Lời mở đầu
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định, đó là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Phương thức sản xuất có tiến bộ, có phù hợp thì xã hội mới phát triển phồn vinh, đất nước mới mạnh giàu, chính vì thế việc xây dựng lực lượng sản xuất và mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn là vấn đề trung tâm xiên suốt trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Nó quyết định sự tồn v
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng nguyên lý về mối quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất - Phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong, trình độ phát triển của mỗi xã hội.
Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào WTO, con đường hội nhập kinh tế thế giới đầy cam go, thử thách nhưng cũng tràn đầy hi vọng về một nền kinh tế phát triển. Sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố bên ngoài đặt ra yều cầu không thể duy trì phương thức sản xuất cũ, thay vào đó cần phải từng bước phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với thời đại, đặc biệt cần phải duy trì tốt mối quan hệ tốt giữa chúng. Vậy cần phải phát huy vai trò của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như thế nào cho phù hợp với thời cuộc ? Làm thế nào để củng cố và duy trì mối quan hệ giữa chúng? Đó là câu hỏi lớn đặt ra cho các ngành và cho toàn xã hội.
Bài tiểu luận xin đặt ra và giải quyết một khía cạnh nhỏ của mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phân tích hoạt động của doanh nghiệp thương mại Việt nam trước ngưỡng cửa hội nhập.
vận dụng nguyên lý về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại việt nam
Nội dung chính
A. Cơ sở lý luận
1. Lực lượng sản xuất là gì?
"Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó thể hiện năng lực thực tiễn của con người của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất."
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao.
Cùng với lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá, nó nhân sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng của công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những phát minh khoa học đã trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào trong sản xuất, trở thành một yếu tố không thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đai. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2. Quan hệ sản xuất là gì ?
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
3. Vì sao phải xây dựng lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất-quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là ‘hình thức phát triển’ của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều ‘tạo địa bàn đầy đủ’cho lực lượng sản xuất phát triển. Nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành ‘xiềng xích’ của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ … và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
B. Thực trạng
Như chúng ta đã biết lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mối quan hệ giữa chúng quyết định đến sự phát triển của xã hội. Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào WTO, trong bối cảnh quốc tế, hóa toàn cầu hoá thì lực lượng sản xuất có những biến đổi nhất định, chính vì thế vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với nó là hết sức cấp thiết. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, bài viết xin trình bày thực trạng hoạt động và phương hướng phát triển của doanh nghiệp thương mại trước ngưỡng cửa hội nhập.
1. Vai trò của doanh nghiệp thương mại
Doanh nghiệp thương mại tồn tại khách quan trong nền kinh tế và có vai trò quan trọng đối với sản xuất kinh doanh. Qua các thời kỳ phát triển của đất nước, doanh nghiệp thương mại đã có những đóng góp đáng kể vào việc phục vụ sản xuất, đời sống, tăng trưởng kinh tế – xã hội, tự thân đã có những chuyển biến to lớn để tồn tại và phát triển. Những thành công của hoạt động thương mại sau 18 năm đổi mới đặc biệt là trong những năm gần đây ảnh hưởng lớn sự phát triển của đất nước:
Thứ nhất, sự phát triển của doanh nghiệp thương mại đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của người lao động. Tính từ năm 2000-2003 doanh nghiệp thương mại đã thu hút thêm 148.800 lao động. đưa thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp thương mại lên 1.196.000 đồng/ người/ tháng.
Hai là, sự phát triển của các doanh nghiệp thương mại đã thúc đẩy tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế trong những năm qua. Năm 2003 doanh thu của các doanh nghiệp thương mại đạt 606.733 tỷ đồng chiếm 42.5 % tổng doanh thu của toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam.
Ba là, thông qua hoạt động của các doanh nghiệp thương mại, các hoạt động, các vấn đề về xã hội được giải quyết ngày một tốt hơn. Năm 2003 mức nộp ngân sách của doanh nghiệp thương mại đạt 25.9 % tổng thu ngân sách của toàn bộ doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển nhanh về số lượng doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh của hệ thống doanh nghiệp thương mại Việt Nam tuy còn rất khiêm tốn nhưng bước đầu có những tiến bộ mang tính đột phá quan trọng.
