Tài liệu Vận dụng phương pháp thống kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2003-2004: ... Ebook Vận dụng phương pháp thống kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2003-2004
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương pháp thống kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2003-2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Vận dụng phương pháp Thống Kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2003-2004.
==========&=========
Lời mở đầu
Trong xu thế hội nhập và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hiệu quả sản xuất kinh doanh là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại, mở rộng và phát triển của mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Với hệ thống thương mại đã phát triển trên toàn cầu, giao lưu hợp tác buộc mỗi đơn vị, mỗi nước phải cạnh tranh với toàn bộ phần còn lại của thế giới. Để tăng cường khả năng cạnh tranh các đơn vị kinh tế luôn phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, làm tốt công tác Marketing và không ngừng hoàn thiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thống Kê được coi là một trong những công cụ sắc bén nhất để nhận thức hiện tượng kinh tế xã hội, vì nó cho phép định lượng các chất, gắn định lượng với định tính, phản ánh hiện thực khách quan, làm cơ sở để cho các quyết định quản lý có căn cứ thực tế và hiệu quả. Quản lý là hoạt động dựa trên sự nhận thức và vận dụng các quy luật thực tế khách quan, Thống Kê có bộ công cụ phong phú để phân tích nhận thức và biểu hiện được bản chất, tính quy luật của hiện tượng làm cơ sở cho việc ra các quyết định quản lý: kiểm kê, kiểm soát.
Muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì luôn phải cập nhật những thông tin về hoạt động sản xuất và tiêu thụ, Thống Kê là một công cụ ưu tú vì vậy không thể thiếu, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Chính vì vậy, sau thời gian thực tập ở Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì, dựa trên những kiến thức Thống Kê đã được học tại trường, đề tài em lựa chọn là “ Vận dụng phương pháp Thống Kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì “
Bài viết gồm 5 phần:
Lời mở đầu
Chương I: Khái niệm, ý nghĩa của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Chương II: Hệ thống chỉ tiêu Thống Kê hiệu quả sản xuất kinh doanh
Chương III: Vận dụng phương pháp Thống Kê phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì trên cơ sở số liệu Thống Kê về hiệu quả và chi phí.
Kết luận
Chương I: Khái niệm, ý nghĩa của hiệu quả sản xuất kinh doanh
I. Khái niệm hiệu quả kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh
1. Khái niệm chung
Hiệu quả kinh tế là một vấn đề quan trọng cả về lý thuyết và thực tiễn. Đảm bảo hiệu quả kinh tế là vấn đề bao trùm thể hiện của chất lượng của toàn bộ công tác quản lý kinh tế vì suy cho cùng quản lý kinh tế là đảm bảo tạo ra kết quả cuối cùng, hiệu quả cuối cùng của mọi quá trình kinh tế. Dự thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đã chỉ rõ “ Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển|”
Các nhà kinh tế và Thống Kê có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả do điều kiện lịch sử và giác độ nghiên cứu từ nhiều phía khác nhau. Nhìn chung hiệu quả được xem xét dưới hai góc độ: hiệu quả sản xuất - kinh doanh và hiệu quả kinh tế
1.1.Khái niệm hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Vào buổi bình minh của kinh tế học, trong đời sống kinh tế chính trị từ 500 năm trước công nguyên các nhà tư tưởng Hy Lạp đã chú ý quan tâm đến hiệu quả, nhưng chủ yếu họ mới chỉ quan tâm đến phạm trù hiệu quả kinh tế:
Theo Xanophon (427-355 trước CN) tính hiệu quả tập trung vào khả năng của con người được hướng dẫn bởi khả năng lãnh đạo tốt như là biến số chính trong việc quản lý. Một nhà quản lý tốt phấn đấu gia tăng kích thước thặng dư kinh tế của bất kỳ đơn vị nào anh ta giám sát, điều này đạt được bằng kỹ năng, và nguyên tắc kinh tế cơ bản nhất là sự phân công lao động. Ông quy sự gia tăng của cả sản lượng và chất lượng sản phẩm vào nguyên tắc phân công lao động.
Theo Plato (427-327 trước CN) Thừa nhận chuyên môn hoá và phân công lao động như nguồn gốc của hiệu quả và năng suất
Theo Aristotle ( 384-322 trước CN) phân phối công bằng tạo ra hiệu quả kinh tế.
Các nhà kinh tế học thời kỳ trung cổ cho rằng hiệu quả kinh tế được tính thông qua các chỉ về kết quả:
A.Smith trong tác phẩm “Tìm kiếm bản chất và nguồn gốc của sự giàu có của các quốc gia” cho rằng hiệu quả được phản ánh thông qua tiền lãi và lợi nhuận, lợi nhuận là tiền lời đối với tư bản hơn là thu nhập của doanh nghiệp. Tiền lãi được xem là đại diện của lợi nhuận, tức là coi hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu và lợi nhuận. Sức lao động của con người trong mỗi quốc gia là nguồn gốc của sự giàu có và là vốn liếng đầu tiên tạo ra mọi của cải cần thiết cho đời sống xã hội. Vì vậy để sản xuất có hiệu quả cần một sự phân công lao động trong các tổ chức, các ngành trong một quốc gia.
Ogiephri ( nhà kinh tế người Pháp) cũng đồng quan điểm như vậy.
Trong bản dự thảo phương pháp tính hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của viện nghiên cứu khoa học thuộc uỷ ban kế hoạch nhà nước Liên Xô cũ đã xem hiệu quả kinh tế là tốc độ tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Như vậy ở đây hiệu quả được đồng nhất với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoạc nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó. Rõ rang các quan điểm này không hợp lý, Kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do chi phí tăng hay mở rộng sử dụng các nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả sản xuất mà có hai mức chi phí khác nhau thì quan điểm này có chung một hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đặc biệt quan trọng, thuộc mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, nó là một chỉ tiêu sản xuất biểu hiện mức độ của tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội, của nền kinh tế quốc dân. Ưu điểm của quan điểm này là gắn kết quả với chi phí, coi kết quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí. Nhưng nhược điểm là chưa rõ ràng, chưa nhất quán và thiếu tính hiện thực ở phương diện xác định và tính toán. Cụ thể là “chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong 1 đơn vị kết quả hữu ích” vì rằng muốn biết mức độ tiết kiệm thì phải có hai phương án để so sánh hoặc phải có định mức, tiêu chuẩn để so sánh. Điều đó chỉ có trong lĩnh vực kế hoạch chọn lọc các phương án sản xuất hoặc dự án đầu tư. Trong Thống Kê, mỗi đối tượng trong một phạm vi thời gian và không gian cụ thể chỉ có một kết quả và một chi phí tương ứng, vì vậy rất khó để biết được mức độ tiết kiệm.
Quan điểm khái niệm hiệu quả kinh tế phải xuất phát từ bản chất và tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế, do vậy khái niệm về hiệu quả kinh tế phải chỉ rõ trình độ sử dụng các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh và nguồn vốn sản xuất, phải chỉ rõ kết quả cuối cùng đối với người lao động, doanh nghiệp và xã hội. Nói cách khác, khái niệm hiệu quả kinh tế phải bộc lộ rõ ràng bản chất của hiệu quả kinh tế, bộc lộ được rõ biểu hiện mặt chất của việc sử dụng các yếu tố chi phí sản xuất cũng như kết quả thu được.
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng: việc xác định bản chất và khái niệm của hiệu quả kinh tế phải xuất phát từ luận điểm của triết học Mark, những luận điểm của lý thuyết hệ thống và lý thuyết Thống Kê:
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế mà xã hội đã đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Kết quả được đem ra so sánh có thể là kết quả ban đầu, kết quả trung gian hay kết quả cuối cùng. Nó có thể là kết quả trực tiếp hay kết quả gián tiếp. Chi phí được chọn để so sánh cũng bao gồm nhiều loại khác nhau: chi phí thường xuyên, chi phí một lần (nguồn lực của nền sản xuất xã hội). Tương ứng các chỉ tiêu hiệu quả và chi phí khác nhau có các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau, có tác dụng phân tích khác nhau.
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống hiệu quả là một phạm trù triết hcọ và kinh tế phản ánh nhu cầu của quy luật kinh tế tiết kiệm thời gian, quy luật nầyhọt động trong nhiều phương thức sản xuất vì vậy phạm trù này cũng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất, ở đâu và lúc nào con người cũng muốn hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Trong nền kinh tế, hiệu quả là mục tiêu không phải cuối cùng mà là mục tiêu phương tiện xuyên xuất mọi hoạt động kinh tế. Trong kế hoạch và quản lý kinh tế nói chung hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu ra và đầu vào, là lợi ích lớn nhất thu được với một chi phí nhất định (hoặc một kết quả nhất định với một chi phí nhỏ nhất)
Trong Thống Kê, hiệu quả kinh tế là các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - kỹ thuật, xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống sản xuất xã hội. Phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực vào việc tạo ra các lợi ích vật chất nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội. Việc đạt tới mục tiêu kinh tế - xã hội (đạt tới hiệu quả mong muốn ) là việc của kế hoạch, của lãnh đạo và quản lý Thống Kê phục vụ cho công cuộc đó bằng sự phản ánh trạng thái của hệ thống mức độ hiệu quả đã đạt được trong quá khứ, ở dạng các thông số kinh tế-kỹ thuật của hệ thống sản xuất xã hội. Nhưng các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - kỹ thuật của hệ thống kinh tế xã hội không phải tất cả đều là chỉ tiêu hiệu quả và việc pảhn ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội vào sản xuất sản phẩm của các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cũng mang tính chất tương đối.
Ở dạng khái quát nhất, hiệu quả là các đặc trưng kinh tế - kỹ thuật xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống. Với nền sản xuất xã hội có thể nói cụ thể hơn ở phương diện Thống Kê: hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của xã hội trong sản xuất thông qua các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế - kỹ thuật được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả đạt được về kinh tế với các chỉ tiêu phản ánh chi phí đã bỏ ra hoặc nguồn sản xuất được huy động vào sản xuất.
1.2. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
Vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh đã được các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu từ những năm 1930, đặc biệt được tập trung nghiên cứu từ những năm 1960 trở lại đây. Có rất nhiều khái niệm được đưa ra:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra, tức là giá trị sử dụng của nó chứ không phải giá trị. Theo quan điểm này, mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội phụ thuộc vào các tác dụng vật chất cụ thể chứ không phải giá trị trừu tượng nào đó. Do đó thường bị lẫn lộn giữa các khái niệm hiệu quả và kết quả kinh doanh, mục tiêu kinh doanh. Kết quả thường phản ánh những cái thu được sau một quá trình sản xuất kinh doanh, kết quả là mục tiêu của doanh nghiệp và có thể được biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hay giá trị. Hiệu quả phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất, nó không thể đo bằng đơn vị hiện vật hay đơn vị giá trị mà là một phạm trù tương đối. Trên phương diện tính toán Thống Kê Chỉ tiêu hiệu quả là một chỉ tiêu tương đối cường độ, phản ánh 1 đơn vị đầu vào tương ứng với bao nhiêu đơn vị đầu ra. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình sản xuất thì hiệu quả là phương tiện để có thể đạt được các mục tiêu đó. Trong nền kinh tế, hiệu quả không phải là mục tiêu cuối cùng mà là mục tiêu phương tiện xuyên xuất trong mọi hoạt động kinh tế. Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa hiệu quả và vai trò của nó. Hiệu quả nói chung hay hiệu quả sản xuất kinh doanh nói riêng có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao mức sống nhân dân, nó là phương tiện để đi đến thoả mãn các mục tiêu cao hơn là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng và sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội, bản thân hiệu quả không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện, phải xác định nó ở dạng công cụ chứ không phải tác dụng cuối cùng của nó.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế được phản ánh qua nhịp độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này chỉ đứng trên phương diện biến động theo thời gian. Hiệu quả sẽ cao khi có nhịp độ tăng các chỉ tiêu đó cao. Tức là một đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế khi các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh tăng theo thời gian, ví dụ Lợi nhuận của doanh nghiệp năm 2005 so với năm 2003 tăng 1.2 lần, tức là doanh nghiệp đó đã sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên quan điểm này không tính đến việc nếu chi phí sản xuất hoặc các nguồn lực được huy động tăng nhanh hơn thì sao? Hơn nữa điều kiện sản xuất năm hiện tại khác năm trước, các yếu tố bên trong và bên ngoài của nền kinh tế có ảnh hưởng khác nhau, việc năm gốc so sánh cũng có ảnh hưởng lớn đến kết quả so sánh. Nếu năm gốc bị mất mùa, thiên tai, cấm vận… kết quả kinh tế đạt được thấp thì năm nghiên cứu có hiệu quả cao, với mỗi năm gốc khác nhau chúng ta có các mức hiệu quả khác nhau của cùng một năm nghiên cứu.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là các chỉ tiêu được xác định bằng tỉ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí, định nghĩa này chỉ đưa ra cách xác lập các chỉ tiêu hiệu quả chứ không toát lên bản chất của vấn đề. Nếu tỉ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí mà kết quả lớn lớn hơn chi phí tức là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức độ tăng kết quả kinh tế, đây là cách hiểu theo biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế và cũng là mục tiêu phấn đấu của tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh là giảm chi phí sản xuất, nâng cao kết quả
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của vốn sản xuất kinh doanh, theo cách hiểu này hiệu quả sản xuất kinh doanh được quy về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó, hay đây chính là hiệu quả cận biên của mỗi đơn vị chi phí ra.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là hiệu quả tài chính của doanh nghiệp: coi hiệu quả sản xuất kinh doanh là hiệu quả tài chính của doanh nghiệp tức là muốn đề cập đến mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Quan điểm này đúng với các nhà đầu tư khi xét hiệu quả các dự án đầu tư nhưng không đúng với các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. Vì hiệu quả tài chính chỉ liên quan đến thu chi có liên quan trực tiếp các nhà đầu tư trong chi phí khai thác hàng năm không xét đến các yếu tố khấu hao tài sản vì giá trị của nó được thể hiện ở chi phí đầu tư, còn đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chi phí khấu hao là một yếu tố chi phí.
