Lời nói đầu
Năm 1975, đất nước ta kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vĩ đại. Bước vào công cuộc xây dựng đất nước sau 30 năm chiến tranh với những biến đổi kinh tế toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam hoạt động với phương thức cũ, tập chung quan liêu bao cấp gặp những bất cập nhất định không hiệu quả. Nhận thức được điều đó, Đại hội Đảng cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (Năm 1986 ) với nghị quyết đã được thông qua, đã đặt nền móng cho sự nghiệp đổi mới của hoạt động nền kinh tế nước nhà: chuyển
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương pháp dãy số thời gian để phân tích chỉ tiêu giá trị sản xuất xây lắp giai đoạn 1997-2001 và dự báo 2002 của các Tổng Công ty thuộc Bộ Xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sang hoạt động theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng tham gia sản xuất, tạo ra nhiều chủng loại hàng hoá vật chất và dịch vụ phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao trong tiêu dùng đời sống toàn xã hội, cho đầu tư tích luỹ và phục vụ cho xuất khẩu.
Giá trị sản xuất là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động của các thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm). Đó là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất của mõi một thành phần kinh tế không chỉ biểu hiện hiệu quả của tái sản xuất theo chiều sâu mà cả hiệu quả của tái sản xuất theo chiều rộng, và là một trong nhừng chỉ tiêu quan trọng với nội dung của nó làm căn cứ để tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác. Mặt khác để đề ra các chính sách và chiến lược phát triển một ngành nghề nào đó trong tương lai đòi hỏi cần tìm sự biến động của hiện tượng xem hiện tượng đó biến động theo xu hướng nào từ đó có có quyết định đúng đắn cho ngành nghề đó.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong thời gian thưc tập ở vụ Kế hoạch- Thống kê của Bộ xây dựng, được sự giúp đỡ của các bác, các cô, và các anh chị trong vụ tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “ Vận dụng phương pháp dãy số thời gian để phân tích chỉ tiêu giá trị sản xuất xây lắp giai đoạn 1997-2001 và dự báo 2002 của các Tổng công ty thuộc Bộ Xây dựng” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I. Phương pháp tính chỉ tiêu giá trị sản xuất xây lắp.
Chương II. Đặc điểm vận dụng phương pháp dãy số thời gian để phân tích và dự báo.
Chương III. Vận dụng phân tích giá trị sản xuất xây lắp giai đoạn (1997- 2001) và dự báo 2002.
Đề tài của em hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo TS Phan Công Nghĩa, chủ nhiệm khoa Thống kê trường Đại Hoạc Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội, và sự hướng dẫn của các bác, các cô, các anh chị trong vụ Kế hoạch -Thống kê Bộ xây dựng.
Tuy nhiên, với thời gian có hạn và những hạn chế nhất định về sự hiểu biết về lý thuyết cũng như về lĩnh vực thực tế nên đề tài của tôi không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp của các ý kiến của các bác, cô chú, anh chị và các bạn.
Trân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bác, các cô chú, các anh chị trong vụ Thống kê- Kế hoạch đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Sinh viên thực hiện:
Hà Nội 8/5/ 2002
Chương I
Phương pháp tính chỉ tiêu giá trị sản xuất Xây lắp.
Trong các doanh nghiệp việc đánh giá kết quả sản xuất bằng một loạt các chỉ tiêu về tính hiệu quả kinh tế như giá trị sản xuất, lợi nhuận, doanh thu, năng suất lao động bình quân...Trong đó chỉ tiêu giá trị sản xuất là một trong những chỉ tiêu quan trọng. Vậy giá trị sản xuất là gì và phương pháp tính ra sao?.
I. Phương pháp tính giá trị sản xuất nói chung.
1. Khái niệm giá trị sản xuất.
a.Khái niệm:
Tổng giá trị sản xuất (Gross Output) là toàn bộ giá trị của cải vật chất và dịch vụ do lao động sản xuất xã hội tạo ra trong thời kỳ nhất định, thường là nột năm.
b.Nội dung:
Tổng gía trị sản xuất bao gồm giá trị sản xuất vật chất (tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng), giá trị sản phẩm dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất và phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cho đời sống dân cư xã hội.
Tổng giá trị sản xuất chỉ bao gồm giá trị sản xuất các hoạt động xã hội được pháp luật của quốc gia đó thừa nhận là là hữu ích và cho phép hoạt động. Như vậy giá trị sản phẩm là hàng giả hoặc không nằm trong danh mục sản phẩm sản xuất theo quy định và pháp luật của nhà nước sẽ không nằm trong tổng giá trị của sản xuất.
Vậy giá trị sản xuất được tính theo nguyên tắc nào ?.
2. Nguyên tắc và công thức tính giá trị sản xuất.
a. Nguyên tắc tính giá trị sản xuất.
Việc tính giá trị sản xuất phải tuân theo những nguyên tắc sau.
+Tính theo lãnh thổ kinh tế ( nguyên tắc thường trú) Nguyên tắc này xác định đối tượng phạm vi tính toán được tính cái gì và không được tính cái gì.
+Tính theo sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ.
+Tính theo giá thị trường (giá sản xuất và giá bán).
+Thời điểm tính tổng giá trị sản xuất.
Là thời điểm tự sản xuất: Tức là kết quả của sản xuất của thời kỳ nào phải tính vào giá trị sản xuất của thời kỳ đó. Theo nguyên tắc này chỉ tính vào gía trị sản xuất chênh lệch cuối kỳ, đầu kỳ nửa thành phẩm và thành phẩm dở dang, tức là phải loại trừ tồn kho đầu kỳ hai loại kể trên vì nó là kết quả sản xuất của kỳ trước.
Tính toàn bộ giá trị sản phẩm.
Theo nguyên tắc này, cần tính vào giá trị sản xuất cả nguyên vật liệu của khách hàng.
Tính toàn bộ kết quả sản xuất.
Theo nguyên tắc này cần tính vào giá trị sản xuất không chỉ thành phẩm mà cả nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang.
b. Phương pháp tính tổng giá trị sản xuất.
Trong nền kinh tế quốc dân tổng giá trị sản xuất được tính theo một số phương pháp sau:
Phương pháp1. Phương pháp xí nghiệp, phương pháp doanh nghiệp.
Theo phương pháp này người ta lấy xí nghiệp làm đơn vị tính. Thực chất của phương pháp này là cộng dồn tất cả các xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh tế quốc dân
GOxn: Giá trị sản xuất toàn bộ nền kinh tế quốc dân (KTQD) tính theo phương pháp xí nghiệp.
GOxni: Giá trị sản xuất của từng xí nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh tế quốc dân.
- Ưu điểm của phương pháp này:
Do lấy xí nghiệp làm đơn vị tính nên nguồn số liệu thu thập được là đầy đủ và chính xác. Là cơ sở để tính cho một số phương pháp tính sau này.
Cho phép ta xác định được các mối quan hệ tỷ lệ giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên phương pháp này còn tồn tại một số nhược điểm sau:
Đó là sự phản ánh không chính xác kết quả sản xuất cuối cùng của nền kinh tế quốc dân bởi nó bị tính trùng rất lớn diễn ra ngay trong cùng một ngành và tính trùng giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Ví dụ: Giả sử nền kinh tế quốc dân của một địa phương có 3 ngành kinh tế lớn:
Ngành 1: Công nghiệp chế biến.
Ngành 2: Ngành nông nghiệp.
Ngành 3: Ngành xây dựng.
Ngành 1 bao gồm các xí nghiệp luyện kim, xí nghiệp chế tạo máy, xí nghiệp sản xuất vật liệu sây dựng.
Ngành 2 bao gồm xí nghiệp chuyên trồng trọt, xí nghiệp chuyên chăn nuôi và các trạm máy kéo.
Ngành 3 bao gồm chuyên xây lắp , và sản xuất vật liệu xây dựng.
Như vậy khi tính giá trị sản xuất của xí nghiệp chuyên chăn nuôi ta đã chuyển một ít giá trị sản xuất của xí nghiệp chuyên trồng trọt sang. Tức là trong trường hợp này một phần giá trị sản xuất vẫn được tính hai lần.
Chú ý: Chỉ tiêu giá trị sản xuất tính ra lớn hay nhỏ nó còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức và trình độ chuyên môn hoá của doanh nghiệp. Để khắc phục nhược điểm này ta thường sử dụng phương pháp tính theo ngành và tính nền kinh tế quốc dân.
Phương pháp2. Phương pháp ngành.
Chỉ tiêu giá trị sản xuất tính theo phương pháp ngành tức là lấy ngành làm đơn vị tính nên phạm vi mở rộng hơn phương pháp xí nghiệp. Thực chất của phương pháp này chính là cộng tất cả các giá trị sản xuất của tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
(XN)
GOngành: Tổng giá trị sản xuất nền KTQD tính theo phương pháp ngành:
GOngành j : Giá trị sản xuất của từng ngành trong nền KTQD (theo Liên Hợp Quốc (LHQ) thì có 17 ngành, còn nếu theo cách tính Việt Nam thì có 20 ngành).
GOtrùng nội bộ XN: Giá trị sản phẩm chu chuyển giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành (phần tính trùng nội bộ ngành).