2. Thực trạng phát triển của doanh nghiệp thương mại
Mặc dù có tiến bộ về tăng trưởng và hiệu quả kinh doanh song so với nhu cầu phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế hệ thống doanh nghiệp thương mại còn bộc lộ yếu kém bất cập về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Về lực lượng sản xuất:
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp còn mang tính tự phát, chưa có quy hoạch định hướng. Tính đến năm 2003 có đến 27.380 doanh nghiệp thương mại tập trung ở những địa bàn thuận lợi, với hàng cần vốn đầu tư ít chuyển đổi nhanh, lãi suất cao và rủi ro ít, còn mặt hàng với vốn đầu tư lớn cần nhập khầu cho nền kinh tế lại chưa được các doanh nghiệp tập trung đầu tư xây dựng.
Số lượng doanh nghiệp thương mại lớn nhưng quy mô lại nhỏ và phân tán, đi kèm với trang thiết bị lạc hậu chính vì thế hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh không cao. Tỷ suất lợi nhuận/ vốn đầu tư thấp, sản xuất kinh doanh thua lỗ chiếm 7.73% so với tổng doanh nghiệp trong cả nước.
Việc thực hiện chính sách đối với người lao động còn chưa đảm bảo, lao động trong doanh nghiệp thương mại còn yếu về trình độ nghiệp vụ, chưa có nhà quản lý, chuyên gia giỏi để kinh doanh trong và ngoài nước. Cũng có thể đề cập thêm một số yếu kém về các doanh nghiệp như:
Doanh nghiệp nhận thức chưa cao: Mặc dù doanh nghiệp của Việt Nam đang ngày càng lớn mạnh, nhận thức của xã hội và doanh nhân về những lợi ích trong việc sử dụng BDS còn chưa cao. Các chủ doanh nghiệp, vì nhiều lý do, thường vẫn ngại cung cấp thông tin cho các tư vấn độc lập. Các doanh nghiệp nhỏ hơn thì thiếu các nguồn lực cần thiết để thu thập được những thông tin về các dịch vụ kinh doanh đang có trên thị trường. Nói chung là những khách hàng tiềm năng của BDS đều thiếu thông tin đầy đủ và chính xác về những dịch vụ đang có trên thị trường.
Điều đáng mừng là gần đây từ phía Nhà nước đã có những xu hướng tích cực hơn, thể hiện bằng việc Chính phủ ghi nhận mục tiêu phát triển BDS trong Chính sách Tăng trưởng và Giảm nghèo của Việt Nam và ban hành một nghị định về cung cấp và sử dụng dịch vụ tư vấn nhằm chính thức công nhận và phát triển nghề này.
Nhà cung cấp thiếu thông tin: Dữ liệu thống kê về các ngành nghề và thị trường cụ thể của Việt Nam chưa được hệ thống hóa và chưa thống nhất. Thông tin về thị trường nước ngoài và kinh tế thế giới, hay sách kỹ thuật chuyên môn và thông tin chuyên biệt cho các nhà cung cấp dịch vụ BDS không phải lúc nào cũng có sẵn. Đ ây cũng là một cản trở đáng kể vì những thông tin và công cụ này là đầu vào quan trọng để các nhà cung cấp dịch vụ BDS cung cấp được dịch vụ chất lượng cao và kịp thời cho doanh nghiệp.
Về quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất còn chưa được mở rộng, giữa các doanh nghiệp thương mại còn chưa có sự liên kết, hợp tác cùng phát triển. Hình thức kinh doanh, liên kết với nước ngoài còn nhiều hạn chế.
