Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty xi măng Hoà Bình

Lời nói đầu Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược lâu dài của Đảng. Sự chuyển hướng của Nhà nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn, sáng tạo . Sự chuyển hướng đó đã khiến các doanh nghiệp Nhà nước gặp không ít các khó khăn để tìm được vị trí trên thị trường. Cơ chế thị trường đòi

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty xi măng Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hỏi mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải tự vận động để có thể tồn tại, hòa nhập, thích nghi và phát triển thoát khỏi tình trạng bế tắc và nguy cơ phá sản . Công ty xi măng Hoà bình là một trong những doanh nghiệp đã sớm thích nghi và tìm được chỗ đứng trên thị trường. Tuy nhiên để có thể đứng vững và phát triển Công ty đã phải đầu tư vào công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nghiên cứu thị trương, lựa chọn sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Phân tích tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp được đánh giá là rất quan trọng, nó chi phối mạnh mẽ tới khâu khác và là cơ sở để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tiêu thụ, Công ty xi măng Hoà bình đã có sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề này, do đó đã có những thành công nhất định song vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều khó khăn cần khắc phục. Vì vậy em đã chọn đề tài này với mong muốn được đóng góp một phần công sức của mình để giúp Công ty khắc phục được những khó khăn hạn chế còn tồn tại, để từ đó Công ty đưa ra phương hướng giải quyết, khắc phục những gì còn tồn tại để đẩy mạnh hướng tiêu thụ sản phẩm hoàn thiện hơn, đạt được những kết quả tốt hơn. Trong thời gian thực tập tại Công ty xi măng Hoà bình với sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo: Nguyễn Công Nhự cùng các cán bộ, nhân viên phòng Kế hoặch của Công ty, em đã lựa chọn luận văn tốt nghiệp với đề tài “ Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty xi măng Hoà bình giai đoạn 1997 – 2001và dự đoán năm 2002” Nội dung luận văn tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Chương II: Xác định hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê phân tích, dự đoán tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty xi măng Hoà bình giai đoạn 1997 –2001 và dự đoán năm 2002. CHƯƠNG I Tổng quan về tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp I. những vấn đề lý luận chung về hoạt động tiêu thụ . 1. Khái niệm tiêu thụ phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là một trong những khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích của sản xuất và tiêu dùng, đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Đó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất và phân phối một bên là tiêu dùng. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm hàng loạt các nghiệp vụ đó là: Khâu nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu thị trường, tổ chức và xuất bán theo yêu cầu của khách hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất . Tóm lại, tiêu thụ sản phẩm là tổng thể các biện pháp về mặt tổ chức, kinh tế và kế hoạch thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu của thị trường, tổ chức sản xuất, tiếp nhận sản phẩm, chuẩn bị và xuất bán sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng với chi phí kinh doanh là nhỏ nhất. 2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các hoạt động sản xuất và tiêu thụ gần như tách rời nhau. Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp các sản phẩm hiện vật. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này chủ yếu là giao nộp các sản phẩm cho các đơn vị theo các địa chỉ và giá cả do Nhà nước định sẵn. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình quyết định 3 vấn đề trọng tâm: sản xuất cái gì? bao nhiêu? cho ai? Lúc nào tiêu thụ sản phẩm cũng đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ, tức là nó đã được người tiêu dùng chấp nhận để thoả mãn một nhu cầu nào đó. Sức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng của sản phẩm… có nghĩa là tiêu thụ phản ánh đầy đủ những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Công tác tiêu thụ sản phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng đồng thời trợ giúp các nhà sản xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của chính mình và nhu cầu của khách hàng. Về phương tiện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong việc cân đối giữa cung và cầu, vì nền kinh tế quốc dân là một tổng thể thống nhất với những cân bằng và những tương quan theo tỷ lệ nhất định. Sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ tức là sản xuất đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được sự mất cân đối, giữ được ổn định trong xã hội. Đồng thời tiêu thụ sản phẩm giúp các đơn vị xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo. Thông qua tiêu thụ sản phẩm sẽ dự đoán được nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và khu vực nói riêng đối với từng loại sản phẩm. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Tóm lại, để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục, hiệu quả thì công tác tiêu thụ sản phẩm phải được tổ chức tốt. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự sống còn của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Như vậy việc tổ chức các hoạt động tiêu thụ sản phẩm sẽ góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp, từng bước tạo điều kiện cho sản phẩm của công ty tăng khả năng trên thị trường trong nước và quốc tế. 3. Nhiệm vụ của công tác tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ có mục tiêu là bán hết sản phẩm hàng hoá- dịch vụ của doanh nghiệp với doanh thu tối đa và chi phí cho hoạt động tiêu thụ là tối thiểu. Với mục tiêu đó, hoạt động quản trị kinh doanh hiện đại thì tiêu thụ sản phẩm hàng hoá - dịch vụ không còn là hoạt động chỉ chờ bộ phận sản xuất tạo ra sản phẩm rồi mới tìm cách tiêu thụ, mà hoạt động tiêu thụ phải có các nhiệm vụ chủ yếu sau - Xác định cầu thị trường và cầu của chính bản thân doanh nghiệp về các loại hàng hoá - dịch vụ mà doanh nghiệp đang hoặc sẽ có khả năng sản xuất kinh doanh để đầu tư phát triển sản phẩm và kinh doanh tối ưu. - Chủ động tiến hành các hoạt động về giới thiệu sản phẩm để thu hút khách hàng . Tổ chức tốt công tác bán hàng nhằm bán được nhiều hàng hoá với chi phí cho công tác này là thấp nhất, cũng như đáp ứng được tốt các dịch vụ cần thiết sau khi bán hàng ( dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng …). - Xây dựng các chính sách như : chính sách sản phẩm, chính sách tiêu thụ, chính sách phân phối, chính sách giá cả sản phẩm. II. Nội dung nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm. 1. Điều tra nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch tiêu thụ . 1.1. Nghiên cứu thị trường. Điều tra nghiên cứu thị trường là bước quan trọng để mở đầu cho hoạt động kinh doanh và trong cả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để định ra các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó tiến hành lập và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, chính sách thị trường… thị trường luôn luôn biến đổi không ngừng. Do đó nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết và thường xuyên của doanh nghiệp . 