Theo cách tính này có một số ưu điểm sau:
Phản ánh được kết quả sản xuất cuối cùng của từng ngành bởi vì phương pháp này loại bỏ được tính trùng trong nội bộ ngành đó.
Cho phép ta nghiên cứu được mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành của nền KTQD.
Nhược điểm của phương pháp này: Là vẫn chưa loại bỏ được tính trùng giữa các ngành của nền KTQD.
Ví dụ: vẫn ví dụ trên ta thấy GOCNchế biến bao gồm GOXN luyện kim, GO XN chế tạo máy và GOXN SXVLXD.
Trong ngành XD: GOXD bao gồm hoạt động chuyên xây lắp. Trong hoạt động xây dựng đã sử dụng sản phẩm của xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (gạch, xi măng...) nhưng vẫn tính cả vào giá trị ngành xây dựng. Vậy là có phần tính trùng giữa hai ngành.
Vậy để đạt kết quả gía trị sản xuất một cách chính xác hơn và không bị tính trùng nữa người ta sử dụng phương pháp KTQD.
Phương pháp3. Phương pháp kinh tế quốc dân.
Phương pháp này ta xem nền kinh tế quốc dân làm đơn vị chính. Thực chất của phương pháp này phản ánh kết quả sản xuất cuối cùng của nền KTQD.
GOKTQD=GOnganh-GOtrùng nội bộ ngành=GOXN-(GOtrùng nội bộ XN+GOtrùng nội bộ ngành )
GOKTQD:ồ giá trị sản xuất nền KTQD tính theo phương pháp KTQD.
GOngành: ồ giá trị sản xuất nền KTQD tính theo phương pháp ngành.
GOXN: ồ giá trị sản xuất nền KTQD tính theo phương pháp XN
GOtrùng nội bộ ngành:giá trị sản phẩm chu chuyển giữa các ngành của nền KTQD (phần tính trùng của nền KTQD).
GOtrùng nội bộ XN:Giá trị sản phẩm chu chuyển giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành.
Phương pháp này phản ánh chính xác kết quả sản xuất cuối cùng của nền kinh tế quốc dân vì nó đã loại trừ mọi khả năng tính trùng và xẽ không bị ảnh hưởng bởi trình độ tổ chức của doanh nghiệp.
Phương pháp này chính là cơ sở để ta xác định được tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Ta vừa đề cập đến nguyên tắc và phương pháp tính tổng giá trị sản xuất. Xong trong mỗi một ngành lại có phương pháp và cách tính khác nhau. Vậy cách tính tổng giá trị sản xuất của xây lắp ra sao?
II. Phương pháp tính tổng giá trị sản xuất của xây lắp.
Đơn vị xây lắp cũng như các đơn vị khác ngoài nhiệm vụ chính của mình là hoạt động xây dựng còn có các hoạt động khác như sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ và tất cả các hoạt động đó đều tạo ra thu nhập cho đơn vị đều coi là giá trị sản xuất cuả toàn đơn vị. Chỉ tiêu giá trị sản xuất được tính theo giá trị thực tế, tức là giá dự toán, hợp đồng đã được bên A chấp nhận thanh toán. Giá trị sản xuất ngành xây dựng là kết quả kinh doanh về hoạt động xây dựng theo thiết kế được bên A giao thầu chấp nhận, gồm những giấ trị của công việc chuẩn bị mặt bằng, xây dựng công trình, lắp đặt máy móc thiết bị, hoàn thiện công trình cho thuê phương tiện thiết bị xe máy thi công có người đi theo điều khiển. Giá trị sản xuất xây lắp là bộ phận chính của giá trị sản xuất ngành xây dựng bao gồm:
Giá trị công tác xây dựng.
Giá trị công tác lắp đặt thiết bị máy móc.
Giá trị công tác sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc.
1.Nguyên tắc tính chỉ tiêu giá trị sản xuất xây lắp.
_ Chỉ tính những kết quả trực tiếp có ích của sản xuất tạo ra trong quá trình thực hiện hợp đồng nhận thầu (kể cả khối lượng phá đi làm lại do bên A gây ra), không tính vào giá trị sản xuất xây lắp những khối lượng phải pha đi do không đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của thiết kế do đơn vị thi công gây ra.
Kết quả lao động có ích của đơn vị xây lắp bao gồm những công trình, hạng mục công trình, bộ phận công trình hoăc công viêc xây lắp hoàn thành theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật đuợc ghi trong bản thiết kế và đã được đơn vị giao thầu (bên A) xác nhận.
Không được tính vào giá trị sản xuất xây lắp những giả trị phế liệu, phế phẩm như gỗ, tre, sắt vụn, gạch vụn… do quá trình thi công sinh ra.
Nhưng nếu những phế phẩm, phế thải đó bán ra thu hồi được tiền thì đơn vị xây lắp đó vẫn được tính là giá trị sản xuất của mình trong kỳ, và đó là giá trị sản xuất của ngành xây dựng, không coi là giá trị sản xuất của ngành xây lắp.
Đối với cấu kiện mua ngoài hoặc nguyên liệu do bên đi thuê lo liệu mang đến thì chỉ được tính vào giá trị sản xuất khi những nguyên vật liệu cấu kiện đó được sử dụng và kết cấu nên thực thể công trình, không tính số nguyên vật liệu cấu kiện chưa đưa vào công trình. Riêng những đơn vị làm nhiệm vụ lắp đặt máy móc, thì những giá trị thiết bị máy móc đó không được tính là giá trị sản xuất của xây lắp, cũng không đươc coi là giá trị sản xuất của ngành xây dựng. Những thiết bị máy móc này được nói rõ trong hợp đồng và thiết kế.
_ Chỉ tính kết quả thi công xây lắp theo thiết kế của hợp đồng nhận thầu phù hợp với dự toán đã được duyệt. Trường hợp thay đổi thiết kế phải có hợp đồng bổ sung. Những khối lượng thi công vượt thiết kế phải có sự thoả thuận của bên A. Quản lý dự án công trình và ngân hàng chuyên quản mới được tính vào giá trị sản xuất.
_ Chỉ tính thành quả lao động xây dựng trong kỳ báo cáo tạo ra, không tính khối lượng sản xuất kỳ trước vào kỳ này hoặc chuyển khối lượng để thi công kỳ này sang kỳ sau. Những khối lượng sản phẩm dở dang chỉ được tính trong kỳ phần chênh lệch giũa cuối kỳ và đầu kỳ.
Ví dụ: Công ty xây lắp I cuối kỳ báo cáo có giá trị khối lượng thi công dở dang là 200 triệu đồng, số đầu kỳ giá trị dở dang là 120 triệu đồng. Vậy phần chênh lệch được tính vào giá trị sản xuất kỳ này là 200 triệu- 120 triệu= 80 triệu đồng.
_ Được tính toàn bộ giá trị sản phẩm xây lắp, gồm C+V+m. Có nghĩa là nhân khối lượng hiện vật với đơn giá dự toán và cộng thêm chi phí chung và lãi định mức. Công thức chung để tính giá trị sản xuất phần xây lắp như sau:
Q = p . q + c + L (I)
Trong đó:
Q- là giá trị sản xuất.
q- là khối lượng thi công xong.
p- là đơn giá dự toán của một đơn vị khối lượng thi công xong.
c- là chi phí chung
L- là lợi nhuận định mức
Trong thực tế khi vận dụng công thức này cần chú ý mấy điểm sau:
Cần phân biệt đơn giá đự toán nếu không có chi phí xe, máy thi công, mà thực tế có sử dụng xe, máy thi công trước khi tính chi phí chung và lãi định mức; ngược lại trong đơn giá có chi phi xe, máy thi công và thực tế không sử dụng thì trươc khi tinh chi phí chung và lãi định mức phải tính chi phí trực tiếp theo đơn giá không có chi phí sử dụng máy thi công.
Chi phí chung bao gồm các chi phí trực tiếp khác, chi phí bộ máy quản lý, BHXH, kinh phí trích nộp công đoàn, chi phí phục vụ nhân công và các chi phí khác thuộc phụ phí thi công trước đây nay được tính bằng tỷ lệ % so với chi phí trực tiếp. Khoản chi phí này của từng loại công trình đựợc Bộ Xây dựng hướng dẫn chung trong thông tư lập toán công trình XDCB.
Trong dự toán xây lắp kể từ ngày 1-7-1990 không được phép tính chi phí vay lãi ngân hàng- việc bảo đảm vốn xây lắp để thanh toán kịp thời do A- B thoả thuận và ghi vào trong hợp đồng kinh tế.
Trường hợp đơn vị xây lắp chỉ nhận thầu thi công còn nguyên vật liệu do bên A (đi thuê) lo liệu mang đến hoặc mua của ngoài thì giá trị sản xuất cũng tính cả giá trị nguyên vật liệu nói trên. Nói cách khác giá trị sản xuất xay lắp (bộ phận chính của giá trị sản xuất) là giá trị dự toán lần cuối của công trình xây lắp đã hoàn thành, không kể giá trị bản thân thiết bị máy móc cần lắp đặt.
