Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư thực hiện của tỉnh Thái Bình trong giai đoạn 2000-2007

Lời mở đầu Vốn đầu tư là một trong ba nhân tố đầu vào tác động đến tăng trưởng kinh tế, yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Vốn đầu tư có tác dụng hai mặt đến sự ổn định kinh tế, đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việt Nam thực hiện mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước do đó vốn đầu tư có vai trò rất quan trọng. Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng ảnh hưở

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư thực hiện của tỉnh Thái Bình trong giai đoạn 2000-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế: Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Có một vị trí quan trọng như vậy cùng với những tiềm năng kinh tế khác của tỉnh nhưng sự phát triển hiện nay chưa tương xứng với những điều kiện đó. Hiện nay, Thái Bình vẫn là một tỉnh nghèo kinh tế kém phát triển bị cô lập với các tỉnh bởi hệ thống giao thông chưa phát triển. Vì vậy, vốn đầu tư có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong việc thực hiện các mục tiêu của tỉnh cải tạo hệ thống giao thông, phát triển cơ sở hạ tầng đầu tư phát triển công nghiệp, cơ cấu lại nông nghiệp nâng cao giá trị sản phẩm… Trước những đóng góp và vai trò của vốn đầu tư đối với sự phát triển của tỉnh như vậy nên tôi chọn đề tài: “Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư thực hiện của tỉnh Thái Bình trong giai đoạn 2000-2007”. Kết cấu bài viết gồm: - Lời mở đầu - Nội dung: Chương 1: Một số vấn đề chung về đầu tư và thống kê đầu tư – xây dựng Chương 2: Vận dụng phân tích vốn đầu tư thực hiện của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2000-2007. - Kết luận Đề tài này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS Bùi Đức Triệu. Em xin chân thành cảm ơn thầy. Tuy nhiên do thời gian hạn hẹp và trình độ hạn chế nên bài viết còn có những thiếu xót nhất định mong được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Sinh viên thực hiện Hoàng Thị Quý Chương 1: Một số vấn đề chung về thống kê đầu tư Khái niệm, đặc điểm, vai trò của đầu tư Khái niệm đầu tư Theo nghĩa rộng, Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng. Theo nghĩa hẹp, Đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay đầu tư phát triển. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm chủ yếu sau đây: - Qui mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn. Qui mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, qui hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm. - Thời kỳ đầu tư kéo dài: thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn lớn lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: thời gian vận hành các kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài, có thể tồn tại vĩnh viễn như các Kim tự Tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Ăng Co Vát ở Cam-pu-chia….). Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai mặt, cả tích cực và tiêu cực, của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội… - Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên. Do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng. Không thể dễ dàng di chuyển các công trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lý hoạt động đầu tư phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau: + Trước tiên cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng. Đầu tư cái gì, công suất bao nhiêu là hợp lý… cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên những căn cứ khoa học. Thí dụ, công suất xây dựng nhà máy sàng tuyển than ở khu vực có mỏ than (do đó, quy mô vốn đầu tư) phụ thuộc rất nhiều vào trữ lượng than của mỏ. Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì quy mô nhà máy sàng tuyển than không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. + Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý: để lựa chọn địa điểm thực hiện đầu tư đúng phải dựa trên những căn cứ khoa học, dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, văn hoá… cần xây dựng một bộ tiêu chí khác nhau và nhiều phương án so sánh để lựa chọn vùng lãnh thổ và địa điểm đầu tư cụ thể hợp lý nhất, sao cho khai thác được tối đa lợi thế vùng và không gian đầu tư cụ thể, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả vốn đầu tư. - Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao: do qui mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu….. có nguyên nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…. Nội dung của hoạt động đầu tư phát triển và vốn đầu tư cho loại đầu tư này Xuất phát từ lĩnh vực phát huy tác dụng đầu tư phát triển bao gồm các hoạt động đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng - kỹ thuật chung của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hoá giáo dục, đầu tư phát triển các hoạt động y tế và dịch vụ xã hội khác, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư vào các lĩnh vực khác trực tiếp có tác động đến việc duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất kỹ thuật đang tồn tại, tăng thêm tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ cho nền kinh tế. Xuất phát từ đặc trưng kỹ thuật của các hoạt động trong mỗi công cuộc đầu tư, đầu tư phát triển bao gồm các hoạt động