Tài liệu Vận dụng Một số phương pháp thống kê Phân tích tình hình thu chi ngân sách phường Trung Tự thời kỳ 2003-2007: LỜI MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước (NSNN) là công cụ tài chính chủ yếu của nhà nước để đảm bảo về mặt vật chất cho bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng nhiệm vụ mà nhà nước đảm nhận. Trong phạm vi địa phương, ngân sách địa phương (NSĐP) tồn tại như một tất yếu khách quan, là công cụ để chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của mình.
Trong bối cảnh hiện nay, với việc phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhiệm vụ phát triển... Ebook Vận dụng Một số phương pháp thống kê Phân tích tình hình thu chi ngân sách phường Trung Tự thời kỳ 2003-2007
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng Một số phương pháp thống kê Phân tích tình hình thu chi ngân sách phường Trung Tự thời kỳ 2003-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa hiện đại hóa được đặt ra rất nặng nề. Với nguồn thu ngân sách hạn hẹp, không ổn định, trong khi nhu cầu chi ngân sách ngày càng lớn, đòi hỏi phải tăng cường quản lý NSNN là nhiệm vụ lớn của phường Trung Tự trong hiện tại cũng như tương lai. Với hy vọng có thể góp một phần nhỏ bé vào việc tăng cường quản lý ngân sách nhà nước một cách hiệu quả hơn em đã chọn đề tài sau cho chuyên đề thực tập của mình:
“Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích tình hình thu chi ngân sách phường Trung Tự thời kỳ 2003-2007”
Kết cấu đề tài gồm 3 chương chính:
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
Chương 2: XÁC ĐỊNH HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THU CHI NSĐP
Chương 3: VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THU CHI NSĐP Ở PHƯỜNG TRUNG TỰ (thời kỳ 2003-2007)
Do thời gian và kiến thức có hạn nên đề tài của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự đánh giá và góp ý của các thầy cô giáo để cho đề tài của em hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cám ơn PGS-TS Nguyễn Công Nhự đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập cũng như giúp em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập!
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
1.1 Những vấn đề cơ bản
1.1.1 Ngân sách nhà nước (NSNN)
1.1.1.1 Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là bộ phận chủ yếu cấu thành Tài chính Nhà nước (Tài chính công). Sự ra đời, tồn tại của NSNN nói riêng cũng như phạm trù Tài chính Nhà nước nói chung đều bắt nguồn từ sự ra đời, tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ và sự xuất hiện của Nhà nước trong tiến trình lịch sử.
Sau đây là khái niệm về NSNN theo luật NSNN năm 2002:
- “ NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ”(Điều 1, Luật NSNN).
- “ NSNN là một bản dự toán thu, chi của Nhà nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm) được Quốc hội thông qua để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. (Luật NSNN)
Quan niệm này chủ yếu xem xét NSNN ở thể tĩnh và ở hình thức biểu hiện bên ngoài, xuất phát từ cách nhìn nhận dưới góc độ của người làm kế hoạch, nó quy định tính pháp lý của NSNN (luật pháp hoá các quan hệ tài chính ngân sách) thông qua việc phê duyệt dự toán của Quốc hội. NSNN có hai nội dung rõ ràng là thu và chi ngân sách. Các nội dung thu chính là các dự đoán phát triển kinh tế có khả năng hình thành các nguồn thu cho ngân sách, đồng thời các nội dung chi cũng là những đòi hỏi Nhà nước phải tiến hành chi cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thực tế nhìn bề ngoài hoạt động của Ngân sách Nhà nước biểu hiện đa dạng dưới hình thức các khoản thu và các khoản chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Các khoản thu chi này được tổng hợp trong một bảng dự toán thu chi tài chính được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt buộc của Ngân sách Nhà nước là một bộ phận các nguồn tài chính chủ yếu được tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập được sáng tạo ra trong khu vực sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất cấp phát phục vụ cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội .Như vậy, về hình thức có thể hiểu: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước có trong dự toán, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng,nhiệm vụ của nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động của Ngân sách Nhà nước là hoạt động phân phối các nguồn tài chính của xã hội gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung là Ngân sách nhà nước. Trong quá trình phân phối đó đã làm nảy sinh các quan hệ tài chính giữa một bên là nhà nuớc và một bên là các chủ thể trong xã hội. Những quan hệ tài chính này bao gồm:
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp: Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình hình thành nguồn thu của Ngân sách dưới hình thức các loại thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời, Ngân sách chi hổ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp dưới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, hổ trợ vốn…
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các đơn vị hành chính sự nghiệp: Quan hệ này phát sinh trong qúa trình phân phối lại các khoản thu nhập bằng việc Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý nhà nước. Đồng thời, trong cơ chế kinh tế thị trường các đơn vị có hoạt động sự nghiệp có các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu này một phần các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách, một phần trang trải các khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư: Quan hệ này được thể hiện qua việc một bộ phận dân cư thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận dân cư khác nhận từ ngân sách nhà nước các khoản trợ cấp theo chính sách qui định.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính: Quan hệ này phát sinh khi nhà nước tham gia trên thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của kho bạc nhà nước nhằm huy động vốn của các chủ thể trong xã hội để đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của ngân sách nhà nước.
Như vậy, đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của Ngân sách nhà nước là một quỹ tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó thì Ngân sách nhà nước lại phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối. Từ sự phân tích trên cho thấy: Ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước .
1.1.1.2 Hệ thống NSNN ở Việt Nam
NSNN là công cụ vật chất quan trọng để đảm bảo cho Nhà nước thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội, NSNN ở Việt Nam và trên thế giới nói chung trong mỗi giai đoạn phát triển được xây dựng theo mô hình phù hợp với sự hình thành và phát triển của hệ thống chính quyền nhà nước các cấp và quá trình thực hiện phân cấp quản lý kinh tế-xã hội cho các cấp chính quyền trong giai đoạn đó nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ chức năng vốn có của Nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và trên toàn bộ vùng lãnh thổ của đất nước. Việc tương ứng mỗi cấp chính quyền với một cấp ngân sách đã thúc đẩy các cấp thực thi chức năng và nhiệm vụ theo thẩm quyền một cách chủ động và có hiệu quả.
Ở nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Theo Hiến pháp 1992, mỗi cấp chính quyền có một cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền nhà nước nhiều cấp là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ thống NSNN nhiều cấp.
Là một quốc gia thống nhất, dựa trên nguyên tắc phân chia hành chính lãnh thổ theo các cấp: trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (và tương đương), xã (và tương đương). Các đơn vị hành chính lãnh thổ từ tỉnh xuống xã là những cấu trúc lệ thuộc theo nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương. Do vậy, tổ chức hệ thống NSNN cũng đảm bảo tính tập trung thống nhất, phù hợp với hệ thống hành chính 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện, xã).
Phù hợp với tổ chức bộ máy Nhà nước ta hiện nay, hệ thống NSNN được tổ chức thành một hệ thống thống nhất như sơ đồ ở Hình 1.1:
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Chính quyền địa phương
NS Trung ương
Chính quyền Trung ương
NS cấp tỉnh
Tỉnh
NS cấp huyện
Huyện
NS cấp xã
Xã
Hình 1.1: Mối quan hệ giữa NSNN với tổ chức bộ máy chính quyền
Bảng 1.1: Các khoản mục thu, chi Ngân sách nhà nước
Nội dung của ngân sách hiện nay
Thông qua
Thông qua và được chấp hành
Được chấp hành (không được công bố)
I. Thu Ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản sau:
1. Thuế, phí và lệ phí của các tổ chức và cá nhân theo các quy định của luật.
Thuế
X
Phí
X
X
Lệ phí
X
X
2. Thu từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước (DNNN)
Lãi vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;
X
Thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
X
Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi)
X
3. Thu sự nghiệp
X
4. Thu từ quỹ dự trữ nhà nước
X
5. Thu sử dụng đất: Thu nhập từ tài sản và đất đai nhà nước
X
6. Vốn đóng góp của các tổ chức và cá nhân đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
X
7. Đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước
X
8. Bất động sản Nhà nước được hưởng theo di chúc
X
X
9. Thu kết dư ngân sách năm trước.
X
X
10. Tiền bán hoặc cho thuê các tài sản Nhà nước trong các đơn vị hành chính sự nghiệp
X
11. Tiền phạt và tịch thu
X
X
12. Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật
X
X
13. Viện trợ không hoàn lại (bằng tiền mặt hoặc các hình thức khác) của các tổ chức, chính phủ và các cá nhân nước ngoài
X
14. Vay trong và ngoài nước của Chính phủ nhằm bù đắp bội chi và vốn đầu tư trong nước được các tỉnh và thành phố trực thuộc Chính quyền trung ương huy động theo quy định tại Khoản 3, Điều 8 của Luật NSNN sẽ được sử dụng để cân đối ngân sách.
