Lời nói đầu
Giáo dục đại học Việt Nam bước sang thế kỷ XXI, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo đại học đang được đặc biệt coi trọng bởi lẽ tuy qui mô của giáo dục đại học ngày càng tăng nhưng điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục còn thấp so với các chuẩn mực quốc tế và khu vực. Để có thể đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế thì đòi hỏi đội ngũ giáo viên có trình độ cao, có các phương pháp và kỹ năng giảng dạy luôn được cập nhật ở tầm quốc tế.
Trong
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương pháp điều tra xã hội học đánh giá ảnh hưởng của đào tạo Quốc tế trong việc nâng cao.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những năm gần đây, quá trình hội nhập và toàn cầu hoá ngày càng trở nên phổ biến rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực và giáo dục cũng không nằm ngoài xu thế đó. Một hình thức giáo dục đào tạo mới ra đời đó là hình thức hợp tác đào tạo Quốc tế. Hình thức này không chỉ mang đến môi trường học tập phong phú hơn cho những người muốn tham gia mà còn là một hình thức bồi dưỡng và phát triển cán bộ giảng viên cực kỳ hiệu quả và có ích.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là trường đầu ngành của cả nước về đào tạo kinh tế và quản trị kinh doanh. Đi đôi với việc phát triển các chương trình đào tạo trong nước, các chương trình hợp tác đào tạo quốc tế ngày càng được mở rộng và đa dạng hơn về hình thức. Và đây cũng chính là môi trường tốt khuyến khích các giảng viên trong trường tham gia để nâng cao năng lực giảng dạy của mình lên tầm quốc tế hay nói cách khác đây chính là một hình thức bồi dưỡng và phát triển năng lực giảng dạy của cán bộ giảng viên rất hiệu quả.
Để tạo ra một môi trường bồi dưỡng và phát triển năng lực giảng dạy của cán bộ giáo viên ngày càng rộng rãi và hiệu quả hơn thì việc thu thập thông tin về những lợi ích mà chương trình hợp tác đào tạo quốc tế mang lại cho các giảng viên nói riêng và cho nhà trường nói chung là rất cần thiết. Vì lí do đó em xin chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp điều tra xã hội học đánh giá ảnh hưởng của đào tạo Quốc tế trong việc nâng cao năng lực giảng dạy của giảng viên trường đại học Kinh tế Quốc dân”.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương không kể lời nói đầu và kết luận
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về điều tra xã hội học
Chương II: Xây dựng phương án điều tra đánh giá ảnh hưởng của đào tạo
quốc tế trong việc nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Chương III: Xử lý số liệu và trình bày kết quả nghiên cứu
Để có thể phân tích được sâu sắc về vấn đề này cần phải có sự điều tra kỹ càng với qui mô rộng hơn. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức cũng như về thời gian nên việc nghiên cứu đề tài này không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô…
Em xin chân thành cảm ơn ThS. Phan Thuỷ Chi và các thầy cô trên Khoa đào tạo Quốc tế đã nhiệt tình giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Chương I
Một số vấn đề lý luận chung về điều tra xã hội học
I. Những vấn đề cơ bản về điều tra xã hội học
1. Khái niệm và những vấn đề có liên quan:
1.1. Khái niệm:
Điều tra xã hội học được hiểu là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể nhằm phân tích và đưa ra những kiến nghị đúng đắn đối với công tác quản lý.
Như vậy, từ định nghĩa có thể thấy đối tượng của điều tra xã hội học là các hiện tượng và quá trình kinh tế xã hội trong những điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Những hiện tượng và quá trình này thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và ngược lại. Cụ thể các mối quan hệ đó được thể hiện ở các lĩnh vực sau : Các hiện tượng về dân số, lao động và việc làm; mức sống vật chất của dân cư và phân tầng xã hội; bảo hiểm và bảo trợ xã hội; hôn nhân và gia đình; lối sống, trào lưu, thị hiếu; giáo dục - đào tạo; y tế và chăm sóc sức khoẻ; văn hoá - nghệ thuật - thể thao - giải trí; tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục tập quán; dư luận xã hội, đạo đức xã hội và khuyết tật xã hội; cấu trúc xã hội và thiết chế xã hội; môi trường sinh thái.
Đối tượng nghiên cứu của điều tra xã hội học thường là các hiện tượng đa dạng và phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực, mối quan hệ đan xen, chồng chéo lên nhau, do vậy việc đo lường chúng thường khó khăn hơn rất nhiều so với việc đo lường các hiện tượng kinh tế khác. Mặt khác, các hiện tượng trong điều tra xã hội học thường mang tính chất định tính nhiều hơn nên chúng ta sẽ gặp rất nhiều chỉ báo thống kê (là những chỉ tiêu phi lượng hoá).
Do tính chất phức tạp của đối tượng nghiên cứu nên việc thu thập số liệu sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì vậy ta phải kết hợp linh hoạt nhiều phương pháp để có thể thu thập số liệu một cách đầy đủ và chính xác nhất.
1.2. Đặc điểm của phương pháp điều tra xã hội học:
Nhìn chung, phương pháp điều tra xã hội học có một số đặc điểm nổi bật sau đây :
Thứ nhất, phương pháp điều tra xã hội học có một ưu điểm là rất thuận lợi trong việc thu thập các thông tin định tính như: quan điểm, thái độ, động cơ, tâm tư, nguyện vọng…
Thứ hai, điều tra xã hội học phải áp dụng các nguyên tắc cơ bản của điều tra Thống kê nói chung, phải sử dụng các phương pháp xử lý số liệu thống kê và thậm chí phải coi đó như là một bộ phận nghiệp vụ cơ bản.
Thứ ba, trong điều tra xã hội học ngoài việc sử dụng các phương pháp điều tra thống kê còn phải kết hợp sử dụng các phương pháp của xã hội học như: phương pháp phân tích tư liệu, phương pháp thực nghiệm, phương pháp trưng cầu ý kiến và phải tính đến các yếu tố tâm lý trong quá trình điều tra…
1.3. Phân loại điều tra xã hội học
Cũng giống như điều tra Thống kê, tuỳ theo từng tiêu thức phân loại mà điều tra xã hội học được chia thành các loại khác nhau.
Theo phạm vi, đối tượng được điều tra thực tế điều tra xã hội học được chia ra làm hai loại:
Điều tra toàn bộ: là việc thu thập tài liệu về toàn bộ tổng thể nghiên cứu (hay còn gọi là tổng thể điều tra). Điều tra toàn bộ có ưu điểm là: cung cấp tài liệu đầy đủ nhất về tất cả các đơn vị của hiện tượng, cho biết qui mô của tổng thể lớn hay nhỏ, rất có ích cho công việc nghiên cứu; nhưng cũng có những hạn chế nhất định như : đòi hỏi một chi phí rất lớn vì vậy không thể tiến hành thường xuyên được, ngoài ra trong nhiều trường hợp không thể tiến hành điều tra toàn bộ được. Một ví dụ điển hình nhất của điều tra toàn bộ đó là cuộc tổng điều tra dân số thường được tiến hành sau 10 năm hay 5 năm ở mỗi nước.
Điều tra không toàn bộ: là việc thu thập tài liệu của một số đơn vị được chọn ra từ tổng thể chung. Điều tra không toàn bộ có ưu điểm là: do khối lượng điều tra ít nên chi phí điều tra tương đối thấp, có thể làm nhiều hơn điều tra toàn bộ với nội dung điều tra rộng hơn, thời gian điều tra ngắn hơn; tuy nhiên phạm vi nghiên cứu bị hạn chế, tính chính xác kém hơn so với điều tra toàn bộ. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu nghiên cứu ta có các loại điều tra không toàn bộ khác nhau như : điều tra chọn mẫu, điều tra trọng điểm, điều tra chuyên đề. Một số ví dụ về điều tra không toàn bộ như : điều tra mức sống dân cư;
Theo thời gian (theo tính chất liên tục của việc ghi chép tài liệu) điều tra xã hội học được chia ra làm hai loại:
Điều tra thường xuyên: là việc thu thập tài liệu của các đơn vị nghiên cứu một cách thường xuyên, liên tục theo thời gian, theo sát với quá trình phát sinh, phát triển của hiện tượng. Loại điều tra này thường được dùng với các hiện tượng cần được theo dõi liên tục do nhu cầu quản lý. Ví dụ như: chấm công, xuất nhập kho, thu chi gia đình….
Điều tra không thường xuyên: là việc thu thập tài liệu không vào thời gian nhất định, khi nào cần thì mới mới tiến hành thu thập tài liệu tại một thời điểm hay một thời kỳ nào đó. Loại điều tra này thường được dùng cho các hiện tượng cần theo dõi thường xuyên nhưng chi phí điều tra lớn (ví dụ như : tổng điều tra dân số…); hoặc không xảy ra thường xuyên (như : điều tra dư luận xã hội về một vấn đề nào đó vừa mới xảy ra…).
Theo nội dung, điều tra xã hội học được chia ra làm hai loại:
Điều tra cơ bản : là hình thức điều tra theo diện rộng, do các chủ thể quản lý tiến hành trên các đối tượng quản lý của mình. Loại điều tra này thường được dùng khi muốn đánh giá tình hình một cách toàn diện, qua đó phát hiện những vướng mắc cần giải quyết, làm cơ sở cho các cuộc điều tra chi tiết hơn. Ví dụ như : trường đại học X muốn thu thập thông tin về số lượng, chất lượng giáo viên, sinh viên, về điều kiện cơ sở vật chất, về những nguyện vọng của giáo viên cũng như sinh viên để phục vụ tốt hơn cho công tác dạy và học. Điều tra cơ bản thường có quy mô lớn, sử dụng nhiều chỉ tiêu, nội dung phong phú. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của loại điều tra này là tốn kém.
Điều tra chuyên đề: là loại điều tra có giả thuyết về đối tượng nghiên cứu. Kết quả điều tra phải làm sáng tỏ, góp phần khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã đặt ra. Điều tra chuyên đề chỉ điều tra một số ít, thậm chí một đơn vị tổng thể, nhưng lại đi sâu nghiên cứu chi tiết nhiều khía cạnh nhằm phát hiện những nhân tố mới hay rút ra những bài học kinh nghiệm. Ví dụ như nghiên cứu những điển hình lạc hậu hay tiên tiến…do tính chất của nó, điều tra chuyên đề thường được tiến hành với số lượng phiếu ít hơn và chi phí cũng ít hơn điều tra cơ bản. Đây là hình thức điều tra được sử dụng khá phổ biến.
2. Việc đo lường và lập thang điểm đánh giá các hiện tượng xã hội
2.1. Những vấn đề chung về đo lường
Khái niệm chung về đo lường
Để có thể đi từ nhận thức định tính về một hiện tượng xã hội đến định lượng về hiện tượng đó, ta phải lượng hoá chúng tức là đo lường chúng. Mục đích của việc đo lường là biến những đặc tính của sự vật thành một dạng để người nghiên cứu có thể phân tích được.
Do vậy đo lường được hiểu là việc ấn định các con số cho các hiện tượng và sự kiện theo các quy tắc nhất định.
Theo định nghĩa này cần chú ý một số điểm như sau : thứ nhất, đo lường là hành động ấn định các con số cho các sự kiện và hiện tượng nhưng hành động ấn định các con số này phải theo những qui tắc nhất định và cùng với đó các qui tắc hướng dẫn phải tạo nên sự phù hợp giữa hiện tượng được quan sát với con số được ấn định cho nó; thứ hai, yêu cầu chung nhất của việc đo lường đó là phải làm sao giải quyết được vấn đề mà người nghiên cứu muốn : đo cái gì, đo như thế nào ?
Những yêu cầu của việc đo lường
Đo lường các hiện tượng xã hội là một công việc rất khó khăn, phức tạp. Muốn cho công việc đo lường có chất lượng tốt, cần đảm bảo 6 yêu cầu sau:
Thứ nhất, có độ tin cậy: nghĩa là phải thu được những kết quả tương đương và phù hợp với nhau nếu sử dụng cùng một phương pháp đo.
Thứ hai, có giá trị: một công cụ đo lường có giá trị khi nó đo lường đúng những gì cần đo.
Thứ ba, có độ nhạy: nghĩa là việc đo lường có thể chỉ ra sự biến động hay sự khác biệt của các sự vật, hiện tượng dù rất nhỏ. Nếu thiếu độ nhạy, việc nghiên cứu sẽ không đem lại kết quả có ý nghĩa đáng kể.
Thứ tư, phải có sự liên hệ với những thuật ngữ mô tả hiện tượng cần đo: tức là trong đo lường phải đặt thang đo có liên quan đến vấn đề cần đo.
Thứ năm, phải có tính đa dạng: nghĩa là kết quả đo lường có thể được đem ra sử dụng cho nhiều mục đích thống kê khác nhau như để giải thích, để hỗ trợ cho độ giá trị của kết quả, để suy đoán những ý nghĩa khác…
Thứ sáu, dễ trả lời: đây là vấn đề quan trọng vì nếu câu hỏi khó hiểu, khó trả lời thì người được hỏi có thể từ chối không trả lời, hoặc sẽ đưa ra những câu trả lời sai lệch không đáp ứng mục đích nghiên cứu.
2.2. Các loại thang đo
Hoạt động đo lường là hoạt động gắn con số cho những đặc tính cần quan sát. Do vậy, mục đích của chúng ta là phát triển dạng thang đo nào đó rồi biến đổi sự quan sát những đặc tính của sự vật theo loại thang đo ấy. Nói cách khác, chúng ta sẽ chỉ định những con số sao cho những con số đó tương đương nhất với những đặc tính của sự vật mà chúng ta muốn đo.
Trong nghiên cứu xã hội, theo tính chất của việc đo lường thường có 4 loại thang đo : thang đo định danh, thang đo thứ bậc, thang đo khoảng, thang đo tỉ lệ. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về 4 loại thang đo này.
Thang đo định danh
Thang đo định danh là việc đánh số các biểu hiện cùng loại của một tiêu thức. Loại thang đo này thường dùng đối với những tiêu thức mà các biểu hiện của nó là một hệ thống các loại khác nhau không theo một trật tự xác định nào cả. Ví dụ: tiêu thức giới tính, tiêu thức thành phần kinh tế, tôn giáo, nghề nghiệp…
Trong thang đo định danh, giữa các con số không có quan hệ hơn kém và vì vậy mọi phép tính đối với các con số này đều là vô nghĩa. Các con số trong thang đo này chỉ sử dụng để đếm tần số của biểu hiện tiêu thức.