1.1.1. Nội dung nghiên cứu thị trường . Doanh nghiệp cần phải nghiên cứu khái quát thị trường khi: Khi doanh nghiệp có ý định xâm nhập vào thị trường mới hay một lĩnh vực kinh doanh mới. Doanh nghiệp muốn xem xét hoặc đánh giá lại toàn bộ chính sách Marketing của mình trong thời gian dài đối với một thị trường xác định. Nội dung của việc nghiên cứu khái quát thị trường là giải quyết một số vấn đề quan trọng như: - Thị trường nào có triển vọng nhất ( hay lĩnh vực nào phù hợp nhất) đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Khả năng bán hàng của doanh nghiệp trên thị trường. - Doanh nghiệp cần có chính sách và biện pháp gì để tăng cường khả năng bán hàng của mình. Để trả lời câu hỏi trên, việc nghiên cứu khái quát thị trường phải đi sâu phân tích những vấn đề sau. ã Quy mô cơ cấu và sự vận động của thị trường. Việc xác định quy mô thị trường sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được tiềm năng của thị trường. Tuỳ từng bước, từng trường hợp cụ thể mà trong khi nghiên cứu có thể đánh giá quy mô của thị trường bằng các đơn vị khác nhau bằng số lượng người mua, số lượng hàng hoá tiêu thụ, doanh số bán thực tế, tỷ lệ thị trường mà doanh nghiệp có thể đáp ứng và thoả mãn. Việc phân tích, đánh giá cơ cấu thị trường có thể được thực hiện trên các phương tiện chủ yếu sau đây: + Cơ cấu địa lý : xác định thị trường tập trung ở vùng nào ? tỷ lệ mua bán hàng hóa ở thị trường như thế nào?. + Xác định cơ cấu hàng hoá. Việc phân tích sự vận động của thị trướng sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được xu thế biến động của thị trường, từ đó sẽ xác định được phương hướng, chính sách cho phù hợp . ã Các nhân tố xác định môi trường . + Môi trường dân cư, số dân, cơ cấu và nghề nghiệp. + Môi trường văn hoá, phong tục tập quán. + Môi trường chính trị, luật pháp: Hệ thống pháp luật, chiến lược và chính sách phát triển của ngành, vùng … + Môi trường công nghệ . + Môi trường cạnh tranh. Qua nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp có thể thấy một bức tranh toàn cảnh thị trường mà mình đang và sẽ tham gia. Tuy nhiên việc nghiên cứu khái quát sẽ cung cấp thông tin chưa đầy đủ, chi tiết cho doanh nghiệp trong việc ra quyết định. Để bổ sung các thông tin còn thiếu phải tiến hành nghiên cứu chi tiết thị trường. ã Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là nghiên cứu thái độ của người tiêu dùng, từ đó doanh nghiệp tìm cách thích ứng hoặc gâg ảnh hưởng đến họ. Nghiên cứu chi tiết thị trường phải trả lời các câu hỏi sau. + Ai tiêu dùng ? Doanh nghiệp cần phải biết số lượng đặc điểm của người sử dụng sản phẩm trên các tiêu thức: Lứa tuổi, tầng lớp xã hội, trình độ văn hoá, thu nhập... + Nhu cầu của người tiêu dùng là bao nhiêu? Doanh nghiệp cần phải nghiên cứu dưới hai góc độ sản phẩm và nhãn hiệu người tiêu dùng hay sử dụng. Việc phân tích có thể được tiến hành dựa vào số lượng sản phẩm tiêu dùng . Nghiên cứu chi tiết thị trường phải nghiên cứu nhu cầu và yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm. So sánh về chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, mẫu mã, màu sắc với các đối thủ cạnh tranh… nhằm đổi mới sản phẩm để thu hút khách hàng làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. 1.1.2. Phương pháp nghiên cứu thị trường. *Giai đoạn thu thập thông tin : Người ta thường sử dụng các phương pháp sau. + Nghiên cứu tại bàn. + Nghiên cứu hiện trường. Phương pháp nghiên cứu tại bàn hay còn gọi là nghiên cứu văn phòng : Là cách nghiên cứu, thu thập thông tin qua các tài liệu ,sách báo, tạp chí bản tin kinh tế, tạp chí quảng cáo, thông tin thị trường, tạp chí thương mại, niên giám thống kê và các tài liệu có liên quan đến các mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc sẽ kinh doanh. Nghiên cứu tại bàn cho phép doanh nghiệp nhìn được khái quát thị trường. Đây là phương pháp thông dụng, tương đối dễ làm, có thể nhanh ít tốn kém nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải có chuyên môn, biết thu thập thông tin một cách đầy đủ và tin cậy. Tuy nhiên, phương pháp này có hạn chế là dựa vào tài liệu đã xuất bản nên có thể có độ trễ so với thực tế và mức độ tin cậy có giới hạn. Phương pháp nghiên cứu hiện trường là phương pháp trực tiếp cử cán bộ đến tận nơi để nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu thông qua việc trực tiếp quan sát, thu thập các thông tin và số liệu bằng cách điều tra trọng điểm, điều tra chọn mẫu, điều tra điển hình, điều tra toàn bộ hoặc tham gia phỏng vấn các đối tượng, gửi phiếu điều tra, hội nghị khách hàng hay thông qua hình thức hội chợ triển lãm… cũng có thể bằng việc tiếp xúc với khách hàng… Nghiên cứu tại hiện trường có thể thu thập được các thông tin sinh động, thực tế mới nhất. Tuy nhiên, phương pháp này cũng rất tốn kém chi phí và cần phải có những cán bộ vững về chuyên môn và có đâù óc thực tế Hai phương pháp này thường được kết hợp với nhau để bổ sung những thiếu sót và phát huy những điểm mạnh của mỗi phương pháp. * Giai đoạn xử lý thông tin. Trong giai đoạn này, người nghiên cứu thị trường phải xử lý các thông tin đã thu thập được. Xử lý thông tin là tiến hành phân loại, tổng hợp, phân tích và kiểm tra để xác định tính chính xác của thông tin nhiễu, trùng, giả tạo để xác định thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Việc xử lý thông tin cần tiến hành nhanh chóng, chính xác, việc xử lý thông tin phải xác định được thái độ của người tiêu dùng đối với sản phẩm của doanh nghiệp và lựa chọn được thị trường trọng điểm mà doanh nghiệp có khả năng xâm nhập và phát triển làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Sau khi xử lý thông tin, doanh nghiệp cần phải xây dựng được phương án kinh doanh tối ưu nhất để thực hiện các mục tiêu, phương hướng của doanh nghiệp. *Giai đoạn ra các quyết định. Quá trình xử lý thông tin đã giúp cho doanh nghiệp có thể đưa ra các quyết định chính xác và nhanh chóng trong việc lựa chọn các phương án kinh doanh trong thời gian tới, đặc biệt là trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm, cụ thể là: 1. Quyết định mặt hàng, sản phẩm có khả năng trên thị trường. 2. Việc quyết định giá bán các sản phẩm trên thị trường. 3. Quyết định về mạng lưới tiêu thụ sản phẩm và các hình thức xúc tiến thương mại. 1.2. Phân tích sản phẩm để đánh giá khả năng thích ứng với thị trường. Việc phân tích sản phẩm để đánh giá khả năng thích ứng với thị trường nhằm củng cố và nâng cao uy tín của sản phẩm trên thị trường là công việc quan trọng của doanh nghiệp . Khi phân tích cần chú ý các nội dung sau: + Đánh giá đúng về khả năng và sự thành công của sản phẩm trên thị trường thông qua các số lượng về kỹ thuật và chất lượng mẫu mã… + Phát hiện các khuyết tật cần khắc phục , cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng và dịch vụ kèm theo. + Đánh giá mức độ thích ứng của sản phẩm trên thị trường trên cơ sở mức độ chiếm lĩnh thị trường của nó. + Phát hiện và tận dụng những cơ hội bán hàng dưới mọi hình thức, sử dụng những hình thức thanh toán thuận lợi với khách hàng. 1.3. Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở các kết quả của công tác nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm. Thông qua kế hoạch tiêu thụ, hoạt động sắp tới của doanh nghiệp trong lĩnh vực bán hàng sẽ được xác định . Kế hoạch sản xuất và kế hoạch mua sắm vật tư cho sản xuất cũng gián tiếp phụ thuộc vào kế hoạch tiêu thụ . Trong thực tế, lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ kế hoạch của doanh nghiệp thường được tính theo công thức sau: QKH = Q + Q1 - Q2 Trong đó : QKH là lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ kỳ kế hoạch . Q là lượng sản phẩm sản xuất kỳ kế hoạch . Q1 , Q2 là lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ. 