Theo P. Samueleson và W.Nordaus cho rằng: “Hiệu quả là 1 mối quan tâm của kinh tế học - có lẽ là mối quan tâm trung tâm duy nhất” Hiệu quả nghĩa là không lãng phí, hiệu quả sản xuất kinh doanh diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một hàng hoá nào mà không cắt giảm sản lượng hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả trên giới hạn khả năng sản xuất của nó. Thực chất của quan điểm này đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực sản xuất xã hội. Trong cách hiểu này, rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và rõ ràng xét trên phương diện lý thuyết thì đây là mức hiệu quả kinh tế cao nhất mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được. Xét trên giác độ lý thuyết hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ có thể đạt được trên đường giới hạn năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Tuy nhiên để đạt mức hiệu quả sản xuất kinh doanh còn rất nhiều điều kiện, trong đó còn đòi hỏi phải dự báo và quyết định sản xuất theo quy mô phù hợp với cầu thị trường.
Giới hạn khả năng sản xuất được đặc trưng bởi chỉ tiêu tổng sản lượng tiềm năng, là mức sản lượng cao nhất có thể đạt được trong một điều kiện công nghệ và lao động nhất định, đôi khi còn gọi là “ sản lượng trong điều kiện có nhiều công ăn việc làm” Tỷ lệ giữa tổng sản lượng thực tế và tổng sẩn lượng tiềm năng là chỉ tiêu hiệu quả. Chỉ tiêu tuyệt đối chênh lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế là phần sản phẩm tiềm năng mà xã hội không sử dụng được, bị lãng phí. Theo quan điểm này hiệu quả thể hiện sự so sánh mức thực tế và mức tối đa về sản lượng, tỷ lệ so sánh đó càng gần 1 càng có hiệu quả, bằng 1 khi 2 mức độ bằng nhau.
Hiệu quả sản xuất còn được xác định theo chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối tức là:
Hiệu quả sản xuất = Kết quả - chi phí
Quan điểm này ít được thừa nhận do người ta cho rằng quan điểm này nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh với mô tả sự chêng lệch kết quả và hao phí nguồn lực. Chênh lệch kết quả - chi phí luôn là số tuyệt đối phản ánh mức độ đạt được một mặt nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả quá trình sản xuất kinh doanh và không bao giờ phản ánh đượ trình độ lợi dụng các nguồn lực.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế, vì vậy cần có một khái niệm bao quát tất cả các mặt và biểu hiện của nó:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, nó là chỉ tiêu tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất kinh doanh với chi phí sản xuất kinh doanh ( hiệu quả dạng thuận), hoặc ngược lại là quan hệ so sánh giữa chi phí sản xuất kinh doanh với kết quả sản xuất kinh doanh (hiệu quả dạng nghịch). Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh dạng thuận còn có thể được gọi là các chỉ tiêu năng suất, dạng nghịch có thể được gọi là suất tiêu hao. Hiệu quả sản xuất kinh doanh biểu hiện sự tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí các nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Phát triển kinh tế theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tăng thêm vốn, bổ xung lao động và kỹ thuật, mở mang nghành nghề, xây dựng thêm nhiều xí nghiệp, tạo ra nhiều mặt hàng mới. Phát triển kinh tế theo chiều sâu là đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tiến nhanh lên hiện đại hoá nâng cao trình độ sử dụng các nguồn lực, trú trọng chất lượng sản phẩm và dịch vụ, phát triển kinh tế theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Như vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
1.3. Phân biệt hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế
Từ các khái niệm trên cho thấy: hiệu quả kinh tế có nội dung rộng hơn, nó không chỉ về kết quả kinh tế mà mà cả kết quả xã hội đạt được tức là hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong khi đó hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế chỉ phản ánh trình độ khai thác nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp, nói cách khác hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ là một bộ phận của hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư, hiệu quả kinh tế là mối quan tâm của toàn xã hội.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xem xét trên quan điểm doanh nghiệp. hiệu quả kinh tế được xem xét theo quan điểm xã hội.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh được xem xét theo quan điểm bộ phận, hiệu quả kinh tế đưcợ xem xét trên quan, điểm tổng thể. Quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế là quan hệ giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể. Một mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn.
2. Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
2.1. Theo tác dụng của hiệu quả sản xuất kinh doanh.
-Hiệu quả kinh tế: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt các mục tiêu kinh tế của các thời kỳ và biểu hiện qua các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: lợi nhuận, giá trị gia tăng…
-Hiệu quả xã hội : phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định, biểu hiện qua số lao động được giải quyết việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện điều kiện lao động, vệ sinh môi trường…
-Hiệu quả an ninh, quốc phòng: sức mạnh kinh tế của một quốc gia góp phần vào làm tăng thêm sức mạnh an ninh quốc phòng.
-Hiệu quả đầu tư: biểu hiện qua các dự án đầu tư hay thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ngoài ra là các kết quả thu được từ các dự án đầu tư, dự án đầu tư tăng thêm…
-Hiệu quả môi trường: các doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh có thể gây ra các tác dụng ảnh hưởng đến môi trường, các ảnh hưởng này có thể là tích cực hay tiêu cực, tuy nhiên nói đến hiệu quả môi trường thường là nhắc đến các ảnh hưởng tích cực của các hoạt động sản xuất kinh doanh, ví dụ như các doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh áp dụng các công nghệ sạch…
2.2. Theo nội dung tính toán:
-Hiệu quả dạng thuận:
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh tế =
Chi phí đầu vào
-Hiệu quả dạng nghịch:
Chi phí đầu vào
Hiệu quả kinh tế = Kết quả đầu ra
2.3. Theo phạm vi tính: có thể chia thành
-Hiệu quả toàn phần (hay hiệu quả đầy đủ): tính chung cho toàn bộ kết quả và toàn bộ chi phí của từng yếu tố hoặc tính chung cho tổng nguồn lực
-Hiệu quả đầu tư tăng thêm( hay cận biên): chỉ tính cho phần đầu tư tăng thêm và kết quả tăng thêm của thời kỳ tính toán.
2.4. Theo hình thái biểu hiện:
-Hiệu quả ẩn: góp phần thực hiện các mục tiêu xã hội
-Hiệu quả hiện: thể hiện qua các chỉ tiêu về kết quả sản xuất kinh doanh
Hiện nay các doanh nghiệp thường mới chỉ tính hiệu quả sản xuất kinh doanh dưới dạng hiện
3. Quan điểm và tiêu chuẩn đánh giá về hiệu quả
Phương diện khái quát, theo quan điểm triết học, tiêu chuẩn là căn cứ cơ bản và chủ yếu để nhận rõ thực tế khách quan, đảm bảo nhận thức chính xác sự vật hoặc hiện tượng nghiên cứu và phân biệt đúng sai. Chúng thường là một chỉ tiêu hoặc một tiêu thức để đánh giá một hệ thống có hoạt động phù hợp với mục tiêu hay không. Tiêu chuẩn theo nghĩa khái quát là tiêu thức (tínhchất, nét đặc trưng) đặc biệt để đánh giá một tiêu thức khác phù hợp với những điều kiện nhất định, hay nó là cái “ngưỡng” là mức căn cứ để kết luận có hiệu quả hay không về một chỉ tiêu hiệu quả đang xét. Ở phương diện kinh tế việc xác định các cột mốc, mức ấy là rất phức tạp, tuỳ thuộc ở phương diện xem xét và quan điểm nhìn nhận của người nghiên cứu, mục đích, bản chất cảu hệ thống kinh tế được xem xét. Trong lĩnh vực kinh tế tiêu chuẩn mang tính chất tương đối, nó co dãn, linh hoạt theo hoàn cảnh khách quan và chủ quan nhất định. Điều đó lý giải cho việc vì sao người ta ít nói đến những con số của tiêu chuẩn hiệu quả lằmcn cứ đánh giá các hoạt động kinh tế. Vì nó mang tính chất định tính nhiều hơn là định lượng. Hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả.
3.1. Bản chất và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế
a. Bản chất của hiệu quả kinh tế - xã hội là nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội, là thực hiện yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, biểu hiện trình độ sử dụng các nguồn lực của xã hội. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển của xã hội loài người nói chung. C. Mark đã cho rằng: hiệu quả hay quy luật tiết kiệm thời gian là một quy luật có tầm quan trọng đặc biệt, tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất, mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật đó, nó quyết định động lực phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát triển văn minh của xã hội và nâng cao đời sống của loài người qua mọi thời đại. Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội là một trong những yêu cầu khách quan của tất cả các hình thái kinh tế.
Để đảm bảo hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội cần đảm bảo sự tồn tại hữu cơ cảu ba loại lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Xã hội quan tâm đến GO, GDP vì vậy tăng GO và GDP là cơ sở để xác định hiệu quả theo quan điểm xã hội. Ngoài ra chúng ta có thể phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội thông qua các chỉ tiêu:
Tăng thu ngân sách: mọi doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có nhiệm vụ nộp thuế cho ngân sách nhà nước dưới nhiều hình thức, nộp thuế là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của mỗi người, mỗi doanh nghiệp: thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế đất, thuế VAT… Nhà nước sử dụng những khoản thu này để chi cho các hoạt động phát triển của nền kinh tế quốc dân và các lĩnh vực phi sản xuất, phân phối lại thu nhập…
Tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho người lao động: ngoài tạo việc làm cho người lao động, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả góp phần nâng cao mức sống cho người lao động. Xét trên giác độ kinh tế việc nâng cao mức sống cho người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như: tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng đầu tư sản xuất, tăng phúc lợi xã hội…
Tái phân phối phúc lợi xã hội: sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế giữa các vùng lãnh thổ và tầng lớp dân cư do các yếu tố chủ quan và khách quan như: địa lý kinh tế, nguồn lực, tài nguyên… là khá phổ biến, hiệu quả kinh tế góp phần xoá bỏ các cách biệt này, phân phối lại lợi ích xã hội
b. Một số nhà kinh tế cho rằng tiêu chuẩn hiệu quả là nội hàm của phạm trù hiệu quả, là biểu hiện bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế. Nói cách khác họ quan niệm tiêu chuẩn hiệu quả đồng nghĩa với nội dung hiệu quả. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế phản ánh ở dạng chung nhất phạm trù hiệu quả kinh tế. Tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế được biểu hiện gián tiếp thông qua một hệ thống chỉ tiêu. Nếu tiêu chuẩn biểu hiện mặt lượng của hiệu quả kinh tế thì hệ thống chỉ tiêu biểu hiện đặc trưng số lượng của hiệu quả kinh tế. Dưới chủ nghĩa xã hội, tiêu chuẩn của hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là tiết kiệm lao động xã hội hay nói khác đi là tăng năng suất lao động xã hội. Theo sự giải thích của Mark: “ Sự tăng lên của sức sản xuất xã hội hay năng suất lao động chúng ta hiểu nói chung là sự thay đổi trong cách thức lao động, một sự thay đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá sao cho một số lượng lao động ít hơn mà lại có được một sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn”. Người còn chỉ rõ: “ năng suất lao động tăng lên biểu hiện ở chỗ phần lao động sống giảm bớt còn phần lao động quá khứ thì tăng lên, nhưng tăng lên như thế nào để cho tổng số lao động chứa trong hàng hoá ấy giảm đi hay nói cách khác lao động sống giảm bớt nhiều hơn là lao động quá khứ tăng lên”
Có quan điểm cho rằng: tiêu chuẩn hiệu quả là hiệu quả tối ưu được xác định bằng phương pháp tối ưu, tức là mức kỳ vọng hướng tới mức tối đa kết quả có thể, tiêu chuẩn hiệu quả là sự chỉ dẫn về tư tưởng trong hoạt động kinh tế, Max về hiệu quả, Min về chi phí mà không chỉ rõ phải là bao nhiêu mới được coi là hiệu quả. Tiêu chuẩn hiệu quả là cái mà người ta mong đợi.