X
II. Chi Ngân sách nhà nước bao gồm các khoản sau:
1. Chi thường xuyên
Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội,văn hoá thông tin, thể dục-thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường, các sự nghiệp khác.
X
X
Các hoạt động sự nghiệp kinh tế.
X
X
Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
X
X
X
Hoạt động của các cơ quan Nhà nước
X
X
Hoạt động của Đảng Cộng sản Việt nam.
X
X
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Cựu chiến binh, Liên hiệp Phụ nữ Việt nam và Hội Nông dân Việt nam
X
Trợ giá theo chính sách của Nhà nước.
X
Các chương trình mục tiêu quốc gia.
X
Hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ.
X
Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.
X
Trợ cấp cho các tổ chức xã hội nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.
X
Trả lãi tiền do Chính phủ vay
X
Viện trợ cho các tổ chức và chính phủ nước ngoài
X
Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật
X
X
2. Chi đầu tư phát triển
Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn. Huy động đóng góp của nhân dân địa phương không được thông qua.
X
X
Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các DNNN, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật
X
Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình và dự án phát triển kinh tế
X
Dự trữ Nhà nước
X
Cho vay chính phủ phục vụ đầu tư phát triển
X
3. Chi trả nợ gốc các khoản vay của Chính phủ
X
4. Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
50% được dùng để chi cho các chương trình mục tiêu quốc gia ưu tiên nhưng cũng có thể dùng để làm ngân sách dự phòng
X
vv.
1.1.2 Ngân sách địa phương (NSĐP)
Ngân sách nhà nước gồm Ngân sách trung ương (NSTW) và NSĐP. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Uỷ ban nhân dân (UBND) theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND theo quy định hiện hành. Theo đó, ứng với mỗi cấp chính quyền có HĐND thì có cấp NSNN tương ứng (Hình 1.2). Trong đó, NSĐP có ba cấp như sau:
- Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách tỉnh) bao gồm ngân sách cấp tỉnh và ngân sách của các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Ngân sách huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách huyện) bao gồm ngân sách cấp huyện và ngân sách các xã, phường, thị trấn.
NS Trung ương:
- Bộ, ban, ngành
- Đoàn thể TW
NS địa phương
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Ngân sách cấp tỉnh
Ngân sách cấp huyện
Ngân sách cấp xã
- Ngân sách các xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Hình 1.2: Phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam hiện nay
Như vậy, NSĐP là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp, được giao nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và nhiệm vụ chi có tính chất địa phương (phản ánh nhiệm vụ thu chi theo lãnh thổ), đảm bảo tổ chức quản lý toàn bộ kinh tế - xã hội của chính quyền cùng cấp.
1.1.3 Vị trí, vai trò của NSĐP
Xét trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia, NSTW chi phối phần lớn các nguồn thu và các khoản chi quan trọng, là ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn tài chính quốc gia và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả nước. NSTW phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN, thực hiện cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước trung ương và là trung tâm điều hoà hoạt động của ngân sách các địa phương.
Đối với địa phương, NSĐP là công cụ tài chính của các cấp chính quyền tương ứng và phục vụ thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội của các cấp chính quyền đã được phân công quản lý.
Vai trò của NSĐP thể hiện trên các mặt cụ thể như sau:
- Đảm bảo các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng kinh tế và các hoạt động văn hoá, chính trị, xã hội trong địa phương.
- Đảm bảo huy động, quản lý, giám sát một phần vốn của NSTW hoạt động trên địa bàn địa phương.
- Điều hoà vốn về NSTW trong những trường hợp cần thiết để cân đối hệ thống ngân sách.
Trong hệ thống NSNN và trong mối quan hệ với NSTW, NSĐP vừa có vị trí độc lập, vừa có vị trí phụ thuộc. Vai trò phụ thuộc của NSĐP thể hiện ở chỗ: Nguồn thu của NSĐP thường là nguồn thu "loại 2", bao gồm các khoản thuế được phân cấp, phí và lệ phí địa phương. Về chi, bên cạnh các nhiệm vụ chi cho bộ máy quản lý địa phương và cho các dịch vụ công cộng của địa phương, NSĐP còn phải đảm nhận các nhiệm vụ chi quan trọng về giáo dục, y tế và đảm bảo xã hội.
Nhà nước ta thực hiện xây dựng hệ thống NSNN trên nguyên tắc: vừa đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW, ngân sách cấp trên, vừa phải phát huy tính năng động sáng tạo trong quản lý, điều hành ngân sách của các cấp chính quyền địa phương và cơ sở. Vì vậy, NSĐP có vị trí độc lập tương đối trong hệ thống NSNN, thể hiện ở chỗ: các cấp chính quyền có quyền lập, chấp hành và quyết toán ngân sách của mình trên cơ sở các chính sách, chế độ đã ban hành; Chính quyền địa phương được phép ban hành quy định về một số khoản thu (phí và lệ phí, huy động đóng góp ...) và một số chính sách phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn trong phạm vi được phân cấp, đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo trong việc khai thác các thế mạnh của địa phương để tăng nguồn thu, đảm bảo chi, thực hiện cân đối ngân sách.
Căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi của NSĐP được Luật NSNN quy định, HĐND cấp tỉnh quyết định phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách của chính quyền địa phương (bao gồm ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã) theo những nguyên tắc nhất định. Như vậy, mỗi một tỉnh sẽ có một nội dung, cơ cấu và mức độ nguồn thu và nhiệm vụ chi khác nhau phù hợp với nhiệm vụ kinh tế- xã hội, quốc phòng an ninh đối với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư và trình độ quản lý của từng tỉnh.
1.2 Thu và chi NSĐP
Luật NSNN quy định cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTW và NSĐP được ổn định từ 3 - 5 năm, bao gồm các khoản thu mà từng cấp được hưởng 100%, các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) cũng như nhiệm vụ chi trên cở sở quán triệt các nguyên tắc của phân cấp quản lý ngân sách.
1.2.1 Thu NSĐP
Luật quy định cụ thể các loại thuế trung ương được hưởng, các loại thuế được địa phương được hưởng và các loại thuế được phân chia giữa trung ương và địa phương. Tổng Cục thuế là cơ quan trung ương, tiến hành thu thuế thông qua các chi cục thuế tỉnh và huyện. Trong trường hợp số thu vượt chỉ tiêu được giao, các tỉnh được trung ương thưởng theo một tỉ lệ do Thủ tướng quyết định.
Có thể phân thành 3 loại thu ở Việt nam: thu trung ương, thu địa phương và thu phân chia giữa trung ương và địa phương. Các khoản thu trung ương bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt, thu từ doanh nghiệp nhà nước và thu từ các khoáng sản chính như dầu, than (chi tiết xem ở Bảng 1.1). Các khoản thu này do Tổng Cục thuế thu và được nộp vào kho bạc trung ương. Các Sở thuế ở mỗi tỉnh tiến hành thu các khoản thu địa phương và các khoản thu phân chia giữa trung ương và địa phương. Các tỉnh được giữ lại toàn bộ các khoản thu địa phương để chi tiêu theo các kế hoạch ngân sách đã được phê duyệt. Các khoản thu địa phương chủ yếu bao gồm thuế nông nghiệp, thuế nhà, đất, các khoản phí và thuế môn bài và trước bạ, và thuế thu nhập cá nhân. Các khoản thu phân chia giữa trung ương và địa phương bao gồm thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi tức và thuế doanh thu. Các khoản thu phân chia được phân chia giữa chính quyền các tỉnh, là nơi tiến hành thu, và chính quyền trung ương. Mức phân chia được xác định bằng % tổng số thu dự kiến, là số tiền mà mỗi tỉnh cần có để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch đã được phê chuẩn, sau khi đã hạch toán số thu địa phương dự kiến.