Với chủ trương phát huy tối đa nội lực để phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, chủ động hội nhập quốc tế, trong năm 2004 Chính phủ Việt Nam đã không ngừng cố gắng cải thiện môi trường kinh doanh và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Điều này thể hiện qua một số tín hiệu khả quan như tổng vốn đầu tư nước ngoài năm 2004 dự kiến sẽ là 4 tỷ USD, đứng thứ ba trong khu vực, chỉ thấp hơn Singapore, Malaysia và tương đương với Thái Lan. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những tín hiệu đáng lo ngại như chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng (Growth Competitiveness Index - GCI) của Việt Nam tụt 17 bậc và là mức tụt hạng mạnh nhất trong tất cả các nền kinh tế được xếp hạng so với năm 2003. Điều này gợi lên suy nghĩ rằng phải chăng Việt Nam tuy đạt được nhiều cải thiện về môi trường kinh doanh, song vẫn chưa đủ để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật yếu kém vẫn còn là một cản trở lớn: Theo Điều tra về Cảm nhận của Doanh nghiệp năm 2004 do Diễn đàn Doanh Nghiệp Việt Nam thực hiện, các doanh nghiệp được phỏng vấn vẫn chưa hài lòng với môi trường pháp lý và chính sách hiện tại, với điểm trung bình là 2, 09 trên thang điểm tối đa là 4, thể hiện mức nói chung không hài lòng. Hệ thống pháp luật và chính sách về kinh doanh hiện nay còn nhiều mâu thuẫn và thiếu đồng bộ. Mâu thuẫn không chỉ tồn tại trong bản thân các luật và chính sách mà còn xuất hiện thêm khi các luật và chính sách mới ra đời tồn tại song song với các văn bản cũ.
Việc thực thi pháp luật là một khâu yếu nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Cũng trong điều tra nói trên của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt nam, các doanh nghiệp đã bày tỏ mức độ hài lòng với việc thực thi luật pháp chỉ ở mức điểm trung bình là 1, 85 trên thang điểm 4. Ví dụ, chế tài thực thi các quy định bảo đảm hiệu lực hợp đồng của Việt Nam là một chế tài được coi là kém hiệu quả nhất trong khu vực. Thời gian trung bình để giải quyết tranh chấp hợp đồng ở Việt Nam là 404 ngày với 37 thủ tục và chi phí lên đến 30% GDP trên đầu người - trong khi đó số liệu tương ứng ở Thái Lan là 390 ngày, 26 thủ tục và chi phí ở mức 13,4%.
Vẫn còn khá nhiều rào cản pháp lý: Môi trường pháp lý thuận lợi là một trong những tiền đề để hỗ trợ sự phát triển hiệu quả của thị trường BDS ở Việt Nam. Những cải cách pháp lý gần đây (ví dụ như Luật Doanh nghiệp) và quá trình tự do hoá nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ, đã giúp thúc đẩy thị trường BDS ở Việt Nam từ cả phía cung và cầu. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh để củng cố niềm tin của giới doanh nghiệp, tuy nhiên, vẫn còn có nhiều rào cản đối với thị trường BDS ở Việt Nam. Nổi bật nhất là các vấn đề như chi phí gia nhập thị trường quá cao đối với một số các loại hình BDS như dạy nghề, kiểm toán và sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, vẫn có những mâu thuẫn giữa một số quy định và văn bản pháp lý với Luật Doanh nghiệp làm hạn chế những giao dịch BDS. Ví dụ như giới hạn chi phí quảng cáo và xúc tiến thương mại được phép khấu trừ thuế ở mức 10% trên tổng chi phí của doanh nghiệp có thể không khuyến khích các DNNVV sử dụng những dịch vụ này vì những chi phí vượt quá hạn mức này sẽ không được khấu trừ khi tính thuế.