Thang đo thứ bậc
Thang đo thứ bậc là thang đo định danh nhưng có khả năng cung cấp thông tin về mối quan hệ thứ tự hơn kém giữa các biểu hiện tiêu thức. Ngay trong định nghĩa chúng ta đã thấy rõ: thang đo thứ bậc thường dùng để đo các tiêu thức mà các biểu hiện của nó có quan hệ thứ tự. Ví dụ: huân chương có ba hạng, bậc thợ có bảy bậc, trình độ văn hoá có 3 cấp…
Trong thang đo thứ bậc, các con số có trị số lớn hơn không có nghĩa ở bậc cao hơn và ngược lại, mà do sự qui định “lớn hơn” hay “nhỏ hơn” mà thôi.
Thang đo thứ bậc nói lên quan hệ hơn kém nhưng sự chênh lệch giữa các biểu hiện của tiêu thức không nhất thiết phải bằng nhau vì vậy thường không thực hiện được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia mà chỉ nói lên đặc trưng một cách tương đối căn cứ vào sự giải thích lớn hơn hay nhỏ hơn mà thôi.
Thang đo khoảng
Thang đo khoảng là thang đo thứ bậc có các khoảng cách đều nhau nhưng không có điểm gốc là số 0. Vì vậy, ta có thể đánh giá sự khác biệt giữa các biểu hiện tiêu thức bằng thang đo này.
Trong thang đo thứ bậc, do quan hệ hơn kém giữa các con số có khoảng cách bằng nhau nên ta có thể thực hiện được các phép tính cộng, trừ, tính được các tham số đặc trưng như: trung bình, phương sai… nhưng do không có điểm gốc là 0 nên không so sánh được tỉ lệ giữa các trị số đo.
Thang đo tỉ lệ
Thang đo tỉ lệ là thang đo khoảng với một điểm không (0) tuyệt đối (điểm gốc) để có thể so sánh được tỷ lệ giữa các trị số đo. Với thang đo này ta có thể thực hiện được tất cả các phép tính với các trị số đo.
Thang đo tỷ lệ là loại thang đo tốt nhất vì nó có thể sử dụng được tất cả các phép tính phân tích về mặt thống kê.
Tóm lại, theo tuần tự thang đo sau có chất lượng đo lường cao hơn thang đo trước, đồng thời việc xây dựng thang đo (xác định trị số cụ thể cho biểu hiện của tiêu thức) cũng phức tạp hơn. Song không phải lúc nào cũng có thể sử dụng được thang đo hoàn hảo mà phải tuỳ thuộc vào đặc điểm tiêu thức.
Việc xây dựng thang đo định danh rất đơn giản. Đối với các thang đo còn lại, khi xây dựng, thông thường người ta phải lấy ý kiến chuyên gia kết hợp với vận dụng phương pháp tính toán thông kê thích hợp.
2.3. Một số cách đặt thang điểm cơ bản
Trong điều tra xã hội học, thang điểm là một công cụ quan trọng để nhận biết được những thông tin đánh giá về vấn đề nghiên cứu. Do vậy thang điểm có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thu thập thông tin, nhất là đối với thông tin định tính. Có rất nhiều cách đặt thang điểm khác nhau, mỗi loại thang điểm thường có một ưu nhược điểm riêng, tuy nhiên, sau đây chúng ta chỉ đi sâu vào nghiên cứu một số loại thang điểm cơ bản.
Thang điểm điều mục
Thang điểm điều mục là loại thang điểm đơn giản, phù hợp với nhiều hoàn cảnh khác nhau. Loại này đòi hỏi người được phỏng vấn cho biết thái độ của họ thông qua việc lựa chọn điều mục đánh giá, các mục này thường được sắp xếp theo một thứ tự nào đó.
Tuy loại thang điểm này đơn giản, dễ trả lời, song khi vận dụng cần chú ý một số điểm sau:
Thứ nhất, chọn số lượng điều mục cho phù hợp. Cần phải có sự quyết định số mục lựa chọn tượng trưng cho thái độ của người được phỏng vấn, số lượng điều mục ít hay nhiều đều có những ưu điểm hay hạn chế riêng của nó. Chẳng hạn: nếu thang điểm chỉ có hai điều mục đối lập nhau thì nó mang tính chất thang đo định danh, rất khó cho công việc phân tích nhưng có thể thích hợp cho bảng câu hỏi dài hay khi trình độ văn hoá của người được hỏi có giới hạn hay do yêu cầu khái quát của người nghiên cứu. Ngược lại, khi sử dụng nhiều điều mục thì giúp cho người được hỏi có nhiều sự lựa chọn rộng rãi hơn nhưng phải phù hợp với đối tượng điều tra và nội dung nghiên cứu đồng thời cần chú ý trong việc sử dụng nếu không sẽ gây rắc rối và không đảm bảo sự khác nhau giữa các điều mục.
Thứ hai, nên cần quan tâm đến số điều mục trả lời là chẵn hay lẻ. Nếu số điều mục trả lời là lẻ, người trả lời dễ có thái độ trung dung với cách chọn câu trả lời ở giữa, tuy không đúng với sự thật nhưng dễ phân tích hơn. Còn nếu số điều mục là chẵn thì người được hỏi bắt buộc phải biểu hiện thái độ của mình.
Thứ ba, không nên đặt câu trả lời lệch về một phía này hay một phía kia làm cho người trả lời khó chọn sẽ ảnh hưởng đến câu trả lời.
Thang điểm xếp hạng theo thứ tự
Thang điểm xếp hạng theo thứ tự là loại thang điểm mà người được hỏi sẽ xếp hạng các mục trả lời theo thứ tự mà họ đánh giá vì vậy lượng thông tin sẽ thu thập được nhiều hơn so với việc chỉ chọn một điều mục.
Loại thang điểm này tuy đơn giản, có thể phân tích được thông tin tương đối sâu sắc mà lại dễ trả lời nhưng cũng gặp một số khó khăn như:
Thứ nhất, trong quá trình xây dựng thang điểm người nghiên cứu khó có thể liệt kê được dầy đủ hết các trường hợp nên dữ liệu thu thập thiếu chính xác.
Thứ hai, đối với loại thang điểm này việc xếp hạng theo thứ tự được nhấn mạnh nên có thể ảnh hưởng đến câu trả lời, đặc biệt là mục thứ nhất và mục chat thường được quan tâm nhiều hơn (do yếu tố tâm lý).
Thứ ba, khi được hỏi để xếp hạng những mục hoàn toàn nằm ngoài ý thích của người được hỏi thì câu trả lời không có ý nghĩa lắm.
Thứ tư, thang điểm này không giúp ta xác định khoảng cách xa gần giữa các mục là bao nhiêu và tại sao người ta lại xếp như vậy.
Thang điểm có tổng không đổi
Thang điểm có tổng không đổi là loại thang điểm có khả năng cung cấp một nhận thức tổng quát tốt hơn về khoảng cách giữa các điều mục trên giải thang điểm. Cụ thể: người được hỏi cần chia hay xác định một số điểm có tổng không đổi thường là 100 để biểu thị sự quan trọng tương đối của những đặc điểm nghiên cứu. Số lượng điểm được xác định trong mỗi đặc điểm đã chỉ rõ hạng bậc của nó và đồng thời cũng chỉ rõ sự khác biệt giữa các đặc điểm với nhau.
Thang điểm này có ưu điểm là cho phép phân tích chi tiết và cụ thể hơn thông tin thu được nhưng vẫn còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, đối với loại thang điểm này nếu có quá nhiều điều mục thì việc chia điểm cũng gặp khó khăn vì vậy thang điểm này chỉ sử dụng cho những đối tượng có trình độ dân trí cao. Đôi khi, để khắc phục tình trạng này, ta có thể cho điểm tuỳ ý các điều mục với thang điểm là 100.
Thứ hai, mặc dù như trên đã nói “số điểm được xác định cho mỗi đặc điểm đã chỉ rõ hạng bậc của nó, đồng thời cũng chỉ rõ sự khác biệt giữa các đặc điểm với nhau” tuy nhiên không thể chắc chắn là những kết quả đó có biểu thị đúng với khoảng cách và tỉ lệ thực tế giữa các đặc điểm hay không.
Thang điểm có ý nghĩa đối nghịch nhau
Thang điểm có ý nghĩa đối nghịch nhau là loại thang điểm mà người được hỏi cho biết ý kiến của mình về vấn đề cần được nghiên cứu bằng cách ghi ý kiến trả lời trên một chuỗi tính từ tạo thành từng cặp đối nghịch nhau về ý nghĩa. Ví dụ như để hỏi đánh giá về chất lượng phục vụ tại một nhà hàng, người ta dùng thang điểm 7 vị trí có ý nghĩa đối nghịch nhau như sau :
Cực nặng Cực nhẹ
Rất Khá Hơi Trung bình Hơi Khá Rất
nhiệt nhiệt nhiệt không không không
tình tình tình nhiệt nhiệt nhiệt
tình tình tình
Thang điểm đánh giá qua hình vẽ
Thang điểm đánh giá qua hình vẽ là loại thang điểm mà người được hỏi cho biết ý kiến đánh giá của mình thông qua việc lựa chọn hình vẽ biểu thị mà họ cho là phù hợp với nhận xét của mình nhất. Loại thang điểm này có thể đo ở nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung và qui mô của hiện tượng nghiên cứu.
Trong điều tra xã hội học người ta thường sử dụng các loại thang điểm hình vẽ như : thang điểm hình nhiệt kế, thang điểm với các vẻ mặt khác nhau v…v để nói lên độ đồng tình hay không đồng tình về một vấn đề nào đó.
Tóm lại, ngoài các thang điểm cơ bản trên còn có nhiều cách đặt thang điểm nữa tuỳ thuộc vào kỹ thuật của các nhà nghiên cứu tuy nhiên mỗi loại thang điểm đều có những ưu nhược điểm riêng vì vậy người nghiên cứu phải biết lựa chọn loại thang điểm nào thích hợp nhất, có khả năng đáp ứng tốt nhất những nhu cầu thông tin với chi phí thấp nhất, phương pháp truyền đạt dễ dàng, dễ hiểu và dễ trả lời.
3. Các loại câu hỏi trong bảng hỏi
Trong điều tra xã hội học, nội dung của các cuộc điều tra được thể hiện bằng các câu hỏi trong bảng hỏi. Nhờ có các câu hỏi này mà người hỏi có thể hướng người được hỏi vào một quỹ đạo cần thiết, vì vậy các câu hỏi trong bảng hỏi là “công cụ dẫn đường” vô cùng quan trọng giúp người hỏi có thể hoàn thành được công việc thu thập thông tin một cách dễ dàng hơn.
Tuỳ theo từng tiêu thức phân loại khác nhau mà các câu hỏi được chia ra thành nhiều loại nhỏ tương ứng với các tiêu thức đó. Ta có sơ đồ phân loại các loại câu hỏi sau : (xem trang 13)
Các loại câu hỏi
Theo công dụng
Theo biểu hiện
Nội dung
Chức năng
Câu trả lời
Cách hỏi
Câu
hỏi
sự kiện
Câu hỏi tri thức
Câu hỏi quan điểm, thái độ, động cơ
Câu
hỏi tâm lý
Câu hỏi lọc
Câu hỏi kiểm tra
Câu hỏi đóng
Câu
hỏi
mở
Câu hỏi nửa đóng
Câu hỏi trực tiếp
Câu hỏi gián tiếp
Câu hỏi lưỡng cực
Câu hỏi cường độ
Câu hỏi tuỳ chọn
Sơ đồ 1: Các loại câu hỏi
3.1. Theo công dụng
Theo nội dung:
Mục đích của cuộc điều tra là phải nắm được nội dung bao gồm tình hình, sự nhận thức hiểu biết, thái độ quan điểm động cơ của người được điều tra. Vì vậy câu hỏi về nội dung thường được chia thành 3 loại sau:
- Câu hỏi về sự kiện là những câu hỏi để nắm tình hình bao gồm cả tình hình về đối tượng điều tra.
Ví dụ : Bạn đã tốt nghiệp đại học chưa ?
Bạn có biết tin tổng thống Nga sắp sang thăm nước ta hay
không?
Nhìn chung, những câu hỏi về sự kiện thường dễ trả lời. Chính vì vậy, người ta thường dùng để bắt đầu hỏi trong phỏng vấn những câu hỏi sự kiện để người trả lời quen dần với cuộc toạ đàm hoặc để tạm nghỉ giữa những câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ…
Thông tin thu được từ các câu hỏi sự kiện thường có độ tin cậy và xác thực cao so với những câu hỏi về nội dung khác. Tuy nhiên, khi dùng những câu hỏi về các sự kiện trong quá khứ cần đề phòng những sai lầm xảy ra do trí nhớ kém. Trong trường hợp này, người nghiên cứu cũng cần phải giúp người trả lời bằng cách phục hồi lại bối cảnh xung quanh để họ tái hiện thông tin cần thiết.
- Câu hỏi về tri thức là loại câu hỏi nhằm xác định xem người được hỏi có nắm vững về một tri thức nào đó không, hay nhằm đánh giá trình độ nhận thức về chủ đề điều tra.
Ví dụ : Tháng 4 năm nay cả nước sẽ long trọng kỉ niệm 30 năm giải phóng miền Nam. Bạn hãy cho biết đôi điều về diễn biến lịch sử của những ngày này 30 năm về trước.
Khi sử dụng những câu hỏi tri thức cần chú ý tránh loại câu hỏi lưỡng cực “có - không” vì người trả lời dễ ngộ nhận là mình có biết. Trong trường hợp vẫn dùng câu hỏi ấy thì phải kèm theo một số câu hỏi phụ để kiểm tra thêm đối tượng có thực sự hiểu biết về vấn đề đó hay không.
Nếu so sánh đối chiếu trên những bậc thang về nhận thức thì câu hỏi sự kiện mới là ở mức “biết”, còn đến câu hỏi tri thức mới đạt tới mức “hiểu”.