Ở cấp vi mô, các nhà kinh tế tư bản chủ nghĩa và một số nhà kinh tế khác ở các nước chủ nghĩa xã hội coi tiêu chuẩn hiệu quả là tiêu chuẩn lợi nhuận, có lợi nhuận là có hiệu quả, thua lỗ là không có hiệu quả, lợi nhuận càng nhiều hiệu quả càng cao.
Có ý kiến cho rằng tiêu chuẩn hiệu quả là biểu hiện biến đổi phù hợp của động thái các chỉ tiêu kết quả, phải so sánh với năm trước các chỉ tiêu hiệu quả tăng giảm như thế nào, các chỉ tiêu như năng suất lao động, mức tăng kết quả trên 1 đồng chi phí… tăng hơn so với kỳ trước mới là hiệu quả, các chỉ tiêu thuận (sự tăng lên của chúng là hợp quy luật) thì tiêu chuẩn hiệu quả alf xu hướng tăng; các chỉ tiêu nghịch (theo nghĩa sự giảm đi của chúng theo thời gian là hợp quy luật) thì tiêu chuẩn hiệu quả là xu hướng giảm.
Ví dụ:
Chỉ tiêu hiệu quả
Tiêu chuẩn hiệu quả
Mức năng suất lao động bình quân (W)
W ® Max
Hiệu năng của vốn sản xuất (HNV)
HNV ® Max
Mức tiền lương cho 1 đơn vị sản phẩm (TL)
TL ® Min
Tiêu hao vật chất cho 1 đơn vị sản phẩm (NVN)
NVN® Min
Giá thành 1 đơn vị sản phẩm (Z)
Z ® Min
Những xu hướng động thái làm tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu hiệu quả cũng chỉ mang tính chất định tính Max hay Min mà không chỉ rõ được mức độ của xu hướng đó, cần có tăng lên là được, còn cụ thể tăng bao nhiêu phần trăm thì không định trước được. Xu hướng là Min nhưng giảm bao nhiêu thì không cần biết, đó là chưa kể sự xác đĩnhu hướng Max, Min cần có ở trên chưa dựa vào cơ sở phân tích khoa học các quy luật tác động nội tại quá trình sản xuất. Quan điểm về hiệu quả nêu trên sẽ có ích trong việc nhận biết và phân tích hiệu quả nếu tiêu chuẩn hiệu quả đề ra cho từng chỉ tiêu cụ thể có cơ sở khoa học. Nắm được động thái các chỉ tiêu là điều rất quan trọng trong quản lý kinh tế, diễn biến trong quá khứ và hiện tại sẽ giúp ích nhiều cho tương lai
Quan điểm phổ biến trong các nhà kinh tế Đông Âu và Liên Xô cũ cho rằng: Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả nền kinh tế do quy luật kinh tế cơ bản quyết định, tiêu chuẩn hiệu quả phải gắn liền với mục tiêu của phương thức sản xuất.
Trong tất cả các quan điểm đã trình bầy trên thì quan điểm cuối cùng được thừa nhận rộng rãi hơn cả, theo đó tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội là đạt được kết quả kinh tế cao nhất. Hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội cần được tính ở tất cả các phạm vi của hệ thống kinh tế nói chung (xã hội, ngành,doanh nghiệp), hơn thế nữa xã hội còn tồn tại 3 lợi ích (nhà nước, tập thể, người lao động) có mối quan hệ hữu cơ với nhau nên tiêu chuẩn đánh gái hiệu quả kinh tế có niểu hiện khác nhau ở các đối tượng xem xét. Phạm vi xã hội: tăng thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm xã hội; phạm vi ngành: tăng tổng sản lượng và sản lượng thuần tuý; phạm vi doanh nghiệp: tăng lợi nhuận và sản lượng thuần tuý, hai chỉ tiêu này vừa đảm bảo lợi ích doanh nghiệp vừa đảm bảo lợi ích chung.
Đáp ứng yêu cầu theo các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau ở các phạm vi khác nhau, ta có thể chia thành các trường hợp:
Ở kinh tế vi mô, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là mức bình quân tính cho toàn nền kinh tế hoặc ngành về sản lượng kết quả kinh tế thu được ở kết quả đầu ra tính trên 1 đơn vị chi phí đầu vào (chi phí hoặc nguồn)
Trong lĩnh vực kế hoạch, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế để lựa chọn phương án sản xuất hoặc đầu tư là hệ số hiệu quả định mức, thường được xác định bằng mức trung bình hoặc mức trung bình tiên tiến hiện tại đã đạt được. Nếu có nhiều phương án vượt hiệu quả định mức thì tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là phương án tốt nhất, tối ưu theo mục tiêu đã xác định.
Ở kinh tế vĩ mô, tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế là mức sản phẩm cuối cùng bình quân đầu người tăng lên. Mục tiêu của nền sản xuất xã hội là không ngừng thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần thường xuyên tăng lên và sự phát triển tàon diện của mọi thành viên trongxh trên cơ sở phát triển sản xuất. Để đạt mục tiêu đó sản xuất không chỉ tăng lên nói chung mà phải tăng lên tính theo đầu người
Tiêu chuẩn hiệu quả xác định phải vừa có thể định lượng rõ ràng vừa phù hợp với từng lĩnh vực, đối tượng nghiên cứu. Trong kinh tế vi mô, việc xác đ._.ịnh tiêu chuẩn hiệu quả là mức trung bình toàn bộ hoặc từng ngành là tuỳ điều kiện, giữa các ngành có sự khác biệt lớn về trình độ phát triển thì tiêu chuẩn hiệu quả xác định riêng cho từng ngành để đánh giá các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sẽ phù hợp hơn
3.2. Bản chất và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
a. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối liên hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả. Chính việc khan hiếm nguồn lực và sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra vấn đề phải khai thác tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các doanh nghiệp buộc phải trú trọng các điều kiện nội tại, phát huy nguồn lực của các nhân tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Yêu cầu của nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt hiệu quả tối đa với chi phí tối thiểu hay chính xác hơn là hiệu quả tối đa với chi phí nhất định, hoặc kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực đồng thời cũng phải tính đến cả chi phí cơ hội - là chi phí cho giá trị của việc lựa chọn tốt nhất bị bỏ qua hay giá trị của của việc hi sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện công việc kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được hạch toán vào chi phí kế toán, và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy được lợi ích thực sự. Cách tính như vậy sẽ khó khăn cho các nhà kinh doanh lựa chọn phương án tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. Phản ánh một cách toàn diện các khoản chi phí.
Biểu hiện của hiệu quả sản xuất kinh doanh là lợi ích mà thước đo cơ bản của nó là tiền cụ thể hơn là phần lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là mục tiêu cơ bản, số một chi phối toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh.
b. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh: để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh chúng ta có thể đánh giá dưới hai giác độ: đánh giá ở trạng thái tĩnh và đánh giá ở trạng thái động. Tiêu chuẩn đánh gía ở trạng thái động là phương pháp so sánh trị số của các chỉ tiêu hiệu quả tính được theo thời gian. Các ma trận hiệu quả có thể được tính toán trên cơ sở tài liệu Thống Kê về kết quả và chi phí của hai thời kỳ (kỳ báo cáo và kỳ gốc). Từ các ma trận hiệu quả này ta có thể tiến hành lập bảng so sánh trị số của các chỉ tiêu theo từng nhóm (các chỉ tiêu hiệu quả toàn phần, hiệu quả cận biên dạng thuận hoặc dạng nghịch). Nếu kết quả so sánh cho thấy tốc độ phát triển của các chỉ tiêu dạng thuận lớn hơn 100%, còn tốc độ phát triển của các chỉ tiêu dạng nghịch nhỏ hơn 100% phản ánh hiệu quả tăng, còn ngược lại nếu tốc độ phát triển của các chỉ tiêu dạng nghịch lớn hơn 100%, của dạng thuận nhỏ hơn 100% thì hiệu quả giảm. Nguyên nhân cảu hiệu quả tăng (hoặc giảm) là do tốc độ phát triển của các chỉ tiêu kết quả lớn hơn ( hoặc nhỏ hơn) tốc độ phát triển của các chỉ tiêu kết quả hoặc nguồn lực. Ngoài tiêu chuẩn đánh giá theo trạng thái động, chúng ta còn có thể đánh giá theo trạng thái tĩnh. Tiêu chuẩn đánh gía theo trạng thái tĩnh là hệ thống các chỉ tiêu được đặt ra sẵn (các mức nào đó về hiệu quả) dựa vào đó có thể kết luận rằng sản xuất kinh doanh có đạt hiệu quả hay không. Gần đây Chính phủ đã đưa ra 6 tiêu chí đánh giá hiệu quả:
Bảo toàn và phát triển được vốn sản xuất, trích khấu hao TSCĐ theo đúng quy định của chế độ hiện hành’
Kinh doanh có lãi, nộp đủ tiền thu sử dụng vốn và lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: quỹ dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm cho người lao động, đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng…
Trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn ( tức không có nợ quá hạn)
Nộp đủ tiền BHXH, BHYT cho người lao động theo quy định
Nộp đủ các khoản thuế theo luật định
Trả lương cho người lao động tối thiểu phải bằng mức bình quân của các doanh nghiệp trên cùng địa bàn
Chỉ khi nào đạt được 6 tiêu chuẩn trên thì chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh mới có vai trò nổi bật là mức doanh lợi hay tỷ suất lợi nhuận trên vốn mới là chỉ tiêu thực và không tồn tại tình trạng lãi giả lỗ thật. Các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả khi làm ăn thua lỗ từ 2 năm liên tục trở lên mà tổng số luỹ kế nợ khó đòi, các khoản giảm giá tài sản đã chiếm trên 3/4 vốn sản xuất kinh doanh và không có thị trường tiêu thụ ổn định. Như vậy nếu tiêu chuẩn đánh giá dạng động đánh giá hiệu quả thông qua so sánh kết quả và chi phí của hai kỳ khác nhau thì tiêu chuẩn đánh giá dạng tĩnh tức là đánh giá tại một thời điểm nhưng có phạm vi thời gian và không gian rộng hơn, các chỉ tiêu đánh giá không phải là của 1 năm mà phải qua một số năm kinh doanh. Tiêu chuẩn đánh giá dạng tĩnh thể hiện không chỉ mối quan hệ nội bộ ngành mà cả với bên ngoài tức là với Ngân hàng, Tín dụng, Bảo hiểm…
3.3. Quan điểm đánh giá về hiệu quả kinh tế và hiệu quả sản xuất kinh doanh
3.3.1. Hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói riêng là một chỉ tiêu tương đối, thời kỳ. Đó là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp vì vậy có nhiều quan điểm đánh giá về nó:
-Quan điểm 1: là biểu hiện của lượng sản xuất ra hay chính là biểu hiện của kết quả sản xuất: Sản lượng sản phẩm (q) có thể là sản phẩm hiện vật hoặc sản phẩm hiện vật quy chuẩn, Giá trị sản xuất (GO), Giá trị gia tăng (VA), Giá trị gia tăng thuần (NVA), Tổng sản phẩm sản xuất (GDP), Lợi nhuận (M)
-Quan điểm 2: là đại lượng so sánh giữa kết quả đạt được so với chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả sản xuất kinh doanh đó, nói một cách tổng quát hiệu quả sản xuất kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa kết quả của đầu ra so với chi phí của đầu vào. Nó được biểu hiện dưới hai dạng, dạng so sánh tương đối (dạng phân số)
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh tế = ³ 1 hay
Chi phí đầu vào
Chi phí đầu vào
Hiệu quả kinh tế = £ 1
Kết quả đầu ra
Thì hoạt động sản xuất kinh doanh là có hiệu quả
Dạng so sánh tuyệt đối ( dạng hiệu số):
Hiệu quả kinh tế = Kết quả đầu ra – Chi phí đầu vào ³ 0
-Quan điểm 3: Hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh là quan hệ tỉ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí
D kết quả đầu ra Dchi phí đầu vào
Hiệu quả kinh tế = =
Dchi phí đầu vào Dkết quả đầu ra
Hiệu quả kinh tế nếu được hiểu theo quan điểm 2 sẽ tăng trong 5 trường hợp:
Khi kết quả đầu ra tăng, chi phí đầu vào giảm: đổi mới quy trình công nghệ, đào tạo lại tay nghề lao động và làm tốt công tác quản lý…
Khi kết quả đầu ra tăng, chi phí đầu vào không đổi: làm tốt công tác quản lý doanh nghiệp…
Khi kết quả đầu ra tăng, chi phí đầu vào tăng nhưng tốc độ tăng chi phí chậm hơn tốc độ tăng kết quả
Khi kết quả đầu ra không đổi, chi phí đầu vào giảm
Khi kết quả đầu ra giảm, chi phí đầu vào giảm, nhưng tốc độ giảm của kết quả nhỏ hơn tốc độ giảm của chi phí
3.3.2. Hiệu quả xã hội
-Năng suất lao động xã hội: dạng thuận hoặc dạng nghịch
Giá trị gia tăng (VA)
Năng suất lao động xã hội =
Lao động bình quân
Lao động bình quân
Năng suất lao động xã hội =
Giá trị gia tăng (VA)
-Hiệu suất đồng vốn: Chỉ tiêu được tính cho tổng số vốn nói chung và riêng cho vốn cố định đã bỏ ra để có được kết quả sản xuất kinh doanh
Kết quả ( GDP,VA, M)
Hiệu suất đồng vốn =
Tổng vốn
Kết quả ( GDP,VA, M)
=
Vốn cố định ( vốn lưu động)
-Hiệu quả của một đồng chi phí: là hiệu quả đem lại từ một đồng chi phí trung gian.