Khung pháp luật chưa hoàn chỉnh
Trong vòng một thập kỷ qua, Việt Nam đã có những cố gắng đáng kể để xây dựng hệ thống pháp luật về s hu trí tu (SHTT). Bộ luật Dân sự được thông qua năm 1995 có một phần về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (Phần VI) và sau đó là hàng loạt các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành được ban hành. Tuy nhiên, SHTT chỉ là một phần nhỏ trong Bộ luật Dân sự cho nên còn chung chung và tương đối sơ sài, bên cạnh đó nhiều văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật chưa cụ thể và chi tiết. Thông thường ở các nước phát triển, luật SHTT là một bộ luật riêng biệt rất chi tiết, rõ ràng và được chia ra các nhánh cụ thể (bao gồm: quyền tác giả và sở hữu công nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp...). Các doanh nghiệp Việt Nam cũng thường đề cập đến một số chính sách bất cập trong việc phát triển thương hiệu, ví dụ như quy định về chi phí cho hoạt động tiếp thị và quảng cáo không được quá 10% tổng chi phí để tính thuế thu nhập trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Cơ chế xử lý vi phạm còn quá yếu
Hiện tại, có nhiều cơ quan cùng tham gia việc thực thi bảo hộ thương hiệu như Cục SHTT, Quản lý thị trường, Công an Kinh tế, Thanh tra khoa học công nghệ, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Toà án. Tuy nhiên, không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính về vấn đề này. Các thẩm phán thường thiếu kiến thức chuyên môn về SHTT, vì vậy khi xét xử, phải phụ thuộc vào ý kiến của nhiều cơ quan khác trước khi đưa ra phán quyết. Điều này làm cho quy trình xử lý vi phạm của toà án kéo dài và không hiệu quả. Do vậy, nhiều doanh nghiệp là nạn nhân của tình trạng đánh cắp và nhái thương hiệu đã buộc phải đàm phán trực tiếp với đối tượng vi phạm. Cách giải quyết không chính thức như thế này không những gây tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp mà còn tạo cơ hội cho tham nhũng. Nhiều doanh nghiệp cho rằng mức xử phạt hành chính đối với vi phạm thương hiệu hiện nay từ 2 triệu đến 100 triệu đồng là còn quá thấp và không có tác dụng nhiều đến việc ngăn ngừa tình trạng làm hàng nhái hoặc hành vi đánh cắp thương hiệu. Việc xử phạt hình sự lại rất ít khi được áp dụng mà mức phạt cũng chỉ từ 20 đến 200 triệu đồng .
Năng lực hạn chế của các cơ quan quản lý việc đăng ký và thực thi bảo hộ SHTT
Gần đây số lượng hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá đã tăng nhiều do các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của thương hiệu. Trong năm 2003, Cục SHTT đã nhận được tổng số gần 16.000 hồ sơ xin đăng ký sở hữu công nghiệp. Hiện Cục chưa có chi nhánh tại các tỉnh thành và với tổng số 140 cán bộ thì khối lượng công việc như vậy là quá tải. Vào năm 2002, Cục đã xây dựng trang web của mình, cung cấp một số thống kê cơ bản về số lượng hồ sơ đăng ký sở hữu công nghiệp và một số rất ít các văn bản pháp luật về sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên trang web này vẫn chưa đăng tải những thông tư hướng dẫn chi tiết, những thủ tục hay biểu mẫu để người dùng có thể tham khảo và đăng ký, và các thông tin chưa được cập nhật thường xuyên.
Hiểu biết hạn chế về thương hiệu từ phía doanh nghiệp và thiếu vắng các chuyên gia giỏi về thương hiệu
Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu, song việc đầu tư cho thương hiệu vẫn còn rất dè dặt. Theo các chuyên gia, việc phát triển thương hiệu là vô cùng quan trọng, cần phải có thời gian và hệ thống; trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam thường chỉ đăng ký nhãn hiệu khi sản phẩm của mình bán chạy trên thị trường. Một kết quả khảo sát gần đây do báo Sài Gòn Tiếp thị cho thấy: chỉ khoảng 16% doanh nghiệp có bộ phận chuyên phụ trách công tác tiếp thị, hơn 80% doanh nghiệp không có chức danh quản lý nhãn hiệu, và 74% doanh nghiệp chỉ đầu tư dưới 5% doanh thu cho việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu.