- Câu hỏi về quan điểm, thái độ, động cơ
Câu hỏi về thái độ (còn gọi là câu hỏi ý kiến) là câu hỏi nhằm thu thập tất cả những xử sự nói (hoặc viết ra) của người được hỏi thành các nhận xét, phê phán.
Câu hỏi về quan điểm: quan điểm được hiểu là thói quen xử xự, nghĩa là các quan hệ tương đối ổn định của con người đối với các hiện tượng, sự vật, nhóm người, xã hội, các chuẩn mực và giá trị của chúng. Chức năng của câu hỏi về qun điểm và thái độ có thể gần giống nhau và khác chăng chỉ là về mức độ. Cụ thể: quan điểm là dạng tổng hợp và suy diễn của các ý kiến thái độ.
Câu hỏi về động cơ: động cơ được hiểu là cơ sở bên trong của cách xử xự và thói quen xử xự và là động lực nguyên nhân của cách xử xự đó. Khi tổng hợp và phân tích những câu hỏi về động cơ cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, khó có thể thu thập về toàn bộ kết cấu các động cơ khác nhau nên cần phải tìm ra một số động cơ chính để giải thích và coi đó là động cơ duy nhất.
Thứ hai, phải phân biệt rõ ràng đâu là nguyên nhân trực tiếp, đâu là nguyên nhân suy diễn (nguyên nhân gián tiêp).
Thứ ba, các nhầm lẫn (nếu có) khi trả lời câu hỏi này phần lớn là không có chủ ý.
Thứ tư, khi đặt câu hỏi loại này phải khơi gợi được mối quan tâm và đặc biệt là sự tin tưởng của người được hỏi vì nếu người được hỏi biết rằng những nhận xét, quan điểm của họ có ý nghĩa, hoặc sẽ được phản hồi thì người được hỏi sẽ rất hứng thú trả lời.
Theo chức năng
Trên thực tế, để truyền tải những nội dung của cuộc điều tra, đặc biệt là trong hình thức phỏng vấn trực diện, cần phải có những câu hỏi mang tính chất kỹ thuật, đó là các câu hỏi chức năng. Các câu hỏi về chức năng cũng thường được chia thành 3 loại sau :
Câu hỏi tâm lý có thể là những câu hỏi tiếp xúc để gạt bỏ những nghi ngờ có thể nảy sinh, để giảm bớt sự căng thẳng hay chuyển từ chủ đề này sang chủ đề khác (thường chỉ dùng trong phỏng vấn trực diện).
Những câu hỏi tiếp xúc thường có ý đưa người được hỏi lên vị trí của một chuyên gia, một người từng trải trong cuộc sống là động cơ thúc đẩy người được hỏi và lôi cuốn họ vào vấn đề nghiên cứu.
Những câu hỏi để giảm bớt sự căng thẳng là những câu hỏi biểu thị sự quan tâm tới người được hỏi về đời sống hàng ngày, gia đình v…v thường không liên quan đến vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu.
Còn những câu hỏi để chuyển sang đề tài khác được sử dụng như một chiếc cầu nối giữa các nội dung, thường thì những câu hỏi này cũng không liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
Nhìn chung, với chức năng tâm lý của nó thì câu hỏi tâm lý không có liên quan rõ ràng đến nội dung nghiên cứu. Chính vì thế việc sử dụng những câu hỏi này phải khéo léo và có mức độ. Có người đã ví nó như gia vị trong một món ăn, sử dụng nhiều hoặc không đúng chỗ có thể gây ra phản tác dụng.
Câu hỏi lọc là loại câu hỏi có tác dụng tìm hiểu xem người được hỏi có thuộc nhóm người dành cho những câu hỏi tiếp theo hay không. Câu hỏi lọc có thể dùng trước khi tiến hành cuộc phỏng vấn hay trước đi tiếp vào một nội dung nào đó.
Khi nghiên cứu câu hỏi lọc, đặc điểm cần chú ý là có một hình thức biến dạng của nó thường dùng trong điều tra thống kê nước ta là hướng dẫn “bước nhảy” với ý nghĩa là cho phép chuyển đến hoặc “được phép chuyển đến”, bởi vì nếu không chuyển ngay vào mà vẫn theo trình tự bình thường thì các câu trả lời sẽ không có giá trị đích thực.
Câu hỏi kiểm tra là câu hỏi có tác dụng kiểm tra độ chính xác của những thông tin thu thập được. Câu hỏi kiểm tra có thể thực hiện được một vài chức năng khác nhau. Nó có thể kiểm tra những câu trả lời về một vấn đề, nhưng cũng có thể xác định mức tin cậy đối với từng câu hỏi hoặc toàn bộ câu hỏi của bảng Anket nói chung. Phương thức để thực hiện có thể rất khác nhau, rất linh hoạt. Có thể nêu câu hỏi, tiếp sau đưa phương án trả lời về câu hỏi đó để thử người được hỏi xem có trung thực với câu trả lời của mình không. Khi đặt câu hỏi kiểm tra cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, trong quá trình phỏng vấn nên chuẩn bị một số cau hỏi kiểm tra đối với các nội dung nghiên cứu chủ yếu và những câu hỏi này phải được kiểm tra trong thực tiễn là có thể dùng được.
Thứ hai, câu hỏi kiểm tra không bao giờ được đặt liền với câu hỏi mà nó định kiểm tra, mà thường phải cách xa khoảng 3, 4 câu hỏi khác. Nếu không làm như vậy có thể làm phát sinh sự nghi ngờ ở người được hỏi, làm ảnh hưởng đến tiến trình phỏng vấn tiếp theo.
3.2. Theo biểu hiện
Theo biểu hiện của câu trả lời
Theo hình thức biểu hiện này, các câu hỏi thường được chia thành 3 loại
- Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi đã có trước các phương án trả lời, cụ thể là trong đó đã đề ra cho người trả lời một hoặc vài câu trả lời có thể có được. Bằng cách nào đó người trả lời có thể đánh dấu hoặc gạch dưới câu trả lời đã chọn hoặc những câu hỏi trong bảng hỏi. Nếu là phỏng vấn trực diện, những câu trả lời có thể được đọc lên hay chỉ trên phiếu cho người được hỏi.
Người ta thường phân biệt ba loại câu hỏi đóng sau:
Câu hỏi lưỡng cực (câu hỏi loại trừ) : loại câu hỏi này là phổ biến nhất, câu trả lời cho loại câu hỏi này chỉ là “có - không”; “đồng ý-không đồng ý”…Tuy nhiên loại câu hỏi này có nhược điểm đó là thường nhận được câu trả lời thiên về một phía mà lại thường là phía tích cực. Vì vậy, để người lời có trách nhiệm hơn và do đó câu trả lời được xác thực hơn người ta thường xử lý bằng cách sử dụng câu hỏi kiểm tra hoặc bằng việc thay đổi cách diễn đạt.
Ví dụ : Bạn đã từng đi du lịch vào Đà Lạt chưa ?
□ Chưa
□ Rồi
Câu hỏi cường độ: là loại câu hỏi mà người mà người ta đặt ra nhiều khả năng trả lời theo cường độ của hiện tượng hoặc ý kiến. Câu hỏi cường độ được đưa ra để tránh sự cực đoan trong câu hỏi lưỡng cực. Với câu hỏi cường độ, người ta đưa ra số khả năng chọn là 3, 5 hoặc nhiều hơn xoay quanh câu trả lời trung bình.
Ví dụ : Bạn cảm thấy cường độ làm việc trong công ty này như thế nào ?
□ Rất nặng
□ Tương đối nặng
□ Bình thường
□ Tương đối nhẹ
□ Rất nhẹ
Câu hỏi tuỳ chọn (câu hỏi tuyển) : đặc điểm khác cơ bản của câu hỏi này là các khả năng trả lời không loại trừ lẫn nhau, người được hỏi có thể chọn một số khả năng nào đó mà họ cảm thấy phù hợp với họ.
Ví dụ : Xin Anh(Chị) vui lòng cho biết hai lý do quan trọng nhất khiến Anh(Chị) quyết định chọn sử dụng mạng di động của tổng công ty V chúng tôi.
□ Chất lượng mạng tốt
□ Giá thành rẻ
□ Có nhiều hình thức khuyến mại hấp dẫn
□ Vùng phủ sóng rộng
□ Có nhiều loại hình dịch vụ thú vị
□ Phương thức thanh toán cước phí đa dạng
Những câu hỏi loại này thường được sử dụng khá phổ biến vì trên phương diện kỹ thuật nó có khá nhiều ưu điểm như:
Về phía người được hỏi, khá thuận tiện cho việc trả lời. Họ chỉ việc lựa chọn trong số khả năng trả lời đã có sẵn mà không cần suy nghĩ gì thêm.
Về phía người sử dụng kết quả, rất tiện cho việc tổng hợp và sử dụng kết quả một cách rõ ràng.
Tuy nhiên, khi sử dụng loại câu hỏi này cũng gặp phải một chút khó khăn sau:
Khó khăn đầu tiên là về mặt kỹ thuật và tâm lý: người đặt câu hỏi phải tự đặt vị trí của mình vào vị trí của người được hỏi.
Khó khăn thứ hai là về mặt nội dung: người soạn thảo bảng hỏi phải lường trước tất cả những phương án trả lời có thể có và các phương án trả lời muốn nhận được từ người được hỏi. Đồng thời rất khó để tìm kiếm những vấn đề mới nảy sinh.
Còn một vấn đề nữa mà chúng ta nên lưu tâm khi sử dụng loại câu hỏi này là : Với những câu hỏi loại này, ý kiến trả lời thường có nguy cơ là._. thiên về những khả năng đầu tiên. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân nhưng thường là do người trả lời thiếu trách nhiệm, chỉ ngộ nhận những khả năng đầu tiên là quan trọng nhất…
- Câu hỏi mở là câu hỏi không có sẵn phương án trả lời do người hỏi nghĩ ra mà ngược lại, người trả lời sẽ tự nghĩ ra phương án trả lời. Như vậy, nó cho phép người trả lời tự thông tin một cách tốt nhất những suy nghĩ của họ.
Do đặc điểm trên nên câu hỏi mở rất có tác dụng trong việc thu thập ý kiến, quan điểm một cách đầy đủ nhất theo một chủ đề hoặc trong một phạm vi nghiên cứu đã đề ra và thường được sử dụng trong những trường hợp sau:
Được sử dụng vào lúc bắt đầu cuộc nghiên cứu, khi chuẩn bị thăm dò ý kiến; nó cho phép rút ra những câu trả lời khác nhau cho một câu hỏi nhất định.
Trong trường hợp muốn làm tăng tính tích cực của người được phỏng vấn, người ta thường bắt đầu phỏng vấn nói chung hoặc đi vào một vấn đề cụ thể nào nói riêng bằng những câu hỏi mở để làm cho cuộc hội thoại tự nhiên, người hỏi khỏi bị động.
Để chuẩn đoán nhận thức hay kiểm tra nhận thức của người được hỏi.
Để chuẩn đoán động cơ, lý do xử xự, những lo lắng cá nhân, những vấn đề tồn tại, mong muốn, nguyện vọng…khó cho trước các khả năng trả lời.
Khó khăn lớn nhất đối với câu hỏi mở là ở vấn đề xử lý. Nguyên tắc của việc xử lý là phải tách thành các nhóm mà theo đó có thể thu thập tư liệu từ những câu trả lời. Các nhóm ý kiến này do chính người trả lời hình thành. Chính vì thế trong rất nhiều phiếu phỏng vấn, phiếu điều tra, câu hỏi mở được sử dụng rất ít, thậm chí không hề có, có khi chỉ là dạng người trả lời được kiến nghị.
Mặt khác, trong trường hợp những người được hỏi có trình độ không đều nhau, quan điểm không nhất quán, việc trả lời những câu hỏi mở thường rất phân tán, thậm chí còn trả lời trái ngược nhau. Cơ cấu người được hỏi ảnh hưởng đến câu hỏi mở còn mạnh mẽ, phức tạp hơn.
Cho đến nay, việc sử dụng câu hỏi đóng, mở vẫn còn rất nhiều tranh cãi. Người ta nêu ra các tiêu chuẩn đánh giá là: “tiết kiệm, ổn định, xác thực”, nhưng đi vào từng trường hợp cụ thể, khó có loại câu hỏi nào giữ được ưu thế tuyệt đối. Một vài điểm thống nhất cá biệt có thể là: những câu hỏi lọc bao giờ cũng là những câu hỏi đóng; còn đối với những câu hỏi tiếp xúc, tâm lý, thái độ v…v đều là câu hỏi mở.
- Câu hỏi nửa đóng về hình thức là dạng kết hợp giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở, còn về nội dung thì nó được sử dụng trong những trường hợp sau đây:
Trường hợp khi không tìm hết được những phương án diễn đạt cho câu hỏi đóng, cần thiết phải cho người trả lời tự diễn đạt vấn đề theo ý họ.
Trường hợp khi chỉ cần xử lý tổng hợp theo những phương án trả lời đã định sẵn nhưng không muốn người trả lời rơi vào thế hụt hẫng.
Theo biểu hiện của câu hỏi
Tuỳ theo cách hỏi, các câu hỏi được biểu diễn dưới dạng trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Câu hỏi trực tiếp là cách hỏi thẳng ngay vào nội dung vấn đề, người được hỏi không bị câu nệ và có thể trả lời vào chính nội dung đó.
Ví dụ : Bạn có cho rằng giá xăng dầu lại sẽ tiếp tục tăng nữa không?
□ Có
□ Không
- Câu hỏi gián tiếp là cách hỏi khôn khéo, thường những vấn đề mà xã hội gán cho nó tính tiêu cực hay những vấn đề tế nhị thì nên hỏi gián tiếp.
Ví dụ khi muốn hỏi về thu nhập của một người, ta có thể hỏi : “Anh(Chị) chi tiêu như thế này chắc thu nhập cũng khá lắm nhỉ? ”; “Thu nhập của Anh(chị) chắc cũng đủ dùng và có thể tiết kiệm được một khoản chứ nhỉ”.
Nhìn chung, đối với các nội dung cấm kỵ, nhất là ở các nước phương Đông thì giữa câu hỏi trực tiếp và gián tiếp có thể có kết quả khác nhau.