Nếu tổng số thu phân chia thực tế thu được lớn hơn số thu phân chia dự kiến thì mỗi tỉnh, trước hết, vẫn phải chuyển vào kho bạc trung ương tỷ lệ % đã thống nhất của số thu lớn hơn này. Sau đó, tỉnh sẽ giữ lại tỷ lệ % đã thống nhất của số thu lớn hơn này mà trong thực tế là lớn hơn số cần có để trang trải các khoản chi tiêu đã được duyệt. Các tỉnh được tuỳ ý sử dụng số thu vượt mức này. ở một số tỉnh, nếu tổng số thu phân chia dự kiến không đủ để bù đắp thiếu hụt giữa số thu địa phương dự kiến và số chi theo kế hoạch của tỉnh đã được phê duyệt thì tỉnh được phép giữ lại 100 % số thu phân chia và chính phủ trung ương sẽ tiến hành cấp phát bổ sung ngân sách để bù đắp số thiếu hụt này.
1.2.2 Chi NSĐP
Chính quyền trung ương và tỉnh sẽ cùng nhau xác định dự toán thu và chi. Ngân sách Nhà nước bao gồm tất cả các khoản chi ở cấp trung ương (chi tiết các khoản chi ở Bảng 1.1) và thông qua ngân sách tỉnh, tổng hợp các khoản chi đã được phê duyệt cho các tỉnh, huyện và xã. Một phần đáng kể số thu thuế nhà nước được thu ở tỉnh và tỉnh được giữ lại theo tỉ lệ qui định để trang trải cho các dịch vụ đã được Quốc hội thông qua. Bộ Tài chính lập báo cáo cho tiêu vào cuối năm để báo cáo số chi thực tế từ ngân sách dự toán. Một số tỉnh huy động được thêm nguồn thu thông qua việc có khả năng thu vượt số thu địa phương và thu phân chia và thông qua một số loại thuế và phí đã được trung ương đồng ý. Chính quyền địa phương đã được phép huy động một số nguồn thu từ phí, lệ phí và phí giao thông. Chẳng hạn như phí trường học và bệnh viện, phí sử dụng đường và các khoản đóng góp tự nguyện của cộng đồng. Đồng thời, chính quyền địa phương được phép huy động vốn đầu tư trong nước trong một số trường hợp cụ thể do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngoài ra, nhiều dịch vụ có thể giao cho Doanh nghiệp Nhà nước thực hiện như xử lý chất thải, cung cấp nước và điện và giao thông địa phương. Các doanh nghiệp này có thể đi vay trong và ngoài nước sau khi được trung ương cho phép (bảo lãnh chính phủ) và phải tuân thủ Luật Doanh nghiệp.
Chi NSĐP chủ yếu gắn liền với nhiệm vụ quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, chi giáo dục đào tạo, y tế, trợ cấp xã hội do địa phương trực tiếp quản lý. Việc đẩy mạnh phân cấp quản lý ngân sách trong điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ quản lý của các vùng, miền khác nhau là động lực quan trọng để khơi dậy các khả năng của địa phương, xử lý kịp thời các nhiệm vụ của nhà nước trên phạm vi của từng địa phương. Luật NSNN cùng đã phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập các cấp, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi công cộng khác cho thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
1.2.3 Cân đối NSĐP
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng được nhà nước sử dụng để phân phối thu nhập. Chức năng phân phối của ngân sách được thể hiện trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn tài chính để hình thành nên các khoản thu và các khoản chi của ngân sách. Về nội dung, các khoản thu và chi này có quan hệ hữu cơ với nhau và dựa trên nguyên tắc hai bộ phận này phải được cân đối.
Trước đây trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, việc cân đối ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc: Ưu tiên cho các khoản chi đầu tư phát triển sau đó mới dành cho chi tiêu dùng thường xuyên. Trong thực tế do số thu thường rất thấp, thậm chí nhiều khi không đủ cho chi đầu tư phát triển nên việc cân đối ngân sách luôn lâm vào tình trạng bị động, trong khi đó nhu cầu chi tiêu dùng thường xuyên lại rất cấp bách. Do đó, chính phủ thường phải phát hành tiền ngoài dự kiến là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Trong cơ chế thị trường, yêu cầu đổi mới hoạt động của ngân sách nhà nước đòi hỏi phải xây dưng mô hình quản lý ngân sách thích hợp và phù hợp với thông lệ quốc tế, mô hình này cho phép xác định cơ cấu ngân sách với nội dung các khoản thu và chi để đảm bảo sự cân đối của ngân sách nhà nước.
Cụ thể đối với ngân sách địa phương quản lý ngân sách được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng:
- Thu ngân sách từ thuế, phí, lệ phí và một số khoản thu không mang tính chất thuế như: thu lợi tức cổ phần nhà nước, thu từ cho thuê và bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước…là những khoản thu thường xuyên và được hình thành theo nguyên tắc không hoàn trả. Các khoản thu này còn được gọi là các khoản thu trong cân đối ngân sách được sử dụng ưu tiên cho các khoản chi tiêu dùng thường xuyên, phần còn lại sẽ dành cho chi đầu tư phát triển.
- Thu từ bổ sung từ ngân sách cấp trên. Nguồn thu này dùng để bù đắp số thiếu hụt của ngân sách địa phương do chênh lệch giữa tổng số chi và tổng số thu trong cân đối ngân sách để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Cơ chế cân đối ngân sách này tạo ra thế chủ động rất lớn cho chính quyền địa phương cho phép giải quyết trước hết các nhu cầu cấp bách để ổn định đời sống và trật tự xã hội, hơn nữa nó cũng vạch ra một ranh giới rõ ràng về phạm vi tiêu dùng nằm trong giới hạn các khoản thu nhập do nền kinh tế tạo ra. Các khoản thu bù đắp thiếu hụt chỉ phục vụ cho chi đầu tư phát triển nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của chính phủ.
1.3 Thực trạng ngân sách nhà nước hiện nay
1.3.1 Thực trạng ngân sách nhà nước thời gian qua
Thứ nhất, ngân sách nhà nước nói riêng, tài chính công nói chung ngày càng trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Công tác quản lý ngân sách nhà nước góp phần làm cho tiềm lực tài chính quốc gia phát triển liên tục, đạt được sự ổn định tương đối vững chắc.
Với chiến lược ưu tiên tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển, tốc độ tăng chi thời gian qua đã đạt trung bình khoảng 19%/năm, cao gấp 2 lần tốc độ tăng chi thường xuyên so với năm trước. Trong đó, tập trung đầu tư phát triển các hệ thống giao thông, thủy lợi quan trọng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội như: công trình thể dục thể thao, trường học, bệnh viện. . . Tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo đã liên tục tăng từ 12,8% (1997) lên 15,2% (2001) và đạt xấp xỉ 16,1% (2003), đến năm 2006 đã đạt gần 55000 tỷ đồng.