_ Ngoài những thu nhập của công việc của xây lắp thực hiện, giá trị sản xuất ngành xây dựng còn được tính thêm các khoản sau:
Khoản thu chênh lệch với bên A, do đơn vị làm nhiệm vụ tổng thầu xây dựng, chia thầu với các đơn vị khác.
Khoản thu do có phương tiện xe, máy thi công cho bên ngoài thuê có người điều khiển đi theo.
Khoản thu do bán những phụ liệu, phế liệu, sản phẩm hỏng, phế thải trong sản xuất xây dựng tạo ra. Nhưng chỉ tính đén khi đơn vị bán ra thu được tiền, không tính số tập trung trong kho bãi chưa bán ra.
2. Các công thức tính.
GOXL=GOcông tác XD+GOcông tác lắp đặt MMTB+GOSCNCVKT
a. Tính giá trị sản xuất cho công việc xây dựng mới.
Xây dựng mới là quá trình biến đổi các đối tượng lao động của ngành xây dựng để tạo ra sản phẩm xây dựng cho nền kinh tế quốc dân như nhà cửa, kiến trúc, bến bãi, hồ chứa, kênh đào, đường xá ... Giá trị sản xuất được tính là chi phí trực tiếp và gián tiếp cho công tác xây dựng được ghi trong dự toán, kể cả chi phí tháo dỡ bỏ các vật kiến trúc và xữa chữa lớn có ghi trong thiết kế và quy phạm kỹ thuật về công tác xây dựng cụ thể là:
Giá trị công tác xây dựng mới, mở rộng khôi phục, cải tạo lại nhà cửa vật kiến trúc có tính chất lâu dàivà tạm thời. Giá trị cấu kiện làm sẵn bằng kim loại, bê tông, gỗ…dùng làm một bộ phận của nhà cửa, vật kiến trúc có ghi trong dự toán và phù hợp với tiến bộ thi công.
Giá trị các thiết bị vệ sinh, thông gió, chiếu sáng truyền hơi ấm (kể cả chi phí lắp đặt và sơn mài) cần thiết để đảm bảo cho công trình hoạt động bình thường theo thiết kế, hợp đồng quy định.
Giá trị công tác đặt nền móng vật chống đỡ các thiết bị máy, việc xảy chát bên trong, bên ngoài các lò đặc biệt như lò luyện thép, luyện than cốc lò hơi nhà máy điện...
Giá trị bản thân đường ống, chi phí lắp đặt đường ống dẫn hơi, dẫn nước, dẫn khí đốt, dẫn dầu, dẫn nước cấp thoát nước có ghi trong đồ án thiết kế (không bao gồm những đường ống trực thuộc máy, thiết bị có ghi trong lý lịch máy).
Giá trị bản thân đường dây, chi phí lắp đặt đường dây điện, hệ thống cáp ngầm, đường dây liên lạc, đường dây truyền thanh ...
+Giá trị công trình dẫn nước và thoát nước (trong thuỷ lợi). Công tác lấp hồ, ao, lấp móng, đào đắp đất (trong xây dựng)...Công tác đào gốc, cày bừa lần đầu (trong khai hoang nông nghiệp) công tác xây dựng vườn ươm và cây trồng lâu năm như cà phê, cao su, cây ăn quả...
Giá trị công trình khai thác giếng mỏ mới, khoan thăm dò giếng dầu và hơi thiên nhiên.
Giá trị công tác thăm dò, khảo sát, thiết kế phát sinh trong quá trình thi công.
Giá trị công tác bố trí, dỡ bỏ vật kiến trúc, chuẩn bị mặt bằng thi công và dọn dẹp, trồng cây sau khi xây dựng xong.
Tuy nhiên khi vận dụng cần chú ý đối với khối lượng xây dựng dở dang. Cần phân biệt các trường hợp sau:
Đối với những khối lượng xây dựng dở dang đã thi công đến phần việc cuối cùng của đơn giá dự toán như đổ xong 1m2 bê tông, trát xong 1m2 tường... thì ta lấy khối lượng nhân với giá dự toán, tiếp đó tính thêm phần chi phí chung và lợi nhuận định mức.
Đối với những khối lượng chưa thi công đến phần việc cuối cùng của đơn giá dự toán thì lấy khối lượng hiện vật nhân với đơn giá phân đoạn (như đơn giá buộc 1kg cốt thép, ghép 1m2 cốt pha...). Nếu không có đơn giá phân đoạn thì lấy khối lượng dở dang nhân với %lao động hao phí của từng giai đoạn chiếm trong tổng số ngày công lao động hao phí cho toàn bộ các giai đoạn của khối lượng đó (tính theo ngày công hao phí định mức) để quy đổi thành khối lượng xây dựng xong, rồi tính theo công thức chung.
Đối với những công trình, hạng mục công trình do bên A cấp một phần hay toàn bộ nguyên vật liệu đơn vị xây lắp vẫn tính được toàn bộ giá trị sản phẩm vào giá trị sản xuất xây lắp nghĩa là vẫn tính được giá trị bản thân vật liệu do bên A cấp (không nên nhầm lẫn giữa báo cáo GTSXXL của bên B với báo cáo thanh quyết toán giữa A và B).
b.Phương pháp tính giá trị sản xuất công tác lắp đặt thiết bị máy móc.
Công tác lắp đặt thiết bị máy là quá trình lắp đặt các thiết bị máy móc (có tính chất lâu dài hay tạm thời, có ghi trong thiết kế dự toán xây lắp) lên trên nền hoặc bệ máy cố định để máy và thiết bị có thể hoạt động được: Như lắp đặt các thiết bị máy sản xuất, thiết bị động lực, thiết bị vận chuyển, thiết bị chữa bệnh, thiết bị thí nghiệm...
Khác với sản xuất xây dựng công tác lắp đặt không làm biến đổi hình thái của đối tượng lao động và không tạo ra sản phẩm mới mà chỉ có tính chất gia công các sản phẩm đã có (làm tăng thêm giá trị sản phẩm) và tạo điều kiện cho chúng phát huy tác dụng.
Nội dung của công tác lắp đặt máy bao gồm từ việc chuẩn bị lắp đặt đến đến việc thử máy để xác định chất lượng công tác lắp đặt và các công tác có liên quan.
Cụ thể là:
Công tác lắp đặt máy, thiết bị trên nền hoặc bệ máy.
Công tác sơn, mạ, chông ẩm các máy và thiết bị đã lắp.
Công tác lắp đặt các bàn thợ, cầu thang gắn liền với máy, thiết bị.
Công tác lắp đặt đường ống, đường dây (kể cả giá trị bản thân đường ống, đường dây) nối liền thiết bị được lắp với cầu giao bảng điện, đồng hồ đo gần nhất mà có ghi trong bảng thiết kế xây dựng của máy, thiết bị.
Cách tính giá trị công tác lắp đặt máy cũng gần giống như cách tính giá trị sản xuất công tác xây dựng, chỉ khác nhau cơ bản ở chỗ giá trị sản xuất công tác lắp máykhông được tính giá trị bản thân máy, thiết bị cần lắp.
Đối với khối lượng lắp máy xong là khối lượng của các đối tượng đã thi công hoàn chỉnh theo đúng hợp đồng giữa A và B, hoặc đã lắp đến giai đoạn nhất định hoặc điểm dừng kỹ thuật bên A nghiệm thu và ngân hàng chấp nhận thanh toán, thì tính theo công thức chung nói trên.
Đối với khối lượng lắp máy chỉ mới xong các khối, các bộ phận hoặc mới lắp xong từng động tác thì phải quy đổi về số tấn máy lắp xong (Kqđ) tính theo công thức:
Qqđ=qdt.t1 (II)
Trong đó:
qdt: là số tấn máy lắp xong từng động tác.
t1=t/T*100: Là tỷ trọng ngày công lắp máy xong từng động tác của 1 tấn máy chiếm trong tổng số ngày công lắp xong (t là định mức ngày công lắp xong từng động tác của một tấn máy, T là định mức ngày công lắp xong toàn bộ 1 tấn máy).
Qqđ: là khối lượng khối máy lắp quy đổi đã lắp xong.
Ví dụ: Có tài liệu của xí nghiệp lắp máy I như sau:
Qđầutư (tấn)
T(ngày/công)
T(ngày/công)
t1(%)
A
1
2
3
4
- Loại máy A.
+ Lắp xong động tác 2
100
1
11
9,1
+ Lắp xong động tác 3
55
3
3
11
- Loại máy B.
+ Lắp xong động tác 4
90
1.5
1,5
7,1
+ Lắp xong động tác 5
40
3.5
3,5
16,6
áp dụng công thức (II) tính được số tấn máy lắp xong quy đổi của mỗi loại như sau:
Loại máy A: (100x9,1%)+(55x27,2)=24,1 tấn
Loại máy B: (90x7,1%)+(44x16,6%)=13 tấn.
Đối với khối lượng lắp máy chưa xong từng động tác phải quy đổi về số tấn máy lắp đặt xong toàn bộ Qqđ theo công thức sau:
Qqđ=qdđt* t1 *t1d (III)
Trong đó:
Qqđ: Số tấn máy lắp quy đổi về lắp xong toàn bộ.
qd đt: Số tấn máy lắp dở dang từng động tác.
t1: Tỷ trọng ngày công lắp xong từng động tác cho một tấn máy chiến trong tổng số ngày công lắp xong toàn bộ 1 tấn máy (Tính theo định mức).
t1d: Tỷ lệ % hoàn thành trong từng động tác.