chuẩn bị đầu tư, mua sắm các đầu vào của quá trình thực hiện đầu tư, thi công xây lắp công trình, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và xây dựng cơ bản khác có liên quan đến sự phát huy tác dụng sau này của công cuộc đầu tư phát triển. Với nội dung của hoạt động đầu tư phát triển trên đây, để tạo thuận lợi cho công tác quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản sau đây: - Trên giác độ quản lý vĩ mô vốn đầu tư được phân thành 4 khoản mục lớn như sau: + Những chi phí tạo ra tài sản cố định (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định) + Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động) và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kỳ hoạt động của các tài sản cố định vừa được tạo ra. + Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0,3- 15% vốn đầu tư. + Chi phí dự phòng. - Trên giác độ quản lý vi mô tại các cơ sở, những khoản mục trên đây lại được tách thành các khoản chi tiết hơn: + Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm: Chi phí ban đầu và đất đai Chi phí xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng Chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, dụng cụ, mua sắm phương tiện vận chuyển Chi phí khác + Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm: Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí để mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí về điện, nước, nhiên liệu, phụ tùng…. Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền. + Chí phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định các dự án đầu tư. + Chi phí dự phòng. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế Đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này được thể hiện trên các mặt sau: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế Đầu tư tác động đến tổng cung, tổng cầu -Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân Hàng Thế Giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’ ) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0- Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0- P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0- E1. -Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường S dịch chuyển sang S’ ), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1-Q2 và do đó giá cả sản phẩm giảm từ P1-P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội (xem hình). P S S’ D D’ Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối quan hệ biện chứng, nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia. Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này dể đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù sự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng (máy móc, thiết bị), phần mềm (các văn bản, tài liệu, các bí quyết…), yếu tố con người ( các kỹ năng quản lý, kinh nghiệm), yếu tố tổ chức (các thể chế, phương pháp tổ chức….). Muốn có công nghệ, cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân. Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau: + Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ/ tổng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ. + Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị/ tổng vốn đầu tư thực hiện. Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu. Đối với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khai khoáng, chế tạo, lắp ráp, tỷ lệ này phải lớn. + Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu/ tổng vốn đầu tư thực hiện. Đầu tư chiều sâu thường gắn liền với đổi mới công nghệ. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học và công nghệ cao. + Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn, trọng điểm. Các công trình trọng điểm, mũi nhọn thường là các công trình đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, mang tính chất đầu tư mồi, tạo tiền đề để đầu tư phát triển các công trình khác. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ánh mức độ hiện đại của công nghệ. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tuỳ thuộc mục tiêu của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về qui mô, tốc độ giữa các ngành, vùng. Những cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm cơ cấu kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nhgiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Đầu tư có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp qui luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…. của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Có thể sử dụng các chỉ tiêu dưới đây để đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế của ngành = % thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành/tổng vốn đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước % thay đổi tỷ trọng VA của ngành trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết: để tăng 1% tỷ trọng VA của ngành trong tổng GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP = % thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của ngành nào đó/ tổng vốn đầu tư xã hội kỳ nghiên cứu so với kỳ trước % thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước Chỉ tiêu này cho biết: để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế (GDP) lên 1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng bao nhiêu. Thực tế để phát huy vai trò tích cực của đầu tư đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: + Các ngành, địa phương cần có qui hoạch tổng thể phát triển KTXH, trên cơ sở đó xây dựng qui hoạch đầu tư. + Đầu tư và cơ cấu đầu tư phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. + Cần điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng: căn cứ vào thị trường chung cả nước và phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. + Các ngành, địa phương phải có kế hoạch đầu tư phù hợp khả năng tài chính, tránh đầu tư phân tán dàn trải. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế… do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR. Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng) là tỷ số giữa qui mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm. Về phương pháp tính, hệ số ICOR được tính như sau: ICOR= vốn đầu tư tăng thêm GDP tăng thêm = Đầu tư trong kỳ GDP tăng thêm Chia cả tử và mẫu số công thức trên cho GDP, có công thức thứ hai: ICOR = Tỷ lệ vốn đầu tư / GDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế Từ công thức trên ta thấy: Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Theo một số nghiên cứu của các nhà kinh tế, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Thứ nhất, do thay đổi cơ cấu đầu tư ngành. Cơ cấu đầu tư ngành thay đổi ảnh hưởng đến hệ số ICOR từng ngành, do đó tác động đến hệ số ICOR chung. Nếu gọi là hệ số ICOR của ngành i, là tỷ trọng của ngành i trong GDP, là tốc độ tăng trưởng của ngành i, g là tốc độ tăng trưởng kinh tế chung thì Thứ hai, sự phát triển của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng hai mặt đến hệ số ICOR. Gia tăng đầu tư cho khoa học công nghệ, một mặt, làm cho tử số của công thức tăng, mặt khác, sẽ tạo ra nhiều ngành mới công nghệ mới, làm máy móc hoạt động hiệu quả hơn, năng suất cao hơn kết quả đầu tư tăng lên (tăng mẫu số của công thức). Như vậy, hệ số ICOR tăng hay giảm phụ thuộc vào xu hướng nào chiếm ưu thế. Thứ ba, do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý. Cơ chế chính sách phù hợp, đầu tư có hiệu quả hơn (nghĩa là, kết quả đầu tư ở mẫu số tăng lớn hơn chi phí ở tử số) làm cho ICOR giảm và ngược lại. ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 6-10 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 3- 5 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực vậy, ở nhiều nước đầu tư đóng vai trò như một “cái hích ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế ( các nước NICs, các nước Đông Nam Á). Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao hay thấp mà còn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trên góc độ phân tích đa nhân tố, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế thường được phân tích theo biểu thức sau: g= Di + Dl + TFP Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng GDP Di là phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP. Dl là phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng GDP. TFP là phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP (gồm đóng góp của công nghệ, cơ chế chính sách….) Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 1994 – 2004 chủ yếu do yếu tố bề rộng, đặc biệt do yếu tố vốn – nhân tố mà Việt Nam còn thiếu và sử dụng hiệu quả không cao, trong khi yếu tố lao động, được coi là nguồn lực nội sinh, lợi thế chi phí thấp thì mức đóng góp cho tăng trưởng kinh tế lại chưa tương xứng. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất- kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất -kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học- kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi Các cơ sở đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. Khái niệm, nội dung, phân loại vốn đầu tư Khái niệm và nội dung vốn đầu tư Vốn đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của vốn nói chung. Trên phương diện nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra để tạo ra năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và các khoản đầu tư phát triển khác. Về cơ bản, vốn đầu tư phát triển mang những đặc trưng chung của vốn như : Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình. Vốn phải vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền. Để biến tiền thành vốn thì tiền phải thay đổi hình thái biểu hiện, vận động và có khả năng sinh lời. Vốn cần được tích tụ và tập trung đến mức nhất định mới có thể phát huy tác dụng. Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Khi xác định rõ chủ sở hữu, đồng vốn sẽ được sử dụng hiệu quả. Vốn có giá trị về mặt thời gian. Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của vốn biến động theo thời gian. Nội dung cơ bản của vốn đầu tư phát triển trên phạm vi nền kinh tế bao gồm: - Vốn đầu tư xây dựng cơ bản: là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. - Vốn lưu động bổ xung: bao gồm những khoản đầu tư dùng mua sắm nguyên nhiên vật liệu, thuê mướn lao động, làm tăng thêm tài sản lưu động trong kỳ của toàn bộ xã hội. - Vốn đầu tư phát triển khác: là tất cả các khoản đầu tư của xã hội nhằm gia tăng năng lực phát triển của xã hội nâng cao trình độ dân trí, cải thiện chất lượng môi trường. Những bộ phận chính của vốn đầu tư phát triển khác gồm: Vốn chi cho công việc thăm dò, khảo sát, thiết kế, qui hoạch ngành, qui hoạch lãnh thổ; Vốn chi cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tăng cường sức khoẻ cộng đồng như chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình nước sạch nông thôn, phòng bệnh, kế hoạch hoá gia đình, phòng chống tệ nạn xã hội… Vốn đầu tư cho lĩnh vực giáo dục; chương trình phổ cập giáo dục, nghiên cứu, triển khai đào tạo, giáo dục…. Phân loại vốn đầu tư - Phân loại vốn đầu tư theo hình thức sở hữu gồm: + Vốn trong nước: vốn thuộc sở hữu của nhà nước và vốn không thuộc sở hữu nhà nước. + Vốn nước ngoài: vốn của Chính phủ nước ngoài hỗ trợ và vốn của tư nhân nước ngoài đầu tư. - Phân loại vốn đầu tư theo ngành kinh tế Quốc dân: + Vốn đầu tư cho ngành Công nghiệp + Vốn đầu tư cho ngành Nông nghiệp + Vốn đầu tư cho ngành dịch vụ - Phân loại vốn đầu tư theo tính chất sử dụng: + Vốn đầu tư cho sản xuất + Vốn đầu tư cho tài sản phi sản xuất Các nguồn hình thành vốn đầu tư Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn nhà nước Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. - Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hịên các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước hàng năm bình quân hàng năm đạt gần 23% GDP. Nguồn thu ổn định từ sản xuất trong nước đã bước đầu dần dần tăng. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng bình quân 14,9%. Tỷ lệ chi ngân sách nhà nước bình quân bằng 28% GDP. Trong đó, chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30,2 % tổng chi ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước có xu hướng gia tăng về giá trị tuyệt đối nhưng giảm về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991 – 2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Năm 2000, nguồn vốn này đã đạt đến 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong những năm tiếp theo, tín dụng đầu tư của nhà nước sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đánh kể. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. - Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Theo báo cáo tổng kết công tác kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm 0h ngày 1 tháng 1 năm 2000, tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước là 173.857 tỷ đồng. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp d._.ân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt…. Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Với khoảng 15 triệu hộ gia đình đóng góp khoảng 1/3 GDP, trong giai đoạn 1996- 2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia đình thực sự đã trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: - Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp). - Tập quán tiêu dùng của dân cư. - Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội. Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn hàng chục ngàn tỷ đồng (chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2001, có khoảng 11 ngàn doanh nghiệp mới được thành lập với số vốn 13.000 tỷ đồng). Thị trường vốn Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư – bao gồm cả nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được. Bằng việc phát hành và mua bán chứng khoán, các khoản vốn manh mún, rải rác trong dân cư và các tổ chức kinh tế sẽ được huy động nhằm đáp ứng những nhu cầu về đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. So sánh với hình thức huy động vốn qua ngân hàng, thị trường vốn huy động tiền rộng rãi hơn, phương thức tín dụng linh hoạt, đa dạng, có thể đáp ứng nhanh chóng những nhu cầu khác nhau của người cần vốn, đảm bảo về hiệu quả và thời gian lựa chọn. Thông qua thị trường vốn, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cũng có thể huy động vốn cho ngân sách hoặc đầu tư vào các công trình của mình bằng việc phát hành các loại chứng khoán nợ như trái phiếu, công trái….Xét về mặt kinh tế, hình thức huy động vốn này của nhà nước là rất tích cực. Nó góp phần vào việc kiềm chế lạm phát do chính phủ không phải phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Mặt khác, đứng trên góc độ hiệu quả, thị trường vốn thực sự trở thành một cái van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Trên thị trường vốn, bất cứ khoản vốn nào được sử dụng đều phải trả giá, do vậy người sử dụng vốn phải quan tâm đến việc sinh lợi của mỗi đồng vốn. Thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng không chỉ được coi là một kênh huy động vốn của nền kinh tế mà nó còn góp phần tích cực trong việc khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và sự lãng phí trong quá trình sử dụng vốn của toàn xã hội. Nguồn vốn nước ngoài Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows).Thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau: - Tài trợ phát triển chính thức (ODF – official development finance). Nguồn này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA – official development assistance) và các hình thức tài trợ phát triển khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF. - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Thị trường vốn quốc tế. Nguồn vốn ODA Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%. Yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác định dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời hạn ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Công thức tính tỷ lệ yếu tố không hoàn lại (GE) như sau: Trong đó: r - Tỷ lệ lãi suất hàng năm a - Số lần trả nợ trong năm d - Tỷ suất chiết khấu G - Thời gian ân hạn M - Thời hạn cho vay. Thời gian qua, việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Kể từ 1993 tới hết năm 2006, Việt Nam đã tổ chức được 14 hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ với tổng số vốn cam kết là hơn 36 tỷ USD. Với quy mô tài trợ khác nhau, hiện nay ở Việt Nam có trên 45 đối tác hợp tác phát triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang hoạt động. Trong số vốn ODA cam kết nói trên bao gồm cả viên trợ không hoàn lại chiếm khoảng 15-20% và phần chủ yếu còn lại là vay ưu đãi. Số vốn ODA cam kết này được sử dụng trong nhiều năm, tuỳ thuộc vào thời hạn của các chương trình và dự án cụ thể. Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ 2006-2010, Chính phủ Việt Nam tiếp tục chủ trương huy động mọi nguồn vốn, trong đó, nguồn vốn ODA thực hiện dự kiến khoảng 11-12 tỷ USD. Trong 5 năm 2006-2010 chiếm khoảng 80% tổng ODA cam kết. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viên trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này còn hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế. Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), trong năm 1999 toàn bộ các nước đang phát triển chỉ thu hút được 165 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì chỉ riêng Hoa Kỳ (nước thu hút vốn nước ngoài lớn nhất thế giới) đã thu hút được mức 132,8 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư. Đối với Việt Nam, sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã từng bước đóng góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông…. Tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, trên phạm vi cả nước đã có hàng nghìn dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là hơn 75 tỷ triệu USD. Trong giai đoạn 2001- 2006 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm trung bình khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư dưới các hình thức khác nhau. Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Hàng năm, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt doanh thu khoảng hàng chục tỷ USD (chưa kể dầu thô), trong đó giá trị xuất khẩu chiếm khoảng 35% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đặc biệt nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông… Bước đầu hình thành được các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá các khu vực phát triển, hình thành các khu dân cư mới, tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương. Cho đến nay, khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài cũng đã thu hút khoảng 87 vạn lao động góp phần đáng kể cho việc tạo thêm công ăn việc làm cho nền kinh tế. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, với môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện theo thông lệ quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tiếp tục là một nguồn vốn quan trọng và có tỷ trọng đáng kể trong tổng các nguồn vốn đầu tư của Việt Nam. Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng nguồn vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các nguồn vốn khác. Tính từ đầu những năm 1970 đến cuối những năm 1990 của thế kỷ 20, vốn đầu tư trực tiếp của các nước nhóm G7 chỉ tăng 30 lần, trong khi đầu tư chứng khoán tăng khoảng 200 lần. Riêng trong thập kỷ 1990, giá trị cổ phiếu mà các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng 6 lần đạt khoảng 4 ngàn tỷ USD. Trong những năm gần đây, dòng vốn này đã và đang có xu hướng tiếp tục gia tăng. Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào châu Á đã tăng gấp ba lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD. Năm 2005, dòng vốn đầu tư cổ phần gián tiếp đạt 42,3 tỷ USD vượt qua con số kỷ lục được lập trong năm 2004 là 35,3 tỷ USD. Riêng khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã thu hút được gần 30 tỷ USD. Được đánh giá là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới Châu Á hiện vẫn là nơi thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp đáng kể và có xu hướng ngày càng gia tăng. Đối với Việt Nam, để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng được chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ta nước ngoài cũng đã và đang được triển khai. Năm 2005, chính phủ Việt Nam đã phát hành đợt trái phiếu đầu tiên trên thị trường trái phiếu Hoa Kỳ với kết quả được đánh giá là khá thành công. Để phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế Việt Nam phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng. Lựa chọn cẩn thận loại hình trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn, thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hơn nữa, cũng cần cân nhắc thận trọng giữa việc huy động vốn khác như đầu tư trực tiếp và vay nợ qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng đề án cho việc phát hành trái phiếu, Việt Nam cũng cần phải xây dựng một kế hoạch chi tiết cho việc sử dụng vốn huy động có hiệu quả. Đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng Đối tượng nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng Thống kê đầu tư và xây dựng là một bộ phận của thống kê học, có đối tượng nghiên cứu là các quy luật số lượng của các hiện tượng kinh tế - xã hội số lớn diễn ra trong