2. Lựa chọn kênh tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều kênh khác nhau, theo đó các sản phẩm vận động từ các doanh nghiệp sản xuất đến tận tay các hộ tiêu dùng cuối cùng . Mặc dù có nhiều hình thức tiêu thụ nhưng đa số các sản phẩm là những máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng … Trong quá trình tiêu thụ nói chung đều thông qua một số kênh chủ yếu. Doanh nghiệp sản xuất bán trực tiếp cho các hộ tiêu dùng, bán thông qua các công ty bán buôn, các đại lý, người môi giới … Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản phẩm tiêu thụ mà doanh nghiệp sử dụng các hình thức tiêu thụ phù hợp . Dựa vào tình hình sản xuất kinh doanh của từng thời kỳ, đặc điểm của sản phẩm, quy mô của doanh nghiệp có thể phân phối sản phẩm của mình thông qua các kênh tiêu thụ sau sao cho đạt hiệu quả cao nhất với chi phí là tối thiểu. 2.1. Kênh trực tiếp . Sơ đồ 1: Dạng kênh phân phối trực tiếp. Người tiêu dùng Nhà sản xuất Đây là hình thức doanh nghiệp sản xuất bán thẳng sản phẩm của mình cho người tiêu dùng cuối cùng không qua khâu trung gian. Ưu điểm: Đảm bảo cho hàng hoá lưu chuyển nhanh, giảm chi phí và quan hệ giao dịch, mua bán thuận tiện, có sự giao tiếp trực tiếp giữa người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng do đó doanh nghiệp nắm được nhu cầu của người tiêu dùng. Nhược điểm: Doanh nghiệp phải bỏ thêm chi phí để đào tạo đội ngũ bán hàng. 2.2. Kênh gián tiếp. Là hình thức doanh nghiệp sản xuất bán sản phẩm của mình cho người tiêu dùng thông qua người trung gian. Các hình thức kênh gián tiếp. + Kênh 1 cấp: Sơ đồ 2: Dạng kênh phân phối một cấp. Người tiêu dùng Người bán lẻ Nhà sản xuất Theo kênh này lưu thông hàng hoá qua người bán lẻ. Đây là loại kênh ngắn có ưu điểm thuận tiện cho người tiêu dùng, sản phẩm hàng hoá lưu chuyển nhanh. Tuy nhiên nó chỉ phù hợp với những doanh nghiệp bán lẻ lớn và có quan hệ trực tiếp với người sản xuất. + Kênh hai cấp. Sơ đồ 3: Dạng kênh phân phối hai cấp. người tiêu dùng Nhà sản xuất Người bán lẻ Người bán buôn Kênh này thuộc loại dài, để đến tận tay người tiêu dùng cuói cùng phải qua người bán và người bán lẻ. Kênh này có thời gian lưu chuyển và chi phí lớn nhưng nó thích hợp với điều kiện sản xuất và lưu thông nhiều loại sản phẩm. + Kênh ba cấp: Sơ đồ 4: Dạng kênh phân phối ba cấp. Người tiêu dùng Người bán lẻ Người bán buôn Môi giới Nhà sản xuất Kênh này ngoài hai khâu trung gian như kênh hai cấp còn thêm khâu môi giới trung gian. Người môi giới ở đây hoạt động rất năng động cung cấp thị trường cần thiết cho người bán và người mua. Căn cứ lựa chọn kênh: + Căn cứ vào bản chất của sản phẩm. + Căn cứ vào nhu cầu của thị trường: Số lượng khách hàng, quy mô mua sắm và chu kỳ mua sắm + Căn cứ vào sự phát triển của doanh nghiệp. + Căn cứ vào chiến lược phân phối hàng hoá của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp thường lựa chọn nhiều kênh tiêu thụ cho mạng lưới phân phối sản phẩm nhằm hạn chế các nhược điểm và tăng cường ưu điểm của từng loại kênh. 3. Tổ chức điều khiển các hoạt động 3.1. Điều chỉnh tiến độ sản xuất . Để đảm bảo cho hoạt động tiêu thụ, doanh nghiệp cần phải điều chỉnh tiến độ sao cho phù hợp . Mỗi sản phẩm có đặc tính, phẩm chất khác nhau, đặc tính sử dụng khác nhau vào mỗi thời điểm, mùa vụ … Hoạt động sản xuất thường diễn ra đều đặn trong năm, việc tiêu thụ sản phẩm tại mỗi thời điểm thường không đều theo thời gian mà phụ thuộc vào đặc tính riêng biệt của sản phẩm theo mỗi thời điểm nhất định, có nghĩa là sản xuất và tiêu thụ không khớp nhau. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần phải điều chỉnh tiến độ sản xuất sao cho hoạt động sản xuất luôn đáp ứng được tiến độ tiêu thụ sản phẩm với chi phí nhỏ nhất mà hiệu quả cao nhất. 3.2. Các hoạt động nghiệp vụ trong tiêu thụ sản phẩm. 3.2.1. Đàm phán ký kết hợp đồng tiêu thụ. Trước khi ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, bên bán và bên mua thường gặp nhau để thoả thuận những điều khoản cơ bản trong quá trình mua bán, đó là các điều khoản về sản phẩm, số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện thanh toán, điều kiện giao hàng… Đó là những điều khoản cơ bản cần thiết theo quy định của pháp luật Hợp đồng mua bán sẽ được ký kết khi hai bên đã thoả thuận và đi đến thống nhất . Đó là văn bản ký kết giữa bên mua và bên bán thường được sử dụng khi khách hàng mua với số lượng lớn. 3.2.2. Hoạt động của kho thành phẩm, bảo quản và xuất kho. Đây là hoạt động cơ bản cần thiết cho quá trình tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm được nhập kho thành phẩm sẽ được bảo quản chặt chẽ về số lượng và chất lượng, khâu này có thể bao gồm cả việc đóng gói, bao bì cho sản phẩm. Vì vậy, việc nhập kho và bảo quản hàng hoá trong kho phải tuân thủ theo những nguyên tắc quy định đề ra. Trước khi nhập kho hay xuất kho hàng hoá, sản phẩm phải được kiểm tra cẩn thận cả về số lượng cũng như chất lượng và bao bì bảo quản. Thực hiện tốt nhiệm vụ nhập kho thành phẩm sẽ góp phần bảo đảm cho hoạt động tiêu thụ nhanh chóng liên tục theo đúng kế hoạch đã định . 3.2.3. Tổ chức thực hiện hợp đồng tiêu thụ . Sau khi ký kết hợp đồng, nghĩa vụ và quyền lợi các bên đã được xác định rõ, doanh nghiệp cần phải thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã nêu rõ trong hợp đồng cũng như yêu cầu bên mua phải thực hiện các nghĩa vụ cũng như quyền lợi của họ . Doanh nghiệp thường phải thực hiện các công việc sau: - Chào hàng đúng số lượng, chất lượng, địa điểm và thời hạn đã ghi trong hợp đồng. - Tiến hành vận chuyển ( nếu có). - Thanh toán theo các điều khoản ghi trong hợp đồng. 4. Vận dụng Marketing cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 4.1. Chiến lược sản phẩm. Tham số sản phẩm là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất trong chiến lược Marketing của doanh nghiệp. Sản phẩm sản xuất ra là để bán nên điều kiện đầu tiên là sản phẩm đó thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Sản phẩm cần phải có tên gọi, nhãn hiệu , mẫu mã và kiểu cách riêng để phân biệt với các sản phẩm khác . Sản phẩm còn phải đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi về chất lượng và đúng quy định của pháp luật. Dựa trên những yêu cầu chủ yếu trên, doanh nghiệp cần phải có một quyết định về sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Chiến lược sản phẩm là nền tảng, là xương sống của hoạt động kinh doanh. Đối với hoạt động tiêu thụ, chiến lược sản phẩm là những quyết định liên quan đến sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp sẽ bán và xác định thời điểm, phương pháp thực hiện các quyết định đó. Chiến lược sản phẩm và xác lập, triển khai các chiến lược giá, phân phối và xúc tiến bán hàng. 4.2. Chiến lược giá cả. Một trong những quyết định quan trọng và phức tạp mà doanh nghiệp phải làm là liên quan tới giá cả sản phẩm và dịch vụ kèm theo. Nếu người mua thấy giá cao, họ có thể chuyển sang mua những nhẵn hiệu cạnh tranh, do vậy sản phẩm có thể sẽ bị giảm khả năng cạnh tranh, mất thị trường và ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp . Nếu giá thấp, khối lượng bán có thể tăng nhưng lợi nhuận sẽ không cao. Bởi vậy, các quyết định về giá phải được xem xét cẩn thận khi công ty định đưa ra thị trường một sản phẩm mới hoăc có một kế hoạch thay đổi giá trong thời gian tới. Vì vậy, khi quyết định giá cả sản phẩm doanh nghiệp cần phải chú ý đến các yếu tố sau: - Phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm. - Phải tính toán được chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm. Giá bán sản phẩm và dịch vụ đi kèm ( nếu có ) phải bù đắp được chi phí và có lãi. - Chu kỳ sống của sản phẩm. - Nhận dạng thị trường và phương pháp ứng sử trong các thị trường khác nhau. Một số phương pháp định giá chủ yếu: - Phương pháp định giá dựa vào chi phí: Xuất phát từ việc đảm bảo lợi nhuận tối đa và còn gọi là phương pháp định giá hướng vào doanh nghiệp. Giá bán = Chi phí đầy đủ + Lãi ước tính - Phương pháp định giá dựa vào cầu: Như ta đã biết, giá cả và nhu cầu thường tỷ lệ nghịch với nhau. Khi giá tăng thì cầu giảm và ngược lại. Sự thay đổi được tính theo độ co dãn của cầu. Phương pháp định giá vào cung: Trên thị trường có nhiều doanh nghiệp đồng thời tồn tại nhiều mức giá khác nhau. Tuỳ thuộc vào mục tiêu của mình doanh nghiệp có thể lựa chọn mức giá trung bình, cao hơn hoặc dưới mức giá chung của thị trường. 