Cùng tài liệu của xí nghiệp xây lắp máy I ta có :
Loại máy A: lắp 50% động tác 3 được 20 tấn.
Loại máy B: lắp 60% động tác 5 được 30 tấn.
áp dụng công thức (III) tính quy đổi ra tấn máy quy ước như sau:
qd đt
t1(%)
td(%)
Qqđ(tấn)
A
1
2
3
4
- Loại máy A
+ Dở dang động tác 3
- Loại máy B
+ Dở dang động tác 3
20
30
27,2
16,6
50
60
2,22
3,01
Định mức công lắp xong toàn bộ 1 tấn máy và lắp xong từng động tác cho một tấn máy phải căn cứ vào trọng lượng của máy, độ cao , độ sâu, vị trí treo leo nơi lắp máy và xác định mức công cho phù hợp ( hệ số điều chỉnh đã được quy định trong định mức lắp máy hiện hành ).
Khi xác định mức độ hoàn thành từng động tác chủ yếu phải dựa vào so sánh số công định mức chung cho việc hoàn thành cả đọng tác đó tất nhiên có kết hợp với việc quan sát khối lượng hiện vật đã làm.
Khi đã có số tấn máy quy ước lắp xong toàn bộ giá trị sản xuất xây lắp máy tính theo công thức:
Q=q*p+C+L
Trong đó:
Q: Giá trị sản xuất xây lắp máy.
q: Khối lượng số tấn máy quy đổi
p: Đơn giá dự toán một đơn vị khối lượng thi công xong
c: Là chi phí chung
L: Lợi nhuận định mức
c.Phương pháp tính giá trị sản xuất công tác sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc.
Sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc là dùng cấu kiện, phụ tùng muốn để thay thế các cấu kiện phụ tùng của tài sản trên đã bị hao mòn, hư hỏng, có nghĩa là phục hồi hình thái tự nhiên của nó, đảm bao cho nhà cửa, vật kiến trúc phát huy tác dụng một cách bình thường.
Nếu có đơn giá dự toán thì tính giá trị sản xuất của công tác sửa chữa nhà cửa, vật kiến trúc giống như công tác xây dụng và lắp đặt.
Nếu chưa có đơn giá dự toán thì tính theo phương pháp “thực thanh thực chi” nhưng bên A phỉa dám sát chặt chẽ và xác nhận để chánh chi tiêu lãng phí.
Toàn bộ công việc xây lắp và sửa chữa nhà cửa vật kiến trúc nói trên do đơn vị tiến hành làm, được tính là giá trị sản xuất xây lắp do đơn vị thực hiện. Cộng với số tiền thu được do chênh lệch tổng thầu mang lại, do cho thuê máy móc thi công (có kèm người điều khiển) do bán được những phế liệu, phế phẩm, do làm các công việc chuẩn bị mặt bằng, hoàn thiện công trình (phần không thuộc hoạt động xây lắp của đơn vị) được tổng giá trị sản xuất kinh doanh ngành xây dựng.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc tính toán các chỉ tiêu xây lắp.
Trong thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng tính các chỉ tiêu GO chính xác và đầy đủ chỉ có các đơn vị áp dụng chế độ báo cáo thống kê định kỳ tính các chỉ tiêu này theo các phương pháp đã nêu mới thu được kết quả chính xác và sát thực.
Việc tính toán chỉ tiêu GO là chính xác hay không là do ảnh hưởng của nhân tố chủ quan và khách quan mang lại như:
_ Do đặc điểm phức tạp của Xây dựng, do trình độ công nghệ và tổ chức xây dưựng còn thấp, trong đó có cả khó khăn về vốn và trình độ con người. Vì vậy số liệu báo cáo thiếu chính xác, chưa có hệ thống thanh tra kiểm soát hữu hiệu, trong cùng một doanh nghiệp. Trong cùng một thời kỳ tính toán tuỳ theo mực tiêu của doanh nghiệp có nhiều báo cáo với nội dung khác nhau dẫn dến tình trạng lái giả, lỗ thật là tương đối phổ biến ở các doanh nhgiệp công nghiệp xây dựng.
_ Do tác động của đấu thầu cạnh tranh làm cho giá cả luôn luôn biến động do đó việc định ra nhũng tỷ lệ, định mức cụ thể, chính xác cho từng yếu tố trong chi phí gía thành là không cố định, không theo định mức đưa ra của nhà nước. Chẳng hạn như chi phí khấu hao tài sản cố định do giá đấu thầu thấp nên phải kéo dài thời hạn khấu hao trong khi các nguồn vốn vay tín dụng, đàu tư thường là trung hạn(từ 3-5 năm). Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác hạch toán.
Tình trạng chậm thanh toán vốn thi công xây dựng công trình dẫn đến các chi phí vay lãi ngân hàng lớn. Mặt khác chi phí tiêu cực trong hoạt động xây dựng cơ bản chiếm một tỷ trọng tương đối lớn làm cho việc phân bố chi phí và đánh giá các chỉ tiêu bị sai lệch, không còn mang ý nghĩa thực chất chính xác của chi phí giá thành.
Yếu tố thường sai lệch nhiều nhất là tình trạng đấu thầu doanh thu báo cáo của các doanh nghiệp và sự quản lý thiếu chặt chẽ chi phí dở dang.
Chương II.
Đặc điểm vận dụng dãy số thời gian để phân tích và dự báo giá trị sản xuất xây lắp.
I. Đặc điểm của xây lắp có ảnh hưởng đến giá trị sản xuất xây lắp , phân tích dự báo.
1. Khái niệm sản phẩm xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội, là thành quả lao động trực tiếp, hữu ích của hoạt động sản xuất xây lắp, do công nhân xây lắp thi công tại hiện truờng theo thiết kế sáng tạo ra. Từ khái niệm trên cho thấy sản phẩm xây lắp thì phải đảm bảo các điều kiện sau.
_ Phải là kết quả hoạt động sản xuất xây lắp. Theo điều kiện này, những sản phẩm không phải là thành phẩm của lao động xây lắp (sản phẩm của các tổ chức sản xuất phụ trợ, phụ thuộc), những sản phẩm chưa có sự đầu tư lao động của công nhân xây lắp(nguyên vật liệu, cấu kiện... mua ngoài về hoặc tự sản xuất trong các phân xưởng sản xuất phụ) đều không đươc coi là sản phẩm xây lắp.
_ Phải là thành quả trực tiếp hữu ích do hoạt động sản xuất xây lắp, nghĩa là những sản phẩm do hoạt động xây lắp trực tiếp sáng tạo theo đúng tiêu chuẩn thiết kế đã quy định mơí được tính là sản phẩm xây lắp. Như vậy sẽ không tính là sản phẩm xây lắp đối với những sản phẩm phá đi làm lại, những chi phí sửa chữa do đơn vị thi công gây ra. Về điều kiện này cần lưu ý trong xây dựng cơ bản, sản phẩm hữu ích của XN xây lắp là những kết quả hoạt động xây lắp đã đươc bên A kiểm tra xác nhận số lượng và chất lượng của sản phẩm. Do đó khối lượng phải phá đi làm lại không phải do xí nghiệp xây lắp gây ra vẫn đươc coi là sản phẩm xây lắp.
_ Phải là thành quả lao động của công nhân xây lắp thi công tại hiện trường theo thiết kế. Điều kiện này xác định rõ giới hạn của sản phẩm xây lắp thể hiện ở chỗ, sản phẩm xây lắp phải là kết quả lao động của công nhân xây lắp thực hiện trong phạm vi thi công và phải là những khối lượng có trong thiết kế. Do đó những kết quả lao động của công nhân xây lắp thực hiện ngoài cự ly thi công hoặc vượt thiết kế đều không được tính vào sản phẩm xây lắp như khối lượng vận chuyển nguyên vật liệu ngoài cự ly thi công, xây dựng các lán trại nhỏ để phục vụ cự ly thi công.
2. Đặc điểm cơ bản của sản phẩm xây lắp.
_ Đặc điểm của sản xuất xây dựng.
Sản xuất xây dựng thiếu tính ổn định, có tính lưu động cao theo lãnh thổ kinh tế: vì trong xây dựng, khác với nhiều ngành khác, con người và công cụ luôn phải di chuyển từ công trường này đến công trường khác, còn sản phẩm xây dựng (tức là các công trình xây dựng ) đứng yên tại chỗ. Đăc điểm này kéo theo một loạt các động tác ví dụ như:
Các phương án công nghệ và tổ chức xây dựng phải luôn biến đổi phù hợp với thời gian và đị điểm xây dựng, do đó làm khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, cho việc cải thiện điều kiện lao động và làm nảy sinh cho nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất cũng như các công trình tạm phục vụ thi công xây dựng.
Tính lưu thông của sản xuất đòi hỏi phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ các phương án tổ chức xây dựng, tăng cường điều hành tác nghiệp lụa chọn vùng hoạt động hợp lý, lợi dụng tối đa các lực lượng và tiềm năng sản xuất tại chỗ, chú ý đến độ xa di chuyển lực lượng sản xuất đến công trường khi lập phương án tranh thầu.
