ thái
độ của Hồng đối với người nơng dân?
1.3. Dạy học tác phẩm trữ tình theo đặc trưng loại thể
1.3.1. Những đặc trưng cơ bản của loại thể trữ tình
1.3.1.1.Tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trực tiếp thơng qua cảm
nhận chủ quan của tác giả
Nghệ thuật nĩi chung, văn học nĩi riêng là sự biểu hiện thế giới chủ
quan của con người trước hiện thực cuộc sống. Tuy nhiên, do phương thức
tổ chức tác phẩm, kiểu tái hiện đời sống và giao tiếp nghệ thuật khác nhau
nên sự biểu hiện đĩ ở những loại tác phẩm văn học cũng khác nhau. Trong
tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng…được trình bày
trực tiếp và tạo nên nội dung chủ yếu của tác phẩm. Tác phẩm trữ tình làm
sống dậy thế giới chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào
những suy tư, tâm trạng, nỗi niềm – một phương diện rất năng động của
hiện thực.
Nĩi cách khác, đặc điểm nổi bật của bài thơ là những cảm xúc suy tư
của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình được bày tỏ, bộc bạch. Tính chất cá
thể hĩa của cảm xúc và tính chất chủ quan hĩa của sự thể hiện là dấu hiệu
tiêu biểu của thơ trữ tình. Điều này cho phép nhà thơ sử dụng rộng rãi các
từ cảm thán, dấu cảm, biện pháp tu từ để thể hiện cảm xúc.
1.3.1.2. Trạng thái cảm xúc của nhân vật trữ tình
Nếu như tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực thơng qua các nhân vật, sự
kiện, xung đột giữa các nhân vật thì thơ trữ tình là trạng thái cảm xúc của
nhân vật trữ tình trước hiện thực đĩ. Tuy tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm
xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đĩ cũng được thơng qua sự xác lập
mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan. Mặc dù thể hiện thế
giới chủ quan, nhưng tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự
vật, chi tiết hiện tượng trong đời sống khách quan, nhữn._.ốt nhưng ý tưởng chưa phong phú đạt điểm 7,8. Những bài cĩ
ý tưởng nhưng diễn đạt chưa trơi chảy, người đọc chưa hiểu rõ ý người
viết, đạt điểm 5,6. Những bài viết thiếu ý, kĩ năng làm văn cịn yếu sẽ đạt
điểm 3,4. Những bài hầu như chưa giải quyết được vấn đề đặt ra đạt 1,2
điểm.
3.7.3. Kết quả thực nghiệm và nhận xét, đánh giá
Bài Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Bảng 3.1: Kết quả bài dạy thực nghiệm Rừng xà nu
Xếp loại
Điểm 9,10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm 3,4 Điểm 1,2 Lớp Số
bài
SL % SL % SL % SL % SL %
12A1 41 8 19.52 21 51.22 12 29.56 0 0 0 0
12A2 41 6 14.63 24 58.54 11 26.83 0 0 0 0
12A3 41 7 17.07 26 63.41 8 19.52 0 0 0 0
12A4 40 1 2.5 16 40.0 21 52.50 2 5.0 0 0
12A5 40 1 2.5 20 50.0 16 40.0 3 7.5 0 0
Bảng 3.2: Kết quả bài dạy thực nghiệm đối chứng Rừng xà nu
Xếp loại
Điểm 9,10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm 3,4 Điểm 1,2 Lớp Số
bài
SL % SL % SL % SL % SL %
12A6 40 0 0 10 25.0 22 55.0 8 20.0 0 0
12A7 40 0 0 9 22.5 24 60.0 7 17.5 0 0
12A8 40 0 0 5 12.5 23 57.5 10 25.0 2 5.0
12A9 38 0 0 4 10.53 21 55.26 10 26.32 3 7.89
12P 39 0 0 1 2.56 21 53.85 12 30.77 5 12.82
Bài Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
Bảng 3.3: Kết quả bài dạy thực nghiệm Mảnh trăng cuối rừng
Xếp loại
Điểm9,10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm 3,4 Điểm 1,2
Lớp Số
bài
SL % SL % SL % SL % SL %
12A6 40 2 5.0 17 42.5 19 47.5 2 5.0 0 0
12A7 40 1 2.5 16 40.0 22 55.0 1 205 0 0
12A8 40 0 0 12 30.0 24 60.0 4 10.0 0 0
12A9 38 0 0 10 26.32 25 65.79 3 7.89 0 0
12P 39 0 0 8 20.52 25 64.1 5 12.82 1 2.56
Bảng 3.4: Kết quả bài dạy thực nghiệm đối chứngMảnh trăng cuối rừng
Xếp loại
Điểm9,10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm 3,4 Điểm 1,2 Lớp Số
bài
SL % SL % SL % SL % SL %
12A1 41 5 12.2 18 43.9 18 43.9 0 0 0 0
12A2 41 3 7.32 17 41.46 21 51.22 0 0 0 0
12A3 41 3 7.32 19 46.34 19 46.34 0 0 0 0
12A4 40 0 0 10 25.0 25 62.5 5 12.5 0 0
12A5 40 0 0 8 20.0 24 60.0 7 17.5 1 2.5
Bảng 3.5: Xếp loại, đánh giá kết quả hai bài thực nghiệm và thực
nghiệm đối chứng
Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Xếp
loại SL % SL % SL % SL % SL %
Thực
nghiệm
26
6.5
170
42.5
183
45.75
20
5.0
1
0.25
Đối
chứng
11
2.75
101
25.25
218
54.5
59
14.75
11
2.75
Nhận xét, đánh giá:
Từ bảng đánh giá xếp loại chung, chúng ta cĩ thể nhận thấy bài dạy
thực nghiệm mang lại kết quả cao hơn bài dạy đối chứng. Như vậy, việc
vận dụng quan điểm loại thể vào đọc hiểu tác phẩm trong nhà trường bước
đầu cĩ tính khả thi.