lĩnh vực hoạt động đầu tư và xây dựng cơ bản trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Đối tượng nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng là các quy luật số lượng có nghĩa là: + Thống kê đầu tư và xây dựng nghiên cứu mặt lượng trong sự liên hệ mật thiết với mặt chất của hiện tượng. + Thống kê đầu tư và xây dựng dùng con số, số lượng để biểu hiện bản chất và tính quy luật của các hiện tượng. + Con số trong thống kê đầu tư và xây dựng luôn là con số có nội dung kinh tế cụ thể, gắn với các nội dung kinh tế cụ thể. Do đó, để tạo ra các con số thống kê chính xác thì cần hiểu đúng nội dung kinh tế của các con số đó, và để sử dụng đúng các con số thống kê thì cần đọc, hiểu đúng các nội dung của các con số thống kê mà họ sẽ sử dụng. Đối tượng nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng là các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực hoạt động đầu tư và xây dựng. Thống kê đầu tư và xây dựng không nghiên cứu các hiện tượng xảy ra trong các lĩnh vực khác, chỉ xem xét ảnh hưởng tương hỗ giữa các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực đầu tư – xây dựng với các hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực khác mà thôi. Hoạt động đầu tư và xây dựng có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế. Nó liên quan đến việc tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân, liên quan đến tái sản xuất mở rộng nền kinh tế quốc dân. Nội dung hoạt động đầu tư – xây dựng: Đầu tư là việc bỏ vốn nhằm duy trì và tạo ra những năng lực sản xuất mới để thu được một kết quả nào đó về các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội…. Xây dựng là hoạt động nhằm tái sản xuất (giản đơn và mở rộng) tài sản cố định bao gồm các hoạt động: thăm dò, thiết kế, dự toán, xây lắp. Ngành xây dựng là một ngành kinh tế quốc dân có chức năng thực hiện tái sản xuất tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự phát triển quy mô đầu tư – xây dựng ngày càng gia tăng. Các hình thức tổ chức kinh doanh xây dựng: tái sản xuất tài sản cố định có thể được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác: giao thầu, tự làm. Đặc điểm của hoạt động và sản phẩm xây dựng: ngoài các đặc trưng chung của tài sản cố định, sản phẩm xây dựng có đặc điểm cơ bản là cố định trước, trong và sau quá trình sản xuất, giá trị lớn, chu kỳ sản xuất dài. Sản xuất xây dựng có các đặc điểm cơ bản là di dộng, chu kỳ sản xuất dài, mang tính thời vụ. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu thống kê đầu tư và xây dựng Nhiệm vụ: thống kê đầu tư và xây dựng Việt nam có nhiệm vụ chung là phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng và phát triển đất nước. Nhiệm vụ cơ bản của công tác thống kê đầu tư và xây dựng là đảm bảo cung cấp các số liệu thống kê khoa học, chính xác, kịp thời cho Đảng và Nhà nước để quyết định những đường lối chính sách, lập và kiểm tra hoàn thành kế hoạch ngăn ngừa và có biện pháp khắc phục các hiện tượng mất cân đối. Đồng thời, khai thác được những năng lực tiềm tàng, đẩy mạnh sự phát triển sản xuất với hiệu quả kinh tế cao. Phương pháp nghiên cứu của thống kê đầu tư và xây dựng. Trong điều tra Các hình thức tổ chức điều tra: có hai hình thức tổ chức điều tra: Báo cáo thống kê định kỳ và điều tra chuyên môn. Đơn vị báo cáo được xác định phụ thuộc vào phương thức sản xuất xây dựng - Trong phương thức giao - nhận thầu (tách người đầu tư (A) và người xây dựng (B). - Trong phương thức tự làm (không tách người đầu tư (A) và người xây dựng (B)) một đơn vị thực hiện cả hai chức năng trên. Trong tổng hợp và phân tích Thống kê đầu tư và xây dựng vận dụng các phương pháp của thống kê học như phân tổ, chỉ số, hồi quy- tương quan, dãy số thời gian… Thống kê đầu tư và xây dựng cũng khuyến khích sử dụng các phương tiện tính toán hiện đại như máy vi tính….. Tình hình chung về vốn đầu tư phát triển ở Việt Nam Mục tiêu Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng này nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm Đảng và Nhà nước đều đưa mục tiêu tăng lượng vốn đầu tư và coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất. Mục tiêu của nước ta là phát triển kinh tế tiến tới công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, cụ thể là: Công nghiệp đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn để phát triển. Định hướng là đầu tư cho công nghiệp cơ bản, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để giảm tính gia công của sản xuất từng bước phát triển để sản phẩm xuất khẩu của nước ta ít bị lệ thuộc vào giá cả và thị trường nguyên liệu thế giới, nâng cao giá trị ngành công nghiệp. Dịch vụ được chú trọng đầu tư để nâng cao tỷ trọng trong GDP. Đây là một ngành công nghiệp không khói ngày càng chiếm một tỷ trọng cao trong GDP của các nước công nghiệp phát triển. Nó đóng góp rất lớn vào GDP nên phải được đầu tư tương xứng đặc biệt trong điều kiện nước ta rất có tiềm năng nên phải có biện pháp khai thác tốt. Nông – lâm - thuỷ hải sản: chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỷ trọng của ngành này trong GDP nhưng phải nâng cao giá trị sản phẩm của ngành. Cần phải đầu tư cải tiến kỹ thuật, chuyển đổi mô hình nuôi và trồng sao cho đạt hiệu quả để nâng cao chất lượng sản phẩm của ngành thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm. Thực