Lời Mở Đầu
Hiện nay, trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thế giới Việt Nam đang là một thành viên tích cực của khối ASEAN, để tiến tới hợp nhất và giao lưu trên tinh thần “ vì một ASEAN đoàn kết và phát triển”. Đến năm 2006, chúng ta chính thức dỡ bỏ hàng rào thuế quan (đưa thuế nhập khẩu của các nước trong ASEAN xuống từ 0%-5%). Có thể nói “ đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức vô cùng to lớn với nền kinh tế Việt Nam” cụ thể là từng mặt hàng, từng doanh nghiệp. Chính vì vậy, Nhà nước ta đã x
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng một số phương pháp thống kê phản ánh tình hình xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua 1995-2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác định được vị trí của từng mặt hàng của các doanh nghiệp so với thị trường trong và ngoài nước, để có những điều chỉnh thích đáng nhằm đối phó với những bất ngờ và rủi ro, cũng như đón nhận những cơ hội tốt đẹp do quá trình hội nhập đem lại. Không những thế Nhà nước đã kịp thời định rõ những lĩnh vực nào nên đầu tư, bảo hộ, lĩnh vực nào nên cắt giảm các khoản đầu tư và sự bảo hộ. Bởi vì, đất nước ta nông nghiệp chiếm phần đa, nên việc phát huy tiềm năng về lĩnh vực chế biến nông- thuỷ sản là điều kiện hiển nhiên của một nước đang phát triển với chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa ở Việt Nam, xuất khẩu thuỷ sản luôn được xác định ở vị trí quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII coi “ Thuỷ sản là một trong những ngành mũi nhọn của đất nước”. Những năm qua, xuất khẩu thuỷ sản đã có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thời gian vừa qua đã không ngừng tăng lênvà chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trung bình khoảng 10% trong giai đoạn 1990-2000). Hiện nay, nước ta đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng như thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc...với sự đa dạng về chủng loại, chất lượng sản phẩm được giới tiêu dùng đánh giá cao...Chính vì vị thế quan trọng của ngành thuỷ sản hiện nay, cho nên em chọn đề tài: “ Vận dụng một số phương pháp thống kê phản ánh tình hình xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua 1995-2002” làm đề tài cho đề án môn học Lý thuyết thống kê. Trong đề án, còn có nhiều điều thiếu sót, em mong thầy hướng dẫn chỉ bảo giùm. Em xin chân thành cảm ơn thầy.
Sinh viên: Đỗ Thị Thuý
A. Đánh giá chung về tình hình phát triển thuỷ sản nước ta trong những năm qua
Thuỷ sản là một trong những ngành sản xuất kinh doanh nằm trong tổng thể kinh tế xã hội của loài người nhằm mưu lợi sống dựa trên việc khai thác có hiệu quả kinh tế cao những tiềm năng kinh tế của nguồn lợi thiên nhiên sinh vật sinh sống trong các mặt nước, nguồn lực lao động rộng lớn và giàu kinh nghiệm truyền thống sản xuất và những tích luỹ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ được tạo ra trong quá trình khai thác những nguồn lợi này.
Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại. Không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho người dân đặc biệt là đối với người dân vùng nông thôn và vùng ven biển. Đồng thời là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho người dân làm nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ cũng như các dịch vụ cho nghề cá như cảng, bến ,đóng sửa tàu thuyền , sản xuất nước đá, cung cấp dầu nhớt , cung cấp bao bì sản phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng cho ngư dân.
Thuỷ sản cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển và tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới.