Tuy nhiên, đối với bài dạy đối chứng, tỉ lệ HS xếp loại trung bình cao
hơn bài dạy thực nghiệm. Điều này chứng tỏ, với phương pháp dạy mới,
việc phân loại trình độ, năng lực HS thể hiện khá rõ. Từ đĩ, chúng ta đề ra
những biện pháp dạy và học phù hợp để giảm số lượng HS yếu kém.
Đối với HS trường dạy thực nghiệm, chúng tơi nhận thấy rằng, những
lớp chọn cĩ nhiều HS khá giỏi, khả năng tiếp thu và ứng dụng rất nhanh,
kết quả tăng cao. Những HS giỏi rất hứng thú với cách học mới này. Dưới
sự hướng dẫn của GV, các em tự do trình bày quan điểm, suy nghĩ của
mình.
Trong khi đĩ, những lớp cĩ trình độ trung bình trở xuống, năng lực tư
duy của các em cịn chậm, chưa bắt kịp với phương pháp mới, nhất là biện
pháp thảo luận nhĩm. Các em hoạt động chậm chạp, mất nhiều thời gian,
xử lí những câu hỏi cĩ vấn đề chưa hiệu quả. Đặc biệt, các em chưa nắm
vững những đặc trưng loại thể.
Về phía GV dạy thực nghiệm, thời gian đầu cịn lúng túng, chưa nhận
ra được hết những khác biệt giữa giáo án trước đây với giáo án mới. Sau
khi chúng tơi cùng tìm hiểu và trao đổi, thầy cơ đều cho rằng, cách đọc
hiểu tác phẩm theo loại thể khoa học, đúng với bản chất văn chương, khơng
cịn sự áp đặt như thời gian qua. Việc chuẩn bị giáo án trước khi đến lớp
tuy cĩ vất vả nhưng khi dạy lại nhẹ nhàng, phát huy được vai trị chủ thể
của HS, khơng khí lớp học cũng sội động hơn. Song, những lớp yếu kém,
GV phải kiên nhẫn gợi mở, hướng dẫn và động viên cho các em.
KẾT LUẬN
1. Những năm gần đây, nhờ thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy
học trong nhà trường và từng bước hồn thiện chương trình nội dung cùng
mục đích và nhiệm vụ đào tạo, chúng ta đã khắc phục được tình trạng dạy
học theo lối truyền thụ một chiều, từ đĩ phát huy được tính chủ động, tích
cực của HS. Vì vậy, khơng khí giờ văn đã trở nên sơi động, hứng thú hơn,
đặc biệt HS cĩ điều kiện trình bày những suy nghĩ và tình cảm của chính
mình. Đồng thời, sự soi rọi của quan điểm lí luận văn học hiện đại đã giúp
chúng ta nhận thức rõ ràng hơn bản chất, đặc trưng của văn chương. Trên
cơ sở ấy, người GV cĩ những tìm tịi, phát hiện, làm nổi rõ phương hướng
dạy văn theo đặc trưng loại thể. Cĩ thể thấy, trong một thời gian dài, người
dạy chưa cĩ sự quan tâm đúng mức tới những kiến thức loại thể để làm căn
cứ thích hợp cho việc khai thác tác phẩm văn chương.
2. Từ sự vận dụng quan điểm loại thể vào phân tích tác phẩm văn
chương trong nhà trường, luận văn muốn gĩp phần khẳng định phương
hướng giảng dạy văn thích hợp theo hướng đổi mới hiện nay. Qua hai tác
phẩm thực nghiệm, người dạy muốn đúc kết được những bài học thiết thực,
bổ ích, làm cơ sở cho việc dạy học tác phẩm văn chương nĩi chung cĩ hiệu
quả hơn. Đặc biệt, đối với trường vùng sâu, vùng xa như địa bàn thực
nghiệm lại cần vận dụng một cách chủ động và thích hợp những kiến thức
đã cĩ về loại thể, nhằm phát huy hiệu quả của việc giảng dạy. HS cĩ điều
kiện phát huy vai trị tích cực, sáng tao trong học tập.
3. Vận dụng quan điểm loại thể vào phân tích tác phẩm văn học ở nhà
trường tuy cĩ điểm mạnh nhưng cũng cĩ những hạn chế nhất định. Phương
pháp tiếp nhận này giúp người đọc khai thác triệt để tác phẩm, phát hiện
được những nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của tác giả và cĩ thể đồng sáng
tạo với nhà văn. Thế nhưng, chúng ta khơng kết hợp linh hoạt với những
phương pháp dạy học khác sẽ khơng tạo được hiệu quả tối ưu. Chẳng hạn,
đọc văn, bình văn, thảo luận nhĩm, sử dụng hệ thống các loại câu hỏi …là
những biện pháp cơ bản, gĩp phần tích cực làm nổi bật đặc trưng loại thể
của tác phẩm.