Đòi hỏi phát triển rộng khắp và đIều hoà trên lãnh thổ các loại hình dịch vụ dịch vụ sản xuất về cung cấp vật tư và thiết bị cho xây dựng, về cho thuê máy móc xây dựng...
Vì sản phẩm xây dựng có tính đa dạng cá biệt cao, có chi phí lớn nên sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu cho từng công trình một. Đặc đIểm này gây nên một số tác động đến quá trình sản xuất Xây Dựng như:
Trong xây dựng nói chung hình thức sản xuất sẵn hàng loạt sản phẩm để bán không được phát triển, trừ một số trường hợp có thể xây dựng sẵn căn nhà để bán hoặc cho thuê.
Sản xuất xây dựng của các tổ chức xây dựng có tính bị động và rủi ro cao vì nó phụ thuộc vào kết qủa đấu thầu.
Việc thống nhất hoá điển hình các mẫu sản phẩm và cac công nghệ chế tạo sản phẩm xây dựng gặp nhiều khó khăn, vì cùng một loại công trình xây dựng, nếu được xây dựng ở các địa đIểm khác nhau và các thời điểm khác nhau thì chúng sẽ có cách cấu tạo và công nghệ chế tạo khác nhau.
Việc xác định thống nhất giá cả cho một đơn vị sản toàn vẹn cuối cùng (tức là các công trình nhà cửa) không thể thực hiện được. Giá cả sản phẩm công trình phảI được xác định trước khi sản phẩm ra đời (ngay khi tiến hành đấu thầu xây dựng).
Chu kỳ sản xuất (thời gian ._.xây dựng công trình thường dài) đặc điểm này gây lên các tác động như:
Làm cho vốn dầu tư xây dựng của chủ đầu tư và vốn tổ chức của sản xuất xây dựng thường bị ứ đọng lâu dài tại công trình.
Các tổ chức xây dựng dễ gặp phải rủi do do ngẫu nhiên theo thời gian và thời tiết, chịu ảnh hưởng của biến động giá cả.
Công trình xây dựng dễ bị hao mòn vô hình ngay do tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật công nghệ, nếu thời gian thiết kế và xây dựng công trình kéo dài.
Đòi hỏi phải có chế độ tạm ứng vốn, thanh toán trung gian và kiểm tra chất lượng trung gian hợp lý, tổ chức dự chữ hợp lý.
Đòi hỏi phải tính đến hiệu quả rút ngắn thời gian xây dựng và chú ý đến nhân tố thời gian khi so sánh lựa chọn các phương án.
Quá trình sản xuất và xây dựng rất phức tạp đòi hỏi phải có nhiều lực lượng hợp tác tham gia thực hiện, khác với ngành khác trong lĩnh vực xây dựng các đơn vị tham gia xây dựng công trình cùng nhau đến công trường xây dựng với một diện tích làm việc thường là bị hạn chế để thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian. Đặc điểm này đòi hỏi:
Khi lập kế hoạch xây dựng phải đặc biệt chú ý đến yếu tố thời tiết và mùa màng trong năm, có biện phấp tranh thủ mùa khô và tránh mùa gió bão.
Phải có biện pháp để khắc phục ảnh hưởng của thời tiết tối đa giảm bớt thời gian ngừng việc do thời tiết, cố gắng bảo đảm sử dụng năng lực sản xuất điều hoà theo bốn quý, áp dụng các loại kết cấu lắp ghép chế tạo sẵn một cách hợp lý để giảm thời gian thi công ở hiện trường, nâng cao trình độ cơ giới hoá xây dựng.
Phải chú ý cải thiện điều kiện lao động cho người làm công xây dựng.
Phải đảm bảo độ bền chắc và độ tin cậy của của các thiết bị máy móc xây dựng.
Phải chú ý đến nhân tố rủi ro do thời tiết gây ra.
Phải quan tâm phát triển phương pháp xây dựng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. .
Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do địa đIểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình xây dựng nhưng nếu được tiến hành xây dựng ở những nơI có sẵn nguồn vật liẹu xây dựng nhân công và các cơ sở cho thuê máy xây dựng thì thì nhà thầu xây dựng trong trường hợp này có nhiều cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn so với các địa điểm xây dựng khác.
Công nghệ xây lắp chủ yếu là quá trình áp dụng các quá trình cơ học để giải quyết vấn đề chuyển ngang và vận chuyển lên cao, hoặc để xâm nhập lòng đất. Việc áp dụng chế độ tự động hoá quá trình xây lắp phát triển chậm, tỷ lệ thủ công chiếm cao.
- Đặc điểm của sản phẩm xây lắp.
Sảm phẩm xây lắp mang tính cố định.
Có tính cá biệt đơn chiếc cao (do ý chủ quan của đầu tư phụ thuộc vào địa hình, địa vật)
Thể tích và thời gian sử dụng dài.
Giá trị hao mòn tài sản cố định ít thường tính bằng chi phí sửa chữa lớn
3. Những điều kiện được coi là sản phẩm xây lắp.
Là thành quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp hay do lao động trong đơn vị xây lắp sáng tạo ra.
Phải là chính thành quả của hoạt động xây lắp không tính các thành quả không phải sản xuất xây lắp như trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ căng tin, nhà trẻ, vận tải.
Là thành quả của chính hoạt động sản xuất xây lắp là kết quả trực tiếp( tức không tính đến các phần công việc hoặc hoạt động phục vụ trong quá trình đang thi công mà không quy định trong thiết kế dự toán như phần việc tháo dỡ lắp đặt máy thi công, xây dựng các công trình tạm như lán trại, làm đường vận chuyển nguyên vật liệu hoặc các phế liệu như gỗ, sắt, gạch.
Là hữu ích: Tức là chỉ bao gồm các thành quả hoàn thành theo đúng yêu cầu và đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định trong hợp đồng không tính phần phá đi làm lại do đơn vị xây lắp gây ra.
4. Các hình thức biểu hiện của sản phẩm xây lắp.
_Sản phẩm xây lắp dưới hình thái hiện vật.
Đại bộ phận sản phẩm xây lắp có hình thái biểu hiện dưới dạng vật chất cụ thể đó là các đối tượng xây dựng với những đơn vị đo lường vật lý cụ thể như: độ dài, chiều cao, diện tích, công suất, khối lượng.
Nhà của vật kiến trúc chia làm hai loại: phục vụ cho sinh hoạt, phục vụ cho sản xuất.
_Các phần công việc có tính chất xây lắp.
Khảo sát thăm dò thiết kế phát sinh trong quá trình thi công hay liên quan đến một công trình, hạng mục công trình cụ thể.
Công tác lắp đặt máy móc thiết bị tạo điều kiện cho máy móc được hoạt động hay phát huy tác dụng và làm tăng giá trị sử dụng của máy móc, thiết bị.
Là thành quả của công tác khôi phục, sủa chữa nhà cửa vật kiến trúc nhằm tái tạo lại giá trị sử dụng ban đầu.
5. Nội dung cơ bản của quá trình tổ chức sản xuất xây dựng.
a. Tổ chức quá trình lao động trong thi công xây dựng
Nghiên cứu tổ chức quá trình lao động trong thi công xây dựng nhằm mục đích chủ động cung cấp một cách hợp lý nhất số lượng và chủng loại lao động cần thiết cho mỗi giai đoạn thi công tạo ra sự di chuyển nhân công và máy móc thiết bị theo đúng yêu cầu thi công tránh sự chờ đợi làm gián đoạn sản xuất, tạo ra việc sử dụng lao động một cách hợp lý nhất nhằm tăng năng suất lao động từng nơi làm việc và toàn bộ công trường.
Tổ chức quá trình lao động trong thi công xây dựng công trình bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
Bố trí nơi làm việc: Nơi làm việc của công nhân xây dựng là vị trí có không gian cần thiết để họ thực hiện các thao tác xây dựng hoặc lắp đặt các chi tiết công trình. Tuy nhiên loại công việc mà mỗi nơi làm việc có các khoảng không gian khác nhau.
Nếu là lao động thủ công thì không gian nơi làm việc bao gồm chỗ đặt công cụ sản xuất, chỗ đặt đối tượng lao động và sản phẩm, ở đó phải tạo được điều kiện cho các thao tác và hoạt động của công nhân thuận tiện nhất, để họ có thể tăng được năng suất lao động.
Nếu là lao động cơ giới thì nơi làm việc phải đáp ứng được khoảng không gian hoạt động của máy móc, ở đó đủ để bố trí máy móc thiết bị, vật liệu và không gian thao tác, có thể có cả lối đi lại của máy. Không gian ở đó phải bảo đảm tầm nhìn bao quát cho công nhân vận hành máy, bảo đảm nâng cao năng suất lao động và an toàn khi làm việc.
Như vậy việc bố trí nơi làm việc hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất công việc, phụ thuộc vào phương pháp tổ chức thủ công cho từng phần việc. Muốn việc bố trí nơi làm việc có khoa học không thể không nghiên cứu đến thời gian làm việc của công nhân trong mỗi dự án.