Kết quả (GDP,VA, M )
Hiệu quả 1 đồng chi phí =
Chi phí trung gian( IC )
-Thu nhập bình quân cho một lao động: là kết quả so sánh tổng thu nhập của người lao động với tổng số lao động trung bình của năm đó
Tổng thu nhập
Thu nhập bình quân cho 1 lao động =
Tổng lao động
-Hệ số ICOR ( Hệ số gia tăng vốn - đầu ra ): là hệ số nói lên vốn sản xuất được tạo ra bằng đầu tư, là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân dân và các công ty là nguồn gốc của đầu tư, hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực của phần đầu tư tăng thêm. Đây là chỉ tiêu khái quát mối quan hệ và tác động qua lại giữa vốn đầu tư với tăng trưởng GDP
Tổng số vốn đầu tư thực hiện trong năm
Hệ số ICOR =
GDP năm nghiên cứu – GDP năm trước đó
-Tỷ lệ lạm phát: Lạm phát là tỷ lệ phần trăm thay đổi liên tục của mặt bằng giá chung theo thời gian (thường là tháng, quý, năm), là quá trình tăng giá liên tiếp chứ không phải tăng giá một lần của nền kinh tế.
-Tỷ lệ động viên tài chính: là tỷ lệ so sánh giữa tổng thu của ngân sách nhà nước từ trong nước so với tổng sản phẩm trong nước(GDP)
-Số lao động được giải quyết việc làm
-Tỷ lệ đóng góp cho nhà nước
-Các công tác xã hội khác…
4. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp.
*Nâng cao hiệu quả kinh tế là nhu cầu cấp thiết hiện nay, do hiệu quả kinh tế bao gồm cả hiệu quả xã hội nên nâng cao hiệu quả kinh tế là một phương tiện để đáp ứng yêu cầu của quản lý kinh tế cơ bản trong phạm vi ngành và đối với toàn bộ xã hội. Nâng cao hiệu quả kinh tế còn là yêu cầu bức xúc để chuyển dịch quá trình tái sản xuất từ mô hình phát triển giản đơn sang mô hình phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Thật vậy không thể thực hiện bước chuyển đổi trên nếu như không có sự tích luỹ, song muốn tích luỹ phải có lao động thặng dư và do đó có giá trị của sản phẩm thặng dư, do đó việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là góp phần tạo ra nguồn tích luỹ cho nội bộ nền kinh tế.
-Nâng cao hiệu quả kinh tế còn là yêu cầu góp phần chuyển từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán theo cơ chế thị trường. Đến lượt nó, cơ chế quản lý kinh tế mới được xác lập và ngày càng hoàn thiện lại có tác động to lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh tế của từng doanh nghiệp, từng ngành và của toàn xã hội.
Việc nâng cao hiệu quả kinh tế còn góp phần làm giảm tốc độ lạm phát, giảm nhịp độ tăng giá, bội chi ngân sách và giảm khó khăn về đời sống
*Như đã nói trên, hHiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, tác động đến sự tồn tại phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tạo ra lợi thế, tăng sức mạnh cạnh tranh. Dựa vào phân tích và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh có thể giúp doanh nghiệp đánh giá được lĩnh vực kinh doanh nào cần mở rộng, lĩnh vực nào cần thu hẹp, lĩnh vực nào kém hiệu quả, nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
-Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là sử dụng hợp lý hơn các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, với chi phí không đổi nhưng tạo ra được nhiều kết quả hơn. Như vậy phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ làm giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh
- Tận dụng và tiết kiệm được các nguồn lực hiện có: Hiệu quả sản xuất gắn với chuyên môn hoá sản xuất và phân công lao động chuyên sâu hơn, khi đó các nguồn lực sẽ được sử dụng hiệu quả hơn cả về nhân lực, tài lực và vật lực.
- Thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, tạo cơ sở cho việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá sản xuất: Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đơn vị sản xuất kinh doanh cần phải áp dụng các phương pháp quản lý mới, các quy trình công nghệ mới, hiện đại và tiên tiến, điều này yêu cầu các đơn vị phải luôn nghiên cứu, tìm hiểu, phát minh và cập nhật các tiến bộ trong sản xuất và kinh doanh. Đơn vị nào tìm ra được phương pháp mới có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, đơn vị đó sẽ giành được lợi thế, thu được nhiều lợi nhuận và tạo ra ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy các đơn vị sản xuất luôn tìm cách nâng cao công nghệ, thúc đẩy tiến bộ khoa học, điều này trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá sản xuất của đơn vị nói riêng và của đất nước nói chung. Dẫn đến thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm làm cho sản xuất kinh doanh phát triển với tốc độ cao.
-Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng đồng nghĩa với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói riêng có tầm quan trọng và đang là 1 vấn đề nóng bỏng, song muốn biến nó thành hiện thực cần phải có một giải pháp toàn diện và đồng bộ cả về kinh tế và chính trị. Sử dụng đồng bộ các biện pháp trong đólấy biện pháp kinh tế và động lực lợi ích kinh tế làm chủ yếu.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
Môi trường kinh doanh là một hệ thống các yếu tố các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức trong nền kinh tế. Các yếu tố này có thể tạo ra cơ hội hoặc thách thức cho các ngành, các doanh nghiệp theo các mức độ khác nhau. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế tổng hợp nên có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến nó, có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thành hai nhóm nhân tố chính là các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp và các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
5.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Các nguồn lực: là các yếu tố cơ bản cần xem xét đánh giá đầu tiên, mục tiêu của doanh nghiệp có đạt được hay không là phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố này:
-Nguồn nhân lực (lực lượng lao động): Lao động trong doanh nghiệp là toàn bộ đội ngũ cán bộ công nhân viên đã ký kết hợp đồng lao động với doanh nghiệp, được ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp và được quản lý, sử dụng sức lao động và trả thù lao theo kết quả hoàn thành công việc được giao trong trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Gồm: lực lượng các nhà quản trị các cấp và lao động ở tất cả các bộ phận. Đối với nhà quản trị, các tiêu chuẩn về nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng quan hệ với con người, kỹ năng tư duy… cần được đánh giá chặt chẽ trong từng thời kỳ để có kế hoạch quản lý phù hợp nhất là các nhà quản trị cấp cao. Đối với lao động, các tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn tay nghề cần kiểm tra phân tích đánh giá qua các kỳ thi nhằm hoạch định kế haọch huấn luyện, nâng cao chất lượng theo thời gian. Thể hiện thông qua trình độ quản lý và trình độ lành nghề của lao động, nNếu một đơn vị có bộ máy quản lý và phương pháp quản lý tốt, lao động có trình độ chuyên môn cao thì sẽ có hiệu quả sản xuất cao. Các chỉ tiêu thể hiện là bậc thợ bình quân, trình độ học vấn của lao động, thâm niên nghề nghiệp… Đây là nhân tố quan trọng liên kết tất cả các nhân tố để có thể đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
Lao động tác động vào hiệu quả sản xuất kinh doanh theo các góc độ: Số lượng, chất lượng, tiền lương và năng suất lao động tác động vàoảnh hưởng đến kết quả đầu ra. Thông qua các hoạt động: trực tiếp điều khiển máy móc thiết bị tạo ra sản phẩm, sáng tạo ra những giải pháp kỹ thuật công nghệ, hoạt động chấp hành nội quy làm việc. Lao độngCác nhà quản trị tác động vào quá trình tổ chức sản xuất thông qua sự tác động quản lý, để có thể quản lý lao động trong sản xuất kinh doanh phải đảm bảo các yêu cầu như nâng cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ công nhân viên, giúp họ có phong cách khoa học và tính kỷ luật cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động …Muốn vậy doanh nghiệp cần phải đưa ra kế hoạch tuyển dụng hợp lý, đào tạo và có sự quan tâm đúng mức đến người lao động, tạo cơ hội thăng tiến, tạo bầu không khí lao động thoải mái để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ( các chế độ về quản lý, ưu đãi, giám sát, kiểm tra sản phẩm…)
Con người là yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định thành công hay thất bại trong mọi hoạt động . Kiểm tra, phân tích đánh giá con người thường xuyên nhằm nâng cao giá trị văn hoá cá nhân và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
-Vốn kinh doanh: Là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được chính các cá nhân và các tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Về bản chất nó là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là điều kiện đầu tiên, tiên quyết, quyết định cho sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Yêu cầu của sử dụng vốn là không ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn được sử dụng trong quá trình sản xuất, tức là làm thế nào để đồng vốn luân chuyển nhanh tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được hình thành từ 2 loại vốn cơ bản là vốn cố định và vốn lưu động. Mức độ huy động sử dụng các loại vốn thể hiện tính chủ động, tính hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được sẽ đánh giá điểm mạnh, yếu về nguồn vốn kinh doanh.
Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ và các khoản đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp, luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành 1 vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tư liệu lao động và đầu tư tài chính ngắn hạn nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên và liên tục
-Công nghệ là nhân tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, công nghệ được hiểu là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất. Theo tiêu chuẩn phát triển của Liên Hợp Quốc - UNIDO công nghệ: “ là việc áp dụng khoa học vào công nghệ bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và sử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp” Ngày nay công nghệ thường là sự kết hợp của các nhân tố: trang thiết bị máy móc, khí cụ nhà xưởng, cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật, thành phần lực lượng lao động như kỹ năng tay nghề, kinh nghiệm của người lao động, tổ chức, bố trí, sắp xếp điều phối, quản lý và thành phần thông tin bao gồm các bí quyết, quy trình, phương pháp, các dữ liệu và các bản thiết kế … Bất kỳ quá trình sản xuất kinh doanh nào đều phải đảm bảo các nhân tố trên, mỗi nhân tố đảm nhiệm một chức năng nhất định, trang thiết bị máy móc, cơ sở vật chất kỹ thuật là xương sống, cốt lõi của quá trình sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động được coi là chìa khoá của hoạt động sản xuất kinh doanh và có nhiệm vụ liên kết các nhân tố, thông tin là cơ sở hướng dẫn hoạt động sản xuất kinh doanh và ra quyết định. Sự kết hợp chặt chẽ của các nhân tố trên là điều kiện cơ bản để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Công nghệ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ hay không là phụ thuộc không nhỏ vào yếu tố công nghệ trong đó bao gồm cả tìm kiếm và chuyển giao công nghệ.
-Vốn kinh doanh: Là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được chính các cá nhân và các tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Về bản chất nó là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là điều kiện đầu tiên, tiên quyết, quyết định cho sự ra đời tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Yêu cầu của sử dụng vốn là không ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn được sử dụng trong quá trình sản xuất, tức là làm thế nào để đồng vốn luân chuyển nhanh tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được tạo ra
-Cơ sở vật chất khoa học kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật: hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, và ngược lại việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng là một trong nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất. Thực tế đã chứng minh bằng các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã giúp cho sức sản xuất của con người trong thế kỷ XX tăng gấp nhiều lần. Cơ sở vật chất càng phát triển càng thuận tiện trong việc áp dụng các phương pháp sản xuất mới. Tiến bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp là hệ thống các cải tiến, đổi mới quy trình công nghệ nâng cao trình độ thành thạo và thích ứng của người lao động với các trang thiết bị kỹ thuật và phương thức sản xuất mới, hoàn thiện cách sử dụng nguyên vật liệu, trang bị các phương tiện quản lý nhằm tăng thêm số lượng và chất lượng sản phẩm, tăng các mặt hàng mới, hạ giá thành sản phẩm, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đồng thời cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt của công nhân viên.
-Hệ thống trao đổi và sử lý thông tin: yêu cầu của công tác quản lý và ra quyết định đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải nắm bắt những thông tin có liên quan một cách chuẩn xác. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay ai nắm được thông tin trước là người chiếm ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy hệ thống thông tin là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên hiệu quả sản xuất. Về phương diện thông tin công khai khi cung cấp, công bố số liệu ra bên ngoài cần phải giữ kín thông tin về phương pháp sản xuất, bí mật công nghệ và bí quyết thương mại, khi cần thiết cũng phải làm công tác tình báo thông tin, tổ chức thu thập các thông tin của đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh việc thu thập thông tin, cần phát triển song song hệ thống sử lý thông tin thật chuẩn xác, thông tin có đầu ra và đầu vào. Có thông tin đầu vào mà sử lý sai thì sẽ cho kết quả sai, vì vậy cần phải tổ chức thật tốt cả hệ thống thu thập và sử lý thông tin.
-Quản lý doanh nghiệp: trình độ và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh được coi là yếu tố quyết định đến sự thành đạt của doanh nghiệp. Cho dù nguồn lực có dồi dào đến đâu chăng nữa mà quản lý yếu kém thì hoạt động sản xuất kinh doanh cũng không có hiệu quả. Thước đo hiệu quả quản lý là việc đưa ra quyết định đúng đắn, cụ thể là xác định đúng quy mô sản xuất kinh doanh phù hợp với đường lối, mục tiêu của doanh nghiệp. Do vậy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không ngừng nâng cao chất lượng của các nhà quản lý để giúp doanh nghiệp đạt được kết quả cao nhất.
5.2. Nhân tố thuộc môi trường bên ngoài.
Bên cạnh các yếu tố bên trong, các yếu tố bên ngoài cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì những nhân tố này không chịu sự quản lý cảu doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có thể dự báo và dựa vào hệ thống thông tin của mình để nắm bắt, từ đó điều khiển các hoạt động theo xu hướng và tác động có lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm đạt hiệu quả cao.
-Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh: để cho hoạt động sản xuất được phát triển, cần có một môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi. Nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay, yêu cầu cần có một môi trường pháp lý thuận lợi và an toàn để có thể khuyến khích các đơn vị và thu hút đầu tư. Môi trường kinh doanh là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước đây, khi nền kinh tế nước ta còn trong cơ chế bao cấp, các đơn vị sản xuất dưới sự bảo hộ của nhà nước, lãi giả lỗ thật đã làm giảm tính hiệu quả của các đơn vị sản xuất, mất tính cạnh tranh. Chính vì vậy trong nền kinh tế thị trường mở hiện nay, để có thể nâng cao hiệu quả cần phải đảm bảo cho môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh trong sạch và thuận lợi, khuyến khích cạnh tranh công bằng. Vì vậy cCần phải tạo ra môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp hoạt động mà vẫn phải đảm bảo tính công bằng, hơn nữa 1 cơ chế chính trị xã hội ổn định, 1 hành lang pháp lý thuận lợi sẽ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Môi trường pháp lý ngày càng phải hoàn thiện hơn nữa để tạo môi trường tốt cho hoạt động của các đơn vị kinh tế như việc ban hành và áp dụng các đạo luật như luật doanh nghiệp, luật đầu tư…đã tạo động lực lớn cho phát triển kinh tế. Nghiên cứu luật để giúp giúp doanh nghiệp và các nhà quản trị thực thi pháp luật, hoạch định kế hoạch và nắm bắt cơ hội từ pháp luật, ngăn chặn và hạn chế nguy cơ từ pháp luật, thiếu hiểu biết về pháp luật có thể làm thiệt hại quyền lợi của doanh nghiệp.
-Chính phủ: là cơ quan hành pháp, hoạt động của chính phủ ảnh hưởng đến các ngành kinh tế và từng doanh nghiệp theo mức độ và chiều hướng khác nhau. Doanh nghiệp cần có thông tin thường xuyên về hạot dộng của chính phủ, nhất là các chính sách nhằm nắm cơ hội hoặc ngăn chặn hạn chế các nguy cơ từ các yếu tố này. Trong chừng mực nhất định doanh nghiệp có thể vận động hành lang đối thoại với chính phủ để tạo cơ hội hay hạn chế nguy cơ nhất thời cho doanh nghiệp.
-Cơ sở hạ tầng: với một hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi, các đơn vị sản xuất kinh doanh có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn. Như việc xây dựng hệ thống giao thông công cộng, các tuyến giao thông đến các khu nguyên liệu, hệ thống thông tin liên lạc…
-Quan hệ quốc tế: Thị trường đóng vai trò quyết định, để có thị trường rộng lớn, các doanh nghiệp phải thắt chặt hơn nữa các mối quan hệ kinh tế quốc tế sẵn có, tham gia vào các liên minh, hiệp hội để nhận được sự ủng hộ của quốc tế đồng thời tìm kiếm thêm các đối tác và thị trường mới.
-Yếu tố chính trị: thể hiện qua thể chế chính trị của mỗi quốc gia, mức độ ổn định hay biến động của thể chế chính trị, động cơ thúc đẩy hoạt động chính trị. Yếu tố chính trị có tác động đến hệ thống pháp luật và hoạt động của chính phủ, thể hiện động cơ chính trị qua các công cụ quản lý nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội theo mức độ khác nhau, ảnh hưởng đến giao bang quốc tế và mở rộng, bó hẹp thị trường buôn bán. Khi quyết định đầu tư sản xuất kinh doanh các nhà quản trị phải hiểu rõ tình hình chính trị của khu vực đầu tư, phát riển thị trường mua bán (đầu tư giúp hạn chế rủi ro và có căn cứ quyết định mua công nghệ mới). Yếu tố chính trị là cơ sỏ tạo ra nền kinh tế ổn định, là cơ sở để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào phát triển doanh nghiệp theo chiều rộng lẫn chiều sâu, tìm cách nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, từ đó hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng được nâng cao.
Yếu tố kinh tế: hệ thống các hoạt động, chỉ tiêu kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành và từng doanh nghiệp theo các mức độ, tốc độ phát triển từng ngành, của nền kinh tế hàng năm, mức thu nhập bình quân đầu người một năm, tỷ lệ lạm phát, lãi suất tín dụng, dân cư thất nghiệp,thu chi ngân sách của nhà nước… có thể ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong nền kinh tế, hoặc tạo ra cơ hội, hoặc tạo ra thách thức. Doanh nghiệp gặp nguy cơ khi nhà nước có kế hoạch tăng mức thu thuế các ngành để bổ xung nguồn thu, có cơ hội khi chi ngân sách có liên quan đến nhành nghề hoạt động, hàng hoá mà các tổ chức nhà nước cần mua…
-Yếu tố khoa học kỹ thuật: trong thập niên vừa qua, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới diễn ra nhanh chóng, công nghệ mới thay thế công nghệ cũ diễn ra liên tiếp, chu kỳ đời sống của sản phẩm ngày càng rut ngắn. Hầu hết tất cả các ngành trong nền kinh tế đều chịu ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kỹ thuật, tuỳ theo đặc điểm của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp mà mức độ ảnh hưởng là nhiều hay ít. Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp: sản phẩm, dịch vụ mới ra đời tạo thị trường mới, thời gian sản xuất tạo ra sản phẩm của máy móc thiết bị ngắn hơn, chất lượng cao hơn, hạn chế ô nhiễm môi trường. Nguy cơ: các sản phẩm hiện tại nhanh chóng lạc hậu, chi phí đầu tư đổi mới gia tăng, con người bị hụt hẫng về khả năng quản lý kỹ thuật (nếu không nâng cao trình độ chuyên môn kịp thời). Do tác động hai mặt trên doanh nghiệp cần có hệ thống thông tin nhạy bén để tận dụng được và ngăn chặn nguy cơ kịp thời, đặc biệt các doanh nghiệp cần quan tâm đúng mức việc tận dụng công nghệ thông tin mới để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường hiện tại và tương lai.
-Yếu tố dân số và địa lý: Ảnh hưởng đến nguồn nhân lực và khách hàng của các doanh nghiệp. Khi quyết định đầu tư, phát triển thị trường các ngành hàng cụ thể, các nhà quản trị, các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các đặc điểm cơ bản về dân số để có cơ sở căn cứ quyết định xây dựng cơ sở sản xuất nơi nào có các nguồn cung cấp lao động dồi dào, kỹ năng, chuyên môn phù hợp và thuận tiện, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần người lao động. Quyết địnhcung cấp các loại, quy mô đặc trưng sản phẩm phù hợp khu vực thị trường, quyết định các hoạt động Marketing phù hợp.
Ngoài ra còn ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác như: Thị hiếu khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp, các tổ chức có liên quan…
Chương II: Hệ thống chỉ tiêu Thống Kê hiệu quả sản xuất kinh doanh
I. Yêu cầu và nguyên tắc xây dựng.
1. Sự cần thiết phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một nhiệm vụ quan trọng bởi vì trong việc phân tích và đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ dựa vào một số các chỉ tiêu riêng rẽ mà cần thiết phải dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu. Hệ thống các chỉ tiêu là một tập hợp các chỉ tiêu có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ xung cho nhau. Thông qua hệ thống chỉ tiêu mới phản ánh được một cách toàn diện các khía cạnh khác nhau, các mặt cơ bản của hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác rút ra được kết luận thống nhất về phương hướng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều quá trình và luôn luôn diễn ra rất phức tạp. Vì vậy để đánh gía tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cần hoàn thiện liên tục hệ thống chỉ tiêu giúp cho việc thu thập thông tin dễ dàng, có độ chính xác cao. Hệ thống chỉ tiêu cần được thay đổi bổ xung về mặt số lượng và cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu quản lý và trình độ hạch toán ở mỗi thời kỳ.
Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phục vụ cho các nhà quản trị doanh nghiệp nắm vững tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, đặc biệt nó rất cần thiết cho việc trợ giúp quá trình ra quyết định tác nghiệp cũng như quyết định chiến lược của lãnh đạo doanh nghiệp. Cụ thể giúp lãnh đạo có căn cứ khoa học để tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là căn cứ đánh giá phân tích tình hình sử dụng các yếu tố của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp (lao động, vốn, vật tư, tài sản…) là căn cứ để lập kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh cả về quy mô và cơ cấu giúp cho các nhà quản lý có những thông tin cần thiết làm căn cứ khoa học để xây đựn._. gian tính theo NVA
0.68
0.65
0.956
Năng suất chi phí trung gian tính theo DT
1.835
1.8
0.981
Tỷ suất lợi nhuận của chi phí trung gian
0.024
0.025
1.041
Nguồn số liệu: Bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính năm 2003-2004 của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Nguồn số liệu: Bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính năm 2003-2004 của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Tình hình sử dụng chi phí trung gian của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì được phản ánh thông qua 5 chỉ tiêu: Năng suất chi phí trung gian tính theo GO, Năng suất chi phí trung gian tính theo VA, Năng suất chi phí trung gian tính theo NVA, Năng suất chi phí trung gian tính theo DT, tỷ suất lợi nhuận của chi phí trung gian. 4 chỉ tiêu đầu: Năng suất chi phí trung gian tính theo GO, Năng suất chi phí trung gian tính theo VA, Năng suất chi phí trung gian tính theo NVA, Năng suất chi phí trung gian tính theo DT có tốc độ phát triển i 1 Là do tốc độ phát triển của lợi nhuận M(1.315) lớn hơn tốc độ phát triển của chi phí trung gian. Như vậy tuy rằng chi phí trung gian bỏ vào sản xuất cho kết quả về GO, VA, NVA, DT nhỏ hơn năm 2003 nhưng lợi nhuận của xí nghiệp may thu được lại lớn hơn.
Hiệu quả sử dụng TSCĐ của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Bảng 5: Hiệu quả sử dụng TSCĐ của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 so với năm 2003
Chỉ tiêu
công thức tính
Đơn vị tính
Kỳ gốc
Kỳ báo cáo
i
(lần)
Năng suất TSCĐ tính theo GO
3.79
4.68
1.23
Năng suất TSCĐ tính theo VA
1.67
2.026
1.21
Năng suất TSCĐ tính theo NVA
1.44
1.73
1.2
Năng suất TSCĐ tính theo DT
3.88
4.79
1.23
Tỷ suất lợi nhuận của TSCĐ
0.053
0.066
1.33
Nguồn số liệu: Bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính năm 2003-2004 của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Tình hình sử dụng TSCĐ của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì được phản ánh thông qua 5 chỉ tiêu: Năng suất TSCĐ tính theo GO, Năng suất TSCĐ tính theo VA, Năng suất TSCĐ tính theo NVA, Năng suất TSCĐ tính theo DT, tỷ suất lợi nhuận của TSCĐ. Cả 5 chỉ tiêu đều có tốc độ phát triển i > 1 phản ánh tình hình sử dụng TSCĐ của xí nghiệp may kỳ báo cáo nhanh hơn kỳ gốc, là do tốc độ phát triển của GO (1.286), VA (1.267), NVA (1.246), DT (1.281), M(1.315) lớn hơn tốc độ phát triển của . TSCĐ K (1.042) Các chỉ tiêu năng suất TSCĐ cho biết cứ 1 tỷ đồng TSCĐ đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được mấy tỷ đồng GO, VA, NVA, DT, M. Cho thấy trong năm 2004 xí nghiệp may đã đầu tư thêm vào mua sắm TSCĐ, khoản đầu tư này làm cho tốc độ tăng của các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh tăng nhanh hơn so với năm 2003, cụ thể cứ 1 tỷ đồng đầu tư vào TSCĐ tạo ra 4.68 tỷ đồng GO, tăng 0.23 lần so với năm 2003 tương ứng với 0.89 tỷ đồng, tương tự như vậy 1 tỷ đồng TSCĐ đầu tư vào sản xuất kinh doanh làm tăng thêm chỉ số về kết quả sản xuất. Tạo ra 0.066 tỷ đồng lợi nhuận, tăng 0.33 lần so với năm 2003 hay tăng 0.008 tỷ đồng.
Hiệu quả Khấu hao TSCĐ của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Bảng 6: Hiệu quả khấu hao TSCĐ của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 so với năm 2003
Chỉ tiêu
công thức tính
Đơn vị tính
Kỳ gốc
Kỳ báo cáo
i
(lần)
Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo GO
17.094
15.666
0.916
Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo VA
7.509
6.78
0.903
Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo NVA
6.509
5.781
0.888
Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo DT
17.586
16.051
0.913
Tỷ suất lợi nhuận khấu hao TSCĐ
0.238
0.223
0.939
Nguồn số liệu: Bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính năm 2003-2004 của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Tình hình sử dụng khấu hao TSCĐ của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì được phản ánh thông qua 5 chỉ tiêu: Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo GO, Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo VA, Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo NVA, Năng suất khấu hao TSCĐ tính theo DT, tỷ suất lợi nhuận khấu hao TSCĐ. Cả 5 chỉ tiêu đều có tốc độ phát triển i < 1 phản ánh tình hình khấu hao TSCĐ của xí nghiệp may kỳ báo cáo chậm hơn kỳ gốc, là do tốc độ phát triển của GO (1.286), VA (1.267), NVA (1.246), DT (1.281) nhỏ hơn tốc độ phát triển của chỉ tiêu khấu hao TSCĐ (1.403) Các chỉ tiêu năng suất khấu hao TSCĐ cho biết cứ 1 tỷ đồng đầu tư mua TSCĐ được khấu hao tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả: GO, VA, NVA, DT, M. Kết quả cho thấy tốc đọ khấu hao TSCĐ của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 chậm hơn so với năm 2003
Hiệu quả sử dụng lao động của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Bảng 7: Hiệu quả sử dụng lao động của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 so với năm 2003
Chỉ tiêu
công thức tính
Đơn vị tính
Kỳ gốc
Kỳ báo cáo
i
(lần)
Năng suất lao động bình quân tính theo GO
0.036
0.044
1.222
Năng suất lao động bình quân tính theo VA
0.016
0.019
1.1875
Năng suất lao động bình quân tính theo NVA
0.014
0.0163
1.164
Năng suất lao động bình quân tính theo DT
0.037
0.045
1.216
Tỷ suất lợi nhuận của lao động bình quân
0.0005
0.0006
1.2
Nguồn số liệu: Bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính năm 2003-2004 của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Hiệu quả sử dụng lao động của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì được phản ánh thông qua 5 chỉ tiêu: Năng suất lao động bình quân tính theo GO, năng suất lao động bình quân tính theo VA, năng suất lao động bình quân tính theo NVA, năng suất lao động bình quân tính theo DT, và tỷ suất lợi nhuận của lao động bình quân. Cả 5 chỉ tiêu này đều có tốc đọ phát triển i > 1 phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 tăng nhanh hơn năm 2003. Do tốc độ phát triển của GO(1.286), VA (1.267), NVA (1.246), DT (1.281), M (1.315) nhanh hơn tốc độ phát triển của số lao động bình quân (1.059), Chỉ tiêu năng suất lao động bình quân cho biết cứ 1 lao động của xí nghiệp may trong một năm tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả sản xuất: GO, VA, NVA, DT, M. Phân tích chỉ tiêu này để có các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như đào tạo nâng cao tay nghề công nhân hay các biện pháp quản lý mới.
Để tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự biến động tỷ suất lợi nhuận của lao động cũng như vai trò, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố ứng với sự biến động đó ta sử dụng phương pháp chỉ số để phân tích biến động của tỷ suất lợi nhuận của lao động do ảnh hưởng của 2 nhân tố: Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định (RVcd) và mức trang bị vốn cố định cho 1 lao động (MVcd)
W = RVcd . MVcd
Theo số liệu bảng 1 ta có:
MVcd =
Vcd
L
MVcd1 = 0.0095; MVcd0 = 0.0096
Theo số liệu của bảng 3 ta có: RVcd1= 0.066; RVcd0 = 0.053
Hệ thống chỉ số:
(lần)
(lần)
(lần)
DRl = 0.0001 = 0.000097 + 0.000003 (tỷ đồng)
Ta thấy rằng: Tỷ suất lợi nhuận của lao động xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 tăng 1.2 lần so với năm 2003 là do ảnh hưởng của 2 nhân tố:
Do tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của xí nghiệp năm 2004 tăng 1.19 lần so với năm 2003 làm tỷ suất lợi nhuận của lao động tăng tương ứng 0.000097 tỷ đồng
Do ảnh hưởng của mức trang bị vốn cố định cho 1 lao động năm 2004 tăng 1.006 lần, làm cho tỷ suất lợi nhuận của lao động tăng thêm 0.000003 tỷ đồng. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn cố định có ảnh hưởng lớn đến tỷ suất lợi nhuận của lao động hơn là mức trang bị vốn cố định cho 1 lao động.
Hiệu quả sử dụng quỹ phân phối lần đầu của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Bảng 8: Hiệu quả sử dụng quỹ phân phối lần đầu của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 so với năm 2003
Chỉ tiêu
công thức tính
Đơn vị tính
Kỳ gốc
Kỳ báo cáo
i
(lần)
Năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo GO
2.723
2.819
1.034
Năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo VA
1.197
1.220
1.019
Năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo NVA
1.038
1.040
1.002
Năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo DT
2.803
2.888
1.0295
Tỷ suất lợi nhuận của quỹ phân phối lần đầu
0.038
0.040
1.059
Nguồn số liệu: Bảng cân đối kế toán và báo cáo tài chính năm 2003-2004 của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Hiệu quả sử dụng quỹ phân phối lần đầu của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì được phản ánh thông qua 5 chỉ tiêu: Năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo GO, năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo VA, năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo NVA, năng suất quỹ phân phối lần đầu tính theo DT, tỷ suất lợi nhuận của quỹ phân phối lần đầu. Kết quả cho thấy cả 5 chỉ tiêu có tốc độ phát triển i > 1 phản ánh tình hình sử dụng quỹ phân phối lần đầu của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 nhanh hơn so với năm 2003 do tốc độ phát triển của GO(1.286), VA(1.267), NVA (1.246), DT (1.281), M(1.315) nhanh hơn tốc độ phát triển của quỹ lương. Đây là điều kiện cần để nâng cao đời sống của công nhân, do điều kiện để tăng mức lương là tốc độ tăng của kết quả sản xuất nhanh hơn tốc độ tăng của lao động và quỹ lương.
3. Phân tích Thống Kê hiệu quả kinh tế tổng hợp của hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Để phân tích hiệu quả kinh tế tổng hợp của hoạt động sản xuất kinh doanh ta phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sau:
-Phân tích nguyên nhân gây biến động hiệu suất sử dụng tổng vốn hay năng suất tổng vốn theo doanh thu (HTV) do ảnh hưởng của 2 nhân tố: Hiệu suất sử dụng vốn cố định hay năng suất vốn cố định theo doanh thu (HVcd) và tỷ trọng vốn cố định trong tổng vốn (dVcd)
HTV= HVcd..dVcd
Từ số liệu bảng 1:
dVcd =
Vcd
TV
Ta có: dVcd1 =0.44; dVcd0 = 0.47
Từ bảng số liệu 3:HVcd1 = 4.769; HVcd0 = 3.893
Hệ thống chỉ số:
(lần)
(lần)
(lần)
DHtv = 0.26 = 0.39 + - 0.13 (tỷ đồng)
Từ kết quả thu được ta nhận thấy rằng: Hiệu suất sử dụng tổng vốn năm 2004 tăng 1.141 lần so với năm 2003 tương ứng với 0.26 tỷ đồng, là do ảnh hưởng của 2 nhân tố:
Do Hiệu suất sử dụng vốn cố định năm 2004 tăng 1.23 lần so với năm 2003 làm cho hiệu suất sử dụng tổng vốn tăng 0.39 tỷ đồng
Do tỷ trọng của vốn cố định trong cơ cấu tổng vốn năm 2004 giảm 0.07 lần làm cho hiệu suất sử dụng tổng vốn giảm 0.13 tỷ đồng. Như vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng tổng vốn cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định, xí nghiệp may Thanh Trì cần đầu tư vào vốn cố định, vì giảm tỷ trọng vốn cố định trong cơ cấu làm cho hiệu quả sử dụng tổng vốn giảm
-Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố: Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định, tỉ trọng vốn cố định trong tổng vốn và tổng vốn bình quân đến sự biến động của lợi nhuận.