Thực tế dạy học văn cho thấy việc ứng dụng quan điểm loại thể vào
phân tích tác phẩm văn học ở nhà trường khơng khéo léo sẽ ảnh hưởng
khơng nhỏ đến chất lượng của việc dạy và học văn. Nghĩa là, nếu chúng ta
vận dụng quá cứng nhắc, bài dạy trở nên khuơn sáo, khơng thấy được sự
sáng tạo của nhà văn. Thậm chí, người dạy cịn mắc vào lỗi chia nhỏ tác
phẩm, phá vỡ tính chỉnh thể, thống nhất của nĩ. Dĩ đĩ, việc vận dụng này
địi hỏi GV phải cĩ những giải pháp, lựa chọn đúng đắn và cần sự nỗ lực
của HS trong khâu chuẩn bị bài ở nhà.
4. Qua quá trình thực nghiệm, cĩ thể khẳng định rằng: vận dụng quan
điểm loại thể vào phân tích tác phẩm văn học ở nhà trường là một việc làm
cĩ cơ sở khoa học, cĩ độ tin cậy, phù hợp với nhiều đối tượng HS và đúng
đắn hơn là phù hợp với chủ trương cải cách chương trình hiện nay – sắp
xếp tác phẩm theo nhĩm, cùng thể loại.
Vận dụng quan điểm loại thể vào phân tích tác phẩm văn học vừa giúp
HS cĩ phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học, vừa làm cơ sở cho
HS cảm thụ những tác phẩm ngồi chương trình học.
5. Xuất phát từ quá trình nghiên cứu và thực tế ứng dụng việc vận
dụng quan điểm loại thể vào phân tích tác phẩm văn học ở nhà trường,
chúng tơi xin cĩ một số đề xuất:
Theo xu hướng đổi mới quan điểm dạy học hiện nay, chúng ta phải
nâng cao trình độ nghiệp vụ bằng nhiều hình thức cĩ hiệu quả. Những lớp
bồi dưỡng thường xuyên trong hè cần phát huy được vai trị của nĩ, tạo mọi
điều kiện cho GV tiếp thu những thành tựu chuyên ngành mới, đặc biệt là lí
luận văn học và phương pháp dạy học. Những đợt tập huấn phương pháp
dạy học cho GV nịng cốt cũng cần quan tâm đến chất lượng và hiệc quả
hơn.
Chúng ta đang cải cách chương trình, sắp xếp tác phẩm theo từng thể
loại nên việc bồi dưỡng kiến thức lí luận về loại thể rất cần thiết. Mặt khác,
GV rất cần những chuyên gia đầu ngành biên soạn về vấn đề vận dụng
quan điểm loại thể vào phân tích tác phẩm cụ thể để GV trực tiếp dạy học
cĩ thể tham khảo.
Đổi mới dạy học phải gắn liền với đổi mới kiểm tra, đánh giá. Những
đề kiểm tra trong lớp, những đề thi học kì và đề thi tốt nghiệp khơng phải
đơn thuần là sự tái hiện kiến thức mà địi hỏi cĩ sự sáng tạo. Người chấm
bài cần tơn trọng những ý kiến cá nhân, những phát hiện mới phù hợp với
nội dung, nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm. Như thế, cơng cuộc đổi mới
sẽ ngày càng hồn thiện và phát huy được tác dụng.
Vận dụng quan điểm loại thể vào phân tích tác phẩm văn học ở nhà
trường khơng phải là vấn đề mới mẻ nhưng sự ứng dụng ấy chưa thống
nhất, cịn nhiều vấn đề đang tranh luận. Người viết luận văn chỉ mới bước
đầu thử nghiệm vào dạy tác phẩm cụ thể nên khơng thể tránh khỏi những
hạn chế nhất định. Vì vậy, vấn đề này cần được tiếp tục hồn thiện cả về lí
luận lẫn thực hành.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Quốc Anh – Đỗ Kim Hồi (1996), Dàn bài tập làm văn lớp 12, Nxb
Giáo dục.
2. Nguyễn Đức Ân (1997), Dạy học giảng văn ở trường PTTH, Nxb tổng
hợp Đồng Tháp.
3. Lê Bảo – Hà Minh Đức – Đỗ Kim Hồi, Giảng văn văn học Việt Nam,
Nxb Giáo dục.
4. Bộ giáo dục – đào tạo, Tài liệu hội nghị tập huấn phương pháp dạy
học mơn Văn và Tiếng Việt Trung học phổ thơng.
5. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo
loại thể, Nxb ĐHSP.
6. Trần Thanh Đạm (1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm theo loại thể,
Nxb Giáo dục Hà Nội.
7. Trần Thanh Đạm – Nguyễn Đăng Mạnh - Phương Lựu (1995), Mơn
Văn và Tiếng Việt T2, Bộ giáo dục đào tạo – vụ GV.
8. Đại học quốc gia Hà Nội – Trường viết văn Nguyễn Du – Tạp chí văn
nghệ quân đội, 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng
Tám.
9. Hà Minh Đức, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.
10. Hà Minh Đức, Nhà văn nĩi về tác phẩm, Nxb Giáo dục.
11. Hà Minh Đức (1898), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Giáo dục.
12. N. A. Gulaiep (1982), Văn học Việt Nam hiện đại bình giảng và phân
tích tác phẩm, Nxb Thanh niên.
13. Lê Bá Hán –Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
14. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương, Lí luận văn học những vấn
đề suy nghĩ, Nxb Giáo dục.
15. Hồng Ngọc Hiến, Nhập mơn văn học và phân tích thể loại, Nxb
Đồng Nai.