4. Các phương pháp thu thập thông tin
Trong điều tra xã hội học, việc tiến hành thu thập thông tin là một trong những công việc khá quan trọng và không thể thiếu trong mỗi cuộc điều tra. Thông tin thu thập được có đầy đủ và chính xác thì kết quả phân tích mới thực sự có ý nghĩa. Mặt khác, các hiện tượng xã hội lại rất phức tạp, các điều kiện và hoàn cảnh để thu thập thông tin lại rất khác nhau. Vì vậy, để thông tin thu thập đầy đủ và chính xác, đồng thời tận dụng được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau thì phương pháp thu thập thông tin phải đa dạng và phù hợp. Sau đây, ta sẽ đi sâu nghiên cứu một vài phương pháp thu thập thông tin cơ bản trong điều tra xã hội học.
4.1. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin dựa vào một bảng hỏi đã được thiết kế sẵn và khi đó bảng hỏi sẽ là cầu nối giữa điều tra viên và người được hỏi. Do vậy bảng hỏi giữ một vai trò hết sức quan trọng trong phương pháp này. Có 3 phương pháp phỏng vấn cơ bản: Phỏng vấn viết (Anket); phỏng vấn trực diện; phỏng vấn qua điện thoại (xem sơ đồ trang 22)
Các loại phỏng vấn
Phỏng vấn viết
(Anket)
Phỏng vấn trực diện
Phỏng vấn qua điện thoại
Theo nội dung,
trình tự tiến hành
Theo đối tượng phỏng vấn
Phỏng vấn tiêu chuẩn hoá
Phỏng vấn bán tiêu chuẩn
Phỏng vấn
tự
do
Phỏng vấn sâu
Phỏng vấn
cá nhân
Phỏng vấn nhóm
Phỏng vấn định hướng
sơ đồ 2 : các loại phỏng vấn
Phương pháp Anket (phỏng vấn viết)
Phương pháp Anket là phương pháp trong đó sự tiếp xúc với người được hỏi được thực hiện thông qua bảng hỏi, người được hỏi tự điền câu trả lời vào bảng hỏi và vì vậy những nguyên tắc tâm lý trong sắp xếp bảng hỏi đều hướng vào người trả lời.
Phương pháp Anket có những đặc điểm cơ bản phù hợp với yêu cầu điều tra xã hội học. Cụ thể :
Dễ tổ chức: chỉ cần một bảng hỏi lập sẵn là có thể tiến hành điều tra hay phỏng vấn mà không cần có địa điểm và nghi thức gặp gỡ, không cần có mặt người phỏng vấn. Bên cạnh đó, khi điều tra những vấn đề về tâm tư, tình cảm, thái độ hay những vấn đề về tâm lý phức tạp thì sự vắng mặt của người điều tra là thích hợp. Mặt khác, việc dấu tên người phỏng vấn cho phép điều tra sâu và rộng ở nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực khác nhau.
Nhanh chóng: Việc điều tra có thể tiến hành với nhiều người cùng một lúc. Nếu có đông người cùng tập trung tại một địa điểm trong một thời gian thì có thể nhanh chóng thu thập được ý kiến cần thiết của tất cả mọi người.
Tiết kiệm chi phí: với phương pháp này có thể tiết kiệm được cả chi phí lẫn cả thời gian. Với bảng hỏi đã lập sẵn, cùng một lúc có thể tiến hành điều tra được nhiều người mà không cần nhiều cán bộ điều tra.
Tuy nhiên bên cạnh đó, phương pháp này vẫn còn một số hạn chế như:
Điều kiện áp dụng: phương pháp này chỉ có thể áp dụng cho những vùng có trình độ dân trí cao như các thành phố chẳng hạn, không thể áp dụng cho vùng sâu vùng xa vì trình độ dân trí của người dân ở đây thấp và tinh thần trách nhiệm không cao.
Tỉ lệ trả lời thấp: không phải tất cả các phiếu hỏi đều thu được phiếu trả lời mà số lượng trả lời còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố như : sự hấp dẫn của chủ đề cuộc điều tra, hình thức và độ dài bảng hỏi, chất lượng của thư giải thích về mục đích nghiên cứu và những vấn đề có liên quan, phương pháp sử dụng để phân phát bảng hỏi.
ít có cơ hội để giải thích các vấn đề: nếu vì bất kì lý do gì người được phỏng vấn không hiểu một vài câu hỏi, thì họ không có cơ hội để được giải thích rõ ràng hoặc câu hỏi được hiểu với nhiều ý nghĩa khác nhau thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của thông tin thu được.
Câu trả lời của câu hỏi này bị ảnh hưởng bởi câu hỏi khác: Bởi vì trước khi trả lời, người được hỏi có thể đã đọc lướt qua tất cả các câu hỏi, nên cách trả lời một câu hỏi cụ thể nào đó có thể bị ảnh hưởng bởi nội dung của các câu hỏi khác.
Người được hỏi có thể tham gia ý kiến với người khác: với bảng hỏi được phát thì người được hỏi có thể tham khảo ý kiến của người khác trươc khi trả lời.
Phương pháp Anket không thể kết hợp với các phương pháp khác để thu thập thông tin: một cuộc phỏng vấn đôi khi có thể kết hợp các phương pháp để thu thập thông tin ví dụ như kết hợp phỏng vấn trực diện với phương pháp quan sát chẳng hạn, nhưng phương pháp Anket không có được lợi thế này.
Phương pháp phỏng vấn trực diện
Phương pháp phỏng vấn trực diện thông thường được hiểu là cuộc nói chuyện riêng hay trò chuyện có chủ định mà ở đó người điều tra trực tiếp tiếp xúc với người được điều tra.
Như vậy, với định nghĩa như trên ta thấy phỏng vấn trực diện khác với cuộc nói chuyện thông thường ở hai điểm: Thứ nhất, mục đích của cuộc nói chuyện này là do chương trình nghiên cứu qui định từ trước. Thứ hai, vai trò của người nói chuyện đã được qui định, thậm chí được chuẩn hoá. Vì thế, phỏng vấn trực diện còn được coi là “cuộc tiếp xúc giả tạo”.
Do việc tiếp xúc trực tiếp như vậy nên phỏng vấn trực diện có nhiều ưu điểm mà phương pháp Anket không có được như:
Việc tiếp xúc trực tiếp tạo ra những điều kiện đặc biệt để có thể hiểu đối tượng sâu sắc hơn, từ đó làm cho chất lượng thông tin thu được thường có độ chính xác cao, làm cho người nói chuyện có thể hiểu vấn đề một cách đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và sát với thực tế hơn.
Do tiếp xúc trực tiếp nên có thể kết hợp việc phỏng vấn với quan sát đối tượng từ hình dạng bên ngoài cho đến thay đổi tâm lý thái độ, tình cảm và từ đó có thể phát hiện ra những sai sót có thể và kịp thời uốn nắn.
Dễ dàng giải thích cho đối tượng những cau hỏi, những thuật ngữ, những vấn đề mà người ta chưa hiểu hoặc hiểu không chính xác, trên cơ sở đó làm cho chất lượng thông tin tốt hơn.
Tuy nhiên, phương pháp phỏng vấn trực diện cũng có một số hạn chế cần phải lưu ý như:
Tốn kém: so với các phương pháp khác, thì chi phí cho các phương pháp này tốn kém hơn rất nhiều với các khoản như tiền ăn ở, phương tiện đi lại cho điều tra viên cũng như thời gian và công sức mà điều tra viên bỏ ra.
Tổ chức khó khăn: việc tổ chức đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng về điều tra viên, địa điểm, nghi thức gặp gỡ.
Câu trả lời có thể chịu ảnh hưởng bởi ý kiến cá nhân của điều tra viên: vì đây là cuộc gặp trực tiếp, điều tra viên giải thích cho đối tượng điều tra, nên nếu điều tra viên không hiểu rõ vấn đề đang nghiên cứu hoặc giải thích có tính chủ quan thì có thể ảnh hưởng đến chất lượng trả lời.
Xét một cách toàn diện, một cuộc phỏng vấn trực diện có 4 tính chất sau đây:
Tính một chiều: cuộc phỏng vấn trực diện là cuộc giao tiếp một chiều do người phỏng vấn điều khiển. Người phỏng vấn phai làm chủ cả quá trình phỏng vấn từ khi mở đầu đến lúc kết thúc. Chính do tính chất một chiều và làm chủ đó mà người phỏng vấn phải tạo được không khí cởi mở, dễ dàng thổ lộ cho người trả lời.
Tính qui định: tính chất này biểu hiện ở chỗ nội dung và các khả năng xử xự trong cuộc nói chuyện được qui định sẵn trong bảng hỏi và trong kế hoạch phỏng vấn.
Tính giả định: là các yêu cầu và tình huống giả định để thu lại những phản ứng khác nhau của người được phỏng vấn.
Tính phi hậu quả: có nghĩa là các cuộc phỏng vấn phải đảm bảo không gây hậu quả cho người được phỏng vấn. Mức phi hậu quả bắt nguồn từ hai lý do sau đây: Thứ nhất, từ tính giả định của cuộc phỏng vấn. Thứ hai, từ nguyên tắc nặc danh, yêu cầu được giữ bí mật của cuộc phỏng vấn, tránh những điều phiền toái, truy cứu những người trả lời.
Tuỳ theo tiêu thức phân loại là nội dung trình tự tiến hành hay đối tượng tiếp xúc mà phỏng vấn trực diện được chia ra làm các loại khác nhau với những ưu điểm và hạn chế riêng.
Nếu xét theo nội dung và trình tự tiến hành thì phỏng vấn trực diện được chia ra làm 5 loại :
Phỏng vấn tiêu chuẩn hoá : là cuộc phỏng vấn diễn ra theo một trình tự nhất định với nội dung được vạch sẵn cho mọi người dựa vào một bảng hỏi. Đối với loại phỏng vấn này, người phỏng vấn không được thay đổi trình tự các câu hỏi, không có quyền đưa thêm câu hỏi bổ sung hoặc gợi ý thêm các phương án trả lời.
Với tính chất như trên, loại phỏng vấn này có ưu điểm là số liệu có thể so sánh trực tiếp được với nhau phục vụ việc tổng hợp dễ dàng và thường phù hợp với việc kiểm định giả thuyết.
Phỏng vấn bán tiêu chuẩn : thực chất là hình thức trung gian giữa phỏng vấn tiêu chuẩn hoá và phỏng vấn tự do. Cụ thể là ở đây các câu hỏi có tính chất quyết định hay các câu hỏi chủ yếu được tiêu chuẩn hoá, còn các câu hỏi khác thì có thể phát biểu tuỳ tình hình thực tế.
Như vậy, phỏng vấn bán tiêu chuẩn sẽ tận dụng được ưu điểm và hạn chế nhược điểm của phỏng vấn tiêu chuẩn và phỏng vấn tự do.
Phỏng vấn tự do : là cuộc phỏng vấn không có những câu hỏi đã định trước và cũng không theo kế hoạch đã định trước mà chỉ đưa ra đề tài và người phỏng vấn hoàn toàn tự do tiến hành như một cuộc nói chuyện.
Loại phỏng vấn này có ưu điểm là người trả lời được tự do trình bày ý kiến, quan điểm của mình sâu rộng một cách tuỳ ý còn người phỏng vấn thì chủ động thực hiện mục đích của mình mà không bị gò bó.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của loại phỏng vấn này là người phỏng vấn phải có trình độ chuyên môn cao, biết duy trì và dẫn dắt câu chuyện đến đích.
Phỏng vấn sâu khác với phỏng vấn tự do ở chỗ ngoài những đề tài nói chuyện chung, người ta còn đặt trước một số câu hỏi hoặc vấn đề nhất định cần phải được trả lời.
Phỏng vấn sâu có một đặc điểm khá khác biệt với các loại khác là không cần nhiều đối tượng điều tra, thậm chí chỉ cần một vài người để hỏi về những vấn đề sâu kín, tiềm ẩn mà không phải ai trong số họ cũng có cảm nhận hoặc nói ra.
Cũng như phỏng vấn tự do, ở đây đòi hỏi người phỏng vấn phải có trình độ cao, có phương pháp tâm lý và dẫn dắt tâm lý.
Phỏng vấn định hướng : khác với những loại phỏng vấn trên, phỏng vấn định hướng là cuộc phỏng vấn được đặt mục đích nghiên cứu rõ ràng hay nói khác đi là nó tập trung vào một mục tiêu cụ thể nào đó.
Theo đối tượng tiêp xúc, người ta chia phỏng vấn trực diện ra làm 2 loại: phỏng vấn cá nhân và phỏng vấn nhóm (tập thể).
Phỏng vấn cá nhân : có thể là tất cả các loại phỏng vấn tiêu chuẩn, bán tiêu chuẩn, tự do, phỏng vấn sâu, phỏng vấn định hướng. Trong loại phỏng vấn này, điều tra viên tiếp xúc với từng cá nhân đối tượng điều tra để tiến hành thu thập số liệu.
Phỏng vấn nhóm (tập thể) : Khác với phỏng vấn cá nhân có thể áp dụng tất cả các loại phỏng vấn trên thì phỏng vấn nhóm thường chỉ áp dụng nhóm tiêu chuẩn (cơ cấu tiêu chuẩn, đồng nhất) và nhóm tự do (không đồng nhất) trong khi vẫn tuân thủ nội dung phỏng vấn tiêu chuẩn hoặc tự do đã nói trên.
Phương pháp phỏng vấn qua điện thoại
Đây là loại phỏng vấn trên thực tế chỉ áp dụng đối với phỏng vấn cá nhân, người phỏng vấn và người được phỏng vấn không gặp mặt trực tiếp mà thông qua điện thoại.
Ngày nay, khi điện thoại đã trở nên phổ biến và quen thuộc trên toàn thế giới thì phương pháp phỏng vấn này được áp dụng ngày càng nhiều hơn. Thông thường, phương pháp này được sử dụng trong các cuộc điều tra có nội dung tế nhị, bởi vì nếu sử dụng các hình thức điều tra khác thì rất khó khăn trong việc thu thập thông tin và nếu có thu thập được thì thông tin không chính xác, kết quả thu được không như mong đợi.