M = HVcd.dVcd.TV
Từ số liệu của bảng 3 ta có: HVcd1 = 0.066; HVcd0 = 0.053
Từ số liệu của bảng 1 ta có: dVcd1 = 0.44; dVcd0 = 0.47
= 38.805; = 34.536 (tỷ đồng)
Hệ thống chỉ số:
(lần)
(lần)
(lần)
DM = 0.272 = 0.23 + - 0.062 + 0.104 (tỷ đồng)
Lợi nhuận của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 tăng 1.315 lần so với năm 2003 tương ứng với 0.272 tỷ đồng là do ảnh hưởng của 3 nhân tố:
Do tỷ suất lợi nhuận vốn cố định của xí nghiệp năm 2004 tăng 1.254 lần so với năm 2003 làm cho lợi nhuận tăng tương ứng 0.23 tỷ đồng
Do Tổng vốn của năm 2004 tăng 1.120 lần so với năm 2003 làm cho lợi nhuận tăng 0.104 tỷ đồng
Do tỷ trọng vốn cố định trong tổng vốn giảm làm cho lợi nhuận của xí nghiệp giảm 0.062 tỷđồng
Như vậy do giảm tỷ trọng của vốn cố định trong cơ cấu tổng vốn làm cho tốc độ tăng lợi nhuận của xí nghiệp giảm, để tăng hiệu quả sử dụng tổng vốn và tăng lợi nhuận, xí nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và tăng tỷ trọng vốn cố định trong cơ cấu tổng vốn.
III. Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
1. Phương pháp phân tích ở trạng thái tĩnh.
Phân tích ở trạng thái tĩnh là phương pháp phân tích theo các tiêu chuẩn có sẵn, tại một thời điểm xác định được đưa ra để đánh giá một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hay không. Các chỉ tiêu phân tích tổng hợp và có phạm vi về không gian và thời gian rộng hơn.
Nhằm đẩy mạnh đổi mới và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp trong thời kỳ đổi mới và hoà nhập vào nền kinh tế thị trường, Chính phủ đã đưa ra 6 tiêu chí về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp để phân loại các doanh nghiệp nhà nước. Một doanh nghiệp được coi là kinh doanh có hiệu quả khi đảm bảo được các tiêu chuẩn:
-Bảo toàn và phát triển đượcvốn sản xuất, trích khấu hao TSCĐ theo đúng quy định hiện hành. Theo tiêu chuẩn này xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì đảm bảo đủ tiêu chuẩn là doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, do năm 2003 tổng vốn của xí nghiệp là 34.536 tỷ đồng, năm 2004 tổng vốn kinh doanh của xí nghiệp là 38.805 tỷ đồng tăng 1.124 lần. So với số vốn thành lập khoảng 29 tỷ đồng cho thấy xí nghiệp đã bảo toàn và phát triển có hiệu quả vốn kinh doanh. Các chỉ tiêu như tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu là 0.01934 (năm 2003) 0.019941(năm 2004) cho thấy lợi nhuận của xí nghiệp so với doanh thu tăng. Phương pháp khấu hao TSCĐ của xí nghiệp là phương pháp khấu hao tuyến tính.
-Kinh doanh có lãi, nộp đủ tiền thu sử dụng vốn và thành lập đủ các quỹ doanh nghiệp: dự phòng tài chính, trự cấp mất việc làm cho người la, đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi…Là lá cờ đầu trong ngành dệt may xuất khẩu, xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì năm 2004 có mức lãi là 1.135 tỷ đồng tăng 1.315 lần so với năm 2003, xí nghiệp đã thành lập các quỹ như trợ phòng về trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ quan lý của cấp trên, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Tổng quỹ đến cuối năm 2003 là 1.926 tỷ đồng, cuối năm 2004 là 1.291 tỷ đồng, trong đó năm 2003 giảm 0.194 tỷ đồng cho khen thưởng và phúc lợi, đồng thời tăng 0.877 tỷ đồng cho ccác quỹ phát triển kinh doanh, dự phòng và phúc lợi, khen thưởng. Năm 2004 giảm 0.145 tỷ đồng cho quỹ khen thưởng, phúc lợi, tăng 0.913 tỷ cho các quỹ phát triển kinh doanh, tài chính, khen thưởng…
-Trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn. Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì Năm 2004 tổng các khoản nợ đến cuối kỳ là 22 tỷ, trong đó nợ ngắn hạn là 17 tỷ, dài hạn là 5 tỷ, không có nợ quá hạn. Khả năng thanh toán nợ hiện hành năm 2004 là 0.96 lần, năm 2003 là 1.56 lần, trong đó nợ ngắn hạn năm 2004 là 1.23 lần, năm 2003 là 1.11 lần. khả năng thanh toán nợ dài hạn năm 2004 là 5.35 lần, năm 2003 là 3.66 lần.
-Nộp đầy đủ tiền BHXH, BHYT cho người lao động theo quy định
-Nộp đầy đủ các khoản thuế theo đúng luật định. Tổng thuế phải nộp năm 2004 là 1.5 tỷ, đã nộp 1.61 tỷ do nợ kỳ trước 0.150 tỷ, còn nợ đến cuốikỳ 0.037 tỷ.
-Trả lương cho người lao động tối thiểu bằng mức bình quân của các doanh nghiệp trên cùng địa bàn, hiện nay mức lương bình quân của xí nghiệp là 960.000đồng, là một mức tương đối cao trong địa bàn Thành phố Hà Nội
Như vậy so sánh các kết quả hoạt động của xí nghiệp với các tiêu chuẩn đưa ra ta thấy xí nghiệp may xuất khẩu là một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Mặc dù với cơ cấu kinh tế thị trường ngày càng gay gắt, cùng với quá trình mở cửa, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt, Xí nghiệp đã luôn chú trọng vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, tiến độ giao hàng, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh .
2. Phương pháp phân tích ở trạng thái động
Phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh dưới dạng động là phương pháp so sánh trị số của các chỉ tiêu hiệu quả tính được theo thời gian. Bằng cách sử dụng số tương đối và số tuyệt đối phân tích như trên (Phần II.1) đã phản ánh hiệu quả tăng của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì.
IV. Vận dụng phương pháp Thống Kê phân tích ảnh hưởng của hiệu quả đến kết quả và chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì.
1. Ảnh hưởng của hiệu quả đến kết quả sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhân tố cư bản làm tăng kết quả sản xuất kinh doanh. Mức tăng, giảm của kết quả sản xuất, kinh doanh tỷ lệ thuận với các chỉ tiêu hiệu quả đầy đủ dạng thuận. Có thể sử dụng phương pháp chỉ số nhân tố để phân tích ảnh hưởng của hiệu quả đến kết quả:
Số tương đối:
Số tuyệt đối D KQ(H) = (H1-H0)CP1 = DH.CP1
Nếu Ikq(H) > 100, DKQ(H)> 0 Phản ánh nhờ phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí nên đã làm tăng kết quả sản xuất kinh doanh. Mức tăng, giảm của kết quả sản xuất kinh doanh theo ảnh hưởng đồng bộ của hiệu quả sử dụng yếu tố chi phí và qui mô yếu tố chi phí được xác định thông qua việc phân tích các nhân tố rút ra từ phương trình hiệu quả đầy đủ dạng thuận.
Từ công thức ta có KQ = H.CP
Sử dụng phương pháp chỉ số để phân tích ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận đến Tổng vốn ta có:
=>
IM = %
DM = (H1-H0) = DH. = 10.089 tỷ đồng
Như vậy nhờ việc phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng tổng vốn xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì đã tăng lợi nhuận được 10.089 tỷ đồng.
Tương tự như vậy, chúng ta có thể phân tích ảnh hưởng của hiệu quả sản xuất kinh doanh đến kết quả sản xuất kinh doanh dựa vào mô hình liên hệ với chi phí.
2. Ảnh hưởng của hiệu quả đến chi phí sản xuất kinh doanh
Mức tiết kiệm ( hay lãng phí ) chi phí sản xuất kinh doanh ( chi phí theo nguồn lực và chi phí thường xuyên) tỷ lệ nghịch với các chỉ tiêu hiệu quả đầy đủ dạng nghịch. Nếu chỉ tiêu hiệu quả đầy đủ dạng nghịch càng giảm tới mức tối thiểu cần thiết theo điịnh mức hoặc theo chuẩn mực so sánh thì suất tiêu hao chi phí càng thấp và do đó mức hiệu quả sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh càng cao. Mô hình này cho phép xác định quy mô chi phí tiết kiệm được do giảm suất tiêu hao chi phí:
Số tương đối:
Số tuyệt đối: DCP(H’) = (H’1 – H’0) KQ1 = DH’. KQ1
Nếu ICP(H’) <100, DCP(H’)<0 phản ánh nhờ phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí nên doanh nghiệp đã tiết kiệm được chi phí sản xuất kinh doanh. Phân tích ảnh hưởng của suất tiêu hao lợi nhuận đến tổng vốn ta có
%
D = (H’1 – H’0)M = DH’.M = -0.07.1.135 = -0.079 tỷ đồng.
Như vậy nhờ phán đấu nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí nên xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì đã tiết kiệm được 0.079 tỷ đồng chi phí sản xuất kinh doanh
Xác định theo phương pháp so sánh chi phí có tính đến hệ số điều chỉnh là chỉ số kết quả sản xuất kinh doanh:
Số tương đối:
Số tuyệt đối: DCP = (CP1 – CP0 ).IKQ. = DCP.IKQ
Nếu ICP <100, DCP < 0 Ta thấy rằng nhờ phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng chi phí nên doanh nghiệp đã tiết kiệm được chi phí sản xuất kinh doanh
Phân tích ảnh hưởng của suất tiêu hao lợi nhuận đến tổng vốn ta có:
%
D = ().IM = D.IM = 4.268.1.315 =5.617 tỷ đồng
Như vậy nhờ nâng cao hiệu quả sử dụng tổng vốn bình quân xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì đã tiết kiệm được chi phí sản xuất
Tương tự như vậy, chúng ta có thể phân tích ảnh hưởng của hiệu quả sản xuất kinh doanh đến chi phí sản xuất kinh doanh.
Xem xét các mối quan hệ tương tác giữa hiệu quả, chi phí, kết quả có thể giúp cho doanh nghiệp xem xét các tác động giữa các nhân tố để nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
V. Phương hướng và biện pháp phát huy các măt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì
Hiện nay trong lĩnh vực may mặc có rất nhiều doanh nghiệp lớn và truyền thống lâu năm như Công ty may 10, Công ty may Đức Giang, Công ty May Hồ gươm… đang rất có uy tín trên thị trường kể cả quốc tế và nội địa. Với xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì, một doanh nghiệp còn non trẻ nhưng đã và đang trên đà phát triển mạnh và khẳng định mình, xí nghiệp đã biết phát huy những thế mạnh của mình. Đầu tư thiết bị tiên tiến hiện đại, chú trọng chất lượng sản phẩm. Xây dựngcác hệ thống quản lý về chất lượng, tráchnhiệm xã hội, môi trường. Xí nghiệp đã gây dựng được uy tín trên thương trờng, luôn ký được nhiều đơn hàng, được khách hàng lớn tin cậy và hợp tác lâu dài như khách hàng Gap, Nike, Namkang, Columbia… Có được sự thành công trong cạnh tranh là nhờ có định hướng chiếnn lược trong kinh doanhcủa lãnh đạo xí nghiệp. Xí nghiệp luôn trú trọng mở rộng sản xuất, phát triển nguồn nhân lực cũng như đầu tư chiều sâu trang thiết bị nhằm tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, giảm tuyệt đối sai hỏng trong quá trình gia công nhờ hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Áp dụng các phương pháp của thống kê chất lượng sản phẩm, Thống Kê sản lượng theo giờ do cán bộ điều tra, sử dụng tối ưu nguồn lực vào sản xuất. Mỗi sản phẩm làm xong công đoạn nào đều có bộ phận OTK kiểm tra nhằm giảm thiểu thời gian hao phí và nâng cao chất lượng sản phẩm.Công nhân báo cáo sản lượng hàng ngày, ngoài ra còn có cán bộ chuyền từng giờ cập nhật sản lượng theo từng người và khoán dựa vào dây truỳen sản xuất.