16. Hồng Ngọc Hiến, Văn học và học văn, Nxb Văn học.
17. Nguyễn Thái Hịa, Những vấn đề về thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục.
18. Nguyễn Trọng Hồn, Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục.
19. Nguyễn Trọng Hồn, Rèn luyện tư duy sáng tạo và dạy học tác phẩm
văn chương, Nxb Giáo dục.
20. Đỗ Kim Hồi – Nguyễn Đức Quyền, Phân tích thơ văn 12, Nxb Giáo
dục.
21. Nguyễn Đức Hùng – Lê Thị Mỹ, Chuyên đề văn học 11-12, Nxb
Thanh niên.
22. Nguyễn Thanh Hùng, Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo dục.
23. Huỳnh Tấn Khánh, Bình giảng văn học THPT lớp 12, Nxb Trẻ.
24. Phùng Ngọc Kiếm, Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 –
1975, Nxb ĐHQG Hà Nội.
25. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở
trường THPT, Nxb Giáo dục.
26. Phan Trọng Luận (1987), Giáo trình phương pháp giảng dạy văn học
T1-T2,Nxb Giáo dục.
27. Phan Trọng Luận, Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong
nhà trường, Nxb Giáo dục.
28. Phan Trọng Luận (1997), Phân tích văn học trong nhà trường, Nxb
Giáo dục.
29. Phan Trọng Luận (1996), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà
trường phổ thơng T1, Nxb Giáo dục.
30. Phan Trọng Luận (1997), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà
trường phổ thơng T2, Nxb Giáo dục.
31. Phan Trọng Luận (1996), Xã hội văn học nhà trường, Nxb ĐHQG Hà
Nội.
32. Phan Trọng Luận – Trương Dĩnh – Nguyễn Thanh Hùng- Trần Thế
Phiệt (1996), Phương pháp dạy văn,Nxb ĐHQG Hà Nội.
33. Chu Văn Long, Giảng văn văn học Việt Nam hiện đại, Nxb ĐHQG Hà
Nội.
34. Nguyễn Văn Long, Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám, Nxb Giáo dục.
35. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo
dục.
36. Nguyễn Văn Long – Chu Văn Sơn, Giảng văn văn học Việt Nam hiện
đại, Nxb ĐHQG Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Long – Nguyễn Đăng Mạnh – Trần Đăng Xuyền, Tư liệu
văn học 12 T1, Nxb Giáo dục.
38. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục.
39. Nguyễn Đăng Mạnh – Lê Lưu Oanh – Nguyễn Quang Trung, Phân
tích bình giảng tác phẩm văn học 12, Nxb Giáo dục.
40. Hồng Như Mai – Nguyễn Đăng Mạnh, Văn học 12 T1, Nxb Giáo dục.
41. Hồng Như Mai – Nguyễn Đăng Mạnh, Sách GV văn học 12 T1, Nxb
Giáo dục.
42. V.A.Nhikơnxki (1978), Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ
thơng T1, Nxb Giáo dục.
43. G.N.Pospelov (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học T2, Nxb Giáo
dục.
44. Nguyễn Huy Quát – Hồng Hữu Bội, Một số vấn đề phương pháp dạy
– học văn trong nhà trường, Nxb Giáo dục.
45. Nguyễn Hữu Quang – Nguyễn Đức Hùng, Chuyên đề bồi dưỡng nâng
cao văn học 12, Nxb TP HCM.
46. Z.Ia.Rez (1983), Phương pháp dạy văn học, Nxb Giáo dục.
47. Trần Đình Sử, Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam -Văn học hiện
đại, Nxb ĐHQG Hà Nội.
48. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục.
49. Trần Đình Sử – Phan Trọng Luận – Nguyễn Minh Thuyết, Sách giáo
khoa làm văn 12, Nxb Giáo dục.
50. Trần Đình Sử – Phan Huy Dũng – Lê Quang Hưng, Thực hành làm
văn 12, Nxb Giáo dục.
51. Trần Đình Sử – Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn
học T2, Nxb Giáo dục.
52. Chu Quang Tiềm (1991), Tâm lí học văn nghệ, Nxb TP HCM.
53. Nguyễn Trí – Nguyễn Trọng Hồn – Đinh Thái Hương, Một số vấn đề
đổi mới phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
54. Phạm Quang Vũ, Những bài văn mẫu tham khảo – ơn thi đại học, Nxb
Trẻ.
55. Trịnh Quang Vũ, Văn chương và phương pháp giảng dạy văn chương,
Nxb ĐHQG TP HCM.
56. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X (2006), Nxb chính trị
quốc gia.
57. Richard Beach, James Marshall (1991), Teaching Literature in the
secondary school - Harcourt Brace Jovanovich, Pcblishers.
PHỤ LỤC
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM ĐỐI CHỨNG
RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành
A. MỤC TIÊU
Giúp HS:
1. Hiểu được tài năng của tác giả trong việc tái hiện lại khơng khí, bối
cảnh và tính cách con người Tây Nguyên trong chiến đấu chống Mỹ –
Ngụy vơ cùng gian khổ. Đĩ là vẻ đẹp, sức mạnh tâm hồn, tư tưởng của con
người Việt Nam thời đại.
2. Hiểu sâu sắc hơn tính sử thi và cảm hứng lãng mạn – một đặc điểm
nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành.
B. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Ổn định.
2. Kiểm tra bài cũ: Phân tích hình tượng con sơng Đà thơ mộng trữ
tình qua cái nhìn tài hoa của Nguyễn Tuân.