Không chỉ các doanh nghiệp mà các nhà cung cấp dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực này cũng ít về số lượng, thiếu kỹ năng và chuyên môn. Phần lớn các công ty tư vấn chỉ đơn thuần giúp các doanh nghiệp đăng ký nhãn hiệu; rất ít công ty chuyên sâu về phát triển thương hiệu. Còn các công ty tư vấn nước ngoài tuy có tính chuyên nghiệp và chuyên môn cao song còn hạn chế về hiểu biết tâm lý và văn hoá bản địa nên cũng chưa cung cấp được dịch vụ hỗ trợ hiệu quả.
Hệ thống hành chính nặng nề, làm tăng chi phí cho doanh nghiệp
Trong năm qua, đã có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực cải cách hành chính công, một ví dụ cụ thể là cho đến tháng 10 năm 2004, mô hình Một cửa -Một dấu đã được triển khai ở 40% các tỉnh, 86% các huyện và 12% các xã. Tuy nhiên, các thủ tục hành chính công vẫn được coi là một trong những yếu tố ảnh hưởng chính tới môi trường kinh doanh và những vấn đề thường được nhắc đến nhiều nhất là: Thủ tục hành chính cho kinh doanh còn quá nhiều, có thủ tục không cần thiết. Sự can thiệp hành chính thái quá và tuỳ tiện của các cơ quan nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tình trạng cán bộ nhà nước sách nhiễu và gây khó khăn cho doanh nghiệp chưa giảm. Sự thiếu minh bạch và thiếu trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính. Một ví dụ cụ thể là việc đăng ký kinh doanh, mặc dù đã có rất nhiều cải thiện kể từ khi có Luật Doanh nghiệp, nhưng hiện nay để đăng ký kinh doanh ở Việt Nam, doanh nghiệp vẫn cần phải chờ 56 ngày để hoàn thành 11 thủ tục với tổng chi phí chiếm khoảng 29% thu nhập bình quân đầu người /năm. Cũng với công việc đó ở Singapore, doanh nghiệp chỉ cần đợi 8 ngày, hoàn thành 7 thủ tục với chi phí chiếm khoảng 1% thu nhập bình quân đầu người /năm.
Chiến lược phát triển thị trường vốn của Chính phủ và khuôn khổ pháp lý liên quan còn có nhiều bất cập: Mặc dù Chính phủ đã thể hiện quyết tâm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam (qua Quyết định số 163/2003/QD-TTg ra ngày 5/8/2003 định ra các mục tiêu chiến lược như đưa tổng giá trị thị trường chứng khoán đạt 2-3% GDP vào năm 2005 và 10-15% GDP vào năm 2010), nhưng các quy định pháp lý hiện hành cũng như những biện pháp triển khai dường như lại không thống nhất với chiến lược này. Ví dụ như theo văn bản Nhà nước gần đây nhất về cổ phần hóa (Chỉ thị số 01 Chính phủ tháng 1 năm 2003), Nhà nước vẫn sẽ nắm giữ ít nhất 51% cổ phần đối với các DNNN cổ phần hóa có vốn trên 5 tỷ đồng và sản xuất kinh doanh có lãi. Như vậy, trong số gần 2.000 DNNN nằm trong kế hoạch cổ phần hóa đến năm 2005, sẽ có rất ít trường hợp mà cổ đông tư nhân được chiếm phần đa số trong các công ty lớn.
Tham nhũng đe doạ sự ổn định xã hội và phát triển kinh tế: Các doanh nghiệp trả lời điều tra về cảm nhận môi trường kinh doanh năm 2004 của Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng đấu tranh chống tham nhũng là hành động cấp bách nhất mà Chính phủ cần tiến hành trong năm tới. Tham nhũng làm tăng chi phí kinh doanh và có thể làm méo mó các chính sách phát triển kinh tế. Theo một điều tra gần đây của Ban Nội chính Trung ương, kết quả sơ bộ cho thấy rằng tham nhũng đang lan tràn ở những lĩnh vực như đầu tư cơ sở hạ tầng, quản lý đất đai, thuế. Một loạt những vụ việc tham nhũng lớn ở các bộ ngành và tổng công ty (như dầu khí, thương mại) được phát hiện trong năm qua một mặt thể hiện quyết tâm chống tham nhũng của Chính phủ, mặt khác thể hiện mức độ trầm trọng và ảnh hưởng tiêu cực của tệ nạn này tới nền kinh tế và môi trường kinh doanh.