4.3. Các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. + Quảng cáo. Đây là nghệ thuật sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên chuyền cho các phần tử trung gian và người tiêu dùng hiểu biết về sản phẩm của doanh nghiệp trong một thời gian và không gian nhất định . Các loại hình phương tiện quảng cáo có thể là : Báo chí, phát thanh truyền hình, gửi thư chào hàng trực tiếp, quảng cáo ngoài trời bằng Panô, áp phích…Mỗi loại hình quảng cáo có ưu nhược điểm riêng biệt. Tuy nhiên , khi quảng cáo cần chú ý đến các yêu cầu sau: - Quảng cáo phải trung thực, thông tin phải rõ ràng, đầy đủ sao cho khách hàng thấy rõ được ưu thế sản phẩm của doanh nghiệp . Ngôn ngữ quảng cáo phải rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với quảng đại quần chúng. - Với một thời gian đưa tin ngắn nhất phải đưa được một lượng thông tin nhiều nhất, hợp lý nhất, gây được ấn tượng cho người tiêu dùng. - Phương tiện quảng cáo phù hợp với đối tượng khách hàng, sản phẩm quảng cáo thị trường của doanh nghiệp và không vượt quá chi phí cho phép. + Xúc tiến bán hàng. Xúc tiến bán hàng là những kỹ thuật nhằm gây ra một sự bán hàng tăng lên nhanh chóng nhưng tạm thời do việc cung cấp một lợi ích ngoại lệ cho người phân phối, người tiêu thụ hay người tiêu dùng cuối cùng. Những kỹ thuật xúc tiến thường được sử dụng là: 1. Bán hàng có thưởng 2. Giảm giá tức thì 3. Khuyến khích mua thử, quảng cáo tại nơi bán hàng… Để xác lập những bước chủ yếu trên nên phục vụ cho công tác bán hàng, cần phải giải quyết các vấn đề sau: - Xây dựng mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng thông qua hội nghị khách hàng , tặng quà, hội thảo. - Phát hành các tài liệu liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm như thư chào hàng, giấy báo cáo… - Tổ chức bán thử: Đây là giai đoạn tập thử trước khi đi vào chính thức. Ngoài các hình thức kể trên, doanh nghiệp còn áp dụng các hình thức khuyến mại, giảm giá, điều kiện thanh toán ưu đãi,… tham gia vào hội chợ triển lãm. Để đạt được các mục tiêu đề ra trong chiến lược xúc tiến, doanh nghiệp cần phải phối hợp sử dụng nhiều phương thức khác nhau, đan xen và hỗ trợ nhau tạo hiệu quả trong kinh doanh. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ sản phẩm. 1. Nhân tố khách quan. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mỗi doanh nghiệp là một chủ thể sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác trong điều kiện mở cửa của nền kinh tế, xu hướng khu vực hoá, quốc tế hoá, đời sống kinh tế –xã hội ngày càng trở thành xu thế tất yếu, mỗi doanh nghiệp còn là một phân hệ mở trong nền kinh tế quốc dân, nên giống như các hoạt động khác thì hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp nào cũng chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế, môi trường kinh tế quốc dân và các yếu tố thuộc môi trường nội bộ ngành như: 1.1. Khách hàng của doanh nghiệp. Khách hàng là đối tượng mà doanh nghiệp phục vụ, là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Khách hàng sẽ bao hàm nhu cầu , các yếu tố tâm lý, tập quán và thị hiếu. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều hướng tới thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Thông thường để theo dõi thông tin về khách hàng, doanh nghiệp thường tập trung vào 5 loại thị trường khách hàng như sau: - Thị trường người tiêu dùng: Là các cá nhân và hộ tiêu dùng mua hàng hoá và dịch vụ cho mục đích cá nhân. - Thị trường khách hàng là doanh nghiệp : Là các tổ chức và doanh nghiệp mua hàng hoá và dịch vụ để gia công chế biến thêm hoặc để sử dụng vào một quá trình sản xuất kinh doanh khác. - Thị trường buôn bán trung gian: Là các tổ chức, cá nhân mua hàng hoá và dịch vụ cho mục đích bán lại kiếm lời. - Thị trường các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước: Mua hàng hoá dịch vụ cho mục đích sử dụng trong lĩnh vực quản lý, hoạt động công cộng hoặc chuyển tới các tổ chức, cá nhân khác đang có nhu cầu sử dụng . - Thị trường quốc tế: Khách hàng nước ngoài bao gồm người tiêu dùng, người sản xuất, người mua hàng trung gian và chính phủ các quốc gia khác. Nhu cầu và các yếu tố tác động đến nhu cầu của khách hàng trên các thị trường là không giống nhau. Do đó sự ảnh hưởng của các thị trường đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp cũng khác nhau, bởi vậy chúng cần được nghiên cứu riêng tuỳ thuộc vào mức độ tham gia vào các thị trường của mỗi doanh nghiệp trong nội bộ ngành. 1.2. Số lượng doanh nghiệp trong nội bộ ngành. Số lượng doanh nghệp và quy mô sản xuất kinh doanh của chúng ta đều ảnh hưởng đến khả năng cung ứng hàng hoá - dịch vụ và tạo ra sự cạnh tranh trong nội bộ ngành. Vì vậy mỗi sự thay đổi của các doanh nghiệp trong nội bộ ngành đều tác động đến hoạt động tiêu thụ của công ty. Vì vậy những thông tin về các doanh nghiệp này công ty phải thường xuyên quan tâm để điều chỉnh hoạt động và làm chủ tình hình trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 1.3. Vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm cho năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, hàng hoá phong phú, dịch vụ được mở rộng, sản xuất năng động, luôn luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ. Song do tính tự phát vốn có của nền kinh tế thị trường có thể dẫn đến không chỉ tiến bộ mà cả suy thoái, khủng hoảng, xung đột xã hội, cho nên không thể có sự can thiệp của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước Nhà nước tạo môi trường cho kinh tế thị trường ra đời và phát triển. Định hướng phát triển kinh tế xã hội . Bảo đảm dân chủ công bằng xã hội . Trực tiếp điều hành các doanh nghiệp Nhà nước. Do vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường lớn như vậy nên nó cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ. 1.4. Quan hệ thương mại quốc tế . Để phát triển và sánh vai cùng các Cường quốc năm Châu, việc quan hệ thương mại rất quan trọng. Thương mại quốc tế không chỉ cho chúng ta tiếp cận công nghệ mới, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá- dịch vụ mà còn tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với các nước trên thế giới. Để tạo được môi trường kinh doanh và những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp phát triển, ban lãnh đạo cấp cao của Nhà nước ta phải thiết lập mối quan hệ ngoại giao và các hợp đồng thương mại với các nước khcá trên thế giới và hướng tới việc gia nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới). 1.5. Các trung gian Marketing. Đây là các tổ chức, dịch vụ, các doanh nghiệp và cá nhân khác giúp cho công ty tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá -dịch vụ của mình đến người tiêu dùng cuối cùng. Đối với doanh nghiệp sản xuất, chỉ có thể tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hoá nếu như các trung gian cảu họ bán được nhiều hàng hoá do doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp sản xuất là phải lựa chọn và bố trí hợp lý các trung gian này sao cho sản phẩm đến với người tiêu dùng và phục vụ được người tiêu dùng một cách tốt nhất. 1.6. Những nhà cung ứng đầu vào. Là các doanh nghiệp, cá nhân đảm bảo cung ứng các yếu tố đầu vào cần thiết cho công ty và các đối thủ cạnh tranh để có thể sản xuất ra hàng hoá - dịch vụ cung ứng trên thị trường. Bất kỳ một sự biến đổi nào từ phía người cung ứng thì sớm hay muộn trực tiếp hay gián tiếp cũng sẽ gây ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ của công ty. Do vậy mà các nhà quản trị phải luôn luôn có đầy đủ thông tin chính xác về tình trạng số lượng, chất lượng, giá cả… về các yếu tố nguồn lực cho sản xuất hàng ._.hoá - dịch vụ để phục vụ tốt cho công tác tiêu thụ của doanh nghiệp. 