3. Bài mới.
HOẠT ĐỘNG 1: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm.
1 Tác giả.
GV: Em hãy nêu những nét chính về tác giả ?
HS: tĩm tắt lại phần giới thiệu trong sách giáo khoa.
- Tên thật là Nguyễn Văn Báu (Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành)
sinh 1932 tại Quảng Nam.
- 1950 gia nhập quân đội, hoạt động ở chiến trường Tây Nguyên. Sau
1954 tập kết ra Bắc.
- 1962 trở lại hoạt động ở Tây Nguyên.
GV: Nguyên nhân nào giúp tác giả thành cơng khi viết tác phẩm Đất
nước đứng lên và Rừng xà nu?
HS: Tác giả gần gũi gắn bĩ với con người dân tộc và núi rừng Tây
Nguyên.
- Trong hai cuộc kháng chiến ơng gắn bĩ mật thiết với chiến trường
Tây Nguyên nên đã thành cơng khi viết về các dân tộc, đồng bào Tây
Nguyên. Ơng là nhà văn của Tây Nguyên.
- Tác phẩm chính: Đất nước đứng lên (1954), Rẻo cao (1961), Trên
quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969).
2. Hồn cảnh sáng tác.
GV: Tác phẩm Rừng xà nu ra đời trong hồn cảnh nào?
HS:
- Tác phẩm ra đời trong mùa hè 1965, đế quốc Mỹ đổ quân ào ạt vào
miền Nam nước ta.
- Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ giải phĩng miền Trung
Trung Bộ (số 2-1965). Sau đĩ in trong tập Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc (1969).
- Đạt giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu (1965).
3. Tĩm tắt.
GV: Gọi HS tĩm tắt theo sự hướng dẫn trước ở nhà.
HS: Cĩ nhiều cách tĩm tắt.
4. Chủ đề.
GV: Gọi sinh phát biểu chủ đề.
HS: Những HS khá cĩ thể làm rõ được chủ đề: tác phẩm là bản anh
hùng ca về cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân Tây Nguyên
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
HOẠT ĐỘNG 2: Phân tích tác phẩm.
1.Hình tượng cây xà nu – rừng xà nu.
a. Cây xà nu được miêu tả xuyên suốt, khơi dịng cảm hứng cho nhà
văn viết tác phẩm.
GV: Tại sao tác giả đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu?
HS: Cĩ nhiều cách lý luận trả lời.
GV: Phần mở đầu và kết thúc tác phẩm cĩ gì đặc biệt?
HS: Mở đầu là một rừng xà nu, kết thúc là rừng xà nu. Kết cấu tương
ứng, tạo cái nền để triển khai câu chuyện về con người. Đây là bức tranh
tập thể làng Xơman, vốn đã đẹp càng trở nên đẹp hơn trong khu rừng xà nu.
b. Cây xà nu gắn bĩ mật thiết với đời sống của dân làng Xơman.
GV: Cây xà nu gắn bĩ với đời sống hằng ngày và cĩ mặt trong sự kiện
trọng đại của dân làng Xơman được thể hiện qua những chi tiết nào?
HS:
- Trong đời sống hằng ngày: Tnú cầm đuốc soi cho Dít giằn gạo; lũ trẻ
mặt lem luốc khĩi xà nu; Tnú và Mai đốt khĩi xà nu xơng bản nứa để học
chữ…
- Trong sự kiện trọng đại: giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm
dầu xà nu; ngọn lửa xà nu soi rõ xác những tên lính bị giết trong đêm
Đồng Khởi.
- Rừng xà nu chứng kiến những đau thương và những chiến cơng bất
khuất của dân làng.
c. Cây xà nu biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất cao đẹp của dân
làng Xơman.
GV: Gọi HS đọc đoạn mở đầu và hỏi: Cây xà nu cĩ đặc điểm gì? Từ
đĩ biểu tượng cho điều gì trong cuộc sống, phẩm chất của con người Tây
Nguyên ?
HS: Đọc diễn cảm để phát hiện ý nghĩa biểu tượng.
- Rừng xà nu chịu nhiều đau thương bởi sự tàn phá của giặc tàn bạo,
dã man cũng như chính dân làng Xơman bị giặc giết hại bởi sự độc ác của
kẻ thù. Đĩ là cái chết của anh Xút, bà Nhan, Mai…
- Cây xà nu cĩ sức sống mãnh liệt, khơng kẻ thù nào cĩ thể tiêu diệt
được cũng như các thế hệ dân làng Xơman kế tiếp nhau trưởng thành trong
khĩi lửa chiến tranh (cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng).
- Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời cũng giống như dân làng yêu tự
do hướng tới ánh sáng của Đảng, cách mạng để giải phĩng dân tộc.
Tiểu kết: tác giả miêu tả hình ảnh rừng xà nu rất sinh động với lối so
sánh, ẩn dụ hợp lý, phong cảnh được chạm khắc cĩ màu sắc, mùi vị…đầy
chất thơ, chất hùng tráng sử thi, tạo ấn tượng đậm nét về thiên nhiên hùng
vĩ và con người Tây Nguyên anh hùng.
2. Hình tượng con người.
a. Nhân vật Tnú.
GV: Tnú nổi bật với những phẩm chất, tính cách gì ngay từ nhỏ đến
khi trưởng thành?