Hiện nay ngoài hai phân xưởng lớn chuyên sản xuất hàng Jacket, Xí nghiệp đã tiến hành đầu tư mở rộng thêm 2 phân xưởng mới chuyên sản xuất hàng dệt kim và hàng dán. Xí nghiệp không chu trọng sản xuất hàng sơmi do mặt hàng này đã có một số doanh nghiệp lớn có tiếng như công ty may 10, Công ty may Việt Tiến … đang rất có uy tín, nhằm giảm sự cạnh tranh. Các mặt hàng hiện nay của xí nghiệp đang sản xuất như hàng dán, dệt kim, là 2 mặt hàng mới có tính chiến lược trong quá trình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Xí nghiệp đã đa dạng hoá loại hình sản phẩm, đáp ứng về sự cạnh tranh về chất lượng, tiến độ, và chủng loại mà thị trường đang cần.
-Để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh trên thương trường Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì đã vạch ra những định hướng và chiến lược kinh doanh nhằm phát huy các mặt lợi thế và giảm các yếu tố tiêu cực. Vì chiến lược trong kinh doanh là một nhân tố quyết định đến thành bại trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Thường xuyên giữ mối quan hệ ổn định với khách hàng truyền thống, duy trì và phát huy những mặt hàng thế mạnh của xí nghiệp
Duy trì tốt hoạt động của phòng xuất nhập khấu- kinh doanh thị trường để tìm kiếm các nguồn hàng mới, đẩy mạnh chào hàng theo giá FOB, phát triển thêm cácthị trường mới và thị trường nội địa.
Đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư thiết bị và nhân lực đáp ứng mọi yêu cầu để xâm nhập vào thị trường Mỹ và một số thị trường mới nhưng rất lớn và tiềm năng, có rất nhiều cơ hội để phát triển sản xuất kinh doanh trong xí nghiệp.
-Nhằm phát triển xí nghiệp ngày càng bền vững và hiệu quả ban giám đốc xí nghiệp đã xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh như sau:
Định ra kế hoạch chiến lược trước mắt và lâu dài
Đặt mục tiêu cho từng giai đoạn và phấn đấu đạt mục tiêu đã được đề ra. Các bước trong qúa trình hoạch định chiến lược được coi trọng bởi quá trình này được thực hiện như một hệ thống vòng lặp khép kín nhằm không ngừng nâng cao và cải thiện ở mỗi bước tuỳ theo đặc thù của công việc mà các thành viên tham gia có khác nhau. Nhưng để xây dựng chiến lược cần có sự quyết tâm của lãnh đạo xí nghiệp và tất cả các phòng ban phân xưởng. Xây dựng chiến lược cần gắn liền với việc hoạch định chất lượng tức là tìm phương thức để đạt mục tiêu đề ra
Với việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, xí nghiệp thực hiện kế hoạch chiến lược theo phương pháp: Plan – Do – check – Action ( lập kế hoạch - thực hiện – Kiểm tra – hành động khắc phục) đó là cơ sở để tiến hành hoạch định các công việc có liên quan đến hệ thống chất lượng. Thời gian cho chiến lược kế hoạch ngắn hạn được giới hạn ở mức quí, dài hạn là xây dựng các kế hoạch 3 năm hay 5 năm, 10 năm.
Để đạt được mục tiêu chiến lược lâu dài, Ban giám đóc xí nghiệp đã đề ra mục tiêu chiến lược từ năm 2004-2008 như sau:
Năm 2004: Xí nghiệp sẽ đi vào ổn định sản xuất, không đầu tư mở rộng sản xuất, trú trọng đầu tư chiều sâu, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân rtăng từ 18 đến 22% , 9 tháng đầu năm xí nghiệp đã đầu tư
STT
Nội dung đầu tư
Số tiền (VND)
1
Mua sắm đầu tư thiết bị máy móc chuyên dung nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
4.122.706.513
2
Thay mới toàn bộ hệ thống đường dây điện cả 4 phân xưởng
318.002.190
3
Đầu tư hệ thống đường ống dẫn nước sạch từ nhà máy nước Pháp Vân về xí nghiệp
188.153636
Xí nghiệp rất trú trọng vấn đề đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho cán bộ công nhân viên, 10 cán bộ kỹ thuật đã được đi học Khoa công nghệ dệt may trường đại học Bách khoa. Toàn bộ kinh phí do xí nghiệp trả
Chăm lo đời sống và ổn định tư tưởng cán bộ công nhân viên yên tâm công tác gắn bó với xí nghiệp
Năm 2005-2006: Xí nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô sản xuất phát triển thêm nhà xưởng thu hút thêm khoảng 800 lao động, tiếp tục đầu tư tb công nghệ mới. Mở rộng và phát triển thị trường nội địa đảy mạnh sản xuất kinh doanh theo phương thức FOB, phấn đấu doanh số theo phương thức này đạt 30% tổng doanh số.
Năm 2007-2008 : Đi vào ổn định sản xuất tiếp tục phát triển thị trường nội địa, phấn đấu kinh doanh FOB đạt 50% tổng sản phẩm sản xuất tại xí nghiệp . Chú trọng đầu tư chiều sâu đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại để nâng cao năng suất chât lượng sản phẩm, quản lý đào tạo nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ CBCNV
Chuẩn bị mọi điều kiện để xâm nhập các thị trường, đáp ứng các yêu cầu cho hội nhập quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO
Tăng cường công tác quản lý chất lượng, kiểm soát tối đa quá trình chuẩn bị sản xuất và sản xuất, sản phẩm đầu ra được đảm bảo thông qua việ kiểm soát chất lượng của các quy trình hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO9000, không để xẩy ra khiếu nại của khách hàng.
Luôn luôn khuyến khích phát huy snag kiến cải tiến kỹ thuật , tổ chức quản lý sản xuất để tăng năng suất chất lượng sản phẩm, tiết kiệm triệt để chi phí sản xuất
Tiếp tục xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý tiên tiến hiện đại như xây dựng hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội SA8000, Hệ thống quản ký môi trường ISO 14000, dự kiến sẽ được cấp chứng nhận vào cuối năm 2004, tiến tới xây dựng hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM
Tập trung đầu tư trú trọng đến nguồn nhân lực của xí nghiệp. Đào tạo đội ngũ quản lý, đào tạo nghiệp vụ và nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ công nhân viên. Chăm lo đời sống vật chất tinh thần và điều kiện làm việc tốt nhất để họ an tâm gắn bó lâu dài với Xí nghiệp và hết long xây dựng Xí nghiệp
Tiếp tục đầu tư chiều sâu, luôn chú ý đầu tư trang thiết bị máy móc mới hiện đại tiên tiến, công nghệ mới hiện đại để đáp ứng yêu cầu sản xuất cải thiện điều kiện lao động của người công nhân, tạo đà cho Xí nghiệp phát triển bền vững. Tiến tới trở thành một trong những đơn vị hàng đầu và có uy tín của Việt Nam trong lĩnh vực may mặc
KẾ HOẠCH CHIẾN LƯỢC 5 NĂM 2004-2008
XÍ NGHIỆP MAY XUẤT KHẨU THANH TRÌ
STT
Chỉ tiêu
ĐV tính
Thực hiện 2003
Mục tiêu
Tốc độ tăng trưởng bình quân
2004
2005
2006
2007
2008
1999-2003
2004-2008
1
Tổng số lao động
Người
1.650
1750
1800
2.500
2.500
2.500
10%
11%
2
Tổng giá trị KN-XK
Triệu USD
15,890
17
18
26
27
27,5
10%
13%
3
Tổng Doanh thu
Tỷ đồng
52,247
57
70
86
93
100
11%
15%
4
Tổng nộp ngân sách
Triệu đồng
380,567
400
500
1.000
1200
1.500
18%
35%
5
Tổng sản lượng sản phẩm
Triệu bộ/ chiếc
2,4
3,0
3,2
5,0
5,5
7,0
18%
25%
6
Thu nhập bình quân
1000đ/ người/ tháng
960
1.100
1200
1.400
1.600
1.700
14%
15%
VI. Kiến nghị
- Với Bộ công nghiệp và Ngành dệt may nói chung:
Phát huy vai trò của Tổng công ty dệt may Việt Nam, hiệp hội các doanh nghiệp Dệt để tổ chức mối liên hệ liên kết kinh tế và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt. Khuyến khích các doanh nghiệp Dệt may đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng (ISO…) nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Tạo môi trường kinh doanh và để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tạo hành lanh pháp lý phù hợp, thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Thiết lập hệ thống thông tin doanh nghiệp và phân tích thị trường. cấp giấy phép xuất khẩu và phân bố hạn ngạch phù hợp
-Với Xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì: cần nâng cao hiệu quả sử dụng lao động và thiết bị, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu và giảm chi phí trung gian. Thiết lập hệ thống quản lý và hỗ trợ thông tin, tìm kiếm thị trường để mở rộng thị trường và sản phẩm. Đầu tư nâng cao tay nghề công nhân viên và bộ máy quản lý xí nghiệp. Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng do chất lượng không tự nhiên sinh ra mà phải được quản lý. Sản xuất kinh doanh ngày càng phức tạp vì vậy quản lý chất lượng cũng ngày càng phức tạp theo. Chất lượng sản phẩm là một bộ phận trong chiến lược cạnh tranh và ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Hiệu quả và chất lượng là 2 vấn đề đi đôi và gắn liền với nhau. Không ngừng nâng cao chất lượng toàn diện của sản phẩm là thực hiện qui luật phát triển văn minh tiêu dùng xã hội.
Kết luận
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù tổng hợp có tác động quan trọng xuyên xuất sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, nghiên cứu, phân tích tìm ra các nhân tố có tác động quyết định đến hiệu quả là nhiệm vụ mà mỗi doanh nghiệp phải thực hiện. Sử dụng các phương pháp phân tích Thống Kê trong phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh và cụ thể trong hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì có thể giúp phân tích, đánh giá hoạt động , tình hình thực hiện kế hoạch của xí nghiệp, đảm bảo cung cấp số liệu cho các nhà lãnh đạo cũng như các cơ quan quản lý làm cơ sở để ra những quyết định đúng đắn và xây dựng chỉ tiêu kế hoạch cho xí nghiệp. Đánh giá tiềm năng, thế mạnh của mỗi đơn vị, các nguồn lực, nhằm phát huy hết khả năng của các nguồn lực và đơn vị. Sử dụng các phương pháp Thống Kê có thể phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố chi phí, kết quả và hiệu quả, ảnh hưởng tương tác với nhau như thế nào để có thể tác động vào các nhân tố nào nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, dự báo các kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên những điều kiện hiện tại vì Thống Kê là nghệ thuật ra các quyết định căn cứ vào độ biến thiên, độ chính xác của các dự báo.
Lời cuối cùng của bài viết em xin chân thành cảm ơn cô giáo Chu Bích Ngọc,các thầy cô trong khoa Thống Kê, Cô Nguyễn Thị Chiến, các cô chú trong xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo em trong quá trình thực tập và hoàn thành bài viết này. Tuy đã có rất nhiều cố gắng và nỗ lực, nhưng bài viết chắc chắn còn nhiều sai sót, kính mong sự sửa chữa và góp ý của thầy cô và các bạn.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Thống Kê Kinh tế-tập 1 NXB Giáo Dục năm 2002
Giáo trình Thống Kê công nghiệp- NXB Thống Kê năm 2004
Giáo trình Lý thuyết Thống Kê – NXB Giáo dục Năm 1998
Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế-NXB Thống Kê năm 2004
Giáo trình Thống Kê chất lượng-NXB Thống Kê năm 1999
Tạp chí Kinh tế và phát triển
Giáo trình Thống Kê doanh nghiệp –NXB Thống Kê năm 2004
8. Luận văn các khoá trước
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36365.doc