Tổ chức tổ đội sản xuất trong thi công.
Thông thường việc tổ chức tổ đội sản xuất trong thi công có hai dạng, đó là đội chuyên nghiệp và đội hỗn hợp. Đội chuyên nghiệp là đội sản xuất mà trong đó chỉ một hoặc hai loại thợ cùng tiến hành một hoặc hai nghề khác nhau. Đội, tổ sản xuất hỗn hợp là đội, tổ mà ở đó có nhiều công nhân có thể tiến hành được nhiều nghề khác nhau, cùng nhau tham gia xây dựng và hoàn thành một phần việc lớn hay một trong hạng mục của công trình.
Căn cứ cơ bản để lựa chọn một trong hai hình thức tổ chức tổ, đội sản xuất nói trên do tính chất ổn định hay không ổn định của công việc trên công trường quyết định. Đối với công trường lớn như công trường thuỷ điện Hoà Bình phải thi công trong nhiều năm, những bộ phận chính tham gia xây dựng thường được tổ chức theo đội, tổ sản xuất theo hình thức chuyên môn hoá lại không có hiệu quả cao, lúc đó tổ chức tổ, đội sản xuất theo hình thức hỗn hợp lại là hợp lý.
Xác định lượng lao động cho mỗi loại công việc:
Việc xác định lượng lao động cho mỗi loại công việc là công việc quan trọng không thể thiếu nếu muốn tiến hành tổ chức quá trình lao động có hiệu quả cao. Tuy vậy, muốn xác định lượng lao động cần thiết đòi hỏi phải dựa vào những căn cứ chính xác và thực tế, những căn cứ đó là: khối lượng công việc thi công chính xác, dựa vào định mức lao động của từng loại lao động, định mức lao động có hai loại là định mức sản lượng và định mức thời gian. Nếu công việc thi công theo phương pháp thủ công thì có thể dùng phương pháp tính trực tiếp, nhưng nếu công việc thi công bằng máy phải tính ra máy phải sử dụng rồi tính ra số công nhân sử dụng máy. Căn cứ thứ ba dựa vào đó là thời gian cho phép của một người làm việc trong giai đoạn thi công theo kế hoạch để tính ra số lao động làm những công việc thủ công, hoặc dựa vào định mức lao động phục vụ mỗi ca máy để tính ra số lao động hoạt động ở các khâu thi công bằng máy.
Sử dụng các hình thức tiền lương trong tổ chức lao động.
Thực tế rằng có hai hình thức trả lương cơ bản cho công nhân, đó là trả lương theo thời gian và hình thức trả lương theo chất lượng và số lượng sản phẩm hoàn thành, hình thức khoản lương thực chất cũng là tiền lương theo sản phẩm. Mỗi hình thức trả lương cũng có ưu và nhược điểm của nó, nhưng khi sử dụng các hình thức tiền lương đều phải bảo đảm những yêu cầu chính sau:
Hình thức trả lương phải làm cho người lao động quan tâm đến kết quả chung của toàn đơn vị.
Các hình thức tính lương phải đơn giản, để hiểu, người lao động có thể kiểm tra, giám sát được.
Sổ cán bộ nghiệp vụ tiền lương phải ít nhất
Việc tính lương, chia lương phải công bằng chính xác
b. Tổ chức thực hiện quá trình thi công chính.
Tổ chức quá trình thi công chính là quá trình tổ chức xây lắp những phần việc chính, những hạng mục chính của công trình trên cơ sở sử dụng những kiến thức tổ chức sản xuất hiện đại để bố trí trình tự triển khai công việc, sử dụng hợp lý các nguồn lực đầu vào, đảm bảo cho quá trình thi công xây lắp được tiến hành liên tục, nâng cao năng suất lao động ở tất cả các khâu nhằm rút ngắn thời gian thi công, đưa nhanh công trình vào sử dụng.
Thực hiện mục tiêu tổ chức quá trình thi công chính hợp lý nhất, sử dụng yếu tố các nguồn lực đầu vào đẩy nhanh quá trình thi công xây lắp. Đòi hỏi phải nghiên cứu tất cả ban đầu có liên quan đến quá trình tổ chức thi công công trình. những tài liệu thông tin cần được nghiên cứu đó là bản đồ và tình hình cấu tạo địa chất, thuỷ văn nơi xây dựng công trình, bản vẽ và thuyết minh trình tự lắp đặt thiét bị trong công trình trong từng giai đoạn thi công yêu cầu về tiến độ thi công, yêu cầu về chất lượng công trình thông qua các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy phạm kỹ thuật và định mức hiện hành.
Phân tích đặc điểm cấu tạo công trình để có giải pháp tổ chức cụ thể cho từng giai đoạn thi công. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm cấu tạo công trình và trình tự thi công mà tiến hành phân chia quá trình thi công các giai đoạn thi công cụ thể, thành các đợt cụ thể, tận dụng tối đa khả năng các yếu tố đầu vào, chủ yếu là vật tư và thiết bị thi công bảo đảm cho quá trình thicông liên tục làm tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian xây lắp công trình.
Lựa chọn phương án tổ chức thi công: thực chất của việc lựa chọn phương án thi công là lựa chọn các giải pháp kỹ thuật để tổ chức xây lắp đạt hiệu quả tốt nhất về mặt thời gian, về chất lượng công trình và chi phí thi công phải thấp nhất. Vì vậy phải xây dựng được nhiều phương án tổ chức thi công khác nhau cho cùng một phần việc hay một giai đoạn thi công. Trên cơ sở đó mà lựa chọn lấy phương án tối ưu về mặt kỹ thuật, về mặt tổ chức sử dụng những yếu tố nguồn lực đầu vào và về chi phí thi công phải thấp nhất.
Có nhiều yếu tố đầu vào tác động đến quá trình thi công xây lắp công trình, vì vậy yêu cầu sử dụng vật liệu xây dựng chủ yếu cho công trình, yêu cầu sử dụng máy móc thiết bị phục vụ thi công và yêu cầu sử dụng lao động cho quá trình thi công công trình hợp lý.
c. Tổ chức phục vụ trên công trường.
Tổ chức kho bãi trên công trường.
Kho bãi là nơi cất chứa, bảo quản các loại vật tư kỹ thuật, máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình xây lắp của công trình. Có nhiều loại kho bãi khác nhau dựa vào vị trí, tính năng tác dụng của nó mà chia ra: kho chung chuyển, kho khu vực, kho chính, kho công trình, kho các xưởng thi công.
Bố trí mạng lưới giao thông trên các công trường
Mạng lưới giao thông trên công trường là hệ thống đường vận chuyển nội bộ, phục vụ công tác thi công xây lắp, hàng hoá được vận chuyển trên mạng lưới giao thông này bao gồm các loại vật tư, cấu kiện, thiết bị... phục vụ trực tiếp cho công trường. Bố trí hệ thống giao thông này phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản sau:
Đường giao thông không được cắt ngang các dây chuyền công nghệ.
Có khả năng cung cấp tận nơi làm việc những vật tư, thiết bị cần thiết do công nhân tiến hành các bước công việc.
Đảm bảo cho người và thiết bị an toàn tuyệt đối trong quá trình vận chuyển thi công trên công trường.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà bên công trường có thể bố trí các đường giao thông khác nhau như đường goòng, đường bộ, băng tải các loại, tời dây vận chuyển lên cao theo đường vận thẳng hay cần cẩu...
Cung cấp điện, nước cho thi công.
Nhu cầu sử dụng nước, điện cho thi công phụ thuộc vào quy mô của công trường nói chung và mức độ cơ giới hóa nói riêng. Việc cung cấp điện nước phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau:
Cung cấp tận nơi làm việc của từng công nhân hay từng tổ lao động.
Cung cấp liên tục trong suốt thời gian thi công.
Quá trình cung cấp phải liên tục bảo đảm an toàn cho người và cho máy móc thiết bị.
Tổ chức hệ thống nhà tạm trên công trường.
Các nhà tạm được sử dụng trên công trường để phục vụ cho gia công cấu kiện, chuẩn bị vật liệu cho thi công, bao gồm các kho chứa, xưởng chộn bê tông, nhà hành chính tạm ở cho công nhân cán bộ trên công trường.
II. Lý luận chung về phương pháp dãy số thời gian
Trong thống kê người ta thường sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu sự phát triển của các hiện tượng kinh tế xã hội. một trong những phương pháp đó là phương pháp phân tích dãy số thời gian, nó cho phép nghiên cứu sự biến động mặt lượng của hiện tượng.
1. Khái niệm.
Dãy số thời gian là một dãy các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thứ tự thời gian. Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặc điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai.
Trong dãy số thời gian người ta có thể biểu diễn các chỉ tiêu trong từng khoảng thời gian hay vào những thời điểm nhất định.Vì vậy dãy số thời gian được chia làm hai loại:
a. Dãy số thời kỳ.