Cung cầu hạn chế: Do các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thường có thu nhập và tích lũy thấp, nhu cầu sử dụng dịch vụ bên ngoài, trong đó có BDS, cũng thấp. Nhiều DNNVV nói rằng họ không có khả năng mua những dịch vụ này theo giá thị trường. Hơn nữa, nhiều DNNVV không nhận thức được những lợi ích tiềm năng mà BDS có thể đem lại, đặc biệt là các dịch vụ vô hình và không đem lại lợi ích ngay lập tức như dịch vụ tư vấn quản lý và tư vấn chiến lược.
Cung của thị trường BDS cũng bị hạn chế do một số nguyên nhân. Các nhà cung cấp dịch vụ không phải lúc nào cũng hiểu rõ những nhu cầu cụ thể của các doanh nghiệp trong nước, hoặc đủ chuyên môn và nguồn lực để thiết kế các dịch vụ cho phù hợp với những nhu cầu này. Họ thiếu các kỹ năng và kinh nghiệm tư vấn, đặc biệt là thiếu khả năng truyền đạt về giá trị của dịch vụ tư vấn cho khách hàng.
Chi phí đầu vào cao: Cộng đồng doanh nhân trong và ngoài nước cho rằng cơ sở hạ tầng yếu kém, chi phí đầu vào sản xuất cao đang làm ảnh hưởng nhiều tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong Diễn đàn Doanh nghiệp năm 2004, các doanh nghiệp đã thảo luận nhiều về vấn đề này. Các chi phí đầu vào hiện đang còn cao bao gồm chi phí vận tải, thuê văn phòng, đóng góp an sinh xã hội và thiết bị sản xuất. Bảng dưới đây so sánh ba loại chi phí kinh doanh tại Hà Nội và một số thành phố khác ở châu á, qua đó cho thấy Việt Nam có chi phí cao nhất so với các đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực.
Hà Nội
Bangkok
Manila
Jakarta
Kuala Lumpur
Thuê văn phòng (US$/m2/ tháng)
25
11
7
18
14
Chi phí giao thông (US$/ công-ten-nơ 40 feet tới t /p Yokohama, Nhật Bản)
1.300
1.200
850
990
575
Chi phí đóng góp của chủ doanh nghiệp tính trên lương tháng (lương hưu, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp... - % lương tháng)
17
4
6.21
7.24
12
3. Giải pháp và phương hướng phát triển đối với các doanh nghiệp thương mại
Xu thế ngày nay là xu thế của toàn cầu hoá, xu thế của sự hội nhập. Bởi vậy gia nhập WTO đối với Việt Nam là một tất yếu khách quan.Chỉ có hội nhập thì chúng ta mới nhanh chóng đuổi kịp trình độ phát triển của thời đại. Dưới sự tác động của các yếu tố bên ngoài, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đều có sự thay đổi. Chính vì thế duy trì ổn định mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hết sức cấp thiết.
Lực lượng sản xuất dưới ảnh hưởng của bên ngoài ngày càng tiến bộ hơn, quan hệ sản xuất theo đó mà cũng thay đổi. Vậy giải pháp đặt ra đối với Nhà nước và các doanh nghiệp là gì ?
Đối với Nhà nước:
Thứ nhất, Nhà nước phải hoàn thiện bộ máy pháp luật cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho hệ thống doanh nghiệp thương mại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thuận lợi. Những ưu tiên hàng đầu về mặt chính sách trong các năm tới là:
Cải cách hệ thống tính và thu thuế - những quy định quá thiên về mặt kiểm soát hơn là tạo điều kiện trong việc tính và thu thuế, bao gồm cả vấn đề hóa đơn VAT, sẽ là rào cản lớn đối với những doanh nghiệp tư nhân muốn kinh doanh minh bạch, công khai để tiếp cận được đầy đủ các nguồn lực cần thiết để phát triển.