Nhu cầu cho thuỷ sản nhân loại ngày càng tăng trong khi nguồn lợi tự nhiên của các tài nguyên này chỉ có giới hạn, việc khai thác quá mức cho phép.Vì vậy ngành nuôi trồng thuỷ sản đã được phát triển để bù đắp vào những sự thiếu hụt. Ngày nay, nuôi trồng thuỷ sản đã cung cấp được khoảng 27% tổng sản lượng thế giới nhưng chiếm gần 35%sản lượng thuỷ sản dùng làm thực phẩm. Đối tượng nuôi trồng thuỷ sản rất phong phú bao gồm đủ các chủng loại cá,nhuyễn thể ,giáp xác, rong tảo và một số loài khác.
Nuôi trồng thuỷ sản ở các nước cũng tuỳ thuộc điều kiện từng nước mà có qui mô rất khác nhau; từ qui mô nhỏ gia đình gắn liền với hệ thống canh tác tổng hợp đến những trang trại nuôi chuyên công nghiệp hoá có qui mô lớn. Cùng với việc gia tăng sản xuất, thương mại thuỷ sản toàn cầu cũng phát triển một cách nhanh chóng, đặc biệt là các hàng hoá thuỷ sản sống và tươi đang tăng nhanh.
Sự bùng nổ dân số thế giới cùng với hậu quả quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá ngày càng thu hẹp đất canh tác trong nông nghiệp, với sự bất lợi của thiên nhiên, môi trường tới sản xuất nông nghiệp làm cho lương thực, thực phẩm sẽ luôn là mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới và quá trình trao đổi mua bán hàng hoá lương thực, thực phâm trên toàn cầu ngày càng rộng rãi, trong đó thuỷ sản chiếm một vị trí quan trọng. Trong điều kiện đó, sản phẩm thuỷ sản càng ngày càng chiếm vị trí quan trọng để giải quyết nguồn dinh dưỡng thực phẩm cho nhân loại. Ngành sản xuất này đang và đầy hứa hẹn có thể trở thành ngành sản xuất kinh doanh có lãi suất cao với xu thế ổn định lâu dài trên thị trường quốc tế. Đó là tiền đề quan trọng bậc nhất của sự phát triển về sản xuất kinh doanh thuỷ sản và tiếp tục là một trong những xuất phát điểm quan trọng cho việc xây dựng chiến lược và qui hoạch phát triển kinh tế -xã hội ngành thuỷ sản ở nước ta.
1. Hiện nay ở nước ta đang có những thuận lợi cơ bản để phát triển một ngành thuỷ sản, đó là
Đảng và Nhà nước rất quan tâm, các tầng lớp nhân dân nhận thức rất rõ tầm quan trọng của bước đi đầu tiên là công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn; coi ngành thuỷ sản là mũi nhọn; coi công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn là bước đi quan trọng nhất; coi chuyển một bộ phận diện tích đất đai đang canh tác nông nghiệp và làm muối kém hiệu quả hơn sang nuôi trồng thuỷ sản là hướng đi chủ yếu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Đồng thời có những chương trình chính sách hỗ trợ rất lớn cho công việc chuyển đổi và phát triển ngành thuỷ sản trong toàn quốc: Chương trình Phát triển chế biến và xuất khẩu thuỷ sản -1998; Chương trình Phát triển nuôi trồng thuỷ sản-1999; Hỗ trợ phát triển giống thuỷ sản; các dự án phát triển nuôi tôm công nghiệp; các dự án phát triển nuôi biển.
Ngành thuỷ sản đã có một thời gian khá dài chuyển sang cơ chế kinh tế mới (khoảng 20 năm) của nền kinh tế hướng theo thị trường có sự quản lý của nhà nước; đã có sự cọ xát với thị trường và đã tạo ra một nguồn nhân lực khá dồi dào trong tất cả mọi lĩnh vực từ khai thác, chế biến, nuôi trồng đến thương mại.Trình độ nghiên cứu và áp dụng thực tiễn cũng đã tăng đáng kể.
Hàng thuỷ sản luôn giữ thế gia tăng và ổn định trên thị trường thực phẩm thế giới.