2. Nhân tố chủ quan. Đó là các yếu tố bên trong doanh nghiệp, nó tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Dưới đây là một số nhân tố quan trọng cơ bản nhất. 2.1. Nhân tố chất lượng sản phẩm. Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) đưa ra khái niệm: “Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế- kỹ thuật của nó, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn”. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế- xã hội, công nghệ tổng hợp, luôn luôn thay đổi theo thời gian và không gian, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ. Bên cạnh những đặc tính khách quan được biểu hiện trên các chỉ số cơ sở lý hoá có thể đo lường, đánh giá được thì khi nói tới chất lượng sản phẩm là phải xem xét sản phẩm đó đã thoả mãn tới mức độ nào nhu cầu của khách hàng . Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra đối với mỗi sản phẩm. Như ở các nước tư bản, qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm, người ta đã đi đến kết luận rằng: Chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả kiểm tra cuối cùng. Chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, kỹ thuật của mỗi nước, mỗi vùng. Trong kinh doanh không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng vùng để đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp . Do đó chất lượng chính phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Vậy mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2.2. Nhân tố giá cả sản phẩm. Một yếu tố quan trọng tạo nên giá cả sản phẩm là giá thành tiêu thụ " Giá thành tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các chi phí của doanh nghiệp, chi phí phục vụ khách hàng để sản xuất tiêu thụ sản phẩm ". Giá thành sản phẩm là cơ sở để xác định giá bán sản phẩm tiêu thụ. Trong kinh doanh, mọi doanh nghiệp đều mong muốn có lãi nên phải quan tâm tới yếu tố giá thành tiêu thụ, làm sao để cho giá thành thấp hơn so với giá bán thị trường. Chính sách giá hợp lý là một chất xúc tác quan trọng làm tăng doanh thu bán hàng. Một doanh nghiệp muốn hàng hoá tiêu thụ nhanh, kinh doanh có lãi thì doanh nghiệp phải có chính sách linh hoạt. Một chính sách linh hoạt phải dựa vào nghiên cứu thường xuyên thị trường. Vì vật muốn xây dựng chính sách giá cả phải nhận biết được giá toàn bộ thị trường và giá cả ở các thời điểm khác nhau. Giá cả luôn là yếu tố quyết định của người mua. Khi tính giá cả doanh nghiệp vần chú ý đến nhiều vấn đề, nhiều yếu tố, những vấn đề bên trong và bên ngoài doanh nghiệp có thể là: Tối đa hoá lợi nhuận hay dẫn đầu tỷ phần thị trường, mục tiêu dẫn đầu về chất lượng hay mục tiêu đảm bảo sống sót của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chú ý đến yếu tố sản xuất, đặc điểm chu kỳ sống của sản phẩm. Những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như nhu cầu về hàng hoá, độ co dãn của cầu, tình hình cạnh tranh trên thị trường sản phẩm và những yếu tố như môi trường kinh tế, thái độ của Chính phủ. Đó là những yếu tố chủ yếu làm ảnh hưởng đến giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp cần phải quan tâm hoặc có chính sách giá cả cho phù hợp, vì người tiêu dùng rất nhạy cảm với giá cả sản phẩm. 2.3. Phương thức thanh toán và tiêu thụ. Việc tiêu thụ sản phẩm đạt kết quả ở mức độ nào không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sản phẩm hàng hoá - dịch vụ trên thị trường mà còn phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ và phương thức tiêu thụ chúng. Đối với các thị trường khác nhau, doanh nghiệp cần tìm cho mình một phương thức tiêu thụ thích hợp, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sản lượng tiêu thụ. Các phương thức tiêu thụ mà doanh nghiệp có thể lựa chọn là tiêu thụ trực tiếp hay tiêu thụ gián tiếp. Cùng với phương thức tiêu thụ đó, doanh nghiệp có những quyết định sáng suốt trong lưu thông và sử lý đơn hàng, tổ chức kho tàng, dự trữ hàng hoá, vận chuyển hàng hoá đến người tiêu dùng và các chi phí cho hoạt động đó, Việc phối hợp các hoạt động đó ăn khớp với nhau sẽ đảm bảo đủ sức phục vụ khách hàng và sẽ tiết kiệm được chi phí, đẩy mạnh được hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Chính sách thanh toán trong tiêu thụ sản phẩm cũng là yếu tố quan trọng cho cả người sản xuất và cả người tiêu dùng. Trong trường hợp nhiều doanh nghiệp bán cùng một loại sản phẩm theo cùng giá thì cácđiều kiện thanh toán có thể trở thành yếu tố quyết định với việc lựa chọn của người mua. Chính sách thanh toán mà doanh nghiệp có thể sử dụng là thanh toán ngay hoặc bán trả chậm. Việc thực hiện cũng như lựa chọn phương án thanh toán nào một cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào đối tượng khách hàng, vào thời điểm bán hàng sẽ là phương thức có lợi cho tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường của doanh nghiệp và ngược lại. 2.4. Trình độ lao động và khả năng tổ chức hoạt động tiêu thụ. Như trên đã nói, chất lượng sản phẩm quyết định đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà lực lượng lao động là một trong các nhân tố quyết định đến chất lượng sản phẩm. Dù công nghệ có hiện đại đến đâu thì yếu tố con người vẫn được coi là yếu tố căn bản nhất quyết định đến các chất lượng các hoạt động và chất lượng của sản phẩm. Trình độ chuyên môn, tay nghề, kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, kỷ luật và khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp đều tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Nói đến trình độ lao động không chỉ nói đến trình độ chuyên môn của người trực tiếp sản xuất mà cả trình độ tổ chức ở tất cả các khâu trong qua trình sản xuất kinh doanh. Trong khâu tiêu thụ thì khả năng tổ chức tiêu thụ là rất quan trọng, phải căn cứ vào đặc điểm sản phẩm, đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh và đối tượng khách hàng để cho doanh nghiệp phục vụ được khách hàng một cách tốt nhất. Trình độ của người bán hàng không chỉ ở nghệ thuật giao tiếp ứng xử với khách hàng mà còn phải có sự hiểu biết sâu sắc về những sản phẩm tiêu thụ. Nhân viên bán hàng luôn tạo được lòng tin với khác hàng thì sẽ thu hút được khác hàng tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp và ngược lại. Chương II Xác định hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê phân tích và dự đoán tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp I. Yêu cầu, nguyên tắc xác định hệ thống chỉ tiêu phục vụ cho phân tích 1. Yêu cầu. Chỉ tiêu thống kê phản ánh mặt lượng gắn với mặt chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lượng lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Tính chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê, do đó các chỉ tiêu phản ánh những mối quan hệ chung của tất cả đơn vị hoặc nhóm đơn vị tổng thể. Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo tính khả thi, tức là phải đảm bảo khả năng nhân tài, vật lực cho phép có thể tiến hành thu thập tổng hợp các chỉ tiêu. Từ căn cứ này đòi hỏi người xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải cân nhắc thật kỹ lưỡng để xác định được những chỉ tiêu quan trọng nhất làm cho số lượng chỉ tiêu không nhiều mà vấn đáp ứng được mục đích nghiên cứu. Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo được tính hệ thống của việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Một số hệ thống chỉ tiêu phải có khả năng nêu lên được mối liên hệ giữa các bộ phận cũng như giữa các mặt của đối tượng nghiên cứu với hiện tượng liên quan trong khuôn khổ việc đáp ứng mục đích nghiên cứu. Bởi vậy, khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải dựa trên cơ sở lý luận để hiểu bản chất chung của đối tượng nghiên cứu và các mối liên hệ chung của nó. Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, phương pháp và phạm vi tính toán của các chỉ tiêu cùng loại. Các chỉ tiêu thống kê phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, phương pháp thống kê của các nước trên thế giới. 2. Nguyên tắc. Hiện tượng thống kê nghiên cứu đều rất phức tạp. Để phản ánh chính xác chúng, cần phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê với các nguyên tắc sau: - Hệ thống chỉ tiêu thống kê phục vụ cho mục đích nghiên cứu - Hiện tượng càng phức tạp, nhất là các hiện tượng trừu tượng, số lượng chỉ tiêu còn nhiều hơn so với các hiện tượng đơn giản. - Để thực hiện thu thập thông tin, chỉ cần điều tra các chỉ tiêu sẵn có ở cơ sở, nhưng cần hình dung trước số chỉ tiêu sẽ phải tính toán nhằm phục vụ cho việc áp dụng các phương pháp phân tích, dự đoán ở các bước sau: - Để tiết kiệm chi phí, không để một chi phí nào thừa trong hệ thống. II. Xác định hệ thống chỉ tiêu phản ánh kết qủa tiêu thụ. 1. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ. - Khái niệm: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ là toàn bộ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được tiêu thụ trong kỳ. Các sản phẩm tiêu thụ ở đây là những sản phẩm đã được thanh toán hay được khách hàng chấp nhận thanh toán. - Nguyên tắc tính: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ được tính theo thời điểm thanh toán: Sản phẩm được tiêu thụ trong thời kỳ nào được tính vào giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện của thời kỳ đó. Chỉ tính vào giá trị sản lượng hàng hoá tiêu thụ những sản phẩm được sản xuất trong thời kỳ. Không tính các sản phẩm tuy đã được sản xuất, hay được bán nhưng chưa được thanh toán trong kỳ. Đồng thời, phải tính cả những sản phẩm đã được sản xuất hoặc bán trong kỳ trước nhưng được thanh toán trong kỳ này. - Phương pháp tính: Sản lượng hàng hoá tiêu thụ là lượng hàng hoá ( sản phẩm vật chất và dịch vụ ) đã được xã hội chấp nhận và thanh toán. Như vậy trong sản lượng hàng hoá tiêu thụ kỳ này có thể có cả hàng hoá kỳ trước và cũng có thể không bao gồm hết hàng hoá sản xuất kỳ này. - Công thức: qn = qdk + qm - qck Trong đó: qn : Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ qđk: Khối lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ qm: Khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ qck: Khối lượng sản phẩm tồn kho cuối kỳ - Nguồn số liệu: Được lấy từ báo cáo thống kê kết quả sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ của doanh nghiệp. 2. Tổng doanh thu tiêu thụ - Khái niệm: Tổng doanh thu tiêu thụ là tổng giá trị hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ giá trị hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ giá trị hàng hoá mà doanh nghiệp đã bán và thu được tiền trong kỳ báo cáo. - Nguyên tắc tính: + Tính theo giá thị trường. + Tính theo thời điểm sản xuất: Sản phẩm được sản xuất ra trong thời kỳ nào được tính vào thời kỳ đó. - Phương pháp tính: Tổng doanh thu tiêu thụ được tính khi sản phẩm sản xuất ra từ kỳ trước bị tồn kho và sản phẩm sản xuất ra trong kỳ được người mua chấp nhận thanh toán trong kỳ báo cáo. - Công thức tính: G = ồ pi.qi Trong đó: G: Tổng doanh tiêu thụ Pi: Giá bán đơn vị sản phẩm i qi: Khối lượng sản phẩm i tiêu thụ Tổng doanh thu tiêu thụ bao gồm: + Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành đã tiêu thụ ngay trong kỳ báo cáo. + Giá trị sản phẩm vật chất hoàn thành trong các kỳ trước tiêu thụ được trong kỳ báo cáo. + Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ hoàn thành đã giao cho người mua trong các kỳ trước và nhận thanh toán trong kỳ báo cáo. Các nội dung trên được tính theo giá hiện hành - Nguồn số liệu: Được lấy từ báo cáo thống kê kết quả sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ của doanh nghiệp. 3. Tổng doanh thu thuần. - Khái niệm: Tổng doanh thu thuần là tổng doanh thu còn lại sau khi đã trừ đi thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu ( nếu có ), các khoản giảm trừ khác phát sinh trong kỳ báo cáo như: chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, giá trị hàng hoá bán bị trả lại, các khoản đề bù, sửa chữa hư hỏng còn lại trong thời gian bảo hành. - Công thức tính: DT = ồ ( pi - ti ). qi Trong đó: DT: Tổng doanh thu thuần pi : Giá đơn vị sản phẩm i ti : Khoản giảm trừ tính trên đơn vị sản phẩm tiêu thụ qi: Khối lượng sản phẩm i tiêu thụ Các khoản giảm trừ bao gồm: + Chiết khấu bán hàng: Là số tiền tính trên tổng doanh thu trả lại cho khách hàng do khách đã trả tiền hoặc trừ bớt nợ cho khách hàng mua chịu bao gồm: Chiết khấu thanh toán: Là số tiền thưởng trên phần trăm doanh thu do khách hàng thanh toán tiền hàng trước thời hạn quy định. Chiết khấu thương mại: Là khoản giảm trừ cho khách hàng mua khối lượng lớn hoặc khách hàng truyền thống. + Giảm giá hàng bán: Là số tiền giảm trừ mà doanh nghiệp phải chấp nhận một cách đặc biệt trên giá bán thoả thuận vì các lý do vi phạm các điều kiện của hợp đồng kinh tế nhưng chưa đến mức phải trả lại. + Doanh thu hàng bán bị trả lại: Là doanh thu của số hàng đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại hoặc từ chối thanh toán do không đúng yêu cầu hoặc kém phẩm chất... như hợp đồng đã ký. + Thuế phải nộp liên quan đến hàng bán bao gồm: Thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu ( nếu có ). Tổng doanh thu thuần là chỉ tiêu được dùng để tính lỗ lãi trong kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ rất quan trọng, nó thể hiện kết quản thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này khuyến khích doanh nghiệp không những tăng nhanh khối lượng mà còn đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm. Khuyến khích doanh nghiệp quan tâm đến khâu sản xuất và tiêu thụ. Một doanh nghiệp nếu tiêu thụ nhanh và nhiều sản phẩm tức là đẩy nhanh được tốc độ quay vòng của vốn và việc sử dụng vốn có hiệu quả cao. - Nguồn số liệu: Được lấy từ báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ của doanh nghiệp. III. Xác định một số phương pháp thống kê để phân tích và dự đoán tình hình tiêu thụ sản phẩm. 1. Phương pháp chỉ số. 1.1. Các loại chỉ số dùng trong phân tích. 1.1.1. Chỉ số đơn. - Khái niệm: Dùng để so sánh hiện tượng nào đó ở một thời kỳ với một thời gian làm gốc. - Đặc điểm: + Tính nghịch đảo: Nếu ta hoán vị kỳ gốc và kỳ này, kết quả thu được sẽ có giá trị nghịch đảo của chỉ số cũ. + Tính liên hoàn: Tích của các chỉ số liên hoàn (năm này so với năm kế trước) hoặc tích của các chỉ số định gốc liên hoàn, bằng chỉ số định gốc tương ứng. + Tính thay đổi gốc. - Các chỉ số có công dụng lớn trong việc phản ánh sự thay đổi các hiện tượng đơn giản, đồng nhất. Ngoài ra chúng còn quan trọng do tác dụng hỗ trợ cho việc tính các chỉ số tổng hợp, khi các chỉ số này không thể tính trực tiếp được. 1.1.2. Chỉ số tổng hợp về giá cả. + Chỉ số của Lasperes: Nếu chọn quyền số ở kỳ gốc ta có: + Chỉ số của Paashe: Nếu chọn quyền số ở thời kỳ nghiên cứu ta có: + Chỉ số của Fisher: Trong nhiều trường hợp tính toán với quyền số quá chênh lệch, dẫn đến các kết quả quá sai lệch giữa 2 chỉ số Laspeyres và Paashe, việc sử dụng chỉ số Fisher là cần thiết. 1.1.3. Chỉ số tổng hợp số lượng. + Chỉ số của Laspeyres + Chỉ số của Paashe + Chỉ số của Fisher: 1.2. Hệ thống chỉ số. Hệ thống chỉ số tổng hợp dùng để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố cấu thành đối với những hiện tượng phức tạp cho ta các thông tin mới về sự biến động của hiện tượng theo sự tác động của hiện tượng theo sự tác động của các nhân tố cấu thành đó. Vì vậy, hệ thống này còn dùng cho nhiều mục đích khác. Thống kê xã hội chủ nghĩa có cách xây dựng hệ thống chỉ số thích hợp và giản đơn. Ưu điểm của thống kê chỉ số: + Bảo đảm đẳng thức về mặt toán học, thuận tiện cho việc tính toán trong phân tích. + Có thể dùng để tính một chỉ số khi đã biết các chỉ số khác trong hệ thống. 