Lời nói dầu
Sau gần 20 năm thực hiện đổi mới ,chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung xang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ ngiã ,nền kinh tế nước ta đã có những khởi sắc và đạt được kết quả to lớn ,nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, tốc độ tăng GDP hàng năm thời kỳ 1991 -1995 là 8,18%, thời kỳ 1996 – 2000 là 6,94%, năm 2001 là 6,8% và năm 2002 vừa qua là 7,3%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ , giảm d
106 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1569 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương pháp thống kê để phân tích một số chỉ tiêu kết quả sản Xuất kinh doanh ngành công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1998-2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần tỷ trọng của ngành nông nghiệp. Đóng góp vào những thành tựu to lớn này có vai trò rất quan trọng của ngành công nghiệp. Sự tăng trưởng cao và ổn định của sản xuất công nghiệp trong những năm qua là nhân tố quyết định của sự chuyển dịch cơ cấu chung của nền kinh tế và nội bộ ngành công nghiệp.
Để đạt được mục tiêu từ nay đến năm 2020 cơ bản nước ta chở thành một nước công nghiệp mà Đảng và Nhà nước đặt ra ở đại hội VIII và IX, đòi hỏi phải có sự lỗ lực, cố gắng hết mình của các cấp, các ngành, nhất là ngành công nghiệp . Đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn của ngành công nghiệp.
Thời kỳ 1998-2001 là thời kỳ thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mà đại hội Đảng lần thứ VIII và IX đề ra. Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu thực trạng các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp thời kỳ này là rất cần thiết nhằm đánh giá những khó khăn và thuận lợi của ngành công nghiệp trong quá trình phát triển . Trên cơ sở đó tìm ra giải pháp góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển của ngành công nghiệp nhằm đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Qua thời gian thực tập tại Vụ Công Nghiệp -Tổng Cục Thống Kê , em có thời gian nghiên cứu và tiếp xúc với những số liệu thống kê về tình hình công nghiệp Việt Nam, cộng với lượng kiến thức lý luận đã tích luỹ được tại trường, em chọn đề tài cho chuyên đề thực tập của mình là:
“Vận dụng phương pháp thống kê để phân tích một số chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1998-2001”
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề của em gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp.
Chương II: Xác định hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp.
Chương III: Vận dụng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp thống kê đã đề xuất để phân tích một số chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1998-2001.
chương i : lý luận chung về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp
I.Đặc điểm và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.Khái niệm về công nghiệp.
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất,một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu:khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ ,sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu khác nhau của xã hội ;khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuát và sinh hoạt.
Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó, dưới sự tác động của phân công lao động xã hội. Trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ ,trong nền kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành công nghiệp :khai thác tài nguyen khoáng sản ,động thực vật, các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm và các ngành Công nghiệp dịch vụ sửa chữa .Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của toàn bộ quá trình sản xuất Công nghiệp .tính chất tác động của hoạt động này là cắt đứt các đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên .Chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liệu nguyên thuỷ ,để tạo ra các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng trong sản xuất và tiêu dùng trong sinh hoạt .Quá trình chế biến từ một loại nguyên liệu có thể tạo ra một loại sản phẩm tương ứng ;và cũng có thể một loại sản phẩm nào đó được tạo ra rừ những loại nguyên liệu khác nhau .Sản phẩm trung gian là các sản phẩm được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất Công nghiệp tiếp theo .Sản phẩm cuối cùng là các sản phẩm đã qua khỏi quá trình sản xuất Công nghiệp để đưa vào quá trình sử dụng trong sản xuất hoặc tiêu dùng trong sinh hoạt .Sửa chữa là một hoạt động không thể thiếu được nhằm khôi phục ,kéo dài tuổi thọ của các tư liệu lao động trong các ngành sản xuất và kéo dài thời gian sử dụng của các sản phẩm dùng trong sinh hoạt .Công nghiệp sửa chữa là hình thức có sau so với Công nghiệp khai thác và chế biến .Lúc dầu các hoạt động này được thực hiện ngay trong các ngành Công nghiệp khai thác ,chế biến và trong đời sống sinh hoạt của dân cư , do lực lượng lao động chính trong các ngành và lĩnh vực đó thực hiện .Sau đó ,do sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành sản xuất ,dịch vụ ,do sự phát triển đa dạng hoá của sản phẩm tiêu dùng trong sinh hoạt ,hoạt động sửa chữa đuợc tách thành một ngành chuyên môn hoá thực hiện dịch vụ sửa chữa có tính chất xã hội.
Từ những nội dung trên, ta có thể hiểu Công nghiệp là một ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất ,bao gồm một hệ thống các ngành chuyên môn hoá hẹp ,mỗi ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình thức khác nhau .trên góc độ trình độ kỹ thuật và hình thức tổ chức sản xuất ,Công nghiệp còn được cụ thể hoá bằng các khái niệm như :Công nghiệp và tiểu thủ Công nghiệp ;Công nghiệp lớn và Công nghiệp vừa và nhỏ .
Nguồn nguyên liệ tái sinh
Sản phẩm cuối cùng tiêu dùng trong sản xuất và sinh hoạt
Chế biến lần thứ n
TáI sinh làn thứ n
Nguồn nguyên liệu tái sinh tiềm tàng
Thu hồi và sử lí phế thải
TáI sinh làn thứ 1,2,…
Khai thác tài nguyên
Chế biến lần thứ 1
Chế biến lần thứ 2
Ché biến lần thứ 3,4…,i
sơ đồ quá ttrình khai thác và chế biến sản phẩm Công nghiệp
3.vai trò của ngành công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa,công nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo .vì trong quá trình phát triển nền kinh tế ,công nghiệp là ngành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển các ngành kinh tế khác lên nền sản xuất lớn ,vai trò quan trọng của ngành công nghiệp được thể hiện trên những mặt chủ yếu sau :
-Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp ,công nghiệp có những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học công nghệ ,ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ đó vào sản xuất ,có khả năng và tạo điều kiện sản xuất hoàn thiện .Nhờ đó mà lực lưọng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác .Do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất ,trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến .Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất ,sự hoàn thiện nhanh về các mô hình tổ chức sản xuất đã làm cho công nghiệp có khả năng định hướng cho các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất đi lên nền sản xuất lớn theo hình mẫu, theo kiểu của công nghiệp .
-Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp ,đặc biệt là đặc điểm về công nghệ sản xuất, đặc đIểm về công dụng sản phẩm công nghiệp , công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế , từ đó mà công nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào dể xây dựng các cơ sở vật chất kĩ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật và trình độ trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng vào việc tạo ra thu nhập quốc dân , tích luỹ vốn để phát triển nền kinh tế.Từ đó, công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế - xã hội như: Tạo việc cho lực lượng lao động , xoá bỏ sự cách biệt thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi.
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay, đảng có chủ trương " Tập trung phát triển công nghiệp, coi công nghiệp là ngành mũi nhọn trong quá trình phát triển của nền kinh tế ,công nghiệp đóng vai trò đầu tầu kéo các ngành kinh tế khác cùng phát triển".
2. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp.
Nếu xét trên góc độ tổng hợp các mối quan hệ của con người trong hoạt động sản xuất , thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của hai mặt :Mặt kĩ thuật của sản xuất và mặt kinh tế xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất của xã hội, do sự phân công lao động xã hội, nền kinh tế chia thành nhiều ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp , xây dựng.Song xét trên phương diện tính chất tương tự của công nghệ sản xuất, có thể coi đó là tổng thể của hai ngành cơ bản : nông nghiệp và công nghiệp ,còn các ngành khác có thể là các dạng đặc thù của hai ngành đó. Từ đó ta có thể xem xét đặc điểm sản xuất của công nghiệp với sản xuất của nông nghiệp trên hai mặt: Mặt kĩ thuật của sản xuất và mặt kinh tế xã hội của sản xuất .
2.1. Đặc điểm về mặt kĩ thuật sản xuất của công nghiệp.
-Đặc điểm về công nghệ sản xuất: trong công nghiệp ,chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ ,lý, hoá của con người ,làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người .trong khi đó ,sản xuất nông nghiệp lại bằng phương pháp sinh học là chủ yếu .Nghiên cứu đặc trưng về công nghệ sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ thích ứng với mỗi ngành .trong công nghiệp ngày nay ,phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãI ,đặc biệt là công nghiệp thực phẩm.
- Đặc trưng về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất :các đối tượng lao động của quá trình sản xuất công nghiệp ,sau mỗi chu kỳ sản xuất ,đuợc thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể nà chuyển sang các sản phẩm có công dụng cụ thể hoàn toàn khác .hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau .nghiên cứu đặc điểm này của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thực tiễn rất thiết thực trong việc tổ chức quá trình sản xuất và chế biến ,trong việc khai thác và và sử dụng tổng hợp nguyên liệu .
-Đặc điểm về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội.
Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong các ngành kinh tế. Đặc điểm này cho thấy vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó.
2.2.Đặc điểm kinh tế xã hội của sản xuất.
-Do các đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất nêu trên, trong quá trình phát triển, công nghiệp luôn luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kỹ thuật, tổ chức sản xuất lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao ,nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn .
- Cũng do đặc trưng kỹ thuật sản xuất về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động ,trong công nghiệp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu ,tạo điều kiện tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hoá ở trình độ và tính chất cao hơn nông nghiệp ,và trong quá trình sản xuất công nghiệp đào tạo ra một đội ngũ lao động có tính tổ chức ,tính kỷ luật cao ,có tác phong lao động công nghiệp .Đội ngũ lao động đó trong giai cấp công nhân luôn là bộ phân tien tiến trong cộng đồng đân cư của mỗi quốc gia .
Nghiên cứu các đặc điểm về mặt kinh tế -xã hội của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thiét thực trong tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với các ngành kinh tế của mỗi quốc gia .
II.phân loại các hoạt động sản suất trong ngành công nghiệp .
1.phân loại hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp căn cứ vào công dụng sản phẩm.
Dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm người ta chia công nghiệp thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành sản xuất tư liệụ tiêu dùng .Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B .Vận dụng phương pháp phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào 2 nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ . Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệi sản xuất, đặc biệt là tư liệu lao động, còn ngành công nghiệp nhẹ là tổng hợp các đơn vị sản xuất kinh doanh ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng trong sinh hoạt là chủ yếu .Căn cứ của sự phân loại này là dựa vào phương pháp sản xuất kinh doanh chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm được sản xuất và tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng .
2.phân loại hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành công nghiệp dựa vào đặc trưng kĩ thuật sản xuất.
Dựa vào các đặc trưng kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đơn vị sản xuất kinh doanh thành các ngành công nghiệp chuyên môn hoá.
Ngành công nghiệp chuyên môn hoá là tổng hợp các xí nghiệp sản xuất công nghiệp mà hoạt động chủ yếu của chúng có những đặc trưng kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau.
- Cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự.
-Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại.
-Sản phẩm có công cụ giống nhau hoặc tương tự nhau .
Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong xây dựng các mô hình cơ cấu cân đối liên ngành, đặc biệt đối với loại sản phẩm chủ yếu, quan trọng của công nghiệp ,trong việc lựa chọn các hình thức tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các ngành .
3.phân loại sản xuất công nghiệp dựa vào sự khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã hội và trình độ kỹ thuật của công nghiệp.
Theo phương pháp phân loại này, hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp quốc doanh ,công nghiệp ngoài quốcdoanh ,với các loại hình sở hữu khác nhau ,công nghiệp lớn ,vừa và nhỏ ,thủ công nghiệp và đại công nghiệp.
Các phương pháp phân loại này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức sản xuất và đầu tư vào việc ứng dụng khoa học và vông nghệ trong công nghiệp .
4.phân loại hoạt động sản xuất công nghiệp dựa vào tính chất khác nhau của sự biến đổi đối tượng lao động(hệ thống phân ngành trong bảng
Căn cứ vào tính chất khác nhau của sự biến đổi đối tượng lao động công nghiệp chia thành 3 nhóm ngành.