- Ngân sách nhà nước góp phần cho Nhà nước thực hiện cải thiện đời sống cán bộ, công chức và thực hiện các chính sách xã hội. Mức tiền lương cơ bản của các công chức được điều chỉnh từ 210.000đ/tháng năm 1997 lên 540.000đ/tháng năm 2008. Trong 4 năm 1999-2002, NSNN đã đầu tư khoảng 3.500 tỷ đồng thực hiện Chương trình 135, trong đó nguồn vốn của ngân sách Trung ương là 3.200 tỷ đồng. Sự đầu tư này đã góp phần tích cực trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, giảm nhanh tỷ lệ hộ đói, hộ nghèo, góp phần tích cực trong giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
- Việc thực hiện hỗ trợ từ NSNN để mở rộng hợp lý tín dụng ưu đãi và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, thực hiện các ưu đãi nhằm khuyến khích hoạt động xuất, nhập khẩu đã giúp đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và toàn cầu, tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ hai, kiểm soát tốt mức bội chi ngân sách, mức dư nợ vốn vay và thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Mức bội chi NSNN đã được kiểm soát tốt. Liên tục từ năm ngân sách 1997 tới 2004, bội chi NSNN luôn được giữ ở mức dưới 5% GDP, tuy mấy năm gần đây bội chi ngân sách có xu hướng tăng lên (năm 2007 là 14,8%) nhưng vẫn nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, nên đã góp phần tạo thế ổn định kinh tế vĩ mô một cách chắc chắn.
Công tác quản lý nợ đảm bảo chi trả các khoản vay theo đúng cam kết, đồng thời chủ động đàm phán để giảm, giãn hoặc hoãn nợ, khai thông quan hệ với các tổ chức tiền tệ thế giới và các nước, nhờ đó đã giảm được trên 50% số nợ. Tổ chức thành công nhiều hội nghị tài trợ nhằm thu hút vốn dài hạn, mức ưu đãi để đầu tư hạ tầng, hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo. Tổ chức có kết quả việc kiểm soát vay thương mại thông qua quản lý hạn mức vay hằng năm. Nhờ đó, tổng mức dư nợ quốc gia và dư nợ chính phủ vẫn nằm trong giới hạn an toàn, không gây ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế - xã hội và NSNN.
Thứ ba, cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' trong quản lý ngân sách nhà nước đã và đang từng bước được triển khai thực hiện.
Từ khi quy chế dân chủ ở cơ sở được Chính phủ ban hành, ngân sách của các cấp chính quyền địa phương, ngân sách của các đơn vị dự toán các cấp đã được công bố công khai. Một số lĩnh vực: chi đầu tư xây dựng cơ bản, sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sự nghiệp y tế, sự nghiệp khoa học - công nghệ và môi trường, sự nghiệp kinh tế và các sự nghiệp khác, chi quản lý hành chính và chi chương trình mục tiêu... đã được công khai chi tiết.
1.3.2 Những vấn đề đặt ra đối với ngân sách nhà nước
Thứ nhất, chống thất thu NSNN. Thu ngân sách có nhiều nội dung, song có 2 nội dung quan trọng nhất, đồng thời cũng dễ bị thất thu nhất là: thuế và các khoản thu mang tính chất thuế, thu từ kinh tế nhà nước. Đây là vấn đề rất lớn, luôn nổi cộm trong quản lý ngân sách nhà nước. Để xử lý vấn đề này hiện nay có thể có một số phương pháp sau:
Một là, Nhà nước cần có chính sách, biện pháp vĩ mô tích cực nhằm khuyến khích mọi người dân, các tổ chức khai thác triệt để các tiềm lực phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh. Cần có sự đổi mới nhiều hơn nữa hệ thống các công cụ tài chính để kích thích nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh.
Hai là, chống thất thu thuế đang là vấn đề nóng bỏng hiện nay. Để chống thất thu thuế cần xử lý một số vấn đề chủ yếu sau:
- Thường xuyên đổi mới thuế sao cho mức thuế suất đáp ứng được yêu cầu giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích: lợi ích nhà nước, lợi ích nhà kinh doanh và lợi ích người lao động.
- Đổi mới phương thức thu đáp ứng yêu cầu ''thuận lợi nhất cho người nộp''
- Đổi mới chính sách, chế độ đối với các cán bộ, công chức hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thu NSNN theo hướng thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Đây là điều kiện đảm bảo cho số công chức này yên tâm làm việc, tâm huyết với công việc được Nhà nước giao (thỏa đáng ở đây được hiểu là họ được bảo đảm thu nhập theo chế độ nhà nước đủ để bảo đảm cho bản thân và gia đình họ có cuộc sống ổn định theo mặt bằng giá từng thời kỳ); đồng thời, có chế tài xử phạt mang tính răn đe mạnh khi số cán bộ công chức này có hành vi tiêu cực. Điều này có tác dụng chủ động ngăn chặn mọi hành vi tiêu cực của cán bộ, công chức hoạt động trong ngành thu NSNN.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, cần đổi mới cơ chế quản lý vốn, tài sản của nhà nước ở các doanh nghiệp theo hướng gắn trách nhiệm vật chất chặt chẽ của từng cán bộ công chức được Nhà nước giao làm đại diện chủ sở hữu và chủ sử dụng tài sản nhà nước với việc bảo toàn, phát huy tài sản của nhà nước ở doanh nghiệp. Xóa bỏ tình trạng: doanh nghiệp bị thua lỗ, tài sản của Nhà nước bị thất thoát, song giám đốc doanh nghiệp, kế toán trưởng giàu lên và ''hạ cánh an toàn''.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả chống thất thoát trong quá trình thực hiện chi NSNN.
Chi NSNN có nhiều khoản mục, song hai khoản mục quan trọng nhất, đồng thời cũng thất thoát, lãng phí nhiều nhất là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển.
- Đối với chi thường xuyên, cần tiết kiệm, đáp ứng được hai yêu cầu:
+ Hợp lý. Hợp lý trong chi thường xuyên là phải thực hiện đúng nguyên tắc ''tiền nào, của nấy''. Những công việc cần chi, mạnh dạn chi đúng, chi đủ, không cắt xén.
+ Hiệu quả. Việc chi phải tính đến hiệu quả của khoản tiền bỏ ra. Ở đây cần chống hiện tượng tiêu cực trong chi từ NSNN.
- Triệt để triển khai thực hiện Quyết định 192/2001/QĐ-TTg ngày 17-12-2001 và Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 31-12-2002 đối với tất cả các cơ quan hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Chi đầu tư phát triển là lĩnh vực lớn, phức tạp, đồng thời cũng là nơi dễ thất thoát lớn nhất các nguồn vốn đầu tư từ NSNN. Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả đầu tư được quyết định bởi thị trường. Nói một cách khác, đầu ra là yếu tố quyết định hiệu quả đầu tư. Nhằm tránh lãng phí trong đầu tư như thực tế xảy ra vừa qua do đầu tư dàn trải, đầu tư mang tính chất bình quân, khi thẩm định hiệu quả đầu tư của các dự án, tiêu chí có tính quyết định cần xem xét kỹ là thị trường (đầu ra) của dự án. Chỉ đầu tư cho những dự án có thị trường chắc chắn, khả thi.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới phân cấp quản lý ngân sách nhà nước giữa các cấp chính quyền.
Trong hoạt động thực tiễn ở nước ta, muốn đạt được mục đích đó, cần giải quyết hai vấn đề:
Một là, năng lực của cơ quan chính quyền nhà nước mỗi cấp ở địa phương, đặc biệt là cơ quan quyền lực nhà nước, thực sự đủ sức thực hiện nhiệm vụ đã được phân cấp trong quản lý ngân sách nhà nước.
Hai là, tính đồng bộ về mặt thể chế trong việc quy định sự phối hợp giữa c._.ác cơ quan nhà nước trong cùng một cấp chính quyền để quản lý ngân sách nhà nước.
Thứ tư, nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát kết quả quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước.
Cấp phát vốn của ngân sách nhà nước phải gắn liền với công tác ''hậu kiểm''. Công việc này do các cơ quan chức năng (kiểm toán nhà nước, thanh tra tài chính, cơ quan tài chính) thực hiện. Bên cạnh đó, một hoạt động hậu kiểm vô cùng quan trọng và mang tính quyết định sẽ do cơ quan quyền lực nhà nước tại mỗi cấp (Quốc hội, HĐND các cấp) có ngân sách thực hiện. Năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan trên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của toàn bộ quá trình quản lý ngân sách nhà nước. So với yêu cầu hiện nay, năng lực của các cơ quan trên là điều đáng lo ngại cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Do vậy, nâng cao năng lực và hiệu lực hoạt động của các cơ quan này là vấn đề cần quan tâm giải quyết không chỉ trong thể chế, chính sách, mà cả trong kỹ năng quản lý ngân sách nhà nước. Những người làm việc trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước các cấp cần được đào tạo và đạo tạo lại thường xuyên nhằm cập nhật những vấn đề mới trong quản lý ngân sách nhà nước.