Phương pháp phỏng vấn qua điện thoại có rất nhiều ưu điểm như :
Tiết kiệm chi phí và thời gian hơn vì với phương pháp này không phải bỏ ra những chi phí đi lại, chi phí gặp gỡ và thời gian không cấn nhiều để tiến hành phỏng vấn.
Mặt khác, phương pháp này còn có khả năng đảm bảo tính khách quan hơn vì có rất nhiều vấn đề, đặc biệt là những vấn đề về tâm tư, tình cảm thì việc trao đổi qua điện thoại thì thuận tiện hơn rất nhiều so với gặp mặt trực tiếp.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng không tránh khỏi những hạn chế như :
Mất nhiều công sức để chọn số điện thoại (vì điều tra qua điện thoại phải thông qua danh bạ điện thoại), mà trong số những số điện thoại chọn ngẫu nhiên chỉ có một số là thành công trong việc phỏng vấn vì nhiều lý do khác nhau.
Phỏng vấn qua điện thoại có thể làm giảm hứng thú đối với người phỏng vấn và người trả lời vì nhiều khi người phỏng vấn đưa ra câu hỏi dài quá gây mất tập trung cho người trả lời, và ngược lại, khi người được phỏng vấn trả lời dài dòng quá sẽ gây ra sự nhàm chán cho người phỏng vấn.
Vì phỏng vấn qua điện thoại không có sự gặp mặt trực tiếp của người phỏng vấn và người được phỏng vấn nên việc đưa ra các gợi ý hay hỗ trợ thêm bằng quan sát là không thực hiện được.
4.2. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được hiểu là phương pháp thu thập thông tin bằng tri giác trực tiếp trong điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên và ghi chép lại. Tuy nhiên, quan sát ở đây không chỉ đơn thuần là quan sát bằng cơ quan cảm giác bình thường mà là bằng óc quan sát thông thường được dùng trong điều tra chuyên khảo. Trong phương pháp này người quan sát phải sử dụng tất cả các giác quan của mình, sử dụng sự nhạy cảm của mình để thu nhận được thông tin về sự vật, hiện tượng xảy ra trong thực tiễn.
Phương pháp quan sát thông thường được sử dụng với hai mục đích : Thứ nhất, được dùng trong việc nghiên cứu hay dự định thăm dò vấn đề khi chưa có khái niệm rõ ràng về nó, mặt khác lại không có yêu cầu về tính đại diện. Thứ hai, được dùng trong việc nghiên cứu, miêu tả với qui mô lớn.
Tuy nhiên, phương pháp này có hai hạn chế cơ bản là : đòi hỏi tốn nhiều công sức và chi phí; trong khi đó, nhiều nội dung trong nghiên cứu không thể thực hiện được bằng phương pháp quan sát.
Tuỳ theo các giác độ khác nhau mà quan sát có thể được phân thành nhiều loại. (xem sơ đồ trang 30)
Các loại quan sát
Theo tính chất tham gia
Theo thời gian
Theo hình thức hoá
Theo địa điểm
Quan sát có tham dự
Quan sát không tham dự
Quan sát ngẫu nhiên
Quan sát có hệ thống
Quan sát
tiêu chuẩn hoá
Quan sát không tiêu chuẩn hoá
Quan
sát
trong phòng thí nghiệm
Quan sát tại hiện trường
Quan sát kín
Quan sát tập trung
Quan sát tham dự thông thường
Quan sát tham dự tích cực
Sơ đồ 3 : các loại quan sát
Theo tính chất tham gia :
Theo tính chất tham gia, quan sát được chia ra thành 2 loại : quan sát có tham dự và quan sát không tham dự
Quan sát có tham dự là hình thức quan sát trong đó người quan sát trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt động của đối tượng quan sát. Mức độ tham gia thể hiện ở các hình thức sau :
Quan sát kín (cũng gọi là quan sát từ bên trong, quan sát thụđộng): nghĩa là người quan sát tuy tham dự nhưng không để cho người bị quan sát biết sự có mặt của mình. Phương pháp này có ưu điểm là để cho các đối tượng bị quan sát hoàn toàn tự nhiên, không bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của người quan sát do đó các vấn đề được bộc lộ một cách khá trung thực
Quan sát trung lập : là hình thức quan sát mà người quan sát tuy công khai quan sát nhưng đóng vai trò là người ngoài cuộc
Quan sát tham dự thông thường : là hình thức quan sát mà người quan sát đóng vai trò như một người trong cuộc, một người bình thường tham gia tất cả các hoạt động của tập thể đó.
Quan sát tham dự tích cực : là hình thức quan sát mà người quan sát đóng vai trò hoạt động tích cực trong tập thể, tham gia tranh luận và thúc đẩy câu chuyện.
Sử dụng phương pháp này có ưu điểm là có thể thu thập thông tin một cách toàn diện, tránh được những ấn tượng tức thời, ngẫu nhiên. Nhưng do việc tham gia tích cực hay quá lâu của người quan sát có thể mang lại những kết quả không tốt vì trong khi công khai bày tỏ ý kiến của mình có thể làm mất tính khách quan của những thông tin thu được, hơn nữa, việc quá quen với những thái độ, hành động của các thành viên trong tập thể có thể dẫn đến chủ quan, bỏ qua diễn biến mới trong phản ứng của họ.
Để hạn chế ở mức thấp nhất những nhược điểm trên, người quan sát cần cố gắng theo hướng sau : chỉ nên đóng vai trò là một thành viên bình thường trong tập thể; không xuất đầu lộ diện, không tỏ ra chú ý nhiều đến những sự kiện đã và đang xảy ra; nghe và quan sát nhiều hơn, đặt câu hỏi ít hơn; những lời phát biểu cần mang tính chất trung lập và không có tính chất đánh giá.
Quan sát không tham dự là hình thức quan sát mà người quan sát hoàn toàn đứng ngoài, không can thiệp vào quá trình xảy ra và không đặt câu hỏi nào. Hình thức quan sát này được sử dụng để miêu tả bầu không khí chính trị, xã hội trong đó xảy ra sự biến mà người nghiên cứu quan tâm.
Phương pháp này có ưu diểm là có thể khắc phục được nhược điểm của các phương pháp quan sát có tham dự do người quan sát gây nên. Tuy nhiên, do người quan sát không tham dự nên không thể thấy hết nội tình của vấn đề do vậy những điều giải thích, đánh giá hiện tượng không phải lúc nào cũng đúng.
Theo thời gian
Theo thời gian, các hình thức quan sát được chia ra thành hai loại : quan sát ngẫu nhiên và quan sát có hệ thống.
Quan sát ngẫu nhiên là hình thức quan sát không được quy hoạch trước là sẽ tiến hành vào thời điểm nào. ưu điểm đặc biệt của quan sát ngẫu nhiên là đảm bảo tính chất khách quan cao của thông tin nhận được.
Quan sát có hệ thống là hình thức quan sát được đặc trưng bởi tính thường xuyên và lặp lại. Tính thường xuyên là có thể quan sát hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng. ưu điểm của loại quan sát này là có thể so sánh tiến trình của việc quan sát trong cả khoảng thời gian cần thiết nào đó. Tuy nhiên, nó không tránh khỏi hạn chế là tính khách quan của số liệu không được đảm bảo.
Theo hình thức hoá
Theo hình thức hoá, các hình thức quan sát được chia ra thành hai loại : quan sát tiêu chuẩn hoá và quan sát không tiêu chuẩn hoá.
Quan sát tiêu chuẩn hoá (hay còn gọi là quan sát có kiểm tra) là hình thức quan sát trong đó những yếu tố cần quan sát được vạch sẵn trong chương trình và được tiêu chuẩn hoá dưới dạng những bảng, phiếu, hay những biên bản quan sát đồng thời với việc sử dụng những phương tiện kĩ thuật phụ trợ khác…Ngoài ra, việc kiểm tra được thực hiện bằng cách tăng số lượng người quan sát cũng như việc tăng số lần quan sát trên cùng một đối tượng…
Quan sát tiêu chuẩn hoá được sử dụng hết sức rộng rãi trong những cuộc nghiên cứu thực nghiệm và cả trong những cuộc nghiên cứu có tính chất miêu tả. Ngược lại, nó rất ít được sử dụng trong những cuộc nghiên cứu có tính chất thăm dò.
Quan sát không tiêu chuẩn hoá là hình thức quan sát trong đó không xác định được trước những yếu tố của quá trình nghiên cứu hoặc tình huống sẽ quan sát, chỉ có bản thân đối tượng và mục đích nghiên cứu trực tiếp là được xác định từ trước, do vậy không chặt chẽ, chi tiết. Hình thức này được sử dụng trong việc nghiên cứu mang tính chất thăm dò, khảo sát chuẩn bị hoặc tìm đối tượng nghiên cứu.
Theo địa điểm
Theo địa điểm, các hình thức quan sát cũng được chia ra làm hai loại : quan sát tại hiện trường và quan sát trong phòng thí nghiệm.
Quan sát tại hiện trường là quan sát thực trạng trong cuộc sống. Tuy vậy, nó cũng có thể có mức độ khác nhau về tiêu chuẩn hoá. Đây là hình thức quan sát phổ biến nhất.
Quan sát trong phòng thí nghiệm là quan sát trong đó những điều kiện của môi trường xung quanh và tình huống quan sát được định sẵn nói khác đi tình huống quan sát được hình thành một cách nhân tạo, kể cả việc sử dụng rộng rãi các kỹ thuật bổ trợ như thiết bị điện ảnh, máy ghi âm, máy ảnh…Nhược điểm cơ bản của hình thức này là dù có dùng nhiều cách khác nhau cũng không tránh khỏi thay đổi thái độ, thậm chí có khi là đột ngột của người tham gia.
Hạn chế chung nhất của các loại quan sát đó là : do bản chất các thông tin có được là do quan sát, nên thường chỉ thấy được biểu hiện bên ngoài, không đi sâu vào phân tích bản chất của hiện tượng nếu như không kết hợp với các phương pháp khác.
4.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm là tạo ra một tình huống gần giống với tình huống thực tế để quan sát thu thập thông tin về các ứng xử của người trong cuộc.
Mục đích chủ yếu của phương pháp này là chủ yếu dùng để kiểm tra một nhận định sơ bộ nào đó. Khó khăn của phương pháp này là khả năng tạo ra các tình huống giống hệt các hiện tượng thực tế là rất khó, điều này đòi hỏi các chuyên gia phải có trình độ khá cao.
4.4. Phương pháp phân tích tư liệu
Phương pháp phân tích tư liệu là phương pháp thu thập thông tin dựa trên các tài liệu đã có và đã phát hành. Với phương pháp này chi phí để tiến hành là tiết kiệm nhất. Các loại tư liệu thông thường được phân thành 3 nhóm sau :
Phương tiện để đọc : báo chí, sách, kỉ yêú, hội thảo khoa học, số liệu niên giám, báo cáo tổng kết, tư liệu điện tử khác…
Phương tiện để nghe : băng ghi âm trên đài phát thanh.
Phương tiện để nhìn : phim, ảnh, truyền hình...
Có hai phương pháp dùng để phân tích tư liệu đó là phương pháp định tính và phương pháp định lượng.
Phương pháp định tính là phân tích, lý giải tài liệu đặc biệt là phân tích theo chiều sâu để tìm ra các nguyên nhân sâu xa, những nội dung tiềm ẩn của các loại tài liệu đó. Nội dung của việc phân tích cụ thể bao gồm : xác định đó là loại tài liệu gì; xuất xứ của tài liệu đó; tác giả của tài liệu đó là ai; độ tin cậy và tính xác thực của tài liệu và sự kiện; các kết luận rút ra từ các sự kiện cũng như các nhận định đánh giá; ngoài ra cũng cần phân tích thêm về mặt tâm lý.
Phương pháp định lượng là phương pháp nhằm phân tích qui mô, độ sâu, rộng của tài liệu cố gắng lượng hoá những khía cạnh có thể lượng hoá được.
Hai phương pháp trên đi theo hai hướng khác nhau nhưng không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau nhằm cùng một mục tiêu là thu thập những thông tin trung thực, tin cậy vì vậy cần phải tiến hành đồng thời.
Phân tích tư liệu tuy là một phương pháp tiết kiệm và tương đối dễ thực hiện nhưng cũng cần chú ý một số vấn đề sau : thứ nhất, phân tích tư liệu là nguồn thông tin quan trọng trong giai đoạn đầu nhất là khi đối với vấn đề còn chưa rõ ràng, tuy nhiên việc thu thập những thông tin chủ yếu trong các giai đoạn sau sẽ phải thực hiện bằng các phương pháp khác. Thứ hai, tư liệu được viết ra và tập hợp lại là nhằm những mục đích khác nhau do vậy khi sử dụng tư liệu cho mục đích nghiên cứu thì thường không phù hợp và bị động vì vậy cần phải phân tích, lựa chọn, thậm chí điều tra thêm.
4.5. Phương pháp nghiên cứu điền dã
Phương pháp nghiên cứu điền dã là phương pháp thu thập thông tin bằng tri giác trực tiếp và ghi chép lại. ở phương pháp này yêu cầu người nghiên cứu phải thâm nhập vào một cộng đồng dân cư nào đó để quan sát, phỏng vấn, ghi chép tất cả các mặt thuộc lối sống xã hội trong cộng đồng đó. Phương pháp này thường được dùng cho các nghiên cứu định tính để đưa ra các bức tranh chung về môi trường nghiên cứu.
5. Bảng hỏi – kỹ thuật xây dựng và các vấn đề có liên quan
5.1. Những nguyên tắc cụ thể của việc xây dựng bảng hỏi
Bảng hỏi không phải đơn thuần là tổng số các câu hỏi riêng rẽ mà cần mang nhiều ý nghĩa hơn nữa. Nguyên tắc sắp xếp các câu hỏi là nguyên tắc tâm lý chứ không phải căn cứ theo lôgic nội dung; đồng thời ý nghĩa của mỗi câu hỏi thường được đánh giá cùng với vị trí của nó trong bảng hỏi. Qua thực tế việc xây dựng bảng hỏi cần theo những nguyên tắc sau :
Thứ nhất, bảng hỏi phải gợi ý và duy trì sự quan tâm nhiệt tình trả lời của người được hỏi. Cụ thể phải lưu ý một số vấn đề sau :
Phần đặt vấn đề phải nêu rõ mục đích, ý nghĩa và lợi ích xã hội của việc phỏng vấn. Phần này cần xúc tích, ngắn gọn và thích hợp với người được phỏng vấn.
Đặt câu hỏi đầu tiên là vấn đề quan trọng có tác dụng khởi động sự quan tâm của người được hỏi, nếu câu hỏi đầu tiên không hấp dẫn đụng đến những vấn đề khó trả lời sẽ làm giảm nhiệt tình trả lời.
Các câu hỏi về các vấn đề riêng tư, tế nhị nên xếp vào gần cuối.
Các câu hỏi đơn điệu nên xé nhỏ và xen kẽ với các câu hỏi khác.
Thứ hai, cần tôn trọng và thúc đẩy lòng tự tin của người được hỏi. Muốn vậy cần chú ý những vấn đề sau :
Bảng câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp, điều này làm tăng lòng tự tin của người được hỏi.
Nếu người được hỏi phải liên tiếp trả lời “có” hoặc “không” một loạt câu hỏi thì sẽ gây nên sự nhàm chán vì vậy nên kèm theo câu hỏi nguyên nhân để giảm bớt những câu hỏi không cần thiết.
Thứ ba, trong các cuộc phỏng vấn dài thì các câu hỏi càn bố trí theo độ tập trung tư tưởng tăng dần nhưng càng về cuối lại giảm dần và cuối cùng là một câu hỏi mở để người được hỏi được trả lời theo ý họ.
Thứ tư, người được phỏng vấn phải được dẫn dắt chuyển đề tài một cách hợp lý. Muốn vậy, khi xây dựng bảng hỏi nên vạch ra một khung dàn ý theo lôgic chung để gắn các câu hỏi lại với nhau. Đặc biệt, các câu hỏi về nhận thức, ý kiến, quan điểm thì cần được sắp xếp hợp lý.
Thứ năm, về mặt thời gian, đối với các cuộc phỏng vấn dài cũng phải theo sức chịu đựng của tâm lý, việc trả lời hết bảng hỏi cũng không nên quá một giờ.
Thứ sáu, hình thức của bảng hỏi có ảnh hưởng đến nhiệt tình tham gia vì vậy cần phải đáp ứng các yêu cầu thẩm mỹ trong yêu cầu cho phép.
Thứ bảy, bảng hỏi nhất định phải có phần mở đầu và phần kết thúc. Tuỳ theo cách bố trí lời mở dầu hay kết thúc nhưng về đại thể phải bao gồm các nội dung sau đây : tự giới thiệu cá nhân hoặc cơ quan tiến hành phỏng vấn; lời kêu gọi, khích lệ tham gia đề tài; hứa đản bảo giữ bí mật; giới thiệu cách trả lời bảng hỏi; cám ơn.
5.2. Bố cục chung của một bảng hỏi
Thông thường một bảng hỏi thường có bố cục như sau :
Thư giải thích : mục đích chủ yếu của thư giải thích là để cho người trả lời biết được mục đích của bảng hỏi và đề nghị họ tham gia.
Hướng dẫn trả lời : phần này phải có hướng dẫn chi tiết về các vấn đề như người trả lời phải đưa ra câu trả lời của mình như thê nào và ở đâu; phải có các chỉ dẫn thật rõ ràng cho các câu hỏi lọc.
Hướng dẫn gửi trả bảng hỏi
Các câu hỏi nội dung
Lời cảm ơn : cần ngắn gọn, nhã nhặn để cám ơn người trả lời đã bỏ thời gian và công sức ra để hoàn thành bảng hỏi và có thể hẹn hợp tác trong những lần sau.
5.3. Kỹ thuật câu hỏi trong bảng hỏi
Trong quá trình lập bảng hỏi, việc sắp xếp trình tự câu hỏi sao cho hợp lý là một vấn đề kỹ thuật rất quan trọng. Kết cấu chung của các câu hỏi trong bảng hỏi thông thường theo trình tự sau:
Câu hỏi tiếp xúc để tạo hứng thú trả lời cho người được hỏi
Câu hỏi nội dung nhằm thu thập thông tin cần thiết về những vấn đề cần nghiên cứu.
Những câu hỏi xen kẽ, kiểm tra hay câu hỏi tâm lý để làm giảm bớt sự căng thẳng.
Kết thúc bằng những câu hỏi gây không khí thoải mái, thân thiện.
Các câu hỏi nội dung là các câu hỏi chính trong bảng hỏi nhằm thu thập thông tin cần thiết về vấn đề nghiên cứu vì vậy trình tự của các câu hỏi này được sắp xếp có hợp lý hay không ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng thông tin thu được. Theo Galup các câu hỏi nội dung có thể được triển khai theo lược đồ sau:
Câu hỏi thứ nhất thường là câu hỏi lọc nhằm tìm hiểu xem người được hỏi có am hiểu gì về vấn đề nói chung hay không.
Câu._. khác” kí hiệu là 15.5;
Đối với các phương án trên, tuỳ theo ô được chọn để ghi số tương ứng.
Câu 16: Kí hiệu là C16
Đối với phương án “Thầy/Cô có nhận được sự ủng hộ/hỗ trợ của các cấp trên” kí hiệu là 16.1;
Đối với phương án “Thầy/Cô có nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ từ các đồng nghiệp” kí hiệu là 16.2;
Đối với phương án “Thầy/Cô có chia sẻ/trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp” kí hiệu là 16.3;
Đối với các phương án trên : Nếu lựa chọn là “Có” thì ghi số 1; Nếu lựa chọn là “Không” thì ghi số 2.
Câu 17: Kí hiệu là C17
Nếu lựa chọn là “Rất có lợi cho nhà trường” thì ghi số 1.
Nếu lựa chọn là “Tương đối có lợi” thì ghi số 2.
Nếu lựa chọn là “Không đem lại những lợi ích đáng kể cho nhà trường” thì ghi số 3.
Nếu lựa chọn là “Có một chút lợi ích nhưng cũng tạo ra những vấn đề phức tạp về tổ chức, nhân sự” thì ghi số 4.
Nếu lựa chọn là “Có hại nhiều hơn có lợi” thì ghi số 5.
Nếu lựa chọn là “ý kiến khác” thì ghi số 6.
Câu 18: Kí hiệu là C18
Nếu lựa chọn là “Là môi trường tốt để giảng viên trong trường tiếp tục học hỏi và nâng cao năng lực giảng dạy” thì ghi số 1.
Nếu lựa chọn là “Nâng cao uy tín của nhà trường trong công tác giảng dạy và đào tạo” thì ghi số 2.
Nếu lựa chọn là “Tạo ra môi trường học tập phong phú hơn cho sinh viên trong trường” thì ghi số 3.
Nếu lựa chọn là “Tăng nguồn thu cho nhà trường” thì ghi số 4.
Nếu lựa chọn là “Tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường” thì ghi số 5.
Nếu lựa chọn là “Khác” thì ghi số 6.
Câu 19: Kí hiệu là C19
Nếu lựa chọn là “Toàn bộ cán bộ, giảng viên trong trường” thì ghi số 1.
Nếu lựa chọn là “Đa phần các cán bộ, giảng viên trong trường (một cách trực tiếp hoặc gián tiếp)” thì ghi số 2.
Nếu lựa chọn là “Chỉ đem lại lợi ích cho một số cá nhân (một số đơn vị) trực tiếp tham gia hay có liên quan” thì ghi số 3.
II. hướng Tổng hợp và phân tích dữ liệu
1. Tổng hợp ý kiến trả lời và mô tả
1.1. Tổng hợp ý kiến trả lời về thông tin cá nhân
Bảng 1: Số lượng và cơ cấu độ tuổi của các giảng viên tham gia trả lời
Độ tuổi
Số người
Tỷ lệ (%)
Dưới 35
35-50
Trên 50
Tổng
Qua bảng này ta sẽ thấy được số lượng và cơ cấu độ tuổi của các giảng viên được điều tra. Từ đó có thể thấy được độ tuổi nào tham gia vào chương trình nhiều nhất và rút ra những nhận xét về đặc trưng độ tuổi của các giảng viên tham gia vào chương trình hợp tác đào tạo Quốc tế.
Bảng 2: Số lượng và cơ cấu giới tính của các giảng viên tham gia trả lời
Giới tính
Số người
Tỷ lệ (%)
Nam
Nữ
Tổng
Qua bảng này ta thấy được số lượng và cơ cấu giới tính của các giảng viên tham gia trả lời. Từ đây, rút ra những nhận định xem việc tham gia vào các chương trình hợp tác đào tạo Quốc tế có sự liên hệ nào với giới tính không? Hay nói cách khác là có sự chênh lệch nào đáng kể về giới tính của các giảng viên tham gia không?
Bảng 3: Số lượng và cơ cấu giảng viên phân theo chức danh
Chức danh
Số người
Tỷ lệ (%)
Giảng viên
Giảng viên chính
Phó giáo sư
Giáo sư
Tổng
Bảng 4: Số lượng và cơ cấu giảng viên tham gia trả lời phân theo trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn
Số người
Tỷ lệ (%)
Thạc sỹ
Tiến sỹ
Tổng
Bảng 5: Số lượng và cơ cấu giảng viên tham gia trả lời phân theo nước đào tạo
Nước đào tạo
Số người
Tỷ lệ (%)
Trong nước
Nước ngoài
Tổng
Qua những bảng này, ta có thể có những nhận xét sơ bộ về cơ cấu giảng viên theo chức vụ; chức danh; trình độ chuyên môn; nước đào tạo. Đồng thời thông tin thu thập được trong các bảng này sẽ là dữ liệu quan trọng trong việc phân tích các mối liên hệ.
Bảng 6: Cơ cấu các hoạt động tham gia bên ngoài trường
Các hoạt động tham gia bên ngoài trường
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ ý kiến lựa chọn
(% trên tổng số người trả lời có tham gia)
Tham gia các hoạt động quản lý
Tham gia các hoạt động giảng dạy
Tham gia các hoạt động nghiên cứu tư vấn
Tổng
Qua thông tin ở bảng trên, ta thấy được cơ cấu về việc tham gia các hoạt động bên ngoài trường của các giảng viên. Từ đây, ta có thể xác định xem vậy thì việc tham gia vào hoạt động nào là phổ biến nhất hiện nay hay nói cách khác là xu hướng tham gia vào hoạt động loại nào là phổ biến nhất hiện nay.
Bảng 7: Cơ cấu định hướng phát triển nghề nghiệp
Định hướng nghề nghiệp
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Đã đạt tầm Quốc tế và tăng cường các hoạt động ở tầm Quốc tế
Hướng tới đạt được các chuẩn mực Quốc tế
Đạt/phấn đấu đạt các chuẩn mực/danh hiệu của Việt Nam
Định hướng khác
Tổng
Thông qua bảng này, chúng ta sẽ thấy được cơ cấu định hướng nghề nghiệp của các giảng viên từ đó gián tiếp đánh giá được chất lượng của các giảng viên tham gia vào các chương trình hợp tác đào tạo Quốc tế, mặt khác cũng hiểu rõ hơn mục đích và mong muốn của họ khi tham gia chương trình.
1.2. Tổng hợp ý kiến trả lời về hoạt động tham gia các chương trình đào
tạo Quốc tế
Bảng 8: Vai trò đảm nhiệm khi tham gia chương trình
Vai trò
Số người
Tỷ lệ (%)
Giảng viên
Trợ giảng
Cán bộ quản lý
Tổng
Với thông tin từ bảng này, chúng ta có thể xem xét xem các giảng viên tham gia vào chương trình chủ yếu với vai trò là gì thông qua tỉ lệ phần trăm lớn nhất trong bảng. Từ đó, có thể rút ra nhận định là: vậy thì, nhu cầu của các dự án cần cán bộ giảng viên để chủ yếu đảm nhận vai trò gì. Đồng thời, thông tin này sẽ được sử dụng cho việc phân tích các mối liên hệ với các yếu tố khác. Ví dụ như phân tích mối liên hệ giữa vai trò đảm nhiệm trong các chương trình đào tạo Quốc tế với nhận định về sự cải thiện/tiến bộ trong tác phong làm việc và các kỹ năng khi tham gia vào các chương trình hợp tác ĐTQT chẳng hạn xem có sự khác nhau trong việc cải thiện hay không…
Bảng 9: Mức độ thường xuyên tham gia vào chương trình
Mức độ thường xuyên tham gia vào chương trình
Số người
Tỷ lệ (%)
Công việc thường xuyên
Hàng tháng
Theo học kỳ
Theo năm
Thỉnh thoảng không xác định
Tổng
Với thông tin từ bảng này, chúng ta sẽ biết được việc tham gia vào chương trình đào tạo Quốc tế với mức độ thường xuyên như thế nào là phổ biến nhất hiện nay, và vì sao lại như vậy. Mặt khác, với thông tin thu được ở đây cũng được dùng để phân tích các mối liên hệ với yếu tố khác giữa các đối tượng đã được lọc để xem có sự khác biệt nào tồn tại hay không, ví dụ như :phân tích mối liên hệ với giới tính chẳng hạn, để xem xét xem liệu có sự khác nhau về mức độ thường xuyên tham gia công việc với giới tính của giảng viên hay không?
Bảng 10: Các chương trình đào tạo Quốc tế tham gia
Các chương trình hợp tác ĐTQT tham gia
Số người
Tỷ lệ (%)
Chương trình đào tạo Thạc sỹ
Chương trình đào tạo đại học
Chương trình đào tạo ngắn hạn
Tổng
Thực chất, thông tin thu được trong câu hỏi này không quá quan trọng cho cuộc điều tra, người nghiên cứu chỉ muốn có nhận định sơ bộ xem việc tham gia chương trình nào là phổ biến nhất hiện nay, hay nói cách khác là nhu cầu của chương trình nào là lớn nhất hiện nay.