-Công nghiệp khai thác
-Công nghiệp chế biến
-Sản xuất phân phối điện và khí đốt
Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ cắt đứt đối tượng lao động khỏi môi trường tự nhiên ,tạo thành các loại nguyên liệu nguyên thuỷ .Bao gồm 5 ngành cấp II,10 ngành cấp III và 12 ngành cấp IV.
Công nghiệp chế biến làm thay đổi về chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thuỷ thành các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng .
Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước bao gồm các hoạt động sau:
-Hoạt động sản xuất tập trung truyền tải và phân phối điện để bán cho các đơn vị sản xuất kinh doanh và hộ gia đình.
-Hoạt sản xuất nhiên liệu khí ga và các sản phẩm của ga được chế biến từ khí cacbon của than hoặc trộn lẫn giữa ga chế biến với ga tự nhiên hoặc với xăng ,với các chất khác và phân phối nhiên liệu khí băng hệ thống đương ống dẫn tới các hộ gia đình .
-Hoạt động sản xuất và phân phối nước nóng và hơi nước cho mục đích sưởi ấm làm nhiết năng cho các mục đích khác .
-Hoạt động khai thác ,lọc và phân phối nước cho các hộ gia đình và các cơ sở sản xuất kinh doanh .
Hệ thống phân phân ngành công nghiệp cấp II theo bảng phân ngành năm 1994
MN
ngành
C
công nghiệp khai thác
10
khai thác than cứng, than non, than bùn
11
khai thác dầu thô và khí tự nhiên
12
khai thác quặng uranium và quặng thorium
13
khai thác quặng kim loại
14
khai thác đá và các mỏ khác
D
công nghiệp chế biến
15
sản xuất thực phẩm và đồ uống
16
sản xuất thuốc lá và thuốc lào
17
dệt
18
sản xuất trang phục ,thuốc và nhuộm đặc điểm lông thú
19
sơ chế đặc điểm ,sản xuất va li,túi sách ,giày dép
20
chế biến gỗ và các sản phẩm từ gỗ ,tre nứa
21
sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy
22
xuất bản ,in và sao các bản ghi
23
sản xuất than cốc ,sản phẩm dầu mỏ tinh chế
24
sản xuất hoá chất và các sản phẩm từ hoá chất
25
sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic
26
sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại
27
sản xuất kim loại
28
sản xuất các sản phẩm từ kim loại (từ máy móc thiết bị )
29
sản xuất các máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu
30
sản xuất thiết bị văn phòng và máy tính
31
sản xuất máy móc thiết bị điện
32
sản xuất radio,ti vi ,thiết bị truyền thông
33
sản xuất dụng cụ y tế ,thiết bị chính xác ,dụng cụ quang học đồng hồ
34
sản xuất xe có động cơ cà rơmooc
35
sản xuất phương tiện vận tảI khác
36
sản xuất giường tủ ,bàn ghế và các sản phẩm chưa được phân vào đâu
37
táI chế
E
công nghiệp điện ,ga và nước
40
sản xuất điện ,khí đốt hơi nước và nước nóng
41
khai thác đá và các mỏ khác
Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện cân đối trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, cân đối giữa nguồn nguyên liệu và chế biến nguyên liệu, xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế cân đối giữa khai thác tàI nguyên và chế biến tài nguyên trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
III.những khái niệm cơ bản có liên quan đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp.
1.khái niệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thoả mãn nhu cầu của các đối tượng tiêu dùng không tự làm được hoặc không đủ điều kiện để tự làm được những sản phẩm vật chất và dịch vụ mà mình có nhu cầu .những hoạt động này sáng tạo ra sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ để bán cho người tiêu dùng nhằm thu được tiền công và lợi nhuận kinh doanh.
Khác với hoạt động phi kinh doanh ,hoạt động kinh doanh phải tính được chi phi sản xuất ,kết quả sản xuất và hạch toán được lỗ lãi trong sản xuất kinh doanh .Sản xuất xã hội phát triển không ngừng theo sự phát triển của xã hội loài người .Sản xuất càng phát triển thì sự phân công lao động xã hội càng cao ,sự hợp tác và liên kết trong sản xuất ngày càng mở rộng .Nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay .Hoạt động kinh doanh phải luôn nắm được các thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường .Trong đó có các thông tin về số lượng ,chất lượng ,giá cả sản phẩm ,thông tin về xu hướng biến đổi tiêu dùng sản phẩm của thị trường ,thông tin về kỹ thuật công nghệ gia công chế biến sản phẩm ,về các chính sách kinh tế tài chính ,pháp luật của nhà nước có liên quan đến sản phẩm của doanh nghiệp về phát triển kinh tế xã hội .Hoạt động kinh doanh luôn thúc đẩy mở rộng sản xuất và tiêu dùng xã hội ,tạo đIều kiện cho tích luỹ vốn phát triển sản xuất ,phát triển kinh tế xã hội ,phát triển khoa học kỹ thuật ,mở rộng trao đổi giao lưu hàng hoá ,tạo ra phân công lao động xã hội và các cân bằng cơ cấu kinh tế xã hội .
2.khái niệm về kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp.
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm dịch vụ . Những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và trình độ văn minh của tiêu dùng xã hội .Nó phải được người tiêu dùng chấp nhận .
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thoả mãn các yêu cầu:
-Đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng cụ thể của cá nhân hoặc của cộng đồng.Phải do lao động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm ra có đủ tiêu chuẩn chất lượng mà nhà nước quy định .
-Đảm bảo lợi ích người tiêu dùng và doanh nghiệp .do vậy chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp không vượt quá giới han lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp và người tiêu dùng chấp nhận được sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải mang lại lợi ích kinh tế chung cho tiêu dùng xã hội .
-Sản phẩm vật chất do các ngành sản xuất vật chất của ngành công nghiệp làm ra góp phần làm tăng thêm của cải vật chất cho xã hội .
3.Các nguyên tắc tính kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp.
-Nguyên tắc 1: Nguyên tắc thường trú (tính theo lãnh thổ kinh tế)
Phải tính đầy đủ kết quả sản xuất của các đơn vị ,tổ chức và cá nhân thường trú của Việt Nam có hoạt động công nghiệp trong tất cả các ngành ,các thành phần kinh tế .
-Nguyên tắc 2: Tính theo thời điểm sản xuất .
Kết quả sản xuất của thời kỳ nào thì được tính vào thời kỳ đó ,không được đem kết quả sản xuất của thời kỳ này tính cho thời kỳ khác và ngược lại .nghĩa là khi xác định giá trị sản xuất của ngành công nghiệp ngoài phần sản phẩm và công việc có tính chất công nghiệp hoàn thành và bán ra ngoài trong kỳ còn kể cả chênh lệch sản phẩm dở dang cuối kỳ trừ đầu kỳ ,chênh lệch thành phẩm tồn kho ,nửa thành phẩm .
Tổng giá trị sản xuất và các chỉ tiêu khác của ngành công nghiệp đưcj tính theo phương pháp công xưởng nghĩa là không được tính trùnggt sản xuất của các phân xưởng trong phạm vi một đơn vị sản xuất .
-Nguyên tắc 3:các chỉ tiêu Tổng giá trị sản xuất ,chi phí trung gian ,giá trị tăng thêm và một số chỉ tiêu khác được tính theo hai loại giá :
+Giá thực tế: Giá của người sản xuất công nghiệp bán thực tế trên thị trường và trên sổ sách hạch toán của thời kỳ báo cáo.
+Giá so sánh: là giá thực tế của năm nào đó được chọn làm năm gốc để so sánh, nhằm phản ánh tốc độ và xu thế phát triển của cácchỉ tiêu qua các thời kỳ khác nhau (hiện nay Việt Nam lấy giá năm 1994 làm năm gốc ) .
Nguyên tắc 4:phản ánh toàn bộ giá trị sản phẩm được sản xuất ra
GO = C1+C2+V+M
Trong đó :
C1: khấu hao tài sản cố định
C2: Chi phí trung gian
V: Thu nhập của người lao động
M: Lợi nhuận
Nguyên tắc 5:Bao gồm sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ nói trung .theo nguyên tắc này cần tính vào giá trị sản xuất không chỉ thành phẩm mà cả nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang .Không tính vào giá trị sản xuất của ngành công nghiệp giá trị của các sản phẩm sản xuất phụ (ngoài phần sản xuất chính )do giá trị này đã được tính vào giá trị sản xuất của các ngành khác .
chương II
xác định hệ thống chỉ tiêu và phương pháp thống kê phân tích kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp
I.xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp và phương pháp tính các chỉ tiêu đó.
1.Những vấn đề cơ bản về hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
1.1.khái quát về hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp .
Trong tình hình hiện nay với nền kinh tế mở cửa đòi hỏi hoạt động của các doanh nghiệp trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân phải có những bước chuyển đổi mạnh mẽ đồng thời để phản ánh được những hoạt động sản xuất kinh doanh vốn rất phức tạp ,đa dạng và năng động ở các doanh nghiệp một cách đầy đủ và toàn diện đòi hỏi việc đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phải được đổi mới một cách phù hợp .
Nhìn chung,hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ đều bao gồm nhiều quá trình ,nhiều giai đoạn mới có được sản phẩm hoàn chỉnh đem trao đổi trên thị trường .Vì vậy , để tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ,cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê giúp cho việc thu thập thông tin dễ dàng có tính chính xác cao ,phục vụ tốt các yêu cầu quản lý của doanh nghiệp ,của các ngành của nền kinh tế quốc dân và của nhà nước.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp những chỉ tiêu thống kê ,có thể phản ánh các mặt ,các tính chất quan trọng ,các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của tổng thể và mối liên hệ của tổng thể với các hiện tượng có liên quan .
Hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế mỗi nước được xây dựng phù hợp với yêu cầu của so sánh quốc tế ,tính hiện đại và tính khả thi .Hệ thống chỉ tiêu thống kê có thể thay đổi bổ xung về mặt số lượng và cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu quản lý và trình độ hạch toán ở mỗi thời kỳ .
Đã tồn tại hai hệ thống hạch toán nền kinh tế quốc dân khác nhau (hệ thống sản xuất vật chất -MPS và hệ thống tài khoản quốc gia -SNA).Cả hai hệ thống thông tin kinh tế xã hội này đều có cùng mục đích phản ánh quá trình tái sản xuất xã hội của mỗi quốc gia .Trên cơ sở thu thập ,xử lý và tổng hợp thông tin trên tầm vĩ mô để tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhằm phản ánh điều kiện sản xuất ,kết quả sản xuất ,quá trình phân phối thu nhập ,mối quan hệ giữa các ngành kinh tế trong quá trình sản xuất và sử dụng cuối cùng kết quả sản xuất của nền kinh tế quốc dân .Vì vậy ,áp dụng hệ thống nào là phụ thuộc vào trình độ hạch toán ở quốc gia đó tuỳ thuộc vào từng thời kỳ .ở Việt Nam từ 1/1/1993 về trước để đo kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp thống kê dựa vào hệ thống sản xuất vật chất (MPS)là hệ thống các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất của các nước xã hội chủ nghĩa thống nhất sử dụng .Chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ,mở rộng hợp tác giao lưu kinh tế với nước ngoài ,nền kinh tế dần hội nhập vào nền kinh tế thế giói ,đòi hỏi ngành thống kê Việt Nam phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp và tính toán theo thông lệ quốc tế .Ngày 25/12/1992,thủ tướng chính phủ ra quyết định số :183-TTg về việc Việt Nam chính thức áp dụng SNAvà tính chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội trong phạm vi cả nước ,tỉnh ,thành phố trực thuộc trung ương thay cho MPS và chỉ tiêu thu nhập quốc dân đã thực hiện trong thơì gian trước đây.
Sự khác biệt cơ bản của hai hệ thống ở chỗ:
-Về cơ sở lý luận:
+Hệ thống MPS xây dựng chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là xuất phát từ quan điểm của Các Mác cho rằng chỉ có các ngành sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư .
+Hệ thống SNA được xây dựng trên cơ sở các học thuyết kinh tế của Adam Smith và Ricacdo, cho rằng tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ đều tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
-Về phạm vi: ở đây có sự khác biệt trên 2 lĩnh vực.