Việt Nam có bờ biển dài và khí hậu nhiệt đới với sự đa dạng sinh học cao, vừa có nhiều loại thuỷ sản quí giá được thế giới ưa chuộng, vừa có điều kiện phát triển hầu hết các đối tượng xuất khẩu chủ lực mà thị trường thế giới có nhu cầu.
Nhìn chung, có thể phát triển thuỷ sản khắp các nơi trên toàn nước ta nhằm phát huy tiềm năng, đặc thù và sản vật đặc sắc của mỗi vùng.Tuy nhiên, Việt Nam có một số vùng sinh thái đất thấp, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long và châu thổ sông Hồng, nơi có thể đưa nứơc mặn vào rất sâu tạo ra một vùng nuôi nước lợ chuyên hoặc nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với trồng lúa và các hợp đồng canh tác nông nghiệp khác rộng lớn gần một triệu ha. Trong hệ sinh thái này có thể tiến hành các hợp đồng nuôi trồng thuỷ hải sản vừa có chất lượng cao, vừa có giá thành hạ mà các hệ thống canh tác khác không thể có những lợi thế cạnh tranh đó đựơc. Lợi thế này đặc biệt phát huy thế mạnh trong cạnh tranh với hệ thống nuôi trồng công nghiệp khi giá cả thuỷ sản trên thị trường thế giới ở mức thấp, nhất là mặt hàng tôm xuất khẩu.
Việt Nam chưa phát triển nuôi trồng thuỷ sản công nghiệp nên còn nhiều tiềm năng đất đai để phát triển nuôi, còn nhiều tiềm năng các vùng biển để nuôi mà không ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên các vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho việc phát triển nuôi tôm và các hải sản khác theo phương thức nuôi công nghiệp, nhất là đối với vùng duyên hải sản dọc theo bờ biển miền Trung. Điều đó vừa mang ý nghĩa đẩy nhanh tốc độ phát triển nuôi trồng thuỷ sản thâm canh, sử dụng những tài nguyên xưa nay bỏ phí, vừa có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc xoá đói giảm nghèo đồng thời cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm cải tạo và bảo vệ môi trường vùng ven biển.
Người Việt Nam cũng có khả năng thích ứng nhanh với thị trường đổi mới.
Việt Nam có mối quan hệ truyền thống rộng và sự chú ý của thị trường đổi mới.
Việt Nam có nhiều lao động và nguồn nhân lực còn ít được đào tạo, sẽ thích hợp cho những lợi thế khởi điểm mang tính tĩnh khi dùng loại lao động này trong lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những lợi thế so sánh động, đó là lợi thế về công nghệ cao, lợi thế về kỹ thuật yểm trợ.
2. Để phát triển thuỷ sản một cách bền vững có hiệu quả cao cũng cần phải nhận thức rõ những thách thức đang đặt ra, đó là
Quá dư thừa lao động ở các vùng ven biển, nguồn nhân lực được đào tạo ít cuộc sống vật chất thiếu thốn là sức ép rất lớn đối với kinh tế -xã hội và môi trường sinh thái của nghề khai thác hải sản.
Cơ sở hạ tầng yếu, chưa đồng bộ với trình độ công nghệ lạc hậu trong khai thác, nuôi trồng, chế biến dẫn đến năng suất và hiệu quả kinh tế thấp.
Công nghệ sản xuất thuỷ sản của Việt Nam nhìn chung còn rất lạc hậu so với các nước cạnh tranh.
Những đòi hỏi rất cao và càng ngày chặt chẽ về yêu cầu vệ sinh và chất lượng thuỷ sản của các nước nhập khẩu.
Sự hội nhập quốc tế với sự dỡ bỏ hàng rào thuế quan, sự gia tăng dần vị thế của thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc tế sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt, với nhiều phương thức khác nhau trên thị trường thế giới và thị trường Việt Nam.