trạng B1: Bảng số liệu vốn đầu tư của Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2007 (tỷ đồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Vốn đầu tư 129460 147993 166814 189319 213931 243306 306100 (số liệu từ niên giám thống kê Việt Nam năm 2007) Vốn đầu tư phát triển của cả nước ngày một gia tăng cả về lượng tuyệt đối cũng như tỷ lệ lượng vốn đó so với GDP, điều này phù hợp với thực tế nước ta. Nước ta vừa mới gia nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội mới để thu hút vốn đầu tư phát triển, đặc biệt là lượng vốn FDI. Cụ thể là năm 2006 thu hút được 12 tỷ USD, năm 2007 là 21,3 tỷ USD, năm 2008 là 64 tỷ USD đã giải ngân được 11 tỷ USD. Tuy nhiên trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay, các nhà đầu tư đánh giá lại chiến lược kinh doanh, nhiều dự án đã được cấp phép sẽ bị dãn tiến độ, thu hẹp quy mô và có thể không thực hiện được nên dự kiến lượng vốn này trong vài năm tới sẽ giảm ảnh hưởng đến tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước sẽ giảm theo. Tuy nhiên,theo một số tính toán của các nhà kinh tế thì số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57% cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%; năm 2005 đạt 40,9%; năm 2006 đạt 41%; năm 2007 đạt 40,4% và kế hoạch năm 2008 còn cao hơn nữa lên đến 42%). Đây là một tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới. Hệ thống chỉ tiêu thống kê vốn đầu tư Quy mô (khối lượng) vốn đầu tư Khái niệm: Khối lượng vốn đầu tư là chỉ tiêu tổng hợp tính bằng tiền theo giá trị dự toán, phản ánh chi phí để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất - kỹ thuật thông qua việc xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, lắp đặt các thiết bị máy móc trên nền bệ, thiết bị tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác cần thiết để các cơ sở vật chất - kỹ thuật có thể hoạt động được. Như vậy, khối lượng vốn đầu tư là chỉ tiêu tuyệt đối, thời kỳ, tính theo đơn vị giá trị. Chỉ tiêu khối lượng vốn đầu tư phản ánh tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động đầu tư, tình hình tái sản xuất các cơ sở vật chất - kỹ thuật tiềm năng kinh tế của đất nước, phương hướng, tốc độ, quy mô phát triển và phân bố các cơ sở vật chất - kỹ thuật của tất cả các ngành kinh tế của đất nước. Chỉ tiêu khối lượng vốn đầu tư được tính cho toàn bộ nền kinh tế, từng ngành, từng đơn vị có tiến hành hoạt động đầu tư. Cơ cấu vốn đầu tư Cơ cấu vốn đầu tư theo nội dung của vốn - Chi phí xây lắp: chi phí xây dựng công trình mới, di chuyển máy móc thi công, chi phí phá dỡ các công trình xây dựng cũ, chi phí san lấp mặt bằng, chi phí xây dựng công trình tạm, chi phí lắp đặt thiết bị. - Chi phí thiết bị: gồm chi phí cho mua sắm máy móc thiết bị, chi phí vận chuyển trang thiết bị, chi phí thuế, bảo hiểm cho thiết bị chiếm khoảng 60% vốn đầu tư. - Chi phí khác: + Chi phí khác trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư ./ Chi phí lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi ./ Chi phí tuyên truyền, quảng cáo ./ Chi phí nghiên cứu khoa học, công nghệ có liên quan đến dự án ./ Chi phí và lệ phí thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đầu tư + Chi phí khác ở giai đoạn thực hiện đầu tư. ./ Chi phí khởi công công trình ./ Chi phí đền bù và tổ chức thực hiện di dời ./ Chi phí thuê đất, hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất ./ Chi phí khảo sát xây dựng, thiết kế công trình, chi phí mô hình thí nghiệm, chi phí lập hồ sơ mời thầu, chi phí cho việc phân tích, đánh giá kết quả đấu thầu, mua sắm vật tư, thiết bị, chi phí giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị, chi phí tư vấn khác,… ./ Chi phí ban quản lý dự án ./ Chi phí bảo vệ an toàn, bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng công trình ./ Chi phí kiểm định vật liệu đưa vào công trình ./ Chi phí lập, thẩm tra đơn giá dự toán, chi phí quản lý, chi phí xây dựng công trình. + Chi phí khác ở giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình vào sử dụng gồm: chi phí thực hiện việc quy đổi vốn, chi phí tháo dỡ công trình tạm, chi phí thuê chuyên gia vận hành chạy thử, chi phí thường xuyên đối với cơ sở hành chính…. Cơ cấu vốn đầu tư theo phân cấp quản lý Đầu tư phát triển được chia thành đầu tư theo các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A,B,C Tuỳ theo tính chất và quy mô đầu tư của dự án mà phân thành dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A,B và C, trong đó, dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định, dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định. Ngày 29/6/2006 Quốc hội đã thông qua tiêu chí về dự án quan trọng quốc gia bao gồm: + Qui mô vốn đầu tư từ 20 nghìn tỷ đồng trở lên đối với dự án có sử dụng từ 30% vốn nhà nước trở lên. + Dự án có ảnh hưởng lớn đến môi trường và tiềm ẩn khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường như nhà máy điện hạt nhân, dự án sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ đầu nguồn từ 200 ha trở lên….. + Dự án phải di dân tái định cư từ 20000 người trở lên ở miền núi, từ 50000 người trở lên ở các vùng khác. + Dự án đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng, an ninh hoặc có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan trọng về lịch sử văn hoá. + Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế chính sách đặc biệt, cần được Quốc hội quyết định. Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tượng đầu tư Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc, thiết bị…) và đầu tư cho các đối tượng phi vất chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế…). Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư cho đối tượng vất chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn Phân thành đầu tư bằng nguồn vốn trong nước và đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài. + Đầu tư bằng nguồn vốn trong nước: các hoạt động đầu tư được tài trợ từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư. + Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: hoạt động đầu tư được thực hiện bằng các nguồn vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp nước ngoài. Cách phân loại này có tác dụng chỉ ra vai trò từng nguồn vốn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội đất nước. Trong đó, phải thống nhất quan điểm: vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. Cơ cấu vốn đầu tư theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư. Phân thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp: - Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Người có vốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian để đầu tư phát triển. - Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư, trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Loại đầu tư này tạo nên những năng lực sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tăng thêm việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Chương 2: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình vốn đầu tư tỉnh Thái Bình giai đoạn 2000-2007 Khái quát về tỉnh Thái Bình Vị trí địa lý Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ với chiều dài bờ biển gần 50 km, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Hà Nam và Nam Định bởi sông Hồng dài 67 km, phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và thành phố Hải Phòng bởi sông Luộc và sông Hoá dài 88 km. Thái Bình có địa hình tương đối bằng phẳng, không có núi đồi, với độ dốc dưới 1%, độ cao trung bình từ 1- 2 m so với mặt nước biển và thấp dần từ Bắc xuống Nam. Diện tích đất tự nhiên của toàn tỉnh tại thời điểm cuối năm 2005 là 1543,5 km2; chiếm 10,42% diện tích tự nhiên của 11 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng và là tỉnh lớn thứ 4 trong vùng (sau các tỉnh Hà Tây, Hải Dương, Nam Định). Đất đai Thái Bình màu mỡ, được bồi tụ bởi sông Hồng và sông Thái Bình. Khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 23- 240 C. Đặc điểm tự nhiên đó giúp cho Thái Bình có điều kiện để phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện. Thái Bình có nguồn nước ngọt dồi dào, 50 km bờ biển với 3 cửa sông lớn đổ ra, cộng với hàng chục ngàn km2 vùng lãnh hải là tiềm năng lớn để khai thác nguồn lợi biển. Tiềm năng Tiềm năng khoáng sản: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác bình quân mỗi năm hàng chục triệu m3 khí thiên nhiên phục vụ cho sản xuất đồ sứ, thuỷ tinh, gạch ốp lát, xi măng trắng thuộc KCN Tiền Hải…. Tiềm năng du lịch: Thái Bình có cảnh quan thiên nhiên tương đối thuần khiết của miền đồng bằng ven biển. Khách du lịch có thể đi thăm các cồn đảo ven biển – nơi dừng chân của các loài chim quý. Thái Bình có nhiều công trình văn hoá được xếp hạng, như: Chùa Keo, Đền Tiên La, Đền Đồng Bằng…. Thái Bình có 80 lễ hội đặc sắc, 16 loại hát múa và nghệ thuật cổ truyền. Tài nguyên đất: Đất đai Thái Bình phi nhiêu màu mỡ, nổi tiếng “bờ xôi ruộng mật” do được bồi tụ bởi hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, và sông Luộc. Tiềm năng về nhân tố con người: Dân số Thái Bình năm 2007 là 1868 ngàn người. Trong đó dân số nông thôn chiếm 1730 ngàn người (chiếm 92,6%), dân số thành thị là 138 ngàn người (chiếm 8,4%); mật độ dân số là 1208 người/km2. Từ đó ta nhận thấy là nguồn lao động tiềm năng của tỉnh là rất lớn mà chưa được khai thác sử dụng hết. Thực trạng vốn đầu tư phát triển và sử dụng vốn của tỉnh Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm 2001 – 2005 ước đạt 11.702 tỷ đồng (Kế hoạch 5 năm đề ra là 10.510 tỷ đồng), gấp 2,64 lần 5 năm trước. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư phát triển bình quân là 13,3%/năm. Trong đó: Nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý chiếm 20,2%; Nguồn vốn ngân sách do Trung ương đầu tư trên địa bàn chiếm 18,6%; Nguồn vốn dân cư và doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 49,6%; Vốn tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước chiếm 6,4%; Nguồn vốn FDI chiếm 2,2%. Đối với vốn ngân sách tập trung của địa phương, ngoài nguồn vốn hỗ trợ của Trung ương tỉnh còn bổ sung cân đối thêm từ nguồn vay Kho bạc Nhà nước, các nguồn thu từ đất đai để bổ sung vốn cho xây dựng hạ tầng (kể cả cấp tỉnh, huyện, xã). Ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước, tỉnh còn tăng cường thu hút các nguồn vốn của các doanh nghiệp đầu tư vào tỉnh đồng thời huy động tốt các nguồn vốn tín dụng, vốn của các tầng lớp dân cư cho phát triển kinh tế xã hội. Năm năm qua đã đầu tư xây dựng một số công trình hạ tầng then chốt của địa phương ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2102.doc
Tài liệu liên quan