+Về sự khác biệt thứ nhất: Hệ thống MPS không xem xét tới việc ai là người đầu tư vốn, lao động ...Cho doanh nghiệp hoặc quốc gia .Hệ thống SNA đòi hỏi phải xem xét tới phạm vi địa lý và chủ đầu tư các nhân tố cho sản xuất và dịch vụ .
+Về sự khác biệt thứ 2 : Hệ thống MPS chỉ tính toán cho các ngành sản xuất vật chất ,còn hệ thống SNA tính toán cho tất cả các ngành sản xuất và phi sản xuất miễn là các hoạt động đó mang lại thu nhập.
Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) có những chỉ tiêu được sử dụng để đo lường đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như: Giá trị sản xuất (GO), giá trị tăng thêm (VA), giá trị tăng thêm thuần (NVA),lợi nhuận doanh nghiệp...
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo SNA để áp dụng cho các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt Nam là cần thiết và khách quan, có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quản lý ,điều hành hoạt động của các doanh nghiệp ,đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế đất nước trong cơ chế mới cũng như yêu cầu hoà nhập với công tác thống kê của thế giới.
Việc xây dựng và tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tác dụng vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý của các doanh nghiệp, các bộ , ngành và của Đảng ,nhà nước .
1.2.Yêu cầu và nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp .
1.2.1.Yêu cầu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh không chỉ đơn thuần là nêu ra những chỉ tiêu nào đó trong hệ thống ,mà quan trọng là phải đảm bảo có thể thu thập được nguồn thông tin để tính toán các chỉ tiêu một cách đầy đủ .Vì vậy để xây dựng hệ thống chỉ tiêu khoa học và hợp lý ,nội dung thông tin được phản ánh trong hệ thống các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đáp ưngs các yêu cầu sau :
-Phản ánh tính quy luật ,xu thế phát triển và trình độ phổ biến của các hiện tượng kinh tế diễn ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể .
Về không gian ,là toàn bộcác hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên quan tới doanh nghiệp .Về thời gian thường là tháng quý năm hoặc thời kỳ nhiều năm để có thể phản ánh được tính quy luật ,tính hệ thống của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
- Đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp ngày càng đổi mới phát triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng ,yêu cầu so sánh thống kê và mở rộng hợp tác quốc tế ,yêu cầu lưu trữ số liệu thống kê .
- Số liệu thu thập được qua hệ thống chỉ tiêu cho phép vận dụng được các phương pháp thống kê hiện đại và phương pháp toán học để nghiên cứu và phân tích toàn diện,sâu sắc tình hình và quá trình phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ,cho phép dự đoán xu thế phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh .
- Đảm bảo hiện đại hoá nhu cầu thông tin trong việc quản lý và sử lý thông tin phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.2.2.Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê.
Muốn đáp ứng được nhu cầu trên ,khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh phải được quy định thống nhất, có hướng dẫn cho các doanh nghiệp của tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân về phương pháp tính toán đảm bảo các yêu cầu sau :
+ Nội dung tính toán phải thống nhất, từ chi tiết đến tổng hợp.
+ Phạm vi tính toán phải được quy định rõ ràng, bao gồm cả phạm vi không gian và thời gian .
+ Đơn vị tính toán phải thống nhất .
Việc thống nhất phương pháp tính toán nhằm đảm bảo việc so sánh hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp theo không gian và thời gian.
Việc tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống phải phù hợp với trình độ của cán bộ, điều kiện hạch toán và thu thập số liệu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phải phù hợp._. với SNA .
- Phải đảm bảo tính hệ thống có nghĩa là:
+ Các chỉ tiêu trong hệ thống phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau được phân tổ và sắp xếp một cách khoa học, điều này liên quan đến việc chuẩn hoá thông tin.
+Phải bao gồm các tiêu chuẩn chủ yếu và thứ yếu, các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu bộ phận phản ánh từng mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và từng nhân tố .
- Hệ thống chỉ tiêu cần gọn (ít chỉ tiêu )và từng chỉ tiêu cần có nội dung rõ ràng dễ thu thập thông tin ,đảm bảo tính khả thi ,phù hợp với điều kiện về nhân lực ,vật lực ,tài lực của các doanh nghiệp để tiết kiệm chi phí (không có một chỉ tiêu nào thừa trong hệ thống chỉ tiêu).
- Đáp ứng yêu cầu đúng với đối tượng cần cung cấp thông tin nhằm đảm bảo tác dụng thiết thực trong công tác quản lý .
- Phải quy định hình thức thu thập thông tin (qua báo cáo thống kê định kỳ hoặc qua điều tra thống kê hoặc kết hợp cả hai hình thức ) phù hợp với yêu cầu quản lý ,phù hợp với điều kiện và trình độ cán bộ làm công tác thống kê ở các doanh nghiệp để có thể tính toán dược các chỉ tiêu trong hệ thống với độ chính xác cao phục vụ tốt cho yêu cầu công tác quản lý của các doanh nghiệp .
- Hệ thống chỉ tiêu phải có tính ổn định cao, đồng thời phải có tính linh hoạt. Mặt khác, hệ thống chỉ tiêu cần thường xuyên được hoàn thiện theo sự phát triển của yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất kinh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
2.Xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp.
Hệ thống chỉ tiêu đo lường kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo SNA có tính phổ biến được nhiều nước áp dụng .Nó không chỉ tạo cơ sở thông tin cho các nghiên cứu kinh tế và so sánh kinh tế trong phạm vi của một quốc gia, mà còn giữa các nước trong cùng một khối kinh tế, trong cùng một tổ chức kinh tế hoặc khu vực địa lý và trên toàn thế giới .
2.1 Chỉ tiêu sản phẩm hiện vật của doanh nghiệpcông nghiệp.
a. Nửa thành phẩm: là kết quả sản xuất đã qua chế biến ở một hoặc một số gai đoạn công nghệ nhưng chưa qua chế biến ở giai đoạn công nghệ cuối cùng trong quy trình công nghệ chế biến sản phẩm .Nửa thành phẩm có đủ tiêu chuẩn chất lượng của các giai đoạn công nghệ đã qua chế biến ,nửa thành phẩm đã bán ra ngoài phạm vi doanh nghiệp thì được coi như sản phẩm hoàn thành .Nó có thể được tiếp tục chế biến ở các giai đoạn công nghệ tiếp theo để chở thành sản phẩm hoàn chỉnh của doanh nghiệp .Nửa thành phẩm là chỉ tiêu theo dõi kết quả sản xuất của một sản phẩm hoặc một chi tiết sản phẩm .
b.Sản phẩm hoàn thành (thành phẩm ):Sản phẩm hoàn thành là những sản phẩm đã qua chế biến ở tất cả các giai đoạn công nghệ cần thiết trong quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm và đã hoàn thành việc chế biến ở giai đoạn cuối cùng ,đã kiểm tra và đạt tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm .chỉ tiêu sản phẩm hoàn thành là chỉ tiêu thời kỳ do vậy ta phải cộng dồn kết quả từng ngày, từng tháng...
c.Sản phẩm dở dang :là những sản phẩm chưa kết thúc một giai đoạn sản xuất nào đó ,chưa xong đang làm dở ở một giai đoạn sản xuất nào đó trong phạm vi xí nghiệp . Trong công nghiệp ,sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa chế biến xong trong phạm vi xí nghiệp .Mức độ hoàn thành của sản phẩm làm dở "nằm "giữa nguyên liệu và nửa thành phẩm hoặc giữa nửa thành phẩm và thành phẩm .
d. Chỉ tiêu sản phẩm quy ước (tính theo sản phẩm tiêu chuẩn).
Trên thực tế doanh nghiệp có thể sản xuất và kinh doanh rất nhiều mặt hàng, vì vậy thống kê đặt ra chỉ tiêu sản phẩm quy ước để tiện cho công việc tính toán .Chỉ tiêu này phản ánh lượng sản phẩm tính đổi từ lượng sản phẩm cùng tên nhưng khác nhau về mức độ, phẩm chất và quy cách .Sản phẩm quy ước được tính từ theo công thức:
Q*=
Trong đó Q*:Lượng sản phẩm quy ước .
Qi:Lượng sản phẩm loại i
hi: Hệ số tính đổi cho loại sản phẩm i
Chỉ tiêu tính theo đơn vị hiện vật biểu hiện khối lượng sản phẩm được sản xuất ra theo các đơn vị đo lường tự nhiên như tấn ,mét ,mét vuông ,lít ...Nó là căn cứ để phân phối ,vận chuyển ,để so sánh nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội ,để xuất khẩu hoặc nhập khẩu ...Và nó cũng là cơ sở để tính các chỉ tiêu giá trị ,lập kế hoạch sản xuất ,là cơ sở để nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh theo quan điểm vật chất .Chỉ tiêu hiện vật có nhiều tác dụng song nó chỉ giới hạn trong phạm vi tính những sản phẩm cùng loại đã hoàn thành các giai đoạn sản xuất ,không thể tổng hợp các sản phẩm khác nhau ,không cho phép ta tính hết kết quả sản xuất vì khó tính sản phẩm dở dang .
2.2.Tổng giá trị sản xuất (GO-Gross Output )
a.khái niệm :Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm ).
Tổng giá trị sản xuất gồm :
- Giá trị những sản phẩm vật chất
- Giá trị những hoạt động dịch vụ
Tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị sản xuất khối lượng sản phẩm do các cơ sở sản xuất thuộc tất cả các ngành kinh tế hoạt động trong ngành công nghiệp đạt được trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm ).
Chỉ tiêu giá trị sản xuất của ngành công nghiệp phản ánh quy mô kết quả hoạt động sản xuất của ngành trong thời kỳ nghiên cứu .Nó bao gồm toàn bộ thành quả lao động hữu ích của doanh nghiệp sản xuất ra của cải vật chất và sản phẩm không vật chất.
Chỉ tiêu giá trị sản xuất gồm: C1 + C2+ V + M.
Trong đó :
C1:Khấu hao tài sản cố định .
C2: Giá trị nguyên vật liệu ,chi phí khác ,chi phí dịch vụ .
V: Thu nhập của người lao động.
M: Lợi nhuận của doanh nghiệp .
b.Nội dung kinh tế :Tổng giá trị sản xuất chỉ bao gồm giá trị sản xuất các hoạt động sản xuất xã hội được pháp luật thừa nhận là hữu ích và cho phép hoạt động . Như vậy giá trị sản phẩm là hàng giả hoặc sản phẩm không nằm trong danh mục sản phẩm sản xuất theo quy định của pháp luật nhà nước sẽ không nằm trong tổng giá trị sản xuất.
c.nguyên tắc tính .
+Tính theo lãnh thổ kinh tế
+Tính theo thời điểm sản xuất .
+Tính theo giá thị trường .
+ Tính toàn bộ giá trị sản phẩm có nghĩa là tính cả nguyên vật liệu của khách hàng.
+Tính toàn bộ giá trị kết quả sản xuất .Theo nguyên tắc này cần tính vào giá trị sản xuất không chỉ thành phẩm mà cả nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang .
d.Phương pháp tính :
- tính theo giá so sánh : Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp bao gồm :
+Giá trị thành phẩm sản xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp.
+giá trị chế biến sản phẩm bằng nguyên ,vật liệu của người đặt hàng .
+Giá trị các công việc có tính chất công nghiệp
+Giá trị nguyên vật liệu của người đặt hàng đem chế biến .
+chênh lệch giá trị của cuối năm so với đầu năm của nửa thành phẩm ,sản phẩm dở dang ,công cụ ,mô hình tự chế ,chế phẩm .
+Giá trị sản phẩm tự chế tự dùng tính theo quy định đặc biệt .
Trong thực tế, doanh nghiệp không hạch toán được giá trị nguyên vật liệu của người đặt hàng đem chế biến nên giá trị này không thể hiện trong thu nhập và chi phí của doanh nghiệp .Vì vậy ,quy ước này không tính vào giá trị sản xuất .
-Theo giá hiện hành:
Giá trị =doanh thu tiêu thụ sản + doanh thụ tiêu thụ sản
sản xuất phẩm sản xuất chính phụ không đưa được về ngành phù hợp về ngành phù hợp
+Doanh thu bán Chênh lệch cuối kỳ -dầu kỳ
phế liệu phế phẩm thành phẩm tồn kho .
chênh lệch ck -đk nửa thànhChênh lệch giá trị hàng hoá gửi
phẩm,sản phẩm dở dang bán chưa thu tiền
+Giá trị sản phẩm được tính +Doanh thu cho thuê máy
theo quy định đặc biệt móc thiết bị .