Giải quyết có hiệu quả những hạn chế trong chính sách về đất sản xuất và văn phòng giải pháp này có lẽ sẽ có tác động lớn nhất và có hiệu quả nhất trong mọi nỗ lực phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay.
Tạo cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân được cạnh tranh bình đẳng trong các lĩnh vực kinh doanh cho đến nay vẫn dành riêng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước, như dầu khí, viễn thông, cơ sở hạ tầng v.v. Các chính sách phát triển kinh tế tư nhân chỉ phát huy tác dụng khi Nhà nước đồng thời đẩy mạnh việc giảm bớt sự độc quyền và trợ cấp kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước.
Cải cách và tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực hiện các thủ tục về giải thể và phá sản, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp. Những chính sách khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tăng trưởng cần đi liền với các chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự do thoát khỏi những lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả để thực sự năng động trong kinh doanh.
Hai là, xúc tiến hình thành đồng bộ các loại thị trường. Cho phép hình thành và phát triển thị trường lao động để mọi người tự do chọn nghề và nơi làm việc .
Ba là, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, giao thông vận tải, thông tin liên lạc. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, thông tin thị trường kết hợp với việc phát triển tổ chức tư vấn, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp thương mại.
Các giải pháp từ phía doanh nghiệp:
Một là, tăng cường khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh thông qua định hướng chiến lược Marketting của doanh nghiệp. Hướng tới khách hàng, chiến lược cạnh tranh, chiến lược thích nghi thông qua tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Hai là, tăng cường công tác xây dựng, thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thương mại tương ứng với điều kiện cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập khu vực và thế giới hiện nay.
Ba là, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của doanh nghiệp thương mại, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực là con đường phù hợp nhất để giải quyết những khó khăn về tài chính của doanh nghiệp.
Bốn là, giảm chi phí kinh doanh, khéo léo kết hợp giữa vận dụng quy luật giá trị, các đòn bẩy kinh tế với việc động viên mọi người, mọi bộ phận trong doanh nghiệp tham gia vào công tác quản lý chi phí.
Năm là, đổi mới cơ cấu quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý hiện đại và tốc độ tư duy của đội ngũ lãnh đạo, quản trị trong doanh nghiệp thương mại.
Sáu là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp. Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong điều hành kinh doanh.
Việc kết hợp giữa các giải pháp của Nhà nước và doanh nghiệp đòi hỏi phải diễn ra song song. Và chỉ khi có sự kết hợp đồng bộ giữa các biện pháp của Nhà nước và doanh nghiệp thì trình độ của lực lượng sản xuất trong các doanh nghiệp thương mại mới được nâng cao và từ đó quan hệ sản xuất mới được hình thành, sẽ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất mới.
Kết luận
Việt nam gia nhập WTO đặt ra nhiều khó khăn, thử thách và cũng đầy hi vọng về một nền kinh tế thị trường phát triển. Trên đây chỉ là một phần nhỏ về thực trạng và giải pháp đối với vấn đề thương mại khi nước ta đứng trước ngưỡng cửa hội nhập. Nó chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối quan hệ này cần có sự chuyển đổi tích cực khi Việt Nam hội nhập đó là một tất yếu.
Chúng ta cần phải nỗ lực nhiều trong xây dựng lực lượng sản xuất ngày càng tiến bộ hiện đại nhưng cũng không được coi nhẹ vai trò của quan hệ sản xuất, luôn phải xây dựng giữa chúng mối quan hệ biện chứng với nhau. Có được như vậy nền kinh tế mới phát triển cân đối, xã hội mới ổn định để hoà nhập vào dòng phát triển chung của thế giới hiện nay.
Em xin cảm ơn cô giáo đã tận tình giúp đỡ em trong việc làm đề cương và hoàn thành bài tiểu luận này. Là sinh viên năm thứ nhất nên kiến thức cũng như kĩ năng viết còn chưa ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0498.doc