HS: Nêu những chi tiết và khái quát ý nghĩa, làm nổi bật những tính
cách sau: gan gĩc, dũng cảm, mưu trí, gan dạ, trung thực:
- Tnú gan gĩc, dũng cảm, thơng minh, trung thực:
+ Từ nhỏ đi nuơi cán bộ ngồi rừng, rất thạo đường rừng, xé rừng mà
đi, qua sơng chọn chỗ thác mạnh mà bơi.
+ Học chữ thua Mai lấy đá đập vào đầu chảy máu, rồi nén tự ái nhờ
Mai chỉ dẫn.
+ Lớn lên theo anh Quyết lãnh đạo thanh niên cùng cụ Mết chỉ huy
dân làng chuẩn bị khởi nghĩa.
+ Bị giặc tra tấn dã man, bị đốt cả hai bàn tay nhưng anh vẫn khơng
kêu van.
+ Vượt lên bi kịch của bản thân để tiếp tục cầm súng bảo vệ Tổ quốc.
GV: Khi về thăm làng, điều gì làm anh xúc động? Thái độ của anh khi
gặp lại mọi người ra sao?
HS: Tnú nghe âm thanh tiếng chày và vui sướng, xúc động khi gặp lại
mọi người.
- Tnú giàu tình yêu thương vợ con, nặng tình với buơn làng, căm thù
giặc sâu sắc.
+ Yêu thương vợ con tha thiết: khơng kiềm được căm giận khi chứng
kiến kẻ thù tra tấn vợ con, anh nhảy xổ vào kẻ thù, hai con mắt như hai cục
lửa…
+ Nặng tình với buơn làng: sau ba năm xa cách trở về, nỗi xúc động
bồi hồi đĩ là âm thanh của tiếng chày rộn rã mà anh nhớ day dứt, nhớ như
in từng con người của buơn làng.
GV: Hãy nêu thêm những chi tiết khác làm nổi bật tính cách của Tnú.
HS: cơ bản nêu được những ý sau:
- Tính kỷ luật cao: nghe theo sự hướng dẫn của bé Heng, yêu cầu của
chị Dít, về đúng ngày cấp trên cho phép.
- Một lịng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng (tin vào lời nĩi
của cụ Mết: “Đảng cịn núi nước này cịn”; bị tra tấn buộc khai ra Cộng
sản, Tnú chỉ vào bụng “Cộng sản ở đây”…)
Tiểu kết: Tnú là nhân vật anh hùng, người con vinh quang của dân
làng Xơman, tiêu biểu cho số phận và con đường đi lên của buơn làng, tiêu
biểu cho tính cách và phẩm chất của con người Tây Nguyên.
b. Nhân vật cụ Mết.
GV: Tìm chi tiết miêu tả cụ Mết, điều đĩ nĩi lên ý nghĩa gì?
HS: Chú ý biện pháp so sánh trong cách miêu tả:
- Ngoại hình: râu dài tới ngực, mắt sáng, xếch ngược, ngực trần căng
như cây xà nu lớn, tiếng nĩi ồ ồ, dội vang, quắc thước, cứng cỏi.
- Tính cách: trầm tĩnh, sáng suốt, quật cường, bất khuất của dân tộc
(đánh thằng Mỹ phải đánh dài… Chúng nĩ cầm súng, mình phải cầm giáo).
- Là người tổ chức, tập hợp dân làng đồn kết chống giặc, cụ phát
động cuộc nổi dậy hùng tráng của dân làng Xơman.
Tiểu kết: Cụ Mết biểu tượng cho sức mạnh tinh thần cĩ tính truyền
thống và cội nguồn của núi rừng Tây Nguyên, của các dân tộc Tây Nguyên.
c. Nhân vật Dít.
GV: Thuở nhỏ Dít là cơ bé như thế nào? Chị cĩ vị trí gì trong cuộc
chiến đấu hơm nay?
HS: Tìm dẫn chứng và khái quát ý nghĩa: gan dạ, cứng cỏi, bình tĩnh
và kiên quyết nhưng cũng giàu cảm xúc.
- Tính cách gan dạ, cĩ bản lĩnh:
+ Từ nhỏ đi nuơi cán bộ bị giặc bắt, bắn hù dọa nhưng Dít làm thinh,
bình thản, khơng khĩc.
+ Trưởng thành mau lẹ: trở thành người lãnh đạo chiến đấu vững
vàng, kiên quyết, đặt nhiệm vụ lên trên.
- Chị cũng giàu tình cảm, kín đáo: bùi ngùi xúc động khi Tnú ra đi.
Tiểu kết: Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc chiến đấu hơm nay.
d. Nhân vật bé Heng.
GV: Bé Heng xuất hiện cĩ ý nghĩa như thế nào cho trang văn của tác
giả?
HS: Bé Heng là lớp măng non nối tiếp cha anh đánh giặc, hứa hẹn một
sự tiếp nối xứng đáng với thế hệ cha anh.
3. Nghệ thuật.
GV: Em cĩ suy nghĩ gì về kết cấu, cách khắc họa nhân vật và giọng
văn trong tác phẩm Rừng xà nu?
HS: khái quát những ý sau:
- Cách trần thuật và ngơn ngữ kể chuyện của tác phẩm gĩp phần tạo
nên tính chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Khắc họa những nhân vật cá nhân anh hùng được soi rọi bởi tập thể
anh hùng vừa mang dấu ấn thời đại, vừa đậm đà phong cách Tây Nguyên.
- Bố cục theo dịng hồi ức nhân vật tạo tính chân thật cho câu chuyện.
HOẠT ĐỘNG 3: Tổng kết.
Tác phẩm Rừng xà nu là một bài ca mang âm hưởng sử thi hùng
tráng, ghi lại một giai đoạn lịch sử của Tây Nguyên nĩi riêng và dân tộc
Việt Nam nĩi chung trong thời chống Mỹ. Tác phẩm ca ngợi, tự hào về đất
nước và con người Việt Nam thời kỳ bi hùng.
HOẠT ĐỘNG 4:Củng cố, dặn dị.
- Phân tích ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu.
- Làm rõ tính cách Tnú để thấy được anh tiêu biểu cho số phận, tính
cách và phẩm chất của các dân tộc Tây Nguyên.
- Chuẩn bị bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG
Nguyễn Minh Châu
A.MỤC TIÊU
Giúp HS:
1. Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn giàu lý tưởng của thế hệ trẻ Việt
Nam, sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng trong những năm chống Mỹ.
2. Hiểu sâu sắc hơn truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu giai đoạn
trước 1975 với cái nhìn đơn hậu, tin yêu, vượt lên cái hằng ngày hướng đến
cái cao cả trong sáng và nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn.
B. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP
1. Ổn định.
2. Kiểm tra bài cũ: trình bày sự cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm về đất nước khi nhìn những địa danh thắng cảnh.
3. Bài mới.
HOẠT ĐỘNG 1: Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
1. Tác gia.
GV: Hãy nêu vài nét cơ bản về cuộc đời và sáng tác của Nguyễn Minh
Châu? (Nhấn mạnh vài điểm chính về phong cách nghệ thuật và tác phẩm
tiêu biểu).
HS: Dựa vào sách giáo khoa trả lời:
- Nguyễn Minh Châu (1930-1989) quê làng Quỳnh Hải, Quỳnh Lưu,
Nghệ An.
- 1950 gia nhập quân đội, trong kháng chiến chống Mỹ ơng gắn bĩ với
vùng Trị - Thiên.
- 1954 bắt đầu viết truyện ngắn.
- Trước 1975, ơng viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ được bạn đọc
nhất là thanh niên đĩn nhận nồng nhiệt. Tác phẩm giai đoạn này vừa mang
đặc điểm chung của văn học một thời kỳ vừa mang phong cách nghệ thuật
riêng của Nguyễn Minh Châu.
- Sau 1975, từ những năm 1980, ơng là nhà văn đi tiên phong, tìm tịi
đổi mới văn học.
- Được nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật (đợt 2 năm 2000).
- Tác phẩm tiêu biểu: Dấu chân người lính, Miền cháy, Cửa sơng,
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê.
2. Hồn cảnh sáng tác.
GV: Hãy nêu xuất xứ tác phẩm.
HS: Nêu hai ý chính:
- Trích trong tập truyện Những vùng trời khác nhau (1970).
- Viết trong thời kỳ đầu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở
miền Bắc.
3. Tĩm tắt
GV: Gọi HS tĩm tắt (gợi ý: truyện kể gì? Diễn ra trong bối cảnh nào?
Cĩ những nhân vật chính nào?).
HS: Chuẩn bị trước ở nhà.
4. Chủ đề.
GV: Gọi HS phát hiện chủ đề.
HS: Thơng qua nhân vật Nguyệt, nhà văn muốn thể hiện chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam trong cuộc chiến
đấu chống Mỹ, thống nhất đất nước.
HOẠT ĐỘNG 2: Phân tích tác phẩm.
1. Tình huống.
GV: Truyện thành cơng nhờ vào tình huống đặc sắc. Em hãy nêu và lý
giải tình huống đĩ.
HS: Nêu nhận xét của mình với những ý cơ bản sau:
-Tình huống ngẫu nhiên nhưng cách sắp xếp của tác giả tự nhiên
khơng giả tạo.
- Ngẫu nhiên mang tính quy luật: trong chiến tranh cĩ biết bao tình
huống lạ lùng, những cuộc gặp gỡ bất ngờ (nguyên do gặp gỡ, cĩ đến ba cơ
Nguyệt, Lãm cĩ thể hỏi nhưng khơng thể hỏi để cuộc tìm kiếm, gặp gỡ bất
ngờ và vẫn tiếp tục cuộc trốn tìm đĩ).
- Tình huống hấp dẫn lơi cuốn gĩp phần làm nên thành cơng của tác
phẩm, tạo điều kiện thể hiện tư tưởng của tác giả đi tìm những hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người Việt Nam.
2. Nhân vật mang phẩm chất anh hùng.
a. Nhân vật Nguyệt.
GV: Nguyệt được miêu tả như thế nào về ngoại hình? Dụng ý của tác
giả?
HS: Chọn chi tiết tiêu biểu:
- Nguyệt cĩ vẻ đẹp giản dị, tươi mát “như sương núi tỏa ra từ nét
mặt, lời nĩi và tấm thân mảnh dẻ”.
- Vẻ đẹp của sự trẻ trung: giọng nĩi trong trẻo, bình tĩnh, bạo dạn, tự
tin.
- Vẻ đẹp rạng rỡ kỳ lạ và sâu thẳm từ mái tĩc, khuơn mặt.
- Cơ cĩ vẻ đạp thanh khiết, trong sáng, khỏe khoắn đối lập với bối
cảnh của chiến trường ác liệt, ngột ngạt khĩi bom và sự rình rập của cái
chết. Đĩ là sức sống mãnh liệt vượt lên mọi sự tàn phá và hủy diệt của
chiến tranh.
GV: Theo lời chị Tính, Nguyệt là cơ gái như thế nào? Gặp thử thách
Nguyệt thể hiện tính cách ra sao qua thái độ và hành động?
HS: Nguyệt cĩ lý tưởng và khát vọng sống đẹp.
- Trong hịa bình: vừa rời ghế nhà trường cơ xung phong đi xây dựng
miền Tây.
- Trong chiến tranh: giữa bom đạn tàn phá cơ vẫn tham gia rải đá vá
đường giữ cho thơng đường.
- Trong chuyến xe đi cùng Lãm: đêm tối, qua ngầm, đường xấu, máy
bay địch ném bom:
+ Bình tĩnh, tự tin.
+ Chủ động, tháo vát, linh hoạt.
+ Cĩ ý thức trách nhiệm cao.
+ Dũng cảm, cĩ lịng vị tha, giàu đức hy sinh, luơn giành lấy phần
nguy hiểm cho mình. Đĩ là phẩm cách quý báu trong chiến tranh.
GV: Ngồi vẻ đẹp của thái độ và hành động, vẻ đẹp nào của Nguyệt
cịn gây ấn tượng đối với người đọc?
HS: Đọc đoạn văn trong sách giáo khoa trang 235, 236, 246.
- Nguyệt cĩ tình yêu trong sáng, thủy chung: tự nguyện gắn bĩ dù
chưa được ngỏ lời yêu; giữ trọn tình yêu, tin tưởng chờ đợi bất chấp tuổi
xuân và chiến tranh khốc liệt.
- Luơn cĩ niềm tin vào cuộc sống, vào những điều tốt đẹp (nét đẹp kỳ
diệu là tình yêu và niềm tin vào cuộc sống được so sánh với “sợi chỉ xanh
ĩng ánh” thanh mảnh, bền chặt, sáng đẹp, khơng bom đạn hay trở lực nào
cĩ thể làm đứt được).
- Vẻ đẹp của Nguyệt tiêu biểu cho vẻ đẹp của một lớp thanh niên trong
thời kỳ chống Mỹ cứu nước – những con người trẻ trung, yêu cuộc sống
nhưng cũng hết mình vì lý tưởng cách mạng.
b. Nhân vật Lãm.
GV: Em cĩ nhận xét gì về Lãm?
HS: Lãm lớn lên thời đất nước cĩ chiến tranh, sẵn sàng đi đến nơi khĩ
khăn nhất, chấp nhận hy sinh.
- Trốn nhà đi bộ đội.
- Xuất ngũ và tái ngũ, cĩ mặt trên tuyến đường địch bắn phá.
- Dũng cảm, cĩ trách nhiệm cao, quyết bảo vệ xe.
- Lạc quan yêu đời, cĩ tình yêu đẹp, trong sáng.
3. Hình tượng mảnh trăng cuối rừng.
GV: Ý nghĩa biểu tượng của Mảnh trăng cuối rừng? (gợi ý: Mảnh
trăng cuối rừng được miêu tả như thế nào?)
HS: Phát hiện khung cảnh thiên nhiên với khơng gian lung linh huyền
ảo.
- Mảnh trăng cĩ ý nghĩa thực đồng thời cũng mang ý nghĩa biểu
tượng: tên nữ nhân vật chính cũng cĩ nghĩa là trăng, câu chuyện của họ lại
diễn ra trong đêm trăng huyền ảo.
- Khơng phải vầng trăng trịn đầy mà là mảnh trăng ở cuối rừng lúc ẩn,
lúc hiện gợi sự khát khao, tìm kiếm, vươn tới để phát hiện và cảm nhận
được cái đẹp trong chiều sâu vơ tận của tâm hồn con người.
- Trăng là Nguyệt: khác với vẻ đẹp ngoại hình cĩ thể nhận ra ngay, vẻ
đẹp trong tâm hồn cơ mãi đến cuối thiên truyện mới lộ ra trịn đầy “vẻ đẹp
tươi mát, dịu dàng, vừa kỳ ảo lung linh”.
4. Nghệ thuật.
GV: Nghệ thuật kể chuyện cĩ gì đặc biệt? Cĩ ý kiến cho rằng: “Mảnh
trăng cuối rừng là một tác phẩm đầy chất lý tưởng và lãng mạn”, em nghĩ
thế nào?
HS: Chú ý giọng điệu, lối trần thuật, tính cách người kể.
- Lối văn trần thuật qua lời kể của nhân vật đầy xúc động nhưng cũng
hết sức trầm tĩnh và đậm chất suy tư.
- Phép tương phản, sĩng đơi tạo cho hình ảnh nghệ thuật mang ý nghĩa
hàm ẩn, đậm chất trữ tình.
HOẠT ĐỘNG 3: Tổng kết.
- Vẻ đẹp của Nguyệt chính là vẻ đẹp của một thời vừa đầy thử thách
vừa đầy khát vọng lãng mạn.
- Nguyễn Minh Châu cố gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề
sâu của tâm hồn con người.
HOẠT ĐỘNG 4: Củng cố, dặn dị.
- Phân tích tình huống truyện Mảnh trăng cuối rừng.
- Vẻ đẹp của Nguyệt được nhà văn miêu tả như thế nào? Ý nghĩa?
- Đọc kỹ tác phẩm, biết lý giải vẻ đẹp của con người Việt Nam trong
những năm chống Mỹ cứu nước.
- Chuẩn bị bài thơ Sĩng của Xuân Quỳnh.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7358.pdf