2. Phương pháp phân tích nhân tố ảnh hưởng tới kết quả tiêu thụ Đây là phương pháp phân tích hệ thống chỉ số nhân tố (phân tích nhân tố bằng số tương đối kết hợp với phân tích bằng số tuyệt đối). Khi thực hiện phân tích nhân tố theo phương pháp này đòi hỏi phải tuân thủ theo 2 điều kiện mang tính chất giả định. Điều kiện 1: Phải xác định phương trình kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa chỉ tiêu phân tích (chỉ tiêu nằm ở vế trái của phương trình) với các nhân tố ảnh hưởng (chỉ tiêu nằm ở phía phải của phương trình). Trong đó thứ tự sắp xếp các nhân tố phải theo trình tự từ nhân tố chất lượng đến nhân tố số lượng và ngược lại. + Nhân tố chất lượng: Phản ánh các mặt tính chất, bản chất các mối quan hệ của hiện tượng nghiên cứu. + Nhân tố số lượng: Phản ánh quy mô khối lượng của hiện tượng nghiên cứu hay tổng thể. Điều kiện 2: Khi xác định mức độ ảnh hưởng của một nhân tố nào đó đến sự biến động tương đối, tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích thì: Nhân tố số lượng đối với nhân tố đang nghiên cứu được cố định ở kỳ báo cáo (cố định 1). Còn nhân tố chất lượng đối với nhân tố đang nghiên cứu được cố định ở kỳ gốc (cố định 0). Dùng hệ thống chỉ số phân tích nhân tố ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ: G = ồ p.q IG = Ip x Iq Hoặc: IG = IG(p) x IG(q) Hay: Xác định lượng tăng ( giảm ) tuyệt đối của tổng doanh thu: DG = DG(p) + DG(q) ( ồp1q1 - ồp0q0 ) = ( ồp1q1 - ồp0q1 ) + ( ồp0q1 - ồp0q0 ) Như vậy khi sử dụng phương pháp này sẽ cho ta phân tích từng nhân tố ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ một cách chính xác nhất. 3. Phương pháp dãy số thời gian. 3.1.Khái niệm về dãy số thời gian. - Khái niệm: Dãy số thời gian là các trị số của chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian. - ý nghĩa: Qua dãy số thời gian có thể nghiên cứu các đặ điểm về sự biến động của hiện tượng, vạch rõ xu hướng và tính quy luật của sự phát triển, đồng thời để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai. - Các yêu cầu xây dựng yếu tố thời gian. Để phản ánh sự phát triển khách quan của hiện tượng qua thời gian thì yêu cầu cơ bản nhất khi xây dựng yếu tố thời gian là phải đảm bảo tính chất có thể so sách được giữa các mức độ trong dãy số, cụ thể có những yêu cầu sau: + Nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất. + Phạm vi của hiện tượng nghiên cứu trước sau phải nhất trí. + Các khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau (nhất là đối với dãy số thời kỳ). 3.2. Các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian. 3.2.1. Mức độ trung bình theo thời gian. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian. Tuỳ theo dãy số thời gian hoặc dẫy số thời điểm mà có công thức tính khác nhau. - Đối với dãy số thời kỳ: Trong đó: yi ( i = 1, 2, …, n ) là các mức độ của các dãy số thời - Đối với dãy số thời điểm: Trong đó: yi ( i = 1, 2, …, n ) là các mức độ của các dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau. 3.2.2. Lượng tăng (hoặc giảm tuyệt đối) Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về mức độ tuyệt đối giữa 2 thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu dương ( + ) và ngược lại ( - ). Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn (hay từng thời kỳ). Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng (hoặc giảm) tuyệt đối giữa hai thời gian liền nhau. di = yi - yi -1 ( i = 2, 3, … n ) Trong đó: di là lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn - Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc (hay tính tròn). Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng (hoặc giảm) tuyệt đối trong những khoảng thời gian dài. Di = yi - y1 ( i = 2, 3, …, n ) Trong đó: Di là các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc. - Lượng (hoặc giảm) tuyệt đối trung bình là mức trung bình của các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn. Trong đó: d là lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối trung bình 3.2.3. Tốc độ phát triển - Tốc độ phát triển là một số tương đối (thường được biểu hiện bằng lần hoặc %) phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng qua thời gian. - Tốc độ phát triển liên hoàn phản ánh sự biến động của hiên tượng giữa 2 thời gian liền nhau: ti = ( i = 2,3,….,n ) Trong đó: ti : Tốc độ phát triển liên hoàn của thời gian i so với thời gian i -1 yi-1 : Mức độ của hiện tượng thời gian i-1 y1 : Mức độ của hiện tượng thời gian i - Tốc độ phát triển định gốc phản ánh sự biến động của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài. Ti = ( i = 2, 3,…,n ) Trong đó: Ti : Tốc độ phát triển định gốc yi : Mức độ củahiện tượng thời gian i y1 : Mức độ đầu tiên của dãy số - Tốc độ phát triển trung bình là trị số đại biểu của các tốc độ phát triển liên hoàn. 3.2.4. Tốc độ tăng (hoặc giảm) Chỉ tiêu này phản ánh mức độ của hiện tượng giữa hai thời gian là tăng (+) hoặc giảm (-) bao nhiêu lần (hoặc bao nhiêu phần trăm). - Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn (hay từng thời kỳ) ( i = 2, 3,…, n ) hay ai = ti - 1 hoặc ai (%) = ti (%) - 100 Trong đó: ai ( i = 2,3,…,n) là tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn. - Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc: ( i = 2, 3, …, n ) hay Ai = Ti - 1 hoặc Ai(%) = Ti(%) - 100 Trong đó: Ai ( i = 2,3,…,n ) là các tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc - Tốc độ tăng (hoặc giảm) trung bình hoặc: a(%) = t(%) - 100 3.2.5. Giá trị tuyệt đối của 1% tăng (hoặc giảm) Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1% tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một trị số tuyệt đối là bao nhiêu. ( i = 2,3,…,n ) Trong đó: gi (i = 2,3,…,n ) là giá trị tuyệt đối của 1 % tăng (hoặc giảm). 3.3. Một số phương pháp biểu hiện xu hướng biến động thời vụ Sự biến động của hiện tượng qua thời gian chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Ngoài các nhân tố chủ yếu, cơ bản quyết định xu hướng biến động của hiện tượng, còn có những nhân tố ngẫu nhiên gây ra những sai lệch khỏi xu hướng. Xu hướng thường được hiểu là chiều hướng tiến triển chung nào đó, một sự tiến triển kéo dài thời gian, xác định tính quy luật biến động của hiện tượng theo thời gian. Việc xác định xu hướng biến động cơ bản của hiện tượng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê. Vì vậy, cần sử dụng những phương pháp thích hợp, trong một chừng mực nhất định, loại bỏ tác động của những nhân tố ngẫu nhiên để nêu lên tính xu hướng và tính quy luật của những nhân tố ngẫu nhiên để nêu lên xu hướng và tính quy luật về sự biến động của hiện tượng. 