Dãy số thời kỳ biểu hiện qui mô (khối lượng) của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Mỗi mức độ của từng dãy số thời kỳ là sự tích luỹ về lượng thời gian, vì vậy độ dài của khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu đó lại để phản quy mô của hiện tượng trong khoảng thời gian dài hơn.
b. Dãy số thời điểm:
Dãy số thời điểm phản ánh quy mô ( khối lượng ) của hiện tượng vào những thời điểm nhất định. Mức độ hiện tượng của thời điểm sau có thể bao gồm toàn bộ hoặc một bộ phận mức độ của hiện tượng trước đó. Do đó việc cộng các trị số của chỉ tiêu đó không phản ánh quy mô của hiện tượng.
2. Kết cấu của một thời gian.
Dãy số thời gian bao gồm 2 thành phần cơ bản:
a. Thành phần thời gian.
Thời gian có thể được xác định bằng những đơn vị đo lường khác nhau: Ngày, tuần, tháng, quý, năm ... Độ dài giữa 2 khoảng thời gian trong dãy số gọi là khoảng cách thời gian.
b. Thành phần chỉ tiêu về hiện tượng nghiên cứu:
Nó có thể biểu hiện bằng số tuyệt đối, số bình quân. Trị số của chỉ tiêu gọi là mức độ của dãy số.
Nguyên tắc xây dựng dãy số thời gian:
Để có thể phản ánh đúng đắn sự phát triển của hiện tượng qua thời gian thì khi xây dựng một dãy số thời gian phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Cụ thể là: Nội dung và phương pháp tính các chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất: Phạm vi toán của hiện tượng qua thời gian phải nhất trí, khoảng cách thời gian trong dãy số phải bằng nhau nhất là đối với dãy số thời kỳ. Trong thực tế có nhiều lý do khác nhau nên các yêu cầu đó thường bị vi phạm. Để đảm bảo tính chất có thể so sánh được người ta thường tiến hành chỉnh lý lại tài liệu.
Trong thống kê có thể sử dụng dãy số thời gian để phân tích trên nhiều gốc độ, nội dung khác nhau.
Phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng bằng các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian.
Phân tích xu hướng, tính quy luật của sự biến động hiện tượng qua thời gian bằng các phương pháp biểu diễn xu hướng phát triển cơ bản của hiện tựng.
Trên cơ sở nhận thức được bản chất và tính quy luật của sự phát triển hiện tượng, tiến hành dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai.
II. Các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian.
Để phản ánh đặc điểm biến động qua thời gian của hiện tượng được nghiên cứu, người ta sử dụng nhiều chi tiêu với các mức độ nghiên cứu khác nhau. Dưới đây là một số chỉ tiêu thường dùng trong thống kê.
1. Mức độ bình quân theo thời gian.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian.
Tuỳ theo dãy số thời kì hay dãy số thời điểm người ta có các cách tính khác nhau.Như ta đã biết chỉ tiêu GO là chỉ tiêu theo thời kỳ vì vậy để tính mức độ bình quân theo thời gian được xác định theo công thức:
Trong đó: yi (i=1,2,...,n) là GO của từng kỳ
n: số lượng các mức độ trong dãy số.
2. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối .
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối của GO giữa hai thời kỳ nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu (+) và ngược lại.
Do đặc điểm của dãy số thời gian và tuỳ theo mục đích nghiên cứu GO, người ta có chỉ tiêu về lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối như sau:
a.Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.
Phản ánh sự tăng (hoặc giảm) tuyệt đối của GO giữa hai thời gian liền nhau. Nó là hiệu số giữa mức độ nghiên cứu (yi) là mức độ của GO kì nghiên cứu và mức độ đứng liền trước đó.
Ta có công thức:
di=yi - yi-1 (i=2,n)
Trong đó : di lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn
b. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc.
Để nghiên cứu mức độ biến động tăng hoặc giảm tuyệt đối của GO trong một kỳ nghiên cứu nào đó với một năm được chọn làm gốc người ta dùng lượng tăng giảm tuyệt đối định gốc.
Gọi DDG : là lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc:
Ta thấy lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn và định gốc có mối quan hệ tổng. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc bằng tổng đại số các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.
Di=ồdi
c. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân
Phản ánh sự thay đổi bình quân của GO về mức độ tuyệt đối của từng thời gian trong cả một thời gian dài.
Nó là số bình quân cộng của các lượng tăng hoặc giảm tuyệt đối liên hoàn.
Để nghiên cứu mức độ biến động qua thời gian của GO thông qua chỉ tiêu tương đối ta có các loại chỉ tiêu sau.
3. Tốc độ phát triển
Là số tương đối phản ánh tốc độ và xu hướng phát triển của hiện tượng qua thời gian. Trong thống kê người ta có thể nghiên cứu tốc độ phát triển của hiện tượng giữa hai thời gian liền kề nhau, trong một khoảng thời gian dài hay tốc độ phát triển bình quân.
a.Tốc độ phát triển liên hoàn
Phản ánh sự biến động của GO giữa hai thời gian liền nhau công thức tính như sau:
Trong đó ti : là tốc độ phát triển liên hoàn của thời gian i so với thời gian (i-1).
yi: GO ở thời gian i
yi-1: GO ở thời gian i-1
b.Tốc độ phát triển định gốc
Nhằm phản ánh sự biến động của GO trong những khoảng thời gian dài công thức tính.
Trong đó: Ti: là tốc độ phát triển định gốc
yi: là GO ở thời gian i
y1: là GO ở thời gian 1
Ta dễ nhận thấy giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định gốc là quan hệ tích và mối quan hệ thương tương đối chặt chẽ với nhau.
Tích các tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc:
Tn=t2.t3...tn
Tn=Pti (i = 2,n )
Thương của hai tốc độ phát triển định gốc liền nhau bằng tốc độ phát triển liên hoàn giữa hai thời gian đó.
c.Tốc độ phát triển bình quân.
Tốc độ phát triển bình quân là chỉ tiêu phản ánh cho tốc độ phát triển đại diện cho các tốc độ phát triển liên hoàn.
Vì tốc độ phát triển liên hoàn có quan hệ tích với nhau nên tốc độ phát triển bình quan là số trung bình nhân của các tốc độ phát triển liên hoàn.
Dựa vào mối quan hệ giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định gốc ta có:
Chú ý: Khi sử dụng chỉ tiêu tốc độ phát triển bình quân để phân tích GO cần chú ý là chỉ tính với những hiện tượng phát triển theo một xu hướng nhất định (cùng tăng hoặc cùng giảm)
4.Tốc độ tăng (hoặc giảm).
Tốc độ tăng hoặc giảm phản ánh mức độ của GO nghiên cứu giữa hai thời gian đã tăng (hoặc giảm) bao nhiêu lần (hay bao nhiêu %). Đây là chỉ tiêu nói lên nhịp độ tăng (hoặc giảm) qua thời gian.
Tương ứng với tốc độ phát triển, ta có các tốc độ tăng hoặc giảm sau đây:
a. Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn (hay từng kỳ).
Là tỷ số so sánh giữa lượng tăng (giảm) GO liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn.
Ta có công thức:
Nếu ti tính bằng% ta có
ai= ti(%)-100
Trong đó: ai:là tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn.
b. Tốc độ tăng hoặc giảm định gốc.
Là tỷ số giữa lượng tăng hoặc giảm định gốc với mức độ kỳ gốc cố định.
Gọi Ai(i=2,n) là tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc
Ai=Ti-1(lần)
Nếu Ti tính bằng (%) thì
Ai(%)=Ti(%)-100
c.Tốc độ tăng hoặc giảm bình quân.
Là chỉ tiêu nhằm phản ánh tốc độ tăng hoặc giảm đại biểu của chỉ tiêu GO trong suốt thời gian nghiên cứu, ta thường dùng các chỉ tiêu tốc độ tăng (giảm) bình quân.
Nếu là tốc độ tăng (hoặc giảm) bình quân:
= -1(lần)
t tính bằng (%) thì:
(%) = (%) - 100
5. Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm).
Đây là chỉ tiêu phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) GO liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối GO là bao nhiêu.
Ta có công thức:
Trong đó gi(i=2,n) là giá trị tuyệt đối của 1% tăng ( hoặc giảm)
Hoặc
Trên thực tế chỉ tiêu này chỉ tính cho tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn, đối với tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc thì không tính và luôn là một số không đổi và bằng yi/100 vì:
III. Một số phương pháp biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng.
Sự biến động của hiện tượng qua thời gian chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Ta có thể chia ra làm hai nhóm nhân tố:
Nhóm thứ nhất là nhóm các nhân tố chủ yếu quyết định xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Xu hướng thường được hiểu là chiều hướng tiến triển chung nào đó, một số tiến triển kéo dài theo thời gian và xác định tính quy luật về sự vận động của hiện tượng theo thời gian. Xu hướng này nếu được biển hiện bằng hàm hồi quy thì gọi là hàm xu thế.
Nhóm thứ hai là nhóm các nhân tố ngẫu nhiên làm cho hiện tượng có ý nghĩa rất quan trọng nghiên cứu thống kê. Vì vậy cần sử dụng các phương pháp thích hợp, trong một trừng mực nhất định nhằm loại bỏ tác động của những nhân tố ngẫu nhiên để nêu lên xu hướng và tính quy luật về sự biến động của hiện tượng.
Khi sử dụng các phương pháp để biển hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng phải bảo đảm tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Các mức đọ của dãy số phải có cùng phạm vi tính, phương pháp tính và đơn vị tính.