Cụ thể giá trị sản xuất của ngành công nghiệp bao gồm các yếu tố sau :
+Doanh thu tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ .
S Doanh thu tiêu thụ sản phẩm (là những sản phẩm được sản xuất bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp ,những sản phẩm do doanh nghiệp đưa đi gia công ở đơn vị khác .
SDoanh thu tiêu thụ các phụ phẩm ,các phế phẩm ,phế liệu.
S Doanh thu bán điện cho thuê bên ngoài gồm :Điện do doanh nghiệp tự sản xuất dùng không hết và điện do doanh nghiệp mua về dùng không hết đem bán .
S Giá trị của tài sản cố định tự chế ,tự trang bị lại :giá trị sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra đem góp vốn liên doanh với đơn vị khác.
S Doanh thu dịch vụ công nghiệp làm cho bên ngoài như: Doanh thu gia công làm cho bên ngoài ,doanh thu từ sửa chữa thiết bị ,máy móc và công việc có tính chất công nghiệp làm cho bên ngoài ,lãi gộp của hàng hoá mua vào rồi bán ra không qua chhe biến .
.Doanh thu dịch vụ công nghiệp :Là các khoản thu cho thuê máy móc thiết bị ,nhà xưởng ,kho tàng ,thu từ dịch vụ vận tải cho bên ngoài thuê ,thu từ bán bản quyền phát minh sáng chế .Cho thuê nhãn mác và các hoạt động khác ngoài công nghiệp không hạch toán riêng được .
+ Giá trị chênh lệch () giữa cuối kỳ và đầu kỳ chi phí sản xuất dở đang, bán thành phẩm, tồn kho thành phẩm ,giá trị hàng hoá đang trên đương đi tiêu thụ chưa thu được tiền .
Vì trong quá trình sản xuất của một đơn vị thì thường được tiến hành một cách liên tục ,điều đó có nghĩa là sản phẩm còn lại của thời kỳ này sẽ được tiếp tục trong giai đoạn sản xuất của thời kỳ sau .kết quả sản xuất của thời kỳ này còn bao gồm cả một số kết quả của thời kỳ trước chuyển sang .Theo nguyên tắc tính t6ổng giá trị sản xuất ,kết quả của thời kỳ nào thì tính vào thời kỳ đó nên sản phẩm làm ở thời kỳ trước đã tính vào tổng giá trị sản xuất của thời kỳ trước rồi .Chính vì vậy ,để tránh tình trạngtính trùng kết quả sản xuất của thời kỳ này qua thời kỳ khác ta phải loại trừ phần sản phẩm của thời kỳ trước .
+Giá trị thặng dư :Là phần thu được của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản chi phí vật chất ,dịch vụ ,chi phí nhân công ,khấu hao tài sản cố định và thuế sản xuất phải nộp cho nhà nước .GIá Trị thặng dư gồm :Lợi nhuận trước thuế ,lãi trả tiền vay và một số khoản khác :
*Nguồn thông tin:
Để tính được giá trị sản xuất cho các thành phần kinh tế trên ta phải dựa vào các nguồn thông tin sau :
- Dựa vào bảng cân đối và bảng báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong hệ thống biểu báo cáo quyết toán năm để tổng hợp .
-Mục doanh thu tiêu thụ sản phẩm lấy ở bảng báo cáo kết quả kinh doanh, hoặc lấy phát sinh bên có (doanh thu _tk551)
- Chêch lệch thành phẩm tồn kho lấy ở bảng cân đối tài sản hay lấy số dư nợ cuối kỳ và đầu kỳ của tài khoản 155 - Thành phẩm .
-Chênh lệch sản phẩm dở dang, nửa thành phẩm ,mô hình tự chế can cứ vào số dư nợ cuối kỳ và đầu kỳ của tài khoản 154(tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh dở dang )hay lấy ở bảng cân đối tài sản .
Chênh lệch giá trị hàng gửi bán chưa thu được tiền cứ vào số dư nợ cuối kỳ và đầu kỳ của tài khoản 157 (hàng gửi bán ).
Doanh thu bán phế liệu phế phẩm ,doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất phụ không đưa về ngành phù hợp ,doanh thu cho thuê phương tiện vận tải ,doanh thu khác ...Lấy ở biểu báo cáo kết quả kinh doanh .
- Đối với các thành phần kinh tế tư nhân ,tập thể và các thể không có bảng báo cáo quyết toán năm ,quy ước giá trị sản xuất theo giá thực tế =doanh thu của hoạt động sản xuất công nghiệp và công việc có tính chất công nghiệp của đợn vị .
2.3 Giá trị tăng thêm (VA-Value Added).
a.khái niệm:Giá trị tăng thêm là một bộ phận của giá trị sản xuất ,nó thể hiện phần kết quả lao động hữu ích do hoạt động sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm ).Nó chỉ bao gồm giá trị mới tạo ra trong kỳ nghiên cứu nên gọi là giá trị gia tăng hay giá trị tăng thêm .Về mặt giá trị chỉ tiêu này chính là C1+V+M trong cấu thành giá trị của giá trị sản xuất .
Giá trị tăng thêm phản ánh tổng hợp toàn bộ thành quả của đơn vị trong một thời gian nhất định .Nó là cơ sở để tính thuế giá trị gia tăng ,VA còn là cơ sở để tính tổng sản phẩm quốc nội (GDP= )hoặc chỉ tiêu tổng thu nhập trong nước .
b.Nội dung kinh tế :Gá trị tăng thêm bao gồm :Khấu hao tài sản cố định (C1),thù lao lao động(V),thặng dư sản xuất (M)của một ngành kinh tế (VA=C1+V+M).
Khấu hao tài sản cố định ( C1): Là giá trị khấu hao tài sản cố định đã trích trong kỳ .Đó là khấu hao các thiết bị ,máy móc ,nhà xưởng ,thiết bị văn phòng ,thiết bị quản lý .Một số doanh nghiệp do đất và các vật kiến trúc phải mua hoặc được định giá để đóng góp vào liên doanh như một tài sản cố định khác ...Nên đã tiến hành khấu hao như một số tài sản cố định khác để thu hồi vốn ,phần trích này cũng được thể hiện trong khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp .
-Thu nhập của người lao động gồm:
+Tiền lương (tiền công lao động): là toàn bộ số tiền phải thanh toán cho người sản xuất gần với số lượng ,chất lượng lao động của họ ,cùng với các khoản tiền thưởng ,phụ cấp ,trợ cấp theo lương .
+Trích bảo hiểm xã hội ,bảo hiểm y tế ,kinh phí công đoàn .
+Các khoản thu nhập khác của người lao động như tiền ăn trưa ,ăn ca ,quà biếu ,tiền lưu trú ...
-Thuế sản xuất phải nộp cho nhà nước :Bao gồm thuế VAT ,thuế môn bài ,thuế tiêu thụ đặc biệt ,thuế xuất khẩu ,không bao gồm cả thuế nhập khẩu ,thuế lợi tức (thuế thu nhập của doanh nghiệp ),thu trên vốn (đối với doanh nghiệp nhà nước ),thuế thu nhập của người lao động (do doanh nghiệp đứng ra thu hộ ).
Giá trị thặng dư :là phần thu được của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các chi phí vật chất ,chi phí dịch vụ ,chi phí nhân công ,khấu hao tài sản cố định và thuế phải nộp cho nhà nước .Giá trị thặng dư gồm :
+Lợi tức thuần thực hiện là lợi nhuận phát sinh trước thuế, lợi tức của các hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp ,hoạt động tài chính trong doanh nghiệp và lợi tức bất thường khác .
+Lãi trả tiền vay ngân hàng sau khi đã trừ đi phần dịch vụ phí đã tính vào chi phí trung gian .
+Các khoản nộp cấp trên .
+Chi mua bảo hiểm nhà nước (bảo hiểm nhà máy ,thiết bị phương tiện ,phương tiện ...)
+Giá trị thựng dư khác trong chi phí bằng tiền khác
c.Nguyên tắc tính .
-Tính theo đơn vị thường trú .
-Tính theo thời điểm sản xuất .
-Tính theo giá thị trường .
d.Phương pháp tính .
* Đối với thành phần kinh tế nhà nước ,kinh tế hỗn hợp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
thành phần kinh tế này có những đặc điểm sau :
Quy mô sản xuất thường lớn ,nhiệm vụ sản xuất tương đối ổn định trình độ hạch toán cao ,có tính pháp chế ,hạch toán đầy đủ đảm bảo tính liên tục của số liệu hạch toán .ý thức chấp hành chế độ kế toán ,thống kê nghiêm túc .
-Phương pháp sản xuất .
Giá trị tăng thêm = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian
VA = GO - IC
Chi phí trung gian là bộ phận cấu thành tổng giá trị sản xuất bao gồm những chi phí vật chất và dịch vụ cho sản xuất (không kể khấu hao tài sản cố định).Đó là chi phí sản phẩm
Của các ngành khác nhau để sản xuất sản phẩm của một ngành nào đó .
Chi phí trung gian của hoạt động công nghiệp gồm những chi phí vật chất và dịch vụ để sản xuất ra sản phẩm thuộc ngành công nghiệp .Cụ thể chi phí vật chất và dịch vụ để sản xuất ra thành phẩm ,sản phẩm sản xuất dở dang nằm trên dây chuyền sản xuất .
Chi phí trung gian của ngành công nghiệp bao gồm:
+Những khoản hao phí vật liệu mua ngoài ,đã được sử dụng cho quá trình sản xuất trong kỳ như :
.Nguyên vật liệu chính phụ
.Nhiên liệu và động lực
.Các loại chi phí vật chất khác ngoài các khoản trên (kể cả dụng cụ bảo hộ lao động dùng trong sản xuất ).
+Chi phí dịch vụ :
. Công tác phí (không kể phần chi phí phụ cấp lưu trú )
. Tiền trả cho các dịch vụ ngân hàng ,bưu điện ,pháp lý .
. Phí bảo hiểm sản xuất .
. Phí trả dịch vụ bảo vệ môi trường.
. Tiền chi cho sửa chữa thường xuyên nhà cửa, công trình kiến trúc ,công cụ sản xuất .
. Chi phí về đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ .
. Dịch vụ về phong cháy, chữa cháy, bảo vệ sản xuất
. Chi phí cho việc quảng cáo.
-Phương pháp phân phối:
Phương pháp phân phối là phương pháp tính từ các yếu tố của giá trị tăng thêm trên cơ sở hạch toán chi tiết các khoản mục của từng yếu tố như tiền lương, bảo hiểm,lợi nhuận ,thuế,...
Giá trị tăng thêm =Thu nhập người lao động +Thu nhập doanh nghiệp +Khấu hao tài sản cố định
VA = V + M + C1
Khi thính được đầy đủ các yếu tố của giá trị tăng thêm theo phương pháp phân phối ,phải dùng phương pháp sản xuất để kiểm tra lại .Nếu kết quả tính theo phương pháp sản xuất khác với kết quả tính theo phương pháp phân phối thì phải kiểm tra ,điều chỉnh lại ở chi phí trung gian hoặc giá trị tăng thêm .Trường hợp cả hai chỉ tiêu đã khẳng định là đúng thì phải điều chỉnh GO theo nguyên tắc bằng tổng của các chi phí trung gian cộng với VA .
* Đối với kinh tế tập thể ,kinh tế tư nhân ,kinh tế cá thể .
Đặc điểm tổ chức và hạch toán của các doanh nghiệp này là:
-Tổ chức sản xuất thường không ổn định, ngành nghề kinh doanh dễ dàng thay đổi, thậm chí cả địa điểm sản xuất cũng thay đổi .
-Trình độ hạch toán thấp nói chung là không đầy đủ, thiếu tính liên tục ,nhất là đối với hộ cá thể ,hạch toán đối với họ chỉ là hình thức ghi sổ ,song cũng không đầy đủ và trung thực .
- ý thức chấp hành chế độ hạch toán và báo cáo thống kê thấp ,trong khi khả năng nâng cao ý thức của họ là rất khó khăn .
Vì những đặc điểm trên việc đi tư hạch toán của họ để tính trực tiếp các yếu tố của giá trị tăng thêm là điều kiện không dễ dàng ,đặc biệt với các yếu tố thu của chủ doanh nghiệp ,giá trị thặng dư và khấu hao tài sản cố định của họ .Trong khi đó khả năng điều tra để tính chi phí về nguyên vật liệu và dịch vụ lại thuận lợi hơn .Bởi vậy đối với doanh nghiệp nhỏ và cá thể cho phép ta áp dụng phương pháp sản xuất lại phù hợp và có tính chất khả thi hơn là áp dụng phương pháp phân phối .
VA = GO - IC
Sau khi tính được giá trị tăng thêm theo phương pháp này cần tính thêm các yếu tố cấu thành của nó theo phương pháp sau :
Từng yếu tố trong = Tổng giá trị x Tỷ trọng từng yếu tố
Giá trị tăng thêm tăng thêm trong tổng giá trị tăng thêm
Tỷ trọng từng yếu tố trong tổng giá trị tăng thêm được suy ra từ tỷ trọng trong mẫu điều tra nhỏ đại diện cho từng nhóm ngành .Tỷ trọng này có thể áp dụng cố định cho một số năm nếu các cơ chế chính sách về thuế ,giá cả ,tiền lương không thay đổi lớn .
2.4Giá trị gia tăng thuần (NVA-Net Value Added)
Giá trị gia tăng thuần là chỉ tiêu biểu hiện toàn bộ giá trị mới được sử dụng tạo ra trong năm của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ cuả doanh nghiệp .Về mặt giá trị,giá trị tăng thêm thuần(NVA) bao gồm thù lao lao động cộng với giá trị thặng dư (NVA=V+M hay NVA=VA-C1)
Đây là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp nhất những cố gắng của doanh nghiệp trong quản lý và tổ chức sản xuất .Đối với mọi doanh nghiệp ,điều kiện tiên quyết để tồn tại và phát triển là giá trị gia tăng thuần phải không ngừng tăng lên.Gá trị gia tăng thuần là nguồn gốc cho việc cải thiện mức sống cho người lao động .Một phần của nó đóng góp cho xã hội phần còn lại được sử dụng cho việc mở rộng các quỹ của doanh nghiệp như quỹ mở rộng sản xuất ,quỹ công ích .
2.5.Doanh thu.
Doanh thu là chỉ tiêu tổng hợp tính băng tiền bao gồm toàn bộ giá trị sản phẩm mà doanh nghiệp đã tiêu thụ và thu tiền về trong một thời kỳ dưới dạng tiền mặt hay thông qua chuyển khoản ở ngân hàng .
Doanh thu là chỉ tiêu dành cho sản lượng hàng hoá tiêu thụ trước đây phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp dùng đẻ đánh gia quan hệ tài chính xác định lãi, hiệu quả kinh doanh, đồng thời đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và xác định số vốn đã thu hồi .Chỉ tiêu này có tác dụng khuyến khích trong những khâu sản xuất tăng thêm số lượng và chất lượng mà còn ở khâu tiêu thụ .
Do tính theo giá bán thực tế mà chỉ tiêu doanh thu của doanh nghiệp chia ra ở các mức độ:
-Doanh thu bán hàng thuần :Là tổng doanh thu bán hàng đã trừ đi thuế doanh thu ,thuế tiêu thụ hàng hoá đặc biệt ,các khoản giả trừ như chiết khấu thương nghiệp bán hàng ,giảm giá hàng bán,giá trị hàng đã bán bị trả lại ,các khoản đền bù sửa chữa hang hư hỏng còn trong thời hạn bảo hành .
-Doanh thu thuần: Là doanh thu bán hàng thuần cộng thêm các khoản hoàn trả dự phòng giảm giá hàng bán ,nợ khó đòi dự kiến trong kỳ không phát sinh ở kỳ báo cáo .
Doanh thu thuần là chỉ tiêu dùng để tính chỉ tiêu lãi (lỗ) trong kinh doanh của các doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.
Các chỉ tiêu doanh thu tính theo giá trị hàng hoá nó bao gồm nội dung kinh tế sau:
Giá trị sản phẩm vật chất và các dịch vụ đã hoàn thành được tiêu thụ ngay trong thời kỳ báo cáo.
-Giá trị sản phẩm hoàn thành trong các thời kỳ tiêu thu được trong kỳ báo cáo.
-Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành đã giao cho người mua trong các kỳ trước và nhận được thanh toán trong kỳ báo cáo .
Công thức tính:
Pi:giá bán đơn vị ở thời kỳ nghiên cứu
Qi:Lượng sản phẩm i bán ở kỳ nghiên cứu .
2.6.Lợi nhuận .
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi trừ đi phần chi phí sản xuất hay giá thành sản phẩm .chỉ tiêu này phản ánh phần giá trị thặng dư được tạo ra trong doanh nghiệp hoặc hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh .Nó là một trong các mục tiêu quan trọng về kinh doanh ,là quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp .
Công thức tính chỉ tiêu:
Lợi nhuận = Doanh thu kinh doanh -chi phí kinh doanh
Lợi nhuận =Doanh thu -Tổng giá thành -Thuế sản xuất
+Lãi gộp: Là chỉ tiêu lãi chưa trừ đi các khảon chi phí bán hàng và quản lý kinh doanh .
Lãi gộp =Doanh thu thuần -Giá vốn hàng bán.
+Lãi thuần :
Lãi thuần =Doanh thu thuần -Giá vốn hàng bán .
Hay lãi thuần =Lãi gộp -chi phí bán hàng và chi phí quản lý kinh doanh.
Ngoài các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh nêu trên thống kê doanh nghiệp còn đưa ra một số chỉ tiêu:
*Chỉ tiêu tổng giá trị sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo ,bao gồm toàn bộ giá trị sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp đã sản xuất ,có thể đưa ra trên thị trường .Chỉ tiêu doanh số kinh doanh của doanh nghiệp được dùng để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã hoàn thành trong kỳ báo cáo ,có thể đưa ra trên thị trường ,là cơ sở để lập các kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp .
*Chỉ thiêu thu nhập của doanh nghiệp:
Là tổng thu nhập tính bằng tiền từ các hoạt động kinh doanh khác nhau thực hiện được trong một kỳ. Đó là kết quả cuối cùng của các hoạt động khác nhau của doanh nghiệp .
Việc xây dựng và tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của ngành công nghiệp có tác dụng vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý của các doanh nghiệp ,bộ ,ngành và của đảng và Nhà nước cụ thể :
-Giúp cho lãnh đạo các doanh nghiệp có căn cứ khoa học để tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Là căn cứ để đánh giá ,phân tích tình hình sử dụng các yếu tố của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp ,đánh giá ,phân tích tình hình sản xuất ,tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp ( thông qua giá trị sản xuất ,giá trị tăng thêm ,lợi nhuận doanh nghiệp ).
Là căn cứ để lập kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cả về quy mô và cơ cấu ,giúp cho các nhà quản lý kinh tế có những thông tin cần thiết làm căn cứ khoa học để xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức đã lựa chọn .
-Thông qua việc tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống giúp cho việc tính toán một số chỉ tiêu kinh tế xã hội theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) trong phạm vi nền kinh tế quốc dân như giá trị sản xuất (GO),chi phí trung gian (IC),giá trị tăng thêm (VA),tổng sản phẩm quốc nội (GDP),tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Như vậy hệ thông chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của ngành công nghiệp không chỉ tạo cơ sở thông tin cho các nghiên cứu kinh tế và so sánh kinh tế giữa các ngành trong một quốc gia ,mà còn giữa các nước trong cùng một khối kinh tế ,trong cùng một tổ chức kinh tế hay khu vực địa lý và trên phạm vi toàn cầu .
Trong các chỉ tiêu trên nếu xét theo quan điểm hệ thống chỉ tiêu vĩ mô thì chỉ tiêu GOvà VA là quan trọng nhất ,thông qua các chỉ tiêu này nó cho phép ta biết dược sự đóng góp của ngànhcn và sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân .Nó cho ta biét đơn vị này sản xuất tốt hay không từ đó giúp ta quyết định nên phát triển sản xuất hay không ở đơn vị đó .
II. Các phương pháp phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp.
1.Khái niệm về phân tích thống kê.
Phân tích thống kê là quá trình xem xét đánh giá một cách sâu sắc toàn diện các biểu hiện số lượng của các hiện tượng kinh tế xã hội nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật cũng như phát hiện các mối quan hệ "tiềm ẩn "trong những số liệu đã thu thập được ,xử lý và tổng hợp .
Phân tích thống kê có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê .Đây là khâu cuối cùng của quá trình nghiên cứu thống kê ,nó biểu hiện tập trung kết quả của quá trình nghiên cứu .Trên thực tế ,phân tích và dự đoán thống kê không chỉ có ý nghĩa nhận thức hiện tượng kinh tế xã hội mà trong từng mực nhất định nó còn góp phần cải tạo hiện tượng kinh tế xã hội .
Để thực hiện được đầy đủ các nhiệm vụ nói trên thì phân tích và dự đoán thống kê phải đản bảo các yêu cầu sau :
- Phải tiến hành trên cơ sở phân tích và lý luận kinh tế -xã hội .Do các hiện tượng kinh tế -xã hội có tính chất và xu hướng phát triển khác nhau nên thông qua phân tích lý luận ta hiểu được tính chất phát triển của hiện tượng .Trên cơ sở đó mới dùng số liệu và các phương phápphân tích khẳng định bản chất của nó .
-Phải căn cứ vào toàn bộ sự kiện và đặt chúng trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau.
- Đối với những hiện tượng có tính chất và hình thức phát triển khác nhau phải áp dụng các phương pháp phác nhau .
2.Nhiệm vụ của phân tích thống kê kết quả sản xuất kinh doanh.
Nhiệm vụ của phân tích thống kê kết quả sản xuất kinh doanh là:
2.1.Phân tích tĩnh: Bao gồm phân tích các chỉ tiêu về kết cấu và các cân đối của kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệ .
Cụ thể: Ví dụ khi phân tích kết cấu (tính tỉ trọng) của giá trị sản xuất hoặc giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp thì trước hết ta phải tính và so sánh các chỉ tiêu như: Tỉ trọng của GO và VA của ngành công nghiệp chung trong GO và GDP. Tỷ trọng GO và VA phân theo thành phần kinh tế, địa phương, vùng kinh tế, theo ngành theo cơ cấu gì, theo mục đích sử dụng, theo tính chất sản phẩm, theo khu vực kinh tế… Qua thời gian, không gian và so sánh với các mục tiêu.
2.2. Phân tích động: Trước hết phải xác định
* Quy luật biến động gồm:
- Quy luật về xu thế biến động: Xem xét quá trình tham gia chỉ tiêu GO, VA ngành công nghiệp biến động theo quy luật xu thế như thế nào, từ đó so sánh chúng qua thời gian ( tức so sánh kì trước hoặc kì gốc (ổn định), qua không gian so sánh giữa các đơn vị với nhau), và so sánh mục tiêu( so sánh kế hoặch để biết được tỷ lệ hoàn thành kế hoăch so với định mức để biết được tăng hay giảm.).
-Quy luật về thời vụ: Xác định xem chỉ tiêu GO, VA của ngành công nghiệp có được tổng hợp theo tháng, quý...Từ đó xem xét nó có biến động theo thời vụ hay không và có thể so sánh chúng trong thời gian và không gian và mục tiêu hay không.Thực tế thì GO, VA có được tổng hợp theo quý đối với các đơn vị, doang nghiệp nhỏ, riêng rẽ nhưng không thường xuyên nên rất khó khăn để xác định quy luật về thời vụ của giá trị sản xuất , giá trị tăng thêm và các chỉ tiêu về kết quả sản xuất kinh doanh khác của ngành công nghiệp.
- Quy luật về sự liên hoàn, phụ thuộc kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp xem xét mối liên hệ giữa các mức độ khác nhau của dãy số về các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp từ đó tìm phương trình phản ánh sự phụ thuộc giữa các mức độ trong dấy số mà ta phân tích.
- Xác định được mức độ biến động của các chỉ tiêu xác định kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp.
- Xác định được mức độ biến động của giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm và các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh khác chung cho toàn ngành và riêng cho các thành phần kinh tế và so sánh chúng qua thời gian , không gian và mục tiêu.
-Xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của các chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp từ đó phân tích xem vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh như thế nào và nhân tố nào là nhân tố ảnh hướng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của ngành.
Từ những kết quả phân tích, tính toán và xác định trên ta lựa chọn những phương pháp dự báo thích hợp để dự báo chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh quan trọng của ngành như GO,VA trong thời gian tới.
Việc lựa chọn và phân tích các phương pháp là cần thiết vì thống kê có rất nhiều các phương pháp phân tích .Để thực hiện được các nhiệm vụ phân tích đặt ra , trong thời kì thường vận dụng các phương pháp như: So dánh, dãy số thời gian, chỉ số, phân tổ...
Qua phân tích nhiệm vụ của phân tích chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh ở trên ta thấy để lựa chọn phương pháp phân tích kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính hướng đích : Tức là phải lựa chọn phương pháp thích hợp để đảm bảo phù hợp với mục đính ,yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Đảm bảo tính hệ thống : đối với các chỉ tiêu có tính chất và hình thức phát triển khác nhau phaỉ áp dụng các phương pháp phân tích khác nhau. Mặt khác, có rất nhiều phương pháp thống kê để có thể phân tích nhưng mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm riêng vì vậy cần kết hợp các phương pháp lại để xem xét sau đó lựa chọn các phương pháp cho phù hợp nhất.
- Đảm bảo tính khả thi: dựa vào yêu cầu, mục đích và nguồn số liệu thu thập được và tác dụng của mỗi phương pháp phân tích để lựa chọn phương pháp tối ưu nhất .
- Đảm bảo tính hiệu quả: Phương pháp lựa chọn phân tích phải đảm bảo đúng với yêu cầu đặt ra, sử dụng thuận tiện đẽ hiểu, đễ làm, đẻ áp dụng và sử dụng tối đa, có hiệu quả nhất.
Mỗi phương pháp lựa chọn đều phải đáp ứng được yêu cầu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ phân tích thống kê, phải đảm bảo được đúng các nguyên tắc lựa chọn. Tuy nhiên, mỗi phương pháp vận dụng để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh đều có ưu và nhược đi riêng, mỗi một phương pháp sẽ giúp ta giải quyết được các nhiệm vụ riêng. có thể giải quyết các nhiệm vụ này nhưng không giải quyết được các nhiệm vụ khác. Vì vậy,._.khai thác
24.08
24.98
24.18
24.18
Công nghiệp chế biến
67.76
66.98
67.57
68.49
Sản xuất và phân phối điện
8.16
8.04
8.25
8.58
Tổng số
100
100
100
100
Qua bảng 15 :cơ cấu giá trị tăng thêm theo các ngành công nghiệp ta thấy :cơ cấu của các ngành đang có sự thay đổi ,nhưng sự thay đổi này diễn ra rất chậm theo hương tỉ trọng ngành công nghiệp chế biến đang chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu giá trị tăng thêm ,năm 1998 ngành này chiếm tỉ trọng là 67.76% giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp ,nhưng năm 2001 con số này là 68.49% đây là thành quả của chính sách đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tỉ trọng đầu tư cho công nghiệp chế biến tăng nên làm cho cơ cấu giá trị tăng thêm của ngành này chiếm tỉ trọng cao trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp trong cả nước .
Ngành công nghiệp khai thác và ngành công nghiệp điện, gas, nước có tỉ trọng giá trị tăng thêm không ổn định .Cụ thể :ngành công nghiệp khai thác năm 1998 chiếm tỉ trọng là 24.08% ,năm 1999 chiếm tỉ trọng là 24.98% ,năm 2000 giảm xuống còn 24.18% năm 2001 tỉ trọng là 22.93%.Ngành sản xuất và phân phối điện năm 1998 tỉ trọng giá trị tăng thêm trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp cả nước là là 8.16%,năm 1999 giảm xuống còn 8.04%,năm 2000 tăng nên 8.25%, năm 2001 là 8.58%. Mặc dù đây là hai ngành có cơ cấu giá trị sản xuất thấp (ngành công nghiệp khai thác khoảng 13.5%, ngành công nghiệp điện gas,nước khoảng 6%) nhưng chi phí trung gian của hai ngành này nhỏ do vậy làm cho giá trị tăng thêm của hai ngành này lớn và nó chiếm tỉ trọng cao hơn tỉ trọng của giá trị sản xuất ( VA= GO - IC).
2.2 Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu giữa các thành phần kinh tế .
Cũng như sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu các ngành kinh tế thì cơ cấu giữa các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp cũng có sự chuyển dịch tích cực bước đầu tạo ra cơ cấu hợp lý .
a. Phân tích cơ cấu giá trị sản xuất .
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu của các ngành công nghiệp .Sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo chỉ tiêu này diễn ra khá nhanh ,điều này được thể hiện qua số liệu bảng 16 và biểu đồ 5:
Bảng 16 Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế thời kỳ 1998-2001.
Năm
TPKT
1998
1999
2000
2001
Nhà nước
45.93
43.38
42.2
43.4
Tập thể và tư nhân
22.09
21.94
22.58
21.8
Có VĐTNN
31.98
34.68
35.22
34.8
tổng số
100
100
100
100
Biểu đồ 5 :Cơ cấu giá trị sản xuất theo thành phần kinh tế tk 1998-2001.
Qua bảng 16 và biểu đồ5 ta thấy :
- Thành phần kinh tế Nhà nước có tỉ trọng giá trị sản xuất trong cả ba khu vực, khu vực này luôn chiếm trên 40% giá trị sản xuất toàn ngành. Năm 1998 chiếm tỉ trọng là 45.93%, đây là năm khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, năm 2000 khu vực này chiếm có 42.2% giá trị sản xuất công nghiệp trong cả nước, đây là năm chiếm tỉ trọng thấp nhất.Ta thấy tỉ trọng giá trị sản xuất của khu vực này có xu hướng giảm, nguyên nhân chính là do khu vực kinh tế này chỉ giữ các ngành sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp có vị trí chiến lược đối với nền kinh tế quốc dân, còn các doanh nghiệp khác thì khu vực kinh tế này tiến hành giải thể.
- Khu vực ngoài nhà nước: do khu vực này khó khăn cả đầu vào và đầu ra của sản phẩm nên tỉ trọng của khu vực kinh tế này chiếm thấp nhất (khoảng 22%). Năm chiếm tỉ trọng thấp nhất của khu vực này là năm 2001 (21.8%), năm cao nhất là năm 2000 (22.58%).Tỉ trọng giá trị sản xuất của thành phần kinh tế này cũng có xu hướng giảm: năm 1998 chiếm 22.09%,năm 1999chiếm 21.94%(giảm 0.15%),năm 2001 chiếm 21.8% (giảm 0.29%so với năm 1998).
- Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp .Năm 1998 khu vực này chiếm 31.98%,năm 1999 chiếm 34.68%,năm 2000chiếm 35.22%,năm 2001 chiếm 34.8%.Như vậy tỉ trọng giá trị sản xuất của khu vực này tăng lên rất nhanh, điều đó cho ta thấy khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có vai trò rất quan trọng trong ngành công nghiệp nước ta .
b.Phân tích cơ cấu doanh thu .
Cơ cấu doanh thu công nghiệp được thể hiện qua bảng 17 và biểu đồ 6 sau:
Bảng 17 :Cơ cấu doanh thu công nghiệp phân theo thành phần kinh tế .
Năm
TPKT
1998
1999
2000
2001
Khu vực doanh nghiệp nhà nước
43.44
35.31
32.83
32.87
-TW
29.65
23.96
22.11
22.25
-Địa phương
13.79
11.35
10.71
10.62
Khu vực ngoài quốc doanh
20.5
22.49
25.37
26.87
-Hợp tác xã
0.56
0.81
0.61
0.78
-Tư nhân
2.07
1.95
4.18
5.23
-hỗn hợp
6.54
6.64
10.43
10.02
-Cá thể
11.34
13.4
10.13
10.84
-Khu vực có vốn đầu tư NN
36.06
42.19
41.8
40.26
Tổng số
100
100
100
100
Biểu đồ 6 :Cơ cấu doanh thu công nghiệp phân theo thành phần kinh tế .
Qua bảng 17 và biểu đồ 6 ta có nhận xét:
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước năm 1998 chiếm tỉ trọng rất cao (43.44%),trong đó doanh thu công nghiệp TW chiếm 29.65%,địa phương chiếm 13.79%.Nhưng trong những năm tiếp theo tỉ trọng này đã giảm dần :năm 1999chiếm 35.31%(giảm 8.13% so với năm 1998),năm 2000 chiếm 32.83%(giảm 2.48% so với nam 1999),năm 2001 chiếm 32.87%(tăng 0.04%so với nam 2000). Nguyên nhân tỉ trọng doanh thu của khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm là do số doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nên đã bị giải thể và nhà nước đã tiến hành cổ phần hoá những doanh nghiệp không cần thiết. Nhà nước chỉ quản lý những doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy mà tỉ trọng doanh thu của doanh nghiệp trung ương đã giảm đi rất nhiều: năm 1999 tỉ trọng doanh thu của khu vực công nghiệp TW là 29.65%, nhưng đến năm 2001 tỉ trọng này chỉ còn 21.11% (giảm 8.54%so với năm 1999). Mặc dù tỉ trọng doanh thu công nghiệp của khu vực nhà nước có giảm đi nhiều nhưng Vẫn chiếm tỉ trong lớn trong nền kinh tế quốc dân .
- Công nghiệp ngoài quốc doanh tuy có nhiều khó khăn cả đầu vào và đầu ra của sản phẩm nhưng vẫn giữ được tỉ trọng cao trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Năm 1998 chiếm 20.5% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước (trong đó: Hợp tác xã chiếm 0.56%, tư nhân chiếm 2.07%, hỗn hợp chiếm 6.54%, cá thể chiếm 11.34%), nhưng đến năm 2001 tỉ trọng này đã nên đến 26.87%(trong đó: hợp tác xã chiếm 0.78%,tư nhân chiếm 5.23%, hỗn hợp chiếm 10.02%,cá thể chiếm 10.84%).Ta thấy công nghiệp ngoài quốc doanh đã rút ngắn khoảng cách tỉ trọng trong tổng doanh thu công nghiệp trong cả nước so với khu vực nhà nước. Đó là một cố gắng lớn của các tỉnh, thành phố trong đầu tư phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh dựa trên cơ sở phát huy lợi thế về nguồn nguyên liệu và nguồn lao động tại chỗ. Công nghiệp quốc doanh đã góp phần cùng với công nghiệp trung ương giữ vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước .Tuy nhiên với chính sách đẩy mạnh thu hút vốn FDI, thực hiện cổ phần hóa, kích thích cho khu vực tư nhân phát triển nên công nghiệp nhà nước đã có xu hướng giảm xuống, khu vực đầu tư nước ngoài tăng nên. Công nghiệp ngoài quốc doanh vẫn tăng trưởng nhưng với tốc độ chậm dần, do khó khăn chung về cơ sở vật chất kỹ thuật ,vốn và thị trường .Nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiêm hữu hạn có quy mô lớn vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao ở các thành phố như Hà Nội,Hải Phòng ,Thành phố Hồ Chí Minh...Công nghiệp ngoài quốc doanh phát triển khá đa dạng và từng bước tự điều quy mô và phương án sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường nên đứng vững và tăng trưởng khá. ở nhiều tỉnh và thành phố khác, công nghiệp ngoài quốc doanh với các hình thức đa dạng, chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ đã từng bước thoát ra khỏi tình trạng trì trệ ,không ổn định và khởi sắc trong một số ngành ,lĩnh vực nhất là ngành công nghiệp chế biến ở nông thôn. Trong khu vực ngoài quốc doanh, thành phần kinh tế cá thể vẫn giữ vai trò chủ đạo chiếm khoảng 12%.
-Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: do có chính sách thu hút vốn FDI nên khu vực này đã mở rộng phạm vi hoạt động, tăng cả về số lượng và chất lượng ,đồng thời nó cũng chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng doanh thu của ngành công nghiệp trong cả nước: năm 1998 chiếm tỉ trọng 36.06%,năm 1999 chiếm 42.19%,năm 2000 chiếm 41.8%, năm 2001 chiếm 40.26%. Chính tốc độ tăng trưởng cao và tỉ trọng lớn của công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quyết định duy trì nhịp độ tăng trưởng của ngành công nghiệp nước ta .
3.Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến giá trị sản xuất của ngành công nghiệp
Ngày nay, sự phát triển kinh tế thế giới đã đạt đến mức biên giới quốc gia chỉ có ý nghĩa về mặt hành chính, sự giao lưu kinh tế đã liên kết các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau thành một thị trường thống nhất, bối cảnh quốc tế và khu vực đã mở cho nước ta nhiều thuận lợi để phát triển quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.
Xu hướng phát triển khoa học công nghệ thế giới đã giúp công nghiệp nước ta tiếp cận nhanh vào kỹ thuật mới .Những thành công bước đầu trong những năm thực hiện đường lối của đảng đã tạo tiền đề chính trị và xã hội, vật chất và tinh thần cũng như tích luỹ thêm được kinh nghiệm quản lý điều hành kinh tế vĩ mô. Chính sách kinh tế đúng đắn, cùng với nội lực sẵn có sẽ tạo tiền đề cho quá trình phát triển nhanh của ngành công nghiệp Việt Nam . Với các nguồn tài nguyên sãn có thì dân số và nguồn lao đọng là một động lực phát triển cực kì quan trọng, quyết định tất cả sự phát triển kinh tế - xã hội.
Những thiếu hụt trong nhân tố con người càng quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém trong nhân tố con người càng gây hậu quả tiêu cực bấy nhiêu. Nếu không khắc phục sự yếu kém này thì nền kinh tế không tránh khỏi bị rơi vào tình trạng trì trệ. Nhưng để bù đắp được những thiếu hụt về nhân tố con người khônhg thể ngày một ngày hai được mà phải trong thời gian dài.
Trong 4 năm (1998 -2001). ngành công nghiệp Việt Nam đã tạo ra rất nhiều việc làm cho lao động. Lao động trong công nghiệp ngày càng tăng về số lượng cũng như chất lượng, số lượng lao động trong ngành công nghiệp tăng đều ở cả ba khu vực.Bảng 18 cho ta thấy điều này:
Bảng 18:Lao động công nghiệp phân theo khu vực thời kỳ 1998 -2002.
Đơn vị :1000 người
Năm
Khu vực
1998
1999
2000
2001
2002
tổng số
2742.089
2974.737
3307.367
3614.952
3914.933
KVNN
787.431
809.962
819.850
831.246
840.472
KVNQD
1700.946
1872.396
2123.658
2386.906
2619.849
KVCVĐTNN
253.712
292.379
363.859
396.800
454.612
áp dụng phương pháp chỉ số để phân tích biến động của giá trị sản xuất qua thời kỳ 2000-2001 từ đó thấy dược nhân tố nào là nhân tố quyết định đến sự tăng (giảm ) của giá trị sản xuất ngành công nghiệp .Từ nguồn số liệu bảng 2 và bảng 18 ta có bảng tính toán một số chỉ tiêu phục vụ cho phân tích biến động giá trị sản xuất do ảnh hưởng của năng suất lao động ,năng suất lao động và kết cấu lao động .
Bảng 19:Một số chỉ tiêu năng suất lao động thời kỳ 2000-2001
Chỉ tiêu
khu vực
khu vực doanh nghiệp nhà nước
102.24
118.23
84986.6
khu vực ngoài quốc doanh
21.26
20.68
50745.6
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
188.67
199.5
74864.25
chung
59.96
62.63
210596.52
*Phân tích ảnh hưởng của năng suất lao động bình quân ,tổng số lao động tới giá trị sản xuất ngành công nghiệp .
Theo số liệu trên ta có kết quả tính toán sau :
Số tương đối : 1.14159 = 1.0569 * 1.080
Số tuyệt đối : 28080 = 12184 + 15896
Nhận xét: Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp theo giá cố định năm 2001 so với năm 2000 tăng từ 198326.1tỉ đồng lên 226406.2 tỉ đồng tức là tăng 14.159% hay 28080 tỉ đồng là do hai nhân tố :
+Do năng suất lao động bình quân toàn ngành tăng 5.69% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12184 tỉ đồng.
+ Do tổng số lao động toàn ngành công nghiệp tăng 8% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên 15896 tỉ đồng .
Cả hai nhân tố đều ảnh hưởng tốt đến giá trị sản xuất công nghiệp trong đó tổng số lao động chiếm nhiều hơn ,điều đó cho thấy ngành công nghiệp chú trọng phát triển sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu để giải quyết nhiều việc làm cho người lao động , điều đó phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay.
* Phân tích ảnh hưởng của năng suất lao động cá biệt ,kết cấu lao động và tổng số lao động tới giá trị sản xuất của ngành công nghiệp .
Trong đó :
Từ đó ta có :
Số tương đối : 1.1415 = 1.0752 * 0.9715 *1.093
Số tuyệt đối :
=
28080 = 15833.37 - 6181.52 + 18428.15
Giá trị sản xuất của ngành công nghiệp theo giá cố định năm 2001 so với năm 2000 tăng từ 198326.1 tỉ đồng lên 226406.2 tỉ đồng tức là tăng 14.15% hay 28080 tỉ đồng là do ảnh hưởng của 3 nhân tố :
Thứ nhất: do năng suất lao động cá biệt của các thành phần kinh tế tăng lên 7.52% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp theo giá cố định tăng 15833.37 tỉ đồng .Đây là nhân tố có ảnh hưởng tốt đến giá trị sản xuất của ngành .
Thứ hai: do kết cấu lao động của các thành phần kinh tế thay đổi .cụ thể khu vực ngoài quốc doanh có năng suất lao động thấp đã chiếm tỉ trọng cao lên so với năm 2000 làm cho giá trị sản xuất công nghiệp theo giá cố định giảm 6181.52 tỉ đồng .
Thứ ba :do tổng số lao động toàn ngành công nghiệp tăng lên 9.3% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp tăng lên 18428.15 tỉ đồng .
4.Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp và doanh thu công nghiệp năm 2002,2003
Việc đưa ra nhận xét mang tính quy luật ,phản ánh xu thế của hiện tượng, Dự báo sự phát triển của hiện tượng trong tương lai là rất cần thiết sau mỗi quá trình phân tích thống kê .Qua những phân tích trên và dựa vào dãy số thời gian về giá trị sản xuất, doanh thu công nghiệp thời1996-2001 ta có thể dự báo cho hai chỉ tiêu này vào năm 2002 và 2003.
4.1Dự báo giá trị sản xuất công nghiệp năm 2002,2003.
Bảng 20: Tình hình biến động giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996-2002.
Nâm
giá trị sản xuất
(tỉ đồng)
lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (tỉ đồng )
tốc độ phát triển liên hoàn (%)
1996
118097
-
-
1997
134420
16323
13.82
1998
151223
16803
12.5
1999
168749
17526
11.6
2000
198361.1
29612.1
17.5
2001
226406.2
28045.1
14.1
bq
21661.84
13.9
a.Dự đoán dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân .
ta có mô hình dự đoán :
(tỉ đồng )
dự báo năm 2002
(tỉ đồng )
Dự báo cho năm 2003:
(tỉ đồng ).
b.Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển trung bình .
Mô hình dự đoán có dạng như sau:
Với =(lần)
Dự đoán cho năm 2002
(tỉ đồng)
Dự đoán cho năm 2003
(tỉ đồng)
4.2Dự báo doanh thu công nghiệp năm 2002 và 2003.
Bảng 21: Tình hình biến động doanh thu công nghiệp thời kỳ 1995-2001
Năm
doanh thu
(tỉ đồng)
Lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (tỉ đồng )
tốc độ phát triển liên hoàn (%)
1996
148014.084
-
-
1997
176474.369
28166
19.22
1998
215229.8
38755.5
21.96
1999
262620.4
47390.6
22
2000
345097.4
82477
31.41
2001
432614
87516.7
25.36
bq
56920
23.93
a .dự đoán dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân .
Mô hình dự đoán:
(tỉ đồng)
dự báo năm 2002:
(tỉ đồng )
Dự báo cho năm 2003:
(tỉ đồng ).
b.Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển trung bình .
Mô hình dự đoán có dạng như sau:
Với =(lần)
Dự đoán cho năm 2002
(tỉ đồng)
Dự đoán cho năm 2003:
(tỉ đồng)
III. Đánh giá kết quả sản xuất công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1998 – 2002
1. Kết quả đạt được:
Sản xuất công nghiệp qua 5 năm 1998 – 2001 đã đạt được những thành tựu lớn, đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng và truyền đạt cơ cấu kinh tế chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sản xuất liên tục đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Năm thấp nhất tăng11,89%( 1999/1998) , năm cao nhất tăng 17,82%(2000/1999). Bình quân 4 năm tăng 13,98%. Cả 3 khu vực kinh tế đều tăng( doanh nghiệp nhà nước tăng 13,38%, doanh nghiệp tập thể và tư nhân tăng12,9%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài tăng17,7%).
Nhiều sản phẩm quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp đã tăng cao. Năm 2001 so với năm 1998 dầu thô tăng gấp 1.7 lần bình quân mỗi năm tăng 19,3%, than sạch gấp 1,3 lần tăng 8,6%/năm, điện gấp 1,4 lần tăng 11,75%/năm, thép cán gấp 2.3 lần tăng 31,87%/năm, xi măng gấp 1,65 lần tăng 18%/năm, giấy bìa gấp 1,6 lần tăng 17%/năm, sữa hộp gấp 1,32 lầntăng 9,6%/năm...
Tăng trưởng và phát triển của sản xuất công nghiệp không những đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và đa dạng của thị trường trong nước mà còn tăng khối lượng và chủng loại sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ để tiếp tục đầu tư phát triển. Đầu những năm 1990, nhiều sản phẩm công nghiệp phục vụ sản xuất và tiêu dùng phải nhập khẩu như: sắt, thép,ximăng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, bột giặt, đường, sữa, bia... nhưng nay sản xuất trong nước không những đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh với hàng ngoại nhập mà bước đầu đã tham gia xuất khẩu. Nhiều sản phẩm mới chất lượng cao được bổ xung vào thị trường thay thế cho hàng nhập khẩu như ôtô, xe máy, tủ lạnh, máy giặt, máy văn phòng, mạch in điện tử, thiết bị truyền thông, sản phẩm ngành tin học...
Thị trường xuất khẩu được mở rộng và củng cố, không chỉ trong khu vực Đông Nam á mà đã vươn tới các thị trường được coi như khó tính như: Nhật Bản, Châu Âu, Bắc Mỹ... những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có giá trị lớn là: đầu thô, thuỷ hải sản chế biến, giầy dép, quần áo may sẵn...
Phát triển của ngành công nghiệp đã góp phần quan trọng đén chuyển dịch cơ cấu chung của nền kinh tế và của chính bản thân ngành công nghiệp.
Tỷ trọng ngành công nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân tăng từ 19,8% năm 1991 lên 21,9% năm1995, 36,6% năm 2000 và 36,98% năm 2001. Trong nội bộ ngành công nghiệp cũng có sự chuyển dịch tích cực, bước đầu tạo ra cơ cấu hợp lý. Công nghiệp chế biến là chủ yếu, chiếm 80,5% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và chiếm 17,8% tổng sản phẩm trong nước. Tuy nhiên để đạt tới mục tiêu nước ta là nước công nghiệp vào năm 2020 thì tỷ trọng trên của ngành công nghiệp chế biến vẫn là thấp đòi hỏi phải tăng nhanh trong thời gian tới. Ngành công nghiệp khai thác trong những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng nhanh do được bổ xung thêm ngành khai thác dầu khí. Tỷ trọng năm 2002 của ngành này chiếm 11.98% toàn ngành công nghiệp và 9,4% tổng sản phẩm trong nước. Ngành công nghiệp điện nước chiếm 6,1% toàn bộ ngành công nghiệp.
c. Vai trò và tiềm năng của các khu vực và các thành phần kinh tế trong công nghiệp đã được phát huy .