Thứ năm, quy định rõ ràng trách nhiệm vật chất của những ngưới đứng đầu cơ quan chính quyền nhà nước mỗi cấp trước kết quả quản lý ngân sách nhà nước của cấp.
Cần căn cứ vào mức dự toán của mỗi cấp chính quyền đã được giao phải thực hiện và những cam kết về kết quả đầu ra gắn liền với các chỉ tiêu của dự toán đó mà đánh giá, phân loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ quản lý ngân sách nhà nước của những ngưới đứng đầu cơ quan chính quyền mỗi cấp đó.
Thứ sáu, đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong toàn bộ quá trình quản lý ngân sách nhà nước.
Quản lý ngân sách nhà nước hiện đại thường thông thoáng trong kiểm soát ''đầu vào'', nhưng lại tăng cường kiểm soát ở ''đầu ra'', dựa trên cơ sở đánh giá chất lượng và hiệu quả của quản lý ngân sách nhà nước cho từng lĩnh vực cụ thể. Để đổi mới công tác thanh tra, giám sát cần:
- Tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng bộ máy kiểm toán nhà nước. Đồng thời, phải chuyển cơ quan Kiểm toán nhà nước từ trực thuộc Chính phủ sang trực thuộc Quốc hội để tăng cường sức mạnh kiểm tra, giám sát cho cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội.
- Tăng cường quyền chủ động của chính quyền địa phương bằng việc nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát về quản lý ngân sách nhà nước của HĐND các cấp. Biện pháp quan trọng hàng đầu là quan tâm đào tạo kiến thức quản lý ngân sách nhà nước cho các đại biểu HĐND, nhằm giúp họ có thể phát huy thực quyền của mình trong quá trình thảo luận và quyết định các vấn đề có liên quan đến ngân sách nhà nước.
Chương 2
XÁC ĐỊNH HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THU CHI NSĐP
2.1 Xác định hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình thu chi NSĐP
Thống kê được coi là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, có vai trò cung cấp các thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời phục vụ các cơ quan nhà nước trong việc đánh giá, dự báo tình hình hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội ngắn hạn và dài hạn. Đồng thời, các con số thống kê cũng là những cơ sở quan trọng nhất để kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện các kế hoạch, chiến lược, chính sách đó.
Chỉ tiêu thống kê phản ánh mặt lượng gắn liền với mặt chất của hiện tượng số lớn trong điều kiện thời gian không gian cụ thể. Chỉ tiêu thống kê khái quát tất cả các đặc điểm, tính chất từng đơn vị cá biệt. Vì vậy nó phản ánh những mối quan hệ chung của một nhóm số lớn các đơn vị hoặc hiện tượng. Các chỉ tiêu thống kê luôn tồn tại trong điều kiện không gian thời gian cụ thể.
Kết cấu của chỉ tiêu thống kê bao gồm 2 mặt:
- Mặt nội dung của chỉ tiêu có tên gọi, điều kiện thời gian và không gian
- Mặt trị số phản ánh qui mô hoặc cường độ của hiện tượng với các loại thang đo khác nhau.
2.1.1 Yêu cầu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá tình hình thu chi ngân sách nhà nước nói chung và ngân sách địa phương nói riêng không chỉ đơn thuần là nêu ra có những chỉ tiêu nào trong hệ thống, mà còn phải đảm bảo có thể thu thập được nguồn thông tin để tính toán các chỉ tiêu một cách đầy đủ. Vì thế, để có thể xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê tình hình thu chi ngân sách một cách khoa học, hợp lý, cần đảm bảo các yêu cầu sau:
Xác định đúng bản chất, tiêu chuẩn đánh giá tình hình thu chi ngân sách.
Số liệu thu thập được qua hệ thống chỉ tiêu thu chi ngân sách cho phép vận dụng được các phương pháp thống kê hiện đại và phương pháp toán học để nghiên cứu và phân tích toàn diện, sâu sắc tình hình thu chi ngân sách.
Các tài liệu thu thập được phải có tính nhạy bén, kịp thời phản ánh được mọi sự biến đổi của hiện tượng nghiên cứu đúng lúc cần thiết. Yêu cầu này giúp cho Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền đưa ra các quyết định, mệnh lệnh có tính chuẩn xác, kịp thời mang lại lợi ích cao.
Số liệu thu thập được phải chính xác, khách quan mới có thể dùng làm căn cứ tin cậy cho việc tổng hợp, phân tích và rút ra kết luận đúng đắn về hiện trạng, các yếu tố ảnh hưởng đến biến động thu chi ngân sách. Trên cơ sở đó mới có thể tính toán, lập kế hoạch và quản lý tốt tình hình thu chi ngân sách.
Hệ thống chỉ tiêu được hình thành phải là hệ thống cho phép giải quyết tốt nhất mâu thuẫn giữa nhu cầu thông tin với khả năng về mọi mặt để thu thập thông tin, giữa chỉ tiêu mong mong muốn với chỉ tiêu có thể thu thập và tính toán. Điều đó cũng có nghĩa là cần có sự kết hợp giữa tính lý thuyết, kỳ vọng với tính khả thi, thực tiễn của hệ thống.
2.1.2 Nguyên tắc xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê
Để có thể xây dựng hệ thống chỉ tiêu thu chi ngân sách một cách hoàn thiện, khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
Đảm bảo tính hệ thống: nghĩa là các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu ngân sách phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong hệ thống phải thể hiện rõ các chỉ tiêu chủ yếu và thứ yếu, các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu từng mặt của thu chi ngân sách.
Đảm bảo tính hiệu quả: Hệ thống chỉ tiêu thu chi ngân sách phải phản ánh được đầy đủ các khía cạnh của thu chi ngân sách, số lượng các chỉ tiêu đưa ra không thừa, không thiếu nhằm tiết kiệm chi phí phân tích và đánh giá.
Đảm bảo tính thống nhất: Các chỉ tiêu tính toán phải thống nhất về nội dung, phương pháp, phạm vi tính toán, phải phù hợp với quy định trong nước và quốc tế, do đó đảm bảo tính so sánh được. Để xây dựng hệ thống chỉ tiêu cần phải tiến hành lựa chọn các chỉ tiêu thu và các chỉ tiêu chi để so sánh với nhau. Các chỉ tiêu cần đảm bảo nguyên tắc này thì các kết quả thu được mới có ý nghĩa kinh tế.
Đảm bảo tính khả thi: Hệ thống chỉ tiêu được xây dựng trên cơ sở các nguồn thu, các khoản chi của ngân sách đồng thời cho phép giải quyết tốt các mâu thuẫn giữa nhu cầu thu thập thông tin với khả năng cung cấp thông tin và tính toán các chỉ tiêu đề ra, đồng thời phải tránh việc đưa ra các chỉ tiêu không thực hiện được.
2.1.3 Xác định hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình thu chi NSĐP
2.1.3.1 Nhóm chỉ tiêu về thu ngân sách địa phương
- Tổng thu ngân sách địa phương
Tổng thu ngân sách địa phương bao gồm các nhóm sau
*) Tổng các khoản thu NSĐP hưởng 100%
Bao gồm các khoản sau:
a) Thuế nhà, đất;
b) Thuế tài nguyên, không kể thuế tài nguyên thu từ dầu, khí;
c) Thuế môn bài;
d) Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
e) Tiền sử dụng đất;
g) Tiền cho thuê đất;
h) Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;
i) Lệ phí trước bạ;
k) Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
l) Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương;
m) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương;
n) Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật;
o) Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công an khác;
p) Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật;
q) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong nước và ngoài nước;
r) Thu kết dư ngân sách địa phương;
s) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;
*) Tổng các khoản thu NSĐP được hưởng theo tỉ lệ % so với NSNN
Bao gồm các khoản sau:
a) Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu;
b) Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành;
c) Thuế thu nhập cá nhân;
d) Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, không kể thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ lĩnh vực dầu, khí;
e) Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hóa, dịch vụ trong nước;
g) Phí xăng, dầu.