Sau đây tôi xin trình bày một số phương pháp biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng:
1. Phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian
Mở rộng khoảng cách thời gian là ghép một số thời gian liền nhau lại thành khoảng thời gian dài hơn.
Phương pháp này được sử dụng cho những dãy số thời kì có khoảng các thời gian tương đối ngắn, có nhiều mức độ và chưa phản ánh được xu hướng phát triển của hiện tượng.
Do khoảng cách thời gian được mở rộng nên trong các dãy số mới các nhân tố ngẫu nhiên với chiều hướng khác nhau sẽ phần nào bù trừ và do đó ta thấy rõ xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng. Tuy nhiên khi mở rộng khoảng cách thời gian số lượng các mức độ trong dãy số mất đi nhiều, vì thế có thể làm mất đi các yếu tố chủ yếu mang tính đặc trưng của dãy số.
2. Phương pháp bình quân trượt (bình quân di động).
Số bình quân trượt là số bình quân cộng của một nhóm nhất định các mức độ trong dãy số. Nó được tính bằng các loại dần mức độ đầu đồng thời thêm vào các mức độ tiếp theo, sao cho số lượng các mức độ tham gia tính số bình quân không đổi. Cơ sở toán học của phương pháp bình quân trượt là nhằm san bằn ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên, làm lộ rõ xu hướng phát triển của hiện tượng nghiên cứu.
Như vậy phương pháp bình quân trượt giản đơn là từ dãy số đầu xây dựng dãy số mới gồm các số bình quân trượt, ví dụ ta có dãy số thời gian y1, y2 , y3 ,..., yn1 , yn
Với y1 ,y2 ,y3 ,…, yn- 1 , yn là GO qua từng thời kỳ nghiên cứu
Nếu tính bình quân trượt cho 3 mức độ thì các số bình quân trượt được tính như sau:
Từ đó ta có một dãy số mới gồm các số trung bình trượt
Trong dãy số ban đầu sự biến đổi của hiện tượng có khi không theo một su hướng nào, khi tăng, khi giảm. Khi tiến hành bình quân trượt dãy số mới sẽ trơn và nhẵn hơn, khi đó chúng ta có thể nhận biết được xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng.
Trong nhiều trương hợp sau khi trượt lần 1 các hiện tượng trong dãy số vẫn chưa theo một xu hướng nào chúng ta có thể trượt thêm 2 lần hoặc 3 lần...
Việc lựa chọn nhóm bao nhiêu mức độ để tính trung bình trượt đòi hỏi phải dựa vào đặc điểm của hiện tượng và số lượng các mức độ của dãy số thời gian. Nếu sự biến động của hiện tượng đối đều đặn và số lượng mức độ của dãy số không nhiều lắm thì có thể tính bình quân trượt từ 3 mức độ.
Nếu sự biến động của hiện tượng lớn và số lượng mức độ nhiều thì có thể trượt từ 5 hoặc 7 mức độ. Bình quân trượt càng được tính nhiều mức độ thì càng có tác dụng san bằng ảnh hưởng của các nhân tố ngẫu nhiên. Nhưng mặt khác lại làm giảm mức độ của các dãy số trung bình trượt và sẽ gây khó khăn trong việc phân tích.
Ngoài phương pháp số bình quân trượt giản đơn như trên còn phương pháp số bình quân trượt gia quyền.
Cơ sở của phương pháp là gắn hệ số vai trò cho các mức độ tham gia tính bình quân tính bình quân trượt. Các mức đọ này càng gần mức độ cần tính thì hệ số càng cao và càng xa thì hệ số càng nhỏ. Các hệ số vai trò được lấy từ hệ số của tam giác pascal.
1
1 2 1
1 3 3 1
1 4 6 4 1
1 5 10 10 5 1
......................................
Tuỳ theo mức độ tham gia tính bình quân trượt, chúng ta chọn dòng hệ số tương ứng. Chẳng hạn số mức độ tham gia là 3, công thức là:
Phương pháp này cho chúng ta hiệu quả cao hơn phương pháp trên. Tuy nhiên cách tính phức tạp hơn nên ít sử dụng.
3. Phương pháp hồi quy.
Phương pháp hồi quy là phương pháp toán học được vận dụng trong thống kê biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản cuả hiện tượng có nhiều dao động ngẫu nhiên, mức độ tăng, giảm thất thường.
Trên cơ sở dãy số thời gian người ta tìm một phương trình hồi quy biểu diễn xu hướng phát triển của hiện tượng qua thời gian gọi là hàm xu thế
Dạng tổng quát như sau:
Trong đó:
t: thứ tự thời gian (biến độc lập ).
: Mức độ lý thuyết của hiện tượng nghiên cứu (biến phụ thuộc)(Ví dụ: GO qua các kỳ).
ao;a1,...,an: Các tham số của phương trình hồi quy (Hàm xu thế).
Các tham số ao;a1,...,an được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất:
Để lựa chọn dạng hàm đòi hỏi dựa vào sự phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thơì gian, đồng thời kết hợp với một số phương pháp như đồ thị thống kê, các chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng (hoặc giảm)...
Dưới đây là một số dạng hàm thường gặp:
a. Hàm tuyến tính:
Dạng hàm này thường được sử dụng khi dãy số thời gian có các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn (hay sai phân bậc1) xấp xỉ bằng nhau.
Hàm số có dạng:
Các tham số a0, a1 được xác định bằng phương pháp số bình quân nhỏ nhất. Theo phương pháp này ta có:
Với phương pháp này a0, a1 phải thoả nãm hệ phương trình sau:
Hoặc có thể tính trực tiếp như sau:
Trong đó:
t: là thứ tự thời gian
b. Phương trình Parabol bậc hai.
Dạng hàm:
Phương trình này thường đựoc sử dụng khi dãy số thời gian có sai phân bậc hai xấp xỉ (nghĩa là sai phân của sai phân bậc 1)
Cụ thể:
t
Di1
Di2
1
2
3
4
a0 + a1 + a2
a0 + 2a1 + 4a2
a0 + 3a1 + 9a2
a0 + 4a1 + 16a2
-
a1 + 3a2
a1 + 5a2
a1 + 7a2
-
-
2a2
2a2
Các tham số a0, a1, a2 cũng được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. Chúng thoả mãn hệ phương trình sau:
Sy = n.a0 + a1.St + a2.St2
St.y = a0St + a1St2 + a2St3
St2y = a0St2 + a1St3 + a2St3
c. Phương trình hàm mũ
Dạng hàm:
Phương trình hàm mũ được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ bằng nhau.
Theo phương pháp bình phương nhỏ nhất a0, a1 được xác định như sau:
3. Phương pháp biểu hiện biến động thời vụ.
Biến động thời vụ là biến động mang tính chất lắp đi lặp lại trong từng thời gian nhất định của từng năm. Biến động thời vụ có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh, nó có thể làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh lúc thì khẩn trương, lúc thì hẹp đồng thời gây ảnh hưởng đến cho các ngành liên quan. Nguyên nhân gây ra biến động thời vụ là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán của dân cư.
Nghiên cứu biến động thời vụ giúp ta chủ động trong công tác quản lý xã hội, hạn chế ảnh hưởng của biến động thời vụ đối với sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Trong nghiên cứu chúng ta phải dựa vào số liệu của nhiều năn để xác định tính chất và mức độ của biến động thời vụ. Phương pháp này thường được sử dụng để tính các chỉ số của biến động thời vụ. Tùy theo đặc điểm về sự biến động của hiện tượng qua thời gian người ta có các phương pháp tính chỉ số biến động thời vụ khác nhau.
_ Trường hợp biến động thời vụ qua thời gian nhất định của các năm tương đối ổn định không có hiện tượng tăng giảm rõ rệt thì chỉ số thời vụ được xác định theo công thức:
Trong đó:
i: Thứ tự thời gian tháng hoặc quý.
: Số bình quân của các mức độ thời gian cùng tên i
: Số bình quân chung của tất cả các mức độ trong dãy số.
I: Chỉ số thời vụ của thời gian i.
_ Trường hợp biến động thời vụ qua thời gian dài nhất định của các năm có sự tăng hoặc giảm rõ rệt thì chỉ số thời vụ được xác định:
Trong đó:
: Các mức độ thực tế trong dãy số.
: Mức độ lý thuyết tính bằng phương pháp hồi quy.
n: Số năm.
Ngoài các phương pháp tính các chỉ số biến động thời vụ còn được biểu diễn bằng hàm lượng giác:
Trong đó:
K là số bậc của tham số điều hoà (k=1,4)
Các tham số a0, ak, bk được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất như sau:
; ;
Trong đó:
n: là số mức độ của dãy số.
t: là thời gian được biểu hiện bằng radian hoặc bằng độ được xác định từ 0 đến n-1 với sự gia tăng 2P/n.
5. Phương pháp phân tích các thành phần của dãy số thời gian.
Dãy số thời gian được cấu thành bởi ba yếu tố đó là tính quy luật, tính thời vụ, và tính ngẫu nhiên.
Tương ứng với các yếu tố là các thành phần.
Th._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34459.doc