Khu vực doanh nghiệp nhà nước: Do chủ trương sắp xếp lại sản xuất nên trong những năm qua số doanh nghiệp này giảm. Các doanh ngiệp còn hoạt động đã được củng cố và tăng cường làm cho khả năng tích luỹ của khu vực này tăng lên, sản xuất kinh doanh phát triển và đang nâng cao hiệu quả.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: là khu vực phảttiển nhanh nhất cả về số lượng doanh nghiệp và vốn đầu tư. Trong năm gần đây khu vực này có số lượng các doanh nghiệp tăng nhanh, quy mô sản xuất được mở rộng. Những sản phẩm mới và có giá trị cao như: dầu khí, ôtô, xe máy, đồ gia dụng đắt tiền, thiết bị điện tử viễn thông phần lớn do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất và đóng giữ vai trò quan trọng tromg sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Khu vực này tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong toàn bộ ngành công nghiệp.
Khu vực ngoài quốc doanh: Trong khu vực này thì kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng nhỏ không đáng kể, tổ chức sản xuất nhiều năm qua không ổn định, hiệu quả kém. Doanh nghiệp tư nhân và cá thể tuy chỉ chiếm 21,7% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, nhưng chiếm tới 61% lao động và 11,4% tổng nguồn vốn, là khu vực có ưu thế sử dụng nhiều lao động, dùng ít vốn, quy mô sản xuất phân tán rộng và phục vụ tại chỗ, phù hợp với thực tế hiện nay.
2. Những nguyên nhân đạt được kết quả trên:
Năm năm 1998 -2001 là thời kỳ ngành công nghiệp đổi mới tăng trưởng cao và ổn định nhất, có hiệu quả cả về mặt kinh tế xã hội kết quả đó là do những nguyên nhân cơ bản sau:
Có sự tham gia của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Kết quả của hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp đã tạo diều kiện về vốn, kỹ thuật, công nghệ để mở rộng năng lực sản xuất, ra đời những ngành công nghiệp mới( đầu khí, ôtô, điện tử, viễn thông) và nhiều sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng cao, tạo cho sản xuất tăng nhanh đây là nhân tố quyết định tốc độ tăng trưởng cao và ổn định của toàn ngành công nghiệp những năm vừa qua.
Tác động tích cực của việc tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù việc thực hiện chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước còn chậm nhưng kết quả bước đâù đã củng cố được các doanh nghiệp còn lại hoạt động có hiệu quả hơn, tổ chức quản lý hơn, thich sứng với cơ chế thị trường hơn. Khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm gần 1000 doanh nghiệp, nhưng tiềm lực về vốn, tài sản cố định, năng lực sản xuất và kết quả sản xuất vẫn tương đối khá.
Tác động của cơ chế chính sách:
Trong những năm qua đã có nhiều chính sách và biện pháp có tác đọng tích cực, thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển như: chính sách kích cầu đầu tư, chính sách tài chính, thuế, chính sách xuất nhập khẩu và các biện pháp quản lý thị trường, chống hàng lậu, chống gian lận thương mại và chống hàng giả... Những chính sách và biện pháp này đẫ kịp thời tháo gỡ khó khăn giữa các doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi sản xuất. Các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp tư nhân cá thể đã có tác dụng khai thác năng lực tiềm tàng về sản xuất cộng nghiệp ở các địa phương, khơi dậy nhiều ngành nghề truyền thống. Những năm gần đây doanh nghiệp tư nhân đã có bước phát triển mới, nhiều công ty tư nhân đãcó quy mô vừa và lớn ra đời, có kỹ thuật công nghệ tiên tiến, trình độ quản lý khá tham gia thị trưòng xuất khẩu có hiệu quả cao trong các ngành dệt, may mặc, chế biến thực phẩm...
3. Những hạn chế cần khắc phục của ngành
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được của ngành công nghiệp trong những năm qua vẫn còn một số hạn chế đó là:
Ngành cơ khí chế tạo vẫn lúng túng về định hướng phát triển. Những doanh nghiệp còn tồn tại nhưng sản xuất với kỹ thuật lạc hậu, quy mô nhỏ là phổ biến. Vì vậy không làm chủ được thị trường, nhất là về cácc mặt hàng kim khí tiêu dùng, máy móc phục vụ nông nghiệp, máy chế tạo chế biến sản phẩm sau khi thu hoạch...
Việc quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng và theo khu vực làm chưa tốt. Tình trạng “ mạnh ai nấy xin”, “ mạnh ai nấy làm” còn khá phổ biến. Điển hình của tình trạng này là việc xây dựng hàng loạt các nhà máy ximăng là đúng, các nhà máy đường, nhà máy bia, xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản. Thời gian qua tuy đã có sự điều chỉnh nhưng hậu quả để lại cho nền kinh tế không nhỏ.
Sản xuất của một số ngành còn mang tính chất gia công lắp ráp cho nước ngoài, chưa chủ động được nguồn nguyên liệu, linh kiện và phụ tùng cũng như thị trường tiêu thụ. Vì vậy giá trị sản xuất thì lớn, tăng trưởng cao, nhưng giá trị mới tăng thêm rất nhỏ điển hình là sản xuất thép với các liên doanh nước ngoài, sản xuất của các sản phẩm từ kim loại: sản xuất ôtô, xe máy, máy tính và các sản phẩm điện tử... Đây là một trong những nguy cơ có thể dẫn tới sự thiếu bền vững trong sản xuất công nghiệp. Ngược lại những sản phẩm khai thác, sản phẩm chế biến từ nguyên liệu của ngành nông, lâm, ngư nghiệp lại xuất khẩu ở dạng thô hoặc sơ chế là chủ yếu như: dầu thô, chè, cafe, lạc,vừng... Nhiều loại rau quả đến mùa thu hoạch không có đủ năng lực chế biến gây thiệt hại cho nông dân. Cho tới nay, hàng nông sản đã qua chế biến tinh chỉ đạt tỷ lệ dưới 10% so với giá trị nông sản cần chế biến.
Còn nhiều doanh nghiệp nhà nước, nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, do địa phương quản lý đang sản xuất trong tình trạng kỹ thuật lạc hậu, kinh doanh thua lỗ kéo dài nhưng chậm được xử lý theo các chủ trương của nhà nước( cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê). Đây cũng là một trong những trở ngại cho phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
IV. Một số đề xuất, kiến nghị góp phần đẩy mạnh kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Việt Nam.
Từ những phân tích đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp Việt Nam thời kỳ 1998 -2001, để phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục những tồn tại trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của ngành, xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu
Chế biến nông lâm, thuỷ sản, may mặc, da giày, điện tư tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng...
Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử tự động hoá. Chú trọng công nghệ sản xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế có tốc độ phát triển vượt trội.
Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng... với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện vốn, công nghệ thị trường, phát huy được hiệu quả.
Phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với ngành nghề đa dạng. Đổi mới nâng cấp công nghệ trong các cơ sở hiện có để nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả.Sử dụng phù hợp các công nghệ có khả năng thu hút nhiều lao đọng.
2. Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường.
Thị trường luôn là yếu tố rất quan trọng không chỉ đối với sản xuất kinh doanh công nghiệp mà với cả các lĩnh vực khác bởi vì sản xuất luôn gắn với thị trường, thị trường là điều kiện để sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển. Việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là rất cần thiết và quan trọng, nó giúp cho việc hoạch định chiến lược phát triển của ngành phù hợp với yêu cầu thực tiễn đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
3. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế:
Quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ tác đọng tới đầu ra mà còn tác động tới cả quá trình sản xuất kinh doanh của các ngành công nghiệp, cũng như các doanh nghiệp do đó việc mở rộng, phát triển quan hệ kinh tế quốc tế là rất cần thiết, thể hiện:
Nó thu hút khối lượng vốn đầu tư nước ngoài đi kèm nó là kỹ thuật, công nghệ) vào quá trình phát triển sản xuất công nghiệp, đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển lợi nhuận.
Nâng cao khả năng cạnh tranh các sản phẩm công nghiệp của nước ta trên thị trường quốc tế.
Tiếp nhận kỹ thuật công nghệ tuy chưa phải là hiện đại nhất nhưng cũng hiện đại trên công nghệ hiện có ở trong nước, đồng thời học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài.
4. Đào tạo lao động, tổ chức quản lý sản xuất:
Vì lao động là một trong các yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất nên nó góp phần quan trọng hỗ trợ cho các hoạt động khác phát triển. Trình độ của người quản lý và trình độ của đội ngũ công nhân trực tiếp sản xuất có ảnh hưởng rất lớn đến năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm từ đó nó ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp.
5. Tăng cường đổi mới đầu tư cho ngành công nghiệp:
Công nghệ là yếu tố cơ bản của sự phát triển. Tiến bộ khao học – công nghệ, đổi mới công nghệ là động lực của sự phát triển lao động xã hội, phát triển ngành. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên liệu... nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
6. Đẩy mạnh hơn nữa việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò chỉi đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
Cần mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp nhà nước để các doanh nghiệp chủ động trong việc sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp mình. Mạnh dạn giải thể hoặc cổ phần hoá những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
7. Tạo vốn và phát triển sản xuất
Muốn thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển thì cần phải có vốn. Vấn đề đặt ra là vốn lấy ở đâu? Vốn cho sản xuất công nghiệp có thể huy động từ các nguồn như: Nguồn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn từ nước ngoài là rất quan trọng song nguồn trong nước mới là quyết định.
Kết Luận
Trong xu thế phát triển toàn cầu hoá hiện nay, chỉ có phát triển công nghiệp là con đường duy nhất giúp nước ta tiến kịp xu thế của thời đại, hội nhập với thế giới và khu vực. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có ý nghĩa rất quan trọng. Tập trung phát triển công nghiệp, coi công nghiệp là ngành mũi nhọn trong quá trình phát triển của nền kinh tês của Đảng và nhà nưóc là một đường lối đúng đắn, bởi vì công nghiệp đóng vai trò là đầu tầu kéo các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Vì vậy phát triển công nghiệp phải đi trước một bước.
Trên cơ sở kiến thức lý luận chung học được tại trường ĐH Kinh tế Quốc Dân và qua thời gian thực tập tại Vụ Công Nghiệp- Tổng cục Thống Kê, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập này, tuy nhiên với khả năng có hạn mà vấn đề em nghiên cứu lại quá rộng lớn nên chắc chắn rằng chuyên đề không thoát khỏi những thiếu sót, em rất mong sự đóng góp ý kiến và nhận xét để có thể nâng cao được kiến thức và sự hiểu biết hơn về đề tài cũng như các lĩnh vực khác.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất đến sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của tiến sỹ Nguyễn Công Nhự- giảng viên khoa Thống Kê- Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân, cô Thuận và các bác, các cô chú, các anh chị trong Vụ Công Nghiệp - Tổng cục Thống Kê đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành chuyên đề này.
Sinh viên
Nguyễn hữu nghị
Tài liệu tham khảo.
1.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,IX -Nxb sự thâtj.
2.Giáo trình kinh tế và quản lý công nghiệp -nxb giáo dục 1999
3.Giáo trình thống kê kinh tế
4.Giáo trình lý thuyết thống kê .
5.Giáo trình thống kê doanh nghiệp .
6.Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam10 năm 1991-2001-Vụ Công Nghiệp .
7.Chế độ điều tra công nghiệp ngoài quốc doanh (quyết định số 147/TCTK);chế độ báo cáo thống kê công nghiệp (Qđ số 147/TCTK)
8.Chế độ báo cáo thống kê Tổng công ty.
9.Báo cáo kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp năm 1995-Vụ Công nghiệp -Tổng Cục Thống Kê.
10.Tạp chí công nghiệp .
11.Tạp chí con số và sự kiện.
12.Niên giám thống kê năm 2001-Vụ Công Nghiệp.
13.Niên giám thống kê 1999-Tổng Cục Thống Kê.
14.Báo cáo hội nghị thống kê lần VI "phân tích thống kê"viện khoa học thóng kê.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT140.doc