*) Thu bổ sung từ ngân sách trung ương
*) Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công rình kết cấu hạ tầng
- Các chỉ tiêu phản ánh kết quả thu
*) Tổng thu trên đầu người
Tổng thu trên đầu người = Tổng thu ngân sách / Dân số bình quân
*) Cơ cấu các khoản thu theo nguồn thu
*) Cơ cấu thu theo các khoản thu từ kinh tế địa phương
2.1.3.2 Nhóm chỉ tiêu về chi ngân sách địa phương
- Tổng chi ngân sách địa phương
Tổng chi ngân sách địa phương bao gồm các khoản mục sau đây
*) Chi đầu tư phát triển:
Bao gồm các khoản sau:
a) Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý;
b) Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
c) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
*) Chi thường xuyên:
Bao gồm các khoản sau:
a) Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hóa thông tin văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý;
b) Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa phương);
c) Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương;
d) Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật;
đ) Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương quản lý;
e) Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;
g) Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
h) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
*) Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư;
*) Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh;
*) Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới;
- Các chỉ tiêu phản ánh kết quả chi
*) Tổng chi trên đầu người
*) Cơ cấu các khoản chi
2.2 Xác định một số phương pháp thống kê phân tích thu chi NSĐP
2.2.1 Phương pháp phân tổ
Khái niệm: Phân tổ thống kê là căn cứ vào một (hay một số) tiêu thức nào đó để phân chia tổng thể thống kê thành các tổ (tiểu tổ) có tính chất khác nhau.
Tiêu thức thống kê (đặc điểm của đơn vị tổng thể để nhận thức hiện tượng nghiên cứu) được chọn làm căn cứ để phân tổ thống kê gọi là tiêu thức phân tổ. Tiêu thức phân tổ thống kê được chia thành 2 loại: tiêu thức số lượng và tiêu thức thuộc tính. Có thể phân tổ theo một tiêu thức (gọi là phân tổ đơn) hoặc phân tổ theo hai hay nhiều tiêu thức (gọi là phân tổ kết hợp).
Trong chuyên đề này có thể sử dụng phân tổ theo một tiêu thức và hai tiêu thức, đồng thời có thể sử dụng một số loại phân tổ như: phân tổ phân loại, phân tổ kết cấu, và phân tổ liên hệ.
2.2.2 Phương pháp bảng thống kê
Khái niệm: Là hình thức biểu hiện các tài liệu thống kê một cách có hệ thống,hợp lí, rõ ràng nhằm nêu lên các đặc trưng về lượng của hiện tượng nghiên cứu.
Tác dụng: Nó giúp tiến hành so sánh, đối chiếu và phân tích theo các phương pháp khác nhằm nêu lên bản chất của hiện tượng.
Yêu cầu của bảng thống kê:
- Qui mô bảng không quá lớn.
- Các hàng và cột cần được kí hiệu.
- Các chỉ tiêu giải thích cần được sắp xếp hợp lí phù hợp với mục đích nghiên cứu.
- Phải có đơn vị tính cho từng chỉ tiêu cụ thể hoặc chung cho cả bảng.
- Cách ghi số liệu vào bảng : Các ô trong bảng thống kê đều phải có ghi số liệu hoặc kí hiệu thay thế. Nếu hiện tượng không có số liệu đó thì ô ghi một dấu gạch ngang “-“. Nếu số liệu còn thiếu sau này bổ sung thì ô ghi kí hiệu 3 chấm “…”. Kí hiệu “x” trông ô nói lên hiện tượng không có liên quan, nếu viết vào thì cũng không có ý nghĩa.
- Phải có phần ghi chú về nguồn số liệu ở cuối bảng.
2.2.3 Đồ thị thống kê
Khái niệm: Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc đường nét để miêu tả có tính chất qui ước các tài liệu thống kê.
Đồ thị thống kê có thể biểu thị:
- Kết cấu của hiện tượng theo tiêu thức nào đó và sự biến đổi của kết cấu.
- Sự phát triển của hiện tượng theo thời gian.
- So sánh các mức độ của hiện tượng.
- Mối liên hệ giữa các hiện tượng.
- Trình độ phổ biến của hiện tượng.
- Tình hình thực hiện kế hoạch.
Tác dụng:
- Làm người xem không cần mất nhiều công đọc con số mà vẫn nhận thức được vấn đề chủ yếu một cách dễ dàng, nhanh chóng
- Làm cho người ít hiểu biết về thống kê vẫn lĩnh hội được vấn đề chủ yếu một cách dế dàng, đồng thời có ấn tượng sâu sắc đối với những thông tin thu thập được.
Yêu cầu:
- Xác định quy mô đồ thị phù hợp,chính xác về tỉ lệ
- Dễ xem
- Lựa chọn dạng đồ thị thể hiện phù hợp với hiện tượng.
- Phần giải thích cần được ghi rõ, gọn, dễ hiểu.
2.2.4 Phương pháp dãy số thời gian
Khái niệm: Dãy số thời gian là dãy các trị số của một chỉ tiêu thống kê được sắp xếp theo thứ tự thời gian, dùng để phản ánh quá trình phát triển của hiện tượng.
Như mọi dãy số thời gian khác, dãy số thời gian được sử dụng trong đề tài này bao gồm hai yếu tố: thời gian và các số liệu của chỉ tiêu nghiên cứu. Trong đó: số liệu chủ yếu được dùng với thời gian là năm, khoảng cách thời gian là 1 năm, và số liệu của chỉ tiêu nghiên cứu: được biểu hiện dưới dạng số tuyệt đối, số tương đối hay số bình quân và được gọi là các mức độ của dãy số.
Theo cách phân loại căn cứ vào tính chất của thời gian trong dãy số thì các dãy số thời gian sử dụng trong đề tài này thuộc dãy số biến động theo thời kỳ. Đó là dãy số trong đó các mức độ của chỉ tiêu biểu hiện mặt lượng của hiện tượng trong một khoảng thời gian nhất định.
2.2.4.1 Các chỉ tiêu được sử dụng để phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian
Đề tài này sử dụng các chỉ tiêu sau để phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian
Chỉ tiêu 1: Mức độ bình quân qua thời gian
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại diện cho các mức độ tuyệt đối của dãy số thời gian. Nó có các đặc điểm là san bằng mọi chênh lệch về lượng giữa các đơn vị trong tổng thể do giá trị thu được là một số bình quân. Chỉ tiêu mức độ bình quan qua thời gian mang tính tổng hợp khái quát cao.
Với dãy số thời kỳ như dãy số sử dụng trong đề tài này, mức độ bình quân qua thời gian được tính theo công thức sau:
Trong đó, yi (i=1,2,…,n) là các mức độ của dãy số.
Chỉ tiêu 2: Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô hiện tượng theo thời gian. Trong đề tài này sẽ tính các chỉ tiêu về lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối sau đây:
a. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.
(với i=1,2,3,…,n)
Trong đó:
: Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn ở thời gian i so với thời gian đứng liền trước nó là i-1
yi: Mức độ tuyệt đối ở thời gian i
yi-1: Mức độ tuyệt đối ở thời gian i-1
Nếu yi > yi-1 thì > 0: Phán ánh quy mô hiện tượng tăng lên;
Nếu yi < yi-1 thì < 0: Phán ánh quy mô hiện tượng giảm.
b. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về quy mô của hiện tượng nghiên cứu trong khoảng thời gian dài và được tính theo công thức sau đây:
(với i = 2,3,...,n)
Trong đó:
: Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc ở thời gian i so với thời gian đầu của dãy số.
yi: Mức độ tuyệt đối ở thời gian i.
y1: Mức độ tuyệt đối ở thời gian đầu.
c. Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân
Chỉ tiêu này đại diện cho lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối từng kỳ và được tính theo công thức sau đây:
Chỉ tiêu 3:Tốc độ phát triển
Chỉ tiêu này phản ánh: Qua thời gian hiện tượng nghiên cứu đã phát triển với tốc độ cụ thể bao nhiêu. Trong đề tài này có sử dụng các tốc độ phát triển sau:
Tốc độ phát triển liên hoàn:
Chỉ tiêu này là một số tương đối động thái, phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng ở thời gian sau so với thời gian liền trước đó và được tính theo công thức sau:
(với i = 2,3,…,n)
Trong đó:
: Tốc độ phát triển liên hoàn thời gian i so với thời gian i-1 và có thể biểu hiện bằng lần hoặc %.
Tốc độ phát triển định gốc:
Phản ánh tốc độ và xu hướng biến động của hiện tượng ở những khoảng thời gian dài và được tính theo công thức:
(với i = 2,3,…,n)
Trong đó:
: Tốc độ phát triển định gốc thời gian i so vào thời gian đầu của dãy số và có thể biểu hiện bằng lần hoặc %.
Tốc độ phát triển bình quân:
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại diện của các tốc độ phát triển liên hoàn. Vì các tốc độ phát triển liên hoàn là các số tương đối có gốc so sánh khác nhau nên chúng không cộng được với nhau để tính tốc độ phát triển bình quân . Nhưng chúng lại có quan hệ tích số với nhau, bởi vì tích của chúng sẽ cho ta một số tương đối động thái mới, nói lên tốc độ phát triển của hiện tượng trong một thời kỳ dài hơn. Vì vậy, trong đề tài này để tính tốc độ phát triển bình quân ta áp dụng công thức số bình quân nhân:
Chỉ tiêu 4: Tốc độ tăng (giảm)
Chỉ tiêu này phản ánh qua thời gian, hiện tượng nghiên cứu đã tăng (giảm) bao nhiêu lần hoặc bao nhiêu %. Để phục vụ mục đích nghiên cứu trong đề tài này sẽ tính các tốc độ tăng (giảm) sau đây:
a. Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn:
Phản ánh tốc độ tăng (giảm) ỏ thời gian i so với thời gian i-1 và được tính theo công thức sau đây:
(do trong đề tài này biểu hiện bằng %)
b. Tốc độ tăng (giảm) định gốc:
Phản ánh tốc độ tăng (giảm) ở thời gian i so với thời gian đầu trong dãy số và được tính theo công thức sau:
(do trong đề tài này biểu hiện bằng %)
c. Tốc độ tăng (giảm) bình quân:
Phản ánh tốc độ tăng (giảm) đại diện cho các tốc độ tăng (giảm) liên hoàn và tính theo công thức sau:
(do trong đề tài này biểu hiện bằng %)
Chỉ tiêu 5: Giá trị tuyệt đối 1% của tốc độ tăng (giảm) liên hoàn
Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1% tăng (giảm) của tốc độ tăng (giảm) liên hoàn thì tương ứng với một quy mô cụ thể là bao nhiêu và được tính bằng công thức sau:
Chỉ tiêu này chỉ tính cho tốc độ tăng (giảm) từng kỳ chứ không tính cho tốc độ tăng (giảm) định gốc vì luôn là một số không đổi là y1/100.
2.2.4.2 Biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng bằng phương pháp hàm xu thế
Biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng thông qua hàm xu thế, thực chất là việc xây dựng mô hình hồi quy đơn theo thời gian. Dạng tổng quát của hàm xu thế là:
với t = 1,2,3,…,n: là thứ tự thời gian của dãy số.
Hàm xu thế có thể được xây dựng dưới dạng: hàm xu thế tuyến tính, parabol, hyperbol hay hàm mũ.
- Hàm xu thế tuyến tính:
- Hàm xu thế parabol:
- Hàm xu thế hyperbol:
- Hàm xu thế hàm mũ:
Để xác định dạng cụ thể của hàm xu thế cho phù hợp em sử dụng một số tiêu chuẩn như sau:
Thăm dò dạng hàm xu thế dựa vào đồ thị.
Tính sai số chuẩn của hàm xu thế
Trong đó: n- số lượng mức độ trong dãy số.
k- số lượng các hệ số của hàm xu thế.
Dùng tốc độ phát triển liên hoàn
(i=2,3,…,n). Nếu các ti xấp xỉ nhau thì hàm xu thế có dạng hàm mũ.
2.2.5 Phương pháp hồi quy tương quan
Khái niệm: Phân tích hồi quy tương quan nghiên cứu mối quan hệ phụ thuộc của một chỉ tiêu (chỉ tiêu phụ thuộc) với một hay nhiều chỉ tiêu khác (chỉ tiêu độc lập) nhằm ước lượng và dự báo giá trị trung bình của chỉ tiêu phụ thuộc dựa vào các giá trị đã biết của chỉ tiêu độc lập.
Khi phân tích tương quan không thể xác định quan hệ và mức độ ảnh hưởng lẫn nhau của tất cả các chỉ tiêu của hiện tượng mà chỉ thể hiện trên hai hay một số chỉ tiêu nào đó được xem là chủ yếu (có tương quan mạnh hơn) với giả thiết các chỉ tiêu khác còn lại coi như không thay đổi.
Do đặc điểm của số liệu nên đề tài này chỉ sử dụng phương pháp phân tích mối liên hệ tương quan giữa các dãy số theo thời gian.
Phân tích mối liên hệ tương quan giữa các dãy số theo thời gian chính là xác định mức độ chặt chẽ của mối liên hệ giữa các dãy số. Trong khuôn khổ chuyên đề thực tập này chỉ trình bày tương quan tuyến tính giữa hai dãy số.
Đặc điểm của dãy số biến động theo thời gian là tồn tại hiện tượng tự tương quan giữa các mức độ của dãy số. Để kiểm tra hiện tượng này ta tiến hành tính hệ số tương quan tuyến tính giữa các mức độ của dãy số đã cho (xt hoặc yt) với mức độ của dãy số đó nhưng lệch đi thời gian 1 năm (t = 1). Khi nghiên cứu riêng cho từng dãy (đại lượng x hay y) về bản chất đều có công thức tính giống nhau, chỉ khác nhau là theo x hoặc theo y.
Công thức tính hệ số tự tương quan riêng cho từng dãy số chẳng hạn x như sau:
Trong đó:
t - Chỉ thứ tự thời gian theo từng năm;
xt, xt+1 - Mức độ thực tế của dãy thuộc năm t và của năm sau năm t (t+1);
st và st+1 - Các độ lệch chuẩn tương ứng;
- Hệ số phản ánh mức độ tự tương quan.
Trị số của hệ số này càng gần 1 thì đặc điểm tự tương quan càng mạnh và ngược lại càng gần 0 thì đặc điểm tự tương quan càng yếu.
Khi kiểm tra đặc điểm tự tương quan của dãy số ta xét hai khả năng:
* Nếu thấy đặc điểm này yếu ( gần 0) thì hệ số tương quan tuyến tính giữa hai dãy xt và yt (rx,y) vẫn tính trực tiếp theo công thức
Trong đó các đại lượng được tính như sau:
- Trung bình của tích x và y;
- Trung bình của x;
- Trung bình của y;
sx - Độ lệch chuẩn của các mức độ riêng biệt với mức độ bình quân chung của x.
sy - Độ lệch chuẩn của các mức độ riêng biệt với mức độ bình quân chung của y.
* Nếu thấy đặc điểm tự tương quan của hai dãy số mạnh (gần 1 hoặc -1) thì hệ số tương quan giữa hai dãy xt và yt không thể tính trực tiếp theo các mức độ thực tế (xt và yt) mà theo các độ lệch giữa mức độ thực tế (xt, yt) và mức độ lý thuyết tương ứng (, ). Công thức tính như sau:
Trong đó: ,là các độ lệch giữa mức độ thực tế (xt, yt) và các mức độ lý thuyết tương ứng ( , ), tức là = xt- và = yt - .
Các mức độ lý thuyết và xác định được bằng phương pháp điều chỉnh dãy số theo phương trình hồi quy:
- Phương trình tuyến tính:
- Phương trình parabol bậc hai:
- Phương trình parabol bậc ba:
- Phương trình hypecbol:
- Phương trình hàm số mũ:
Để xác định quy luật phát triển của từng dãy số theo loại phương trình này, trước tiên phải đưa số liệu lên đồ thị. Nếu quan sát trên dãy số phát triển rõ nét theo một loại phương trình nào đó thì có thể điều chỉnh dãy số một lần. Trường hợp khó xác định một cách cụ thể theo một loại phương trình nào đó thì phải tiến hành điều chỉnh dãy số theo một số phương trình. Sau đó ứng với mỗi phương trình đã được điều chỉnh chúng ta tính toán các sai số mô tả:
và rồi chọn phương trình nào có hệ số mô tả nhỏ nhất.
Chương 3
VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THU CHI NSĐP Ở PHƯỜNG TRUNG TỰ
(thời kỳ 2003-2007)
3.1 Tổng quan chung về phường Trung Tự
3.1.1 Sơ lược về vị trí địa lý và lịch sử hình thành và phát triển của Phường Trung Tự
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Trung Tự là một trong 21 phường thuộc quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, được thành lập từ năm 1981 trên đất làng Trung Tự và một phần đất của làng Khương Thượng cổ kính trước đây.
Phường Trung Tự phía Đông-Bắc giáp các phường Kim Liên, Phương Liên; Đông-Nam giáp phường Khương Thượng và Tây giáp các phường Trung Liệt, Nam Đồng, Quang Trung.
3.1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển
Trung Tự chính thức được chuyển thành phường năm 1981 nhưng Trung Tự đã có một lịch sử hình thành và phát triển với rất nhiều thay đổi từ lâu đời. Từ khi còn là một làng nhỏ nằm ở ngoại vi thành Thăng long, Trung Tự đã được ghi vào sử sách như một làng cổ, một vùng đất văn hiến đã đồng hành cùng Thăng Long – Hà Nội suốt cả ngàn năm lịch sử. Theo sách “Đại Việt địa sư toàn biên” – một bộ sách địa lý cổ viết từ đời vua Thành Thái của cụ Phương Đình Nguyễn Văn Siêu thì Trung Tự, Đông Tác là những cái tên xuất hiện rất sớm trong lịch sử Hà Nội. Theo sách này thì Đông Tác và Trung Tự là các làng thuộc Tổng Tả Nghiêm.
Trong lịch sử phát triển của mình, Trung Tự đã có một thời kỳ dài được triều đình cấp cho Tào quận công Nguyễn Hữu Dụng làm trang ấp trồng cam. Cái tên Trung Tự đã trở thành tên trại – trại Cam Đường. Sau biến cố lớn xảy ra vào những năm đầu thế kỷ XVIII, phải rất nhiều năm sau cái tên làng Trung Tự mới được trả lại và trường tồn cho đến ngày nay.
Những năm 20 – 30 của thế kỷ XX khi mà tỉnh bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội Hà Nội vừa mới ra đời đã có nhiều cán bộ Đảng đến vô sản hóa, giác ngộ quần chúng và tá túc hoạt động, gây dựng cơ sở tại đây.
Ngay sau khi cách mạng thành công, Trung Tự đã thành lập ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời. Sau cuộc bầu cử ngày 30-6-1946 Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã Trung Tự được thành lập.
Trong những năm đầu xây dựng CNXH làng Trung Tự chính thức trở thành một đơn vị thuộc nội thành Hà Nội (6-1961) với tên gọi là khối 56,57. Đến ngày 21-12-1974 thì trở thành tiểu khu 56,57 thuộc ủy ban hành chính khu phố Đống Đa. Cuối 1978 hai tiểu khu tập thể Khương Thượng và Trung Tự được sáp nhập thành tiểu khu Trung Tự.
Năm 1981 thực hiện Hiến pháp mới, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội quyết đinh thay đổi bộ máy hành chính thành 3 cấp: thành phố, quận, phường. Tiểu khu Trung Tự được đổi thành phường Trung Tự, đây là mốc lịch sử quan trọng, mở ra một bước phát triển mới trên chặng đường xây dựng, phấn đấu của nhân dân Trung Tự.
Nói đến phường Trung Tự hôm nay không thể không nói đến phường Đông tác và làng Khương Thượng xưa bởi trên đất của phường hiện nay có một phần đất của Đông Tác và Khương Thượng. Đông Tác là một phường thuộc kinh thành Thăng Long, xuất hiện từ thời Lê, thuộc tổng Tiền Nghiêm, huyện Thọ Xương. Khương Thượng là khu tập thể gồm các nhà lắp ghép từ A1 đến A12 và B1 đến B4 được xây dựng vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX trên cánh đồng làng Khương Thượng.
Trên chặng đường phát triển, nhất là từ khi thành lập phường, cùng với sự phát triển của đất nước, của thủ đô Hà Nội, Trung Tự đang vững bước đi lên thực hiện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những thành tựu mà cán bộ, đảng viên và nhân dân phường Trung Tự đã đạt được trong thời gian qua không tách rời sự lãnh đạo sáng suốt, trực tiếp và toàn diện của Đảng ta mà trực tiếp là Quận ủy, UBND quận Đống Đa.
3.1.2 Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND phường Trung Tự
1. Phòng Nội vụ - Lao động Thương binh và Xã hội: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nội vụ, lao động - thương binh và xã hội.
2. Phòng Tài chính - Kế hoạch: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài chính, kế hoạch, đầu tư, đăng ký kinh doanh.
3. Phòng Giáo dục: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông dân tộc bán trú; trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp cấp phường.
4. Phòng Văn hoá - Thông tin - Thể thao: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao, phát thanh, truyền hình.
5. Phòng Y tế: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, gồm: y tế dự phòng, khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, y học cổ truyền, thuốc phòng chữa bệnh cho người, mỹ phẩm ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, an toàn vệ sinh thực phẩm và trang thiết bị y tế.
6. Phòng Tài nguyên và Môi trường: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường.
7. Phòng Tư pháp: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở và các công tác tư pháp khác.
8. Phòng hành chính một cửa:giải quyết công việc của tổ chức, công dân thuộc thẩm quyền của phường từ tiếp nhận yêu cầu, hồ sơ đến trả lại kết quả thông qua một đầu mối là “bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” tại phường.
9. Phòng Quản lý đô thị: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân quận, thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kiến trúc, quy hoạch, xây dựng, nhà ở và công sở, vật liệu xây dựng, giao thông, bưu chính, viễn thông.
10. Thanh tra phường là cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân phường, có trách nhiệm giúp ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính trong phạm vi quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân phường.
11. Phòng quân sự và dân số: tham mưu, giúp ủy ban nhân dân phường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quân sự, dân số, gia đình và trẻ em.
12. Văn phòng Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân phường là cơ quan tham mưu, tổng hợp giúp Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân phường như sau:
a) Tổ chức phục vụ hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, các đại biểu Hội đồng nhân dân và tham mưu một số công việc do Chủ tịch Hội đồng nhân dân phường giao.
b) Tổ chức các hoạt động của ủy ban nhân dân và Chủ tịch ủy ban nhân dân trong chỉ đạo, điều hành các hoạt động chung của bộ máy hành chính nhà nước; giúp Chủ tịch ủy ban nhân dân phường tổ chức việc điều hoà, phối hợp hoạt động của các cơ quan chuyên môn cùng cấp, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân để thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của ủy ban nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân phường; bảo đảm các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho hoạt động của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân phường; tham mưu giúp ủy ban nhân dân phường về công tác ngoại vụ, thi đua khen thưởng.
c) Văn phòng Hội đồng nhân ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11939.doc