3.3.1. Phương pháp hồi quy. Trên cơ sở dãy số thời gian, người ta tìm một hàm số ( gọi là phương trình hồu quy ) phản ánh sự biến động của hiện tượng quan thời gian có dạng tổng quát như sau: = f ( t, a0, a1, …, an ) Trong đó: : Mức độ lý thuyết a0, a1, …, an : Các tham số t: Thứ tự thời gian Để lựa chọn đúng đắn dạng của phương trình hồi quy đòi hỏi phải dựa vào sự phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian, đồng thời kết hợp với một số phương pháp đơn giản khác ( như dựa vào đồ thị , dựa vào độ tăng ( giảm ) tuyệt đối, dựa vào tốc độ phát triển …) Các tham số ai ( i=1,2,3,…,n ) thường được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất. Tức là: ồ (- yt )2 = min Ta sử dụng dạng phương trình hồi quy đơn giản sau: - Phương trình đường thẳng: = a0 + a1t Phương trình đường thẳng được sử dụng khi các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn di ( còn gọi là sai phân bậc 1 ) xấp xỉ nhau áp dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất sẽ có hệ phương trình sau đây để xác định giá trị của tham số a0 và a1. ồy = n.ao + a1ồt ồty = a0ồt + a1 + a1ồt2 - Phương trình Parabol bậc 2. Phương trình Parabol bậc 2 thường được sử dụng khi các sai phân bậc hai (tức là sai phân của sai phân bậc 1) xấp xỉ nhau. Các tham số a0 , a1 ,a2 được xác định bởi hệ phương trình sau: - Phương trình hàm mũ: Phương trình hàm mũ được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ bằng nhau. Các tham số a0 và a1 được xác định bởi hệ phương trình sau đây. 3.3.2. Phương pháp biểu hiện biến động thời vụ Sự biến động của một số hiện tượng kinh tế xã hội thường có tính thời vụ, nghĩa là hàng năm, trong từng thời gian nhất định, sự biến động được lặp đi lặp lại. Nguyên nhân gây ra sự biến động thời vụ là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và phong tục, tập quán sinh hoạt của dân cư. Biến động thời vụ làm cho hoạt động của một số ngành khi thì căng thẳng, khẩn trương, lúc thì nhàn rỗi, bị thu hẹp lại. Nghiên cứu biến động thời vụ nhằm đề ra những chủ trương biện pháp phù hợp, kịp thời, hạn chế những ảnh hưởng của biến động thời vụ đối với sản xuất và sinh hoạt xã hội. Dựa vào số liệu của nhiều năm ( ít nhất là 3 năm ) để xác định tính chất và mức độ biến động thời vụ. Phương pháp thương sử dụng là tính các chỉ số thời vụ. Chỉ số thời vụ được tính theo công thức sau trong trường hợp biến động thời vụ qua những thời gian nhất định của các năm tương đối ổn định, không có hiện tượng tăng ( hoặc giảm ) rõ rệt. Trong đó: Ii : Chỉ số thời vụ của thời gian t : Số trung bình của các mức độ của các thời gian cùng tên i : Số trung bình của tất cả các mức độ trong dãy số. Trường hợp biến động qua những thời gian nhất định của các năm có sự tăng (hoặc giảm ) rõ rệt thì chỉ số thời vụ được tính theo công thức sau: Trong đó: Yij: Mức độ thực tế ở thời i của năm j. : Mức độ tính toán (có thể là số trung bình trượt hoặc dựa vào phương trình hồi quy ở thời gian i của năm thứ j). 4. Một số phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn. 4.1. Phương pháp ngoại suy giản đơn 4.1.1. Dự đoán dựa vào lượng tăng ( hoặc giảm ) tuyệt đối bình quân. Phương pháp dự đoán này có thể sử dụng khi các lượng tăng ( hoặc giảm ) tuyệt đối liên hoàn xấp xỉ bằng nhau. Ta đã biết lượng tăng ( hoặc giảm ) tuyệt đối bình quân được tính theo công thức. Từ đó ta có mô hình dự đoán. Trong đó: yn: Mức độ cuối cùng của dãy số thời gian y1: Mức độ đầu tiên của dãy số thời gian : Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân : Mức độ dự đoán của thời gian ( n+h ) h: Tầm xa dự đoán ( h = 1,2,3…) 4.1.2. Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển trung bình. Phương pháp dự đoán này được áp dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ bằng nhau. Ta đã biết tốc độ phát triển trung bình được tính theo công thức: Trong đó: y1 : Mức độ đầu tiên của dãy số thời gian yn : Mức độ cuối cùng của dãy số thời gian Từ công thức trên có mô hình dự đoán như sau: = yn x ( )h ( h = 1,2,…,n ) Dựa vào tốc độ phát triển trung bình hàng năm như trên ta có thể mở rộng cho những khoảng thời gian dưới một năm. Ví dụ cho các quý của từng năm khi đó ta có mô hình dự đoán sau đây: Trong đó: : Mức độ dự đoán quý i ( i = 1,2,3,4 ) của năm j : Tổng các mức độ của quý i S t = 1 + + 2 + ... + ( n-1) 4.2. Dự đoán dựa vào ngoại suy hàm xu thế. Phương pháp này dựa vào hàm hồi quy theo thời gian để dự đoán các mức độ của hiện tượng tương lai. Có thể chia làm 2 trường hợp. - Trường hợp 1: áp dụng khi đối tượng dự đoán phát triể trong thời kỳ quan sát chịu sự tác động của nhóm nhân tố xu thế và nhóm nhân tố ngẫu nhiên. Mô hình dự đoán: Sai số dự đoán: Trong đó: : Mức độ dự đoán ở thời gian ( t + h ) et : Thành phần ngẫu nhiên phản ánh ảnh hưởng các nhân tố ngoài mô hình Sp: sai số dự đoán. n. Số các mức độ trong dãy số. h. Tầm xa dự đoán trong dãy số (h=1,2,3...) Se: sai số chuẩn của mô hình được tính theo công thức: Với p là tham số dự đoán của mô hình. Khoảng dự đoán : Trong đó : t: là giá trị theo bảng tiêu chuẩn T-student với n-2 bậc tự do và xác suất tin cậy (1-). - Trường hợp 2: áp dụng khi đối tượng dự đoán biến động do ảnh hưởng của nhiều nhân tố, ngoài hai nhân tố trên còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác mang tính chất chu kỳ (hay có tính thời vụ) Mô hình dự đoán : Với Itv : Chỉ số thời vụ. Chương III Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty xi măng Hoà Bình giai đoạn 1997 á 2001 và dự đoán năm 2002 I. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty. 1. Một số nét cơ bản về sự hành thành và phát triển của công ty Xi măng Hoà Bình. 1.1. Tình hình chung Khu văn phòng Nhà máy xi măng Lương Sơn nằm trên Km 3 Quốc lộ 6A là toàn bộ khu đất rộng nằm trên địa bàn Bãi Lạng - Thị trấn Lương Sơn với tổng diện tích là 7.380 km2. Khu sản xuất cách văn phòng 1,5 km nằm trọn trên địa bàn xã Tân Vinh huyện Lương Sơn, gần nguồn nguyên liệu ( cách mỏ đá vôi 3 km, mỏ sét cách 4,5 km ) các tuyến đường dẫn ra mỏ đã có sẵn, giao thông đường bộ thuận lợi. Đã có tuyến điện 35 KV đi đến địa điểm xây dựng nhà máy. Nguồn nước ngọt suối Bùi gần ngay khu sản xuất, do nằm trọn trên khu đồi nên không bị ảnh hưởng ngập lụt. Dân cư thưa thớt nên không phức tạp trong giải quyết vệ sinh công nghiệp và giải phóng mặt bằng. Mặt bằng rộng nên thuận tiện cho yêu cầu mở rộng nhà máy. Căn cứ phương án điều chỉnh phát triển xi măng đến năm 2000 của Bộ Xây dựng trình Thủ tướng chính phủ. Công văn số 848 BXD/KH ngày 14/7/1993 với tổng công xuất sản xuất xi măng đạt được 20 triệu tấn/năm vào năm 2000. Với phương án nêu trên tỉnh Hoà Bình có nguồn tài nguyên sản xuất xi măng phong phú nên việc đầu tư xây dựng Nhà máy xi măng Hoà Bình là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu thị trường đang đòi hỏi tạo nên sự phát triển ngành công nghiệp của tỉnh. Được sáp nhập với Xí nghiệp cơ khí huyện Lương Sơn cũ, nhà máy xi măng Lương Sơn là đơn vị sản xuất kinh doanh hạch toán độc lập. Mặt hàng sản xuất chính là Xi măng PCB 30 tiêu chuẩn quốc gia. Với công nghệ xi măng lò đứng công suất 88.000 tấn/năm được thành lập ngày 09/12/1994 theo Quyết định 742 QĐ/UB-XDCB của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hoà Bình và Quyết định số 80 QĐ/UB ngày 23/6/1995 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hoà Bình về việc đổi tên nhà máy xi măng Lương Sơn thành Công ty xi măng Hoà Bình. Công ty xi măng Hoà Bình là đơn vị hạch toán kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng theo mẫu quy định thống nhất và được mở tài khoản riêng tại ngân hàng. Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp gồm có: Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng, Bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ giúp việc và tổ chức các đơn vị trực thuộc do Giám đốc Sở xây dựng Hoà Bình quy định. Cơ quan chủ quản của đơn vị là Sở Xây dựng Hoà Bình. Trụ sở giao dịch tại: Thị trấn Lương Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình. Năm 1994 mới bắt đầu giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đến 17/4/1995 khởi công xây dựng. Nguồn vốn được dầu tư xây dựng cơ bản công trình Nhà máy hoàn toàn là vốn vay. Quý IV năm 1996 công tác xây dựng cơ bản đoạn cuối dây chuyền sản xuất các khâu từ nghiền xi măng được hoàn thiện trước. Công ty bắt đầu từ việc mua Clinker của các đơn vị bạn bắt đầu công việc nghiền Clincer, phối phụ gia và có sản phẩm, giai đoạn này là giai đoạn sản xuất thử. Bắt đầu năm 1997 Công ty đi vào giai đoạn sản xuất chính thức, đưa dây chuyền vào sản xuất đồng bộ. Là đơn vị sản xuất kinh doanh, sản phẩm mới sản xuất ra là mặt hàng mới tiếp xúc với thị trườn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29771.doc
Tài liệu liên quan