Bảng 11: Lý do dẫn đến việc tham gia vào chương trình
Lý do
Số người
Tỷ lệ (%)
Sự chủ động của cá nhân là chính
Sự phân công của tập thể là chính
Cả hai
Tổng
Với thông tin thu được trong bảng này, chúng ta có thế xem xét mối quan hệ giữa dự án với các hoạt động thường xuyên của nhà trường. Nếu lý do là sự chủ động của cá nhân là chính chiếm đa số thì có nghĩa là hoạt động của các dự án vẫn còn khá độc lập, chưa thực sự hoà nhập vào các hoạt động chung của nhà trường nên chưa đi sâu vào hoạt động của các tập thể, và vì vậy các cá nhân tự chủ động tìm hiểu và liên hệ để tham gia vào chương trình. Còn ngược lại, nếu lựa chọn sự phân công của tập thể là chính chiếm đa số thì có nghĩa là hoạt động của các dự án dường như đã trở thành một trong những hoạt động chung của nhà trường, đi sâu vào hoạt động của tập thể và được các tập thể cử người tham gia phù hợp. Còn nếu lựa chọn cả hai chiếm đa số thì có nghĩa là hoạt động của các dự án vừa hoà nhập vào hoạt động chung của trường nhưng cũng vừa mang tính độc lập tương đối.
Bảng 12a: Những điều đánh giá cao khi tham gia vào làm việc trong chương trình hợp tác ĐTQT
Những điều đánh giá cao
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ ý kiến lựa chọn
(% trên số người trả lời)
Được làm việc với giáo sư nước ngoài
Được cập nhật/tiếp cận với tài liệu và chuyên môn mới
Học viên có thái độ học tập nghiêm túc
Được làm việc trong điều kiện hiện đại hơn
Được làm công việc mang tính thách thức-thử thách
Mở rộng mạng lưới quan hệ
Củng cố trau dồi vốn ngoại ngữ
Tăng thu nhập
Khác
Tổng
Qua số liệu có được ở bảng này, ta có thể thấy được những yếu tố được các giảng viên đánh giá cao khi tham gia vào chương trình hợp tác ĐTQT hay nói cách khác là những yếu tố lợi thế khi tham gia vào chương trình. Những yếu tố được lựa chọn đa số là những yếu tố tạo nên ưu thế nhất định của các chương trình hợp tác ĐTQT so với các chương trình trong nước, đây chính là những động lực chủ yếu thu hút và khuyến khích các giảng viên tham gia vào chương trình. Mặt khác, thông qua đây, ta cũng có thể gián tiếp biết được những lợi ích nổi bật các giảng viên nhận được khi tham gia vào chương trình.
Bảng 12b: Yếu tố được đánh giá cao nhất khi tham gia vào làm việc trong chương trình hợp tác ĐTQT
Yếu tố được đánh giá cao nhất
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ ý kiến lựa chọn
(% trên số người trả lời)
Được làm việc với giáo sư nước ngoài
Được cập nhật/tiếp cận với tài liệu và chuyên môn mới
Học viên có thái độ học tập nghiêm túc
Được làm việc trong điều kiện hiện đại hơn
Được làm công việc mang tính thách thức-thử thách
Mở rộng mạng lưới quan hệ
Củng cố trau dồi vốn ngoại ngữ
Tăng thu nhập
Khác
Tổng
Thực ra, với thông tin có được trong bảng này, người nghiên cứu chỉ muốn xem xét yếu tố nào thực sự được các giảng viên đánh giá cao nhất khi tham gia vào chương trình hợp tác ĐTQT. Hay nói cách khác, yếu tố này sẽ là yếu tố có tính chất ưu thế tuyệt đối so với các chương trình trong nước, là yếu tố mà lợi ích của nó mang lại thì hầu như không thể chương trình trong nước nào có được.
Bảng 13: Những yếu tố có tính chất quyết định đến cơ hội tham gia làm việc trong chương trình hợp tác ĐTQT
Yếu tố có tính chất quyết định
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ ý kiến lựa chọn
(% trên số người trả lời)
Có trình độ chuyên môn vượt trội
Có khả năng ngoại ngữ vượt trội
Có kỹ năng/tác phong làm việc chuyên nghiệp
Có tinh thần hợp tác cao
Có học hàm, học vị cao
Có quan hệ cá nhân tốt đối với ban điều hành các dự án
Có quyền đại diện cho đơn vị của mình
Khác
Tổng
Với những số liệu thu thập được được biểu diễn trong bảng này, chúng ta có thể biết được những yếu tố nào thực sự có tính chất quyết định đến cơ hội tham gia vào các chương trình hợp tác đào tạo Quốc tế. Nếu đây chủ yếu là các yếu tố do có khả năng hay năng lực vượt trội thì có nghĩa là điều kiện để có thể tham gia vào các chương trình này là phải dựa vào thực lực chứ không phải chỉ dựa vào các mối quan hệ cá nhân hay quyền đại diện cho đơn vị. Ngược lại, nếu các yếu tố về quan hệ cá nhân hay có quyền đại diện cho dơn vị chiếm đa số thì có nghĩa là việc tham gia vào các chương trình nàychưa thực sự có những đòi hỏi khắt khe về năng lực. Còn nếu cả hai yếu tố trên đều nằm trong những lựa chọn chủ yếu thì có nghĩa là việc tham gia vào các chương trình đào tạo Quốc tế ngoài việc phải thực sự có năng lực vượt trội thì vẫn cần có sự quen biết dựa trên các mối quan hệ cá nhân hay là có quyền đại diện cho đơn vị mình.
Bảng 14: Sự phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn làm việc trong chương trình và
công việc thường xuyên
Mức độ phù hợp
Số ý kiến
Tỷ lệ (%)
Hoàn toàn phù hợp
Có liên quan
Lĩnh vực hầu như khác hẳn
Tổng
Với thông tin thu được trong bảng này, người nghiên cứu muốn xem xét mức độ phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn làm việc trong chương trình và công việc thường xuyên của các giảng viên như thế nào, qua đó đánh giá việc sử dụng các giảng viên đã qua đào tạo ở trường. Bởi vì, trên thực tế, có một số giảng viên mà công việc thường xuyên của họ không phù hợp với lĩnh vực chuyên môn mà họ đã được đào tạo.
Bảng 15: Tổng hợp lợi ích mà việc tham gia vào chương trình hợp tác ĐTQT mang đến cho các giảng viên
Các mức độ
Lợi ích
Không rõ rệt
Tương đối không rõ rệt
Bình thường
Tương đối rõ rệt
Rất rõ rệt
Tổng
Tác phong làm việc
Nâng cao, cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy
Đổi mới và cải tiến phương pháp giảng dạy
Nâng cao khả năng liên kết giữa lý thuyết và thực tiễn
Yếu tố khác
Tổng
Qua thông tin thu được ở bảng trên, ta có thể thấy được các ý kiến nhận định về mức độ cải thiện/tiến bộ nào chiếm đa số theo từng kỹ năng và theo tất cả các kỹ năng thu nhận được khi tham gia vào chương trình. Qua đây, ta có thể đánh giá về lợi ích của chương trình mang lại cho các giảng viên tham gia trong việc nâng cao năng lực giảng dạy xét theo từng kỹ năng cũng như xét theo toàn bộ các kỹ năng hay nói cách khác là lợi ích tổng hợp mang lại cho các giảng viên khi tham gia chương trình.
Bảng 16: Mối quan hệ với lãnh đạo và tập thể khi tham gia các chương trình hợp tác ĐTQT
Mối quan hệ
Có
Không
Tổng
Nhận được sự ủng hộ/hỗ trợ của các cấp trên
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ (%)
Nhận được sự ủng hộ/hỗ trợ của các đồng nghiệp
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ (%)
Chia sẻ/trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ (%)
Qua bảng này, chúng ta sẽ thấy được mối quan hệ giữa cá nhân các giảng viên đối với tập thể trong quá trình tham gia các chương trình hợp tác đào tạo Quốc tế. Hay nói cách khác, chúng ta có thể thấy được các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia vào chương trình của các giảng viên. Nếu lựa chọn Có chiếm đa số thì có nghĩa là giảng viên trong quá trình tham gia vào các chương trình này nhận được sự tạo điều kiện giúp đỡ từ cấp trên, sự ủng hộ, hỗ trợ và cùng trao đổi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, như vậy đây sẽ là yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến việc tham gia vào chương trình của các giảng viên, làm tăng hiệu quả khi tham gia vào các chương trình này. Ngược lại, nếu lựa chọn Không chiếm đa số thì có nghĩa là việc tham gia vào các chương trình hợp tác ĐTQT của các giảng viên không nhận được sự ủng hộ và hậu thuẫn từ các cấp lãnh đạo cũng như đồng nghiệp, việc này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng khi tham gia vào chương trình.
Bảng 17: ý kiến về vai trò của ĐTQT đối với nhà trường
Vai trò của đào tạo Quốc tế đối với nhà trường
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ (%)
Rất có lợi cho nhà trường
Tương đối có lợi
Không đem lại những lợi ích đáng kể cho nhà trường
Có một chút lợi ích nhưng cũng tạo ra những vấn đề phức tạp về tổ chức
Có hại nhiều hơn có lợi
ý kiến khác
Tổng
Với thông tin thu thập cho bảng này, mục đích của người nghiên cứu muốn biết ý kiến của các giảng viên tham gia vào các chương trình hợp tác đào tạo Quốc tế về vai trò của đào tạo Quốc tế đối với nhà trường thông qua phương án sẽ được lựa chọn nhiều nhất. Câu hỏi này nhằm cung cấp thông tin cho Ban quản lý các dự án đào tạo Quốc tế cũng như cho lãnh đạo nhà trường về vấn đề này. Qua đây, họ sẽ có những điều chỉnh thích hợp hơn cho tình hình hiện tại.
Bảng 18: Những lợi ích mà các chương trình đào tạo Quốc tế đem lại cho
nhà trường
Những lợi ích đem lại cho nhà trường
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ (%)
Là môi trường tốt để giảng viên trong trường tiếp tục học hỏi và nâng cao năng lực giảng dạy
Nâng cao uy tín của nhà trường trong công tác đao tạo và giảng dạy
Tạo ra môi trường học tập phong phú hơn cho sinh viên trong trường
Tăng nguồn thu cho nhà trường
Tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường
Khác
Tổng
Thông qua những phương án được lựa chọn đa số thể hiện trong bảng này cho ta thấy những lợi ích rõ rệt nhất mà các chương trình đào tạo Quốc tế mang lại cho nhà trường trong công tác nâng cao chất lượng đào tạo. Với thông tin này, các cấp lãnh đạo nhà trường sẽ có chiến lược tận dụng có hiệu quả những lợi ích thu được này. Ví dụ nếu lợi ích chủ yếu đem lại cho nhà trường là môi trường tốt để giảng viên trong trường tiếp tục học hỏi và nâng cao năng lực giảng dạy thì nhà trường có thể sử dụng lợi ích này như một hướng bồi dưỡng và phát triển cán bộ giảng viên có hiệu quả.
Bảng 19: ý kiến về bộ phận cán bộ giảng viên nhận được lợi ích từ chương trình
Những người nhận được lợi ích từ chương trình
Số ý kiến lựa chọn
Tỷ lệ (%)
Toàn bộ cán bộ, giảng viên trong trường
Đa phần các cán bộ và giảng viên trong trường (một cách trực tiếp hoặc gián tiếp)
Chỉ đem lại lợi ích cho một số cá nhân (một số đơn vị ) trực tiếp tham gia hay có liên quan
Tổng
Qua những phương án được lựa chọn đa số trong bảng này, chúng ta có thể thấy được thực sự bộ phận giảng viên nào nhận được lợi ích do các chương trình đào tạo quốc tế đem lại. Đồng thời qua đây ta cũng có thể gián tiếp nhận định xem thực sự hoạt động từ các chương trình này đã đi sâu vào trong hoạt động chung của nhà trường cũng như hoạt động của tập thể hay chưa. Mặt khác, thông tin thu được từ câu hỏi này sẽ giúp cho Ban quản lý dự án cũng như các cấp lãnh đạo nhà trường có sự điều chỉnh thích hợp để mang lại lợi ích cho càng nhiều người càng tốt.
2. Phân tích mối liên hệ
ở phần này ta sẽ tiến hành phân tích mối liên hệ giữa một số yếu tố để kiểm tra xem chúng độc lập hay phụ thuộc vào nhau, từ đó rút ra một số nhận định cơ bản cho cuộc điều tra.
Phân tích mối liên hệ giữa giới tính và mức độ thường xuyên tham gia vào chương trình.
Bảng 20: Mối liên hệ giữa giới tính và mức độ thường xuyên tham gia vào
chương trình
Giới tính
Mức độ thường xuyên
Nam
Nữ
Tổng
Công việc thường xuyên
Hàng tháng
Theo học kỳ
Theo năm
Thỉnh thoảng không xác định
Tổng
Qua bảng phân tổ kết hợp này ta có thể thấy được cơ cấu giới tính trong mỗi mức độ thường xuyên tham gia chương trình và ngược lại thấy được cơ cấu mức độ thường xuyên tham gia chương trình ở mỗi giới tính. Với bảng phân tổ kết hợp ở trên, ta sử dụng kiểm định χ2 để kiểm định tính độc lập giữa giới tính và mức độ thường xuyên tham gia vào các chương trình đào tạo Quốc tế. Nếu qua kết quả kiểm định ta thấy giá trị của Sig>0,025 có nghĩa là giới tính và mức độ thường xuyên tham gia vào chương trình là độc lập với nhau, tức là không phải với giới tính khác nhau thì mức độ thường xuyên tham gia vào chương trình là khác nhau. Ngược lại, nếu kết quả kiểm định cho thấy giá trị của Sig <0,025 có nghĩa là giữa giới tính và mức độ thường xuyên tham gia chương trình phụ thuộc vào nhau, tức là với giới tính khác nhau thì mức độ thường xuyên tham gia vào chương trình có sự khác nhau, có một lý giải hợp lý cho việc này đó là phụ nữ phải dành thời gian cho công việc ở nhà nhiều hơn nam giới.