Môi trường cho phát triển thuỷ sản là môi trường linh hoạt và nhạy cảm. Việc phát triển khai thác nuôi trồng thuỷ sản không theo quy hoạch và không chú ý đảm bảo các điều kiện an toàn sinh thái và an toàn vệ sinh thực phẩm sẽ dẫn tới nhiều hậu quả rất nghiêm trọng có tính chất lâu dài về môi trường, xã hội, thị trường ở nước ta.
3. Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành thuỷ sản nước ta trong những năm qua
Tiềm năng kinh tế thủy sản nước ta rất lớn, nhưng để tiếp tục duy trì và nâng cao vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân, cần đẩy mạnh công cuộc hoá hiện đại hoá. Bởi vì, ngành thuỷ sản nước ta là một bộ có tiềm năng và vị trí lớn trong nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá không chỉ trang bị kĩ thuật và công nghệ tiên tiến, cải thiện đIều kiện lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là một vấn đề bức xúc hiện nay.
Trong những năm qua, trình độ khoa học của ngành thuỷ sản nước ta tuy có bước phát triển nhưng vẫn còn thua kém các nước trong khu vực và trên thế giới. Chẳng hạn, trong khai thác thuỷ sản phần lớn dùng phương tiện nhỏ, lao động thủ công, khai thác ven bờ, năng suất thấp, làm cạn kiệt tài nguyên,việc ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để vươn ra khai thác xa bờ còn nhiều hạn chế. Trong nuôi trồng thuỷ sản còn mang tính tự phát nuôi trồng theo kinh nghiệm dân gian, theo hộ gia đình qui mô nhỏ, việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào nuôi trồng chưa rộng rãi, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm nuôi chưa cao. Trong chế biến thuỷ sản một lĩnh vực được áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kĩ thuật nhất, nhưng vẫn sản xuất qui mô nhỏ, phân tán, khoa học công nghệ lạc hậu và thiếu đồng bộ, năng suất lao động thấp, chủng loại hàng hoá đơn điệu, sức cạnh tranh kém, chưa tạo được mối liên hoàn giữa sản xuất nguyên liệu - chế biến - tiêu thụ. Trong dịch vụ hậu cần vẫn có những yếu tố bất cập thiếu đồng bộ. Kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản còn nhiều yếu kém.
Vì vậy, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá để làm chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý từ sử dụng sức lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, tạo ra năng suất lao động cao cho ngành thuỷ sản là một tất yếu, là một đòi hỏi bức xúc của sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội đất nước.
Những năm qua công nghiệp hoá hiện đại hoá đã có ý nghĩa quan trọng đối với ngành thuỷ sản trên tất cả các lĩnh vực: trong chế biến thuỷ sản, trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản, trong khai thác thuỷ sản, trong dịch vụ hậu cần nghề cá .
Quá trình thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá từng bước làm cho lực lượng sản xuất của ngành thuỷ sản phát triển, thay đổi những công nghệ lạc hậu thiếu đồng bộ bằng những công nghệ mới khá hiện đại; tạo ra nhiều chủng loại hàng hoá với chất lượng và mẫu mã tốt hơn, thị trường từng bước được mở rộng; các lĩnh vực nuôi trồng khai thác và dịch vụ hậu cần nghề cá phát triển sôi động hơn làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thuỷ sản; phát huy được thế mạnh kinh tế vùng ven biển hải đảo; hình thành một số khu công nghiệp mới và mạng lưới dịch vụ ở vùng nông thôn ven biển; thu hút nhiều lao động của vùng này; góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tích luỹ vốn phát triển kinh tế, góp phần tăng thu nhập cải thiện đời sống ngư dân.
4. Kế hoạch phát triển của ngành thuỷ sản thời kỳ 2001 -2005
4.1 . Phương hướng
+ Phát huy tiềm năng và thế mạnh của biển, các vùng nước ngọt, lợ, tiềm lực lao động khả năng hợp tác quốc tế, kết hợp liên ngành nông lâm thuỷ lợi, du lịch...để phát triển sản xuất kinh doanh thuỷ sản theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.