Phân tích mối liên hệ giữa vai trò đảm nhiệm khi tham gia chương trình và mức độ cải thiện/tiến bộ trong tác phong làm việc cũng như trong các kỹ năng giảng dạy
Bảng 21a: Mối liên hệ giữa vai trò đảm nhiệm và mức độ cải thiện/tiến bộ trong tác phong làm việc
Vai trò đảm nhiệm
Cải thiện tác phong làm việc
Giảng viên
Trợ giảng
Cán bộ quản lý
Tổng
Không rõ rệt
Tương đối không rõ rệt
Bình thường
Tương đối rõ rệt
Rất rõ rệt
Tổng
Bảng 21b: Mối liên hệ giữa vai trò đảm nhiệm và mức độ cải thiện/tiến bộ trong việc nâng cao, cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy
Vai trò đảm nhiệm
Cập nhật kiến thức,
tài liệu giảng dạy
Giảng viên
Trợ giảng
Cán bộ quản lý
Tổng
Không rõ rệt
Tương đối không rõ rệt
Bình thường
Tương đối rõ rệt
Rất rõ rệt
Tổng
Bảng 21c: Mối liên hệ giữa vai trò đảm nhiệm và mức độ cải thiện/tiến bộ trong đổi mới và cải tiến phương pháp giảng dạy
Vai trò đảm nhiệm
Cải tiến
phương pháp giảng dạy
Giảng viên
Trợ giảng
Cán bộ quản lý
Tổng
Không rõ rệt
Tương đối không rõ rệt
Bình thường
Tương đối rõ rệt
Rất rõ rệt
Tổng
Bảng 21d: Mối liên hệ giữa vai trò đảm nhiệm và mức độ cải thiện/tiến bộ trong khả năng liên kết giữa lý thuyết và thực tiễn
Vai trò đảm nhiệm
Cải thiện khả năng
liên kết giữa lý thuyết và thực tiễn
Giảng viên
Trợ giảng
Cán bộ quản lý
Tổng
Không rõ rệt
Tương đối không rõ rệt
Bình thường
Tương đối rõ rệt
Rất rõ rệt
Tổng
Qua các bảng phân tổ kết hợp này ta sử dụng kiểm định χ2 để kiểm định tính độc lập giữa vai trò đảm nhiệm trong chương trình và mức độ cải thiện/tiến bộ trong các yếu tố về tác phong làm việc cũng như kỹ năng giảng dạy. Nếu qua kết quả kiểm định ta thấy giá trị của Sig>0,025 có nghĩa là vai trò đảm nhiệm và mức độ cải thiện/tiến bộ của các yếu tố về tác phong làm việc và kỹ năng giảng dạy là độc lập với nhau, tức là dù có tham gia với tư cách là giảng viên, trợ giảng hay cán bộ quản lý thì mức độ cải thiện/tiến bộ về tác phong làm việc cũng như các kỹ năng giảng dạy không có sự khác nhau gì nhiều. Ngược lại, nếu kết quả kiểm định cho thấy giá trị của Sig <0,025 có nghĩa là giữa vai trò đảm nhiệm trong chương trình và mức độ cải thiện/tiến bộ đối với các yếu tố về tác phong và kỹ năng giảng dạy và nước đào tạo là phụ thuộc vào nhau, tức là với vai trò đảm nhiệm khác nhau thì mức độ cải thiện/tiến bộ đối với các yếu tố trên là có sự khác nhau, có thể nguyên nhân của vấn đề này là do nếu đảm nhiệm với tư cách là giảng viên thì sẽ cần phải có sự cố gắng và nỗ lực để trau dồi kiến thức, kỹ năng; chú ý tác phong làm việc hơn là khi chỉ đảm nhiệm với vai trò là trợ giảng hay cán bộ quản lý.
Phân tích mối liên hệ giữa độ tuổi và nhận định về các yếu tố có tính chất quyết định đến cơ hội tham gia vào chương trình hợp tác ĐT QT
ở đây, do có quá nhiều các yếu tố được đề cập đến nên ta chỉ tiến hành phân tổ kết hợp giữa độ tuổi và các yếu tố có tính chất quyết định đến việc tham gia chương trình (các yếu tố mà được lựa chọn đa số ở các độ tuổi) để xem có sự khác nhau khi nhận định về vấn đề này ở các độ tuổi khác nhau hay không. Ví dụ ở độ tuổi 50 lựa chọn đa số là yếu tố có học hàm, học vị cao. Như vậy, với việc phân tổ kết hợp giữa độ tuổi và các yếu tố này để xem có sự phụ thuộc vào nhau giữa độ tuổi và quan điểm của học hay không?
Bảng 22: Mối liên hệ giữa độ tuổi và nhận định về các yếu tố có tính chất quyết định đến cơ hội tham gia vào các chương trình hợp tác ĐTQT
Độ tuổi
Yếu tố quyết định
< 35 tuổi
35 – 50 tuổi
> 50 tuổi
Tổng
Có khả năng ngoại ngữ vượt trội
(Yếu tố được lựa chọn đa số của độ tuổi <35)
Có trình độ chuyên môn vượt trội
(Yếu tố được lựa chọn đa số của độ tuổi 35-50)
Có học hàm, học vị cao
(Yếu tố được lựa chọn đa số của độ tuổi >50)
Khác(các yếu tố còn lại)
Tổng
Phân tích mối liên hệ giữa mức độ phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn làm việc trong chương trình và công việc thường xuyên của các giảng viên với mức độ cải thiện trong việc nâng cao/cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy
Mức độ phù hợp
Cập nhật kiến thức,
tài liệu giảng dạy
Hoàn toàn phù hợp
Có liên quan
Hầu như khác hẳn
Tổng
Không rõ rệt
Tương đối không rõ rệt
Bình thường
Tương đối rõ rệt
Rất rõ rệt
Tổng
Qua bảng trên, ta có thể thấy được cơ cấu về các ý kiến thể hiện sự cải thiện/tiến bộ về cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy là khác nhau ở từng sự phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn và công việc thường xuyên khác nhau. Ngược lại, ở mỗi loại mức độ cải thiện/tiến bộ cũng có cơ cấu khác nhau về sự phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn và công việc thường xuyên. Để xem xét xem tính độc lập giữa sự phù hợp của lĩnh vực chuyên môn và công việc thường xuyên và mức độ cải thiện/tiến bộ trong việc nâng cao, cập nhập kiến thức và tài liệu giảng dạy chúng ta sử dụng kiểm định χ2 để kiểm định tính độc lập. Nếu qua kết quả kiểm định ta thấy giá trị của Sig>0,025 có nghĩa là sự phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn và công việc thường xuyên và mức độ cải thiện/tiến bộ trong việc nâng cao/cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy là độc lập với nhau, tức là dù lĩnh vực chuyên môn và công việc thường xuyên có phù hợp hay không thì mức độ cải thiện/tiến bộ về nâng cao/cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy không có sự khác biệt đáng kể. Ngược lại, nếu kết quả kiểm định cho thấy giá trị của Sig <0,025 có nghĩa là sự phù hợp trong lĩnh vực chuyên môn và công việc thường xuyên với mức độ cải thiện/tiến bộ về nâng cao/cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy là phụ thuộc vào nhau, tức là nếu mức độ phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn hoạt động trong chương trình và công việc thường xuyên có sự khác nhau thì sẽ dẫn đến sự khác nhau trong mức độ cải thiện/ tiến bộ về việc nâng cao/cập nhật kiếm thức và tài liệu giảng dạy. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do nếu có sự phù hợp giữa lĩnh vực chuyên môn hoạt động trong chương trình và công việc thường xuyên thì chắc chắn việc tham gia chương trình sẽ giúp ích rất nhiều cho các giảng viên trong việc nâng cao, cập nhật kiến thức và tài liệu giảng dạy, còn ngược lại, nếu lĩnh vực chuyên môn mà không phù hợp với công việc thường xuyên thì sẽ chẳng giúp ích được gì nhiều cho công việc thường xuyên của họ trong việc nâng cao kiến thức và tài liệu giảng dạy.
3. Những kinh nghiệm rút ra từ cuộc điều tra
Những kinh nghiệm rút ra trong quá trình chuẩn bị điều tra
Xác định mục đích của cuộc điều tra
Muốn xác định được mục đích của cuộc điều tra ta cần phải xác định được vấn đề nghiên cứu nghĩa là phải trả lời được hai câu hỏi: đối tượng điều tra là ai? điều tra về vấn đề gì?
Sau khi đã xác định rõ ràng hai yếu tố trên, việc lựa chọn tên đề tài nghiên cứu phải nêu bật được cả hai yếu tố này để người đọc có thể nắm bắt được ngay mục đích nghiên cứu khi đọc tên đề tài.
Đối với cuộc điều tra này, đối tượng điều tra được xác định là “các giảng viên trường đại học Kinh tế Quốc dân đã và đang tham gia vào các chương trình hợp tác ĐTQT” và vấn đề điều tra là “đánh giá ảnh hưởng của đào tạo Quốc tế trong việc nâng cao năng lực giảng dạy của các giảng viên”.
- Xác định nội dung điều tra
Nội dung của cuộc điều tra nhằm cung cấp thông tin công cho việc phân tích. Vì vậy, nội dung điều tra được thể hiện trực tiếp bằng các câu hỏi trong bảng hỏi. Để có thể thu thập đầy đủ thông tin về các vấn đề quan tâm, thì các câu hỏi trong bảng hỏi vừa phải đa dạng để thu thập được nhiều thông tin không chỉ về vấn đề nghiên cứu mà có thể ngay cả những vấn đề có liên quan nhưng đồng thời cũng vừa phải bám sát vào những vấn đề chính mà ta quan tâm.
Bảng hỏi của cuộc điều tra này không chỉ gồm những câu hỏi nhằm thu thập thông tin trực tiếp về vấn đề nghiên cứu như: lợi ích mà chương trình đào tạo quốc tế mang lại cho các giảng viên tham gia trong việc nâng cao năng lực giảng dạy; các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia vào chương trình của các giảng viên thì còn gồm có các câu hỏi nhằm thu thập thông tin về các vấn đề như: những lợi ích mà đào tạo quốc tế mang lại cho nhà trường; bộ phận các cán bộ giảng viên có được lợi ích từ các chương trình này đem lại. Thông qua đây, ta có thể biết được liệu có phải đào tạo quốc tế chỉ đem lại lợi ích chỉ cho những người tham gia hay không để có những điều chỉnh phù hợp.
- Xác định phương pháp thu thập thông tin
Cần dựa trên những đặc điểm của tổng thể nghiên cứu, tình huống của cuộc điều tra cũng như những khả năng về tài chính, cán bộ điều tra để xác định phương pháp thu thập thông tin sao cho phù hợp nhất.
Đối với cuộc điều tra này, do đối tượng nghiên cứu đều là các giảng viên đại học vì vậy trình độ học vấn cũng như tinh thần trách nhiệm của họ đều rất cao. Đồng thời có sự hạn chế về thời gian tiến hành và cán bộ điều tra vì vậy phương pháp thu thập thông tin được lựa chọn là phương pháp Anket (phỏng vấn viết) để vừa có thể thu thập được thông tin nhanh chóng mà vẫn không lo lắng về hạn chế của phương pháp này.
- Việc thiết kế bảng hỏi
Bảng hỏi phải được thiết kế sao cho vừa dễ hiểu nhưng cũng vừa tiện cho việc nhập và phân tích số liệu. Vì vậy, bảng hỏi trong cuộc điều tra này được thiết kế gồm 3 cột: cột thứ nhất là thứ tự của các câu hỏi; cột thứ hai là nội dung các câu hỏi và cột thứ ba là cột mã hoá câu hỏi để tiện cho việc nhập dữ liệu.
Các câu hỏi trong bảng hỏi phải sử dung ngôn ngữ sao cho phì hợp với đối tượng điều tra. Trong cuộc điều tra này, đối tượng điều tra là các giảng viên nên ngôn ngữ được dùng phải nghiêm túc, kính trọng.
Các câu hỏi nhằm thu thập thông tin về ý kiến, quan điểm hay nhận xét của đối tượng điều tra về một vấn đề, mặc dù có thể người nghiên cứu đã gần như biết được các phương án trả lời có thể có nhưng vẫn nên để các câu hỏi đó dưới dạng nửa đóng để đề phòng người trả lời đưa ra những phương án không thể lường trước được.
Kết luận
Một cuộc điều tra xã hội học nhất thiết phải trải qua ba giai đoạn chính đó là: chuẩn bị điều tra; tiến hành điều tra; xử lý và phân tích thông tin. Muốn thành công trong một cuộc điều tra, người điều tra không những phải trải qua 3 giai đoạn trên, mà còn phải nắm vững được các kiến thức chuyên sâu và có những hiểu biết sâu rộng về các vấn đề trong thực tế.
Cuộc điều tra về ảnh hưởng của đào tạo Quốc tế trong việc nâng cao năng lực giảng dạy của các giảng viên trường đại học Kinh tế Quốc dân sẽ cung cấp những thông tin quí báu về chương trình như: lợi ích mà chương trình mang lại cho các giảng viên tham gia nói riêng cũng như cho toàn trường nói chung; vị trí các hoạt động của chương trình trong hoạt động thường xuyên của nhà trường; việc sử dụng lĩnh vực chuyên môn của các giảng viên đã qua đào tạo ở trường…Tất cả những thông tin này đều vô cùng quan trọng đối với không chỉ các cấp lãnh đạo của nhà trường mà còn với các Ban quản lý dự án để sao cho có những định hướng phù hợp để phát huy hơn nữa lợi ích do các chương trình mang lại, có như thế thì hoạt động của chương trình này mới ngày càng đi sâu vào hoạt động chung của nhà trường và của tập thể.
Hy vọng rằng với việc hoàn thành cuộc điều tra này sẽ giúp cho các cấp lãnh đạo nhà trường có thêm những thông tin cần thiết để có thể phát triển hơn nữa môi trường bồi dưỡng và phát triển cán bộ giảng viên rất hữu ích này.
Trên đây là toàn bộ chuyên đề thực tập của em. Chắc chắn, sự hạn chế về mặt kiến thức cũng như thời gian sẽ không tránh khỏi những sai xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các Thầy các Cô. Em xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
Bài giảng điều tra xã hội học
Điều tra thăm dò dư luận – Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 1996
Business research – Jill Hussey and Roger Hussey
Tạp chí giáo dục số 78 – 8/2004
Tạp chí giáo dục số 80 – 9/2004
Báo cáo nhân lực trường đại học Kinh tế Quốc dân – 5/2002
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- S0029.doc