+ Sắp xếp lại nghề nghiệp khai thác ven bờ, chuyển mạnh cơ cấu sang khai thác xa bờ, xây dựng các mô hình sản xuất có tính hợp tác và trình độ công nghệ cao đối với vùng xa bờ. Tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản làm thay đổi cơ cấu nông thôn vùng ven biển, bảo vệ môi trường duy trì cân bằng sinh thái ở những vùng nuôi, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi, đồng thời có biện pháp hữu hiệu phòng ngừa dịch bệnh phát sinh.
+ Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc sử dụng và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh và quản lí. Nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm cũng như trong các quyết định quản lí, thực hiện thành công 3 chương trình kinh tế ngành.
+ Tập trung đầu tư để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của ngành, ưu tiên những vùng kinh tế trọng điểm các vùng miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Đưa nhanh các công trình vào sản xuất, bảo đảm hiệu quả đầu tư.
+ Tăng cường cải cách chính mới về tổ chức bộ máy đáp ứng với các yêu cầu hiện đại về quản lí nghề cá. Tăng cường đầu tư và đổi mới một cách cơ bản công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lí, cán bộ chuyên môn kĩ thuật giỏi và những người lao động nghề cá giỏi. Đổi mới cơ chế đào tạo, thi tuyển, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, tích cực giản biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức năng lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu giai đoạn mới.
+ Bảo đảm an toàn sản xuất và tham gia tích cực công tác quốc phòng và bảo vệ an ninh vùng biển.
4.2. Các chỉ tiêu chủ yếu.
Chỉ Tiêu
Đơn vị
2001
2005
1. Tổng sản lượng
Trong đó:
-Đánh bắt hải sản
-NTTS và khai thác nội địa
2. Kim ngạch xuất khẩu
3. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản
4. Tổng vốn đầu tư cho phát triển:
Nguồn vốn :
-Vốn ngân sách
-Tín dụng ưu đãi
-Tín dụng thưong mại
-Huy động
-Nước ngoài
5. Vốn đầu tư cho các chương trình
a.Chương trình khai thác hải sản xa bờ
b. Chương trình phát triển NTTS
c. Chương trình phát triển xuất khẩu TS
d. Tăng cường năng lực quản lí và đào tạo
Triệu tấn
nt
nt
Tỷ USD
1000 ha
Tỷ đồng
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
2,1
1,25
0,85
1,45
640
4105,5
739
1230
410
1313
413,5
909,9
2587
478,6
130
2,45
1,3
1,15
2,3-2,5
800
5038,4
906
1510
500
1610
512,4
633,8
3900
308,6
196
5. Nguồn nhân lực Việt Nam trong ngành thuỷ sản hiện nay
Vừa qua kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,475 tỷUSD cho đến ngày 31/12/2000. Đây thực sự là một mốc son lịch sử của ngành thuỷ sản; là kết quả đường lối đổi mới của Đảng; sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ; sự nỗ lực vươn lên của toàn thể lao động nghề cá trong cả nước và sự lãnh đạo đIều hành của Bộ Thuỷ sản.
Để thuỷ sản thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước và giúp Việt Nam trở thành một cường quốc về xuất khẩu các mặt hàng thuỷ hải sản, tạo ra nhiều công ăn việc làm thì vấn đề cơ bản là phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam so với khu vực và trên thế giới. Việt Nam có những yếu tố thuận lợi về sản xuất kinh doanh và xuất khẩu thuỷ sản như nguồn lao động dồi dào, 29/61 thành phố có biển, chiều dài bờ biển 3260km và hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ. Riêng về nguồn nhân lực, chúng ta hiện có một đội ngũ hùng hậu và đa dạng. Đó là:
+ Về số lượng:
Tổng số lao động thuỷ sản hiện nay (theo số liệu ước tính) là 3400000 người, trong đó:
Lao động khai thác hải sản: 484000 người.
Lao động nuôi trồng thuỷ sản: 668000 người.
Lao động chế biến thuỷ sản: 102000 người.
Lao động thương mại, hậu cần dịch vụ, cơ khí sửa chữa 2146000 người.
+ Lao động thuỷ sản trong các thành phần kinh tế :
Trong quốc doanh: khoảng 5-7%
Ngoài quốc doanh trên 90%
Qua khảo sát cuối năm 2000 của Công đoàn ngành thuỷ sản cho thấy rằng: trình độ mọi mặt của lao động thuỷ sản nhìn chung chưa cao, tuy rằng tỷ lệ lao động trẻ dưới 45 tuổi là khá cao, chiếm 93%.
Sản xuất thuỷ sản chủ yếu nằm ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo, nơi mà cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm vừa thiếu vừa yếu, trong khi đó trình độ dân trí thấp. Đặc điểm của lao động thuỷ sản thuộc nhóm nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm người lao động phải làm việc trong các điều kiện thiếu vệ sinh, nhiều rủi ro nguy hiểm do quá trình sản xuất nghề cá luôn gắn với sông nước và bị chi phối bởi thời tiết như giông bão, lũ lụt. Phần lớn lao động trong các lĩnh vực sản xuất thuỷ sản vẫn là lao động thủ công, điều kiện an toàn và vệ sinh kém. Trong nuôi trồng thuỷ sản thì người lao động phải tiếp xúc thường xuyên với môi trường nước, phần lớn là nước mặn, nước mất vệ sinh do chưa được xử lý, trang bị phòng hộ cá nhân còn thiếu. Trong chế biến thuỷ sản, một lĩnh vực có trình độ công nghệ cao nhất trong ngành thì điều kiện lao động có được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây do yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm và quá trình đổi mới công nghệ chế biến xuất khâủ.
Lao động thuỷ sản mang tính thời vụ rõ rệt. Do vậy người lao động có công việc thiếu ổn định, dễ mất việc. Thời gian làm việc vì thế có khi phải kéo dài từ 12 -14 giờ trong ngày nếu vào vụ thu hoạch. Điều kiện trường lao động có nhiều ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ công nhân như hơi khí độc, ẩm ướt, lạnh nhất là ở khâu chế biến, đại đa số công nhân chỉ đủ sức làm việc ở tuổi dưới 45.
+Về thu nhập và đời sống của người lao động:
Với thành phần kinh tế nhà nước, bình quân thu nhập đạt 601 ngàn đồng / người / tháng. Đối với khu vực ngoài quốc doanh hiện chưa có số liệu đầy đủ nhưng nhờ tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá mạnh, nhờ đầu tư của Chính phủ nên trang trại nuôi thuỷ sản phát triển khá mạnh. Có những trang trại thu nhập hàng trăm triệu đồng /ha/vụ nhất là ở các tỉnh trọng điểm thuỷ sản tại miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn chung đời sống người lao động thuỷ sản đã được nâng lên một bước so với trước đây.
B. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản nước ta trong những năm qua.
I. Vai trò cuả xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nứơc. Vì vậy, có thể nói vai trò của xuất khẩu là rấtquan trọng trong quá trình phát triển kinh tế.
1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Hiện nay, nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ...Thế nhưng các nguồn vốn trên đều phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Do đó, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Thời kỳ 1986-1990 ở nước ta nguồn thu về xuất khẩu bằng 3/4 tổng nguồn thu ngoại tệ. Và thu về xuất khẩu năm 1994 đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6% năm 1986.
2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thúc đẩy sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta.
Hiện nay, có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Một là, xuất khẩu chỉ việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và phát triển chậm chạp. Do đó, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế cũng sẽ rất chậm chạp.
Hai là, coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành thuỷ sản xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nuôi trồng thuỷ sản. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu có thể sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất , nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế -kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc canh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường.
+ Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua phụ thuộc lẫn nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại như tín dụng, đầu tư...lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Như vậy có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước thành công.
I. Tình hình sản xuất thuỷ sản trong nước.
1. Tình hình chung về xuất khẩu thuỷ sản.
Ngành thuỷ sản Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển và phát triển mạnh từ năm 1995 trở lại đây. Nhịp độ tăng sản lượng thuỷ sản trung bình hàng năm giai đoạn 1996-2000 là 12,3%. Năm 2000, sản lượng thuỷ sản cả nước đạt 2,22 triệu tấn, tăng 1 triệu tấn so với năm 1995. Năm 2001, sản lượng thuỷ sản cả nước đạt 2,4 triệu tấn, trong đó sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 1,74 triệu tấn, chiếm 72,5% tổng sản lượng thuỷ sản, thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,66 triệu tấn, chiếm 27,5%. Tính đến năm 2002, cả nước có 250 nhà máy chế biến thuỷ sản với năng lực chế biến gần 250 nghìn tấn sản phẩm xuất khẩu / năm(năm 2001, chế biến được 222,9 nghìn tấn). Trong đó có 68 doanh nghiệp đã được EU công nhận vào danh sách các nứơc xuất khẩu thuỷ sản sang EU và trên 100 doanh nghiệp áp dụng HACCP(Hệ thống phân tích tại điểm kiểm soát tơí hạn)đủ khả năng xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Trình độ công nghệ chế biến thuỷ sản của Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình của thế giới .
Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam thời kỳ 1991-2000 đạt mức trung bình hàng năm 20% năm. Năm 2000 kim ngạch xuất kẩu thuỷ sản đạt 1475 triệuUSD(tăng 6,2 lần so với năm 1990 ) và chiếm tỷ trọng 10,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoấ của Việt Nam. Với nhịp độ tăng trưởng cao và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu giá trị kim ngạch xuất khẩu, thuỷ sản thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước. Đến nay, thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở 60 nước trên thế giới. Trước đây thị trường Nhật Bản thường chiếm 50-60% xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, đến nay chỉ còn 30%. Từ tháng 8-2001, Mỹ đã thay thế Nhật Bản, trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam(năm 2001, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 471 triệuUSD, chiếm 26,2% còn xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đạt 500 triệu USD chiếm 28,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam ). Thị trường Trung Quốc đang nổi lên là một thị trường lớn thứ ba và đầy hứa hẹn đối với xuất khẩu thuỷ sản nước ta . Thị trường EU là khu vực thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới hiện nay, nhưng lại là thị trường khó tính nhất nên mặc dù những nỗ lực xúc tiến xuất khẩu rất lớn từ phía nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đến nay chúng ta chỉ có 68 doanh nghiệp đủ điều kiện tương đương theo Đạo luật 91/493/EC của Hội đồng EU. Vì thế xuất khẩu thuỷ ản của Việt Nam sang EU năm 1999 chỉ chiếm 9,6% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷsản của nước ta, năm 2000 giảm xuống còn 7%, năm 2001 còn 6%. Thị trường các nước NICs châu á và Đông Nam á là khu vực thị trường có mức tiêu thụ khá lớn các chủng loại thuỷ sản phù hợp với cơ cấu nguồn lợi thuỷ sản nước ta. Năm 2000 các nước và vùng lãnh thổ NICs như Hàn Quốc, Hồng Công, Đài Loan mỗi nơi nhập khẩu khoảng 5% tổng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Năm 2002 ngành thuỷ sản đã hoàn thành kế hoạch và vượt qua ngưỡng 2tỷ USD kim ngạch xuất khẩu trong điều kiện khan hiếm nguyên liệu, giá xuất khẩu giảm mạnh, các thị trường lớn gây khó khăn...Năm 2003 ngành thuỷ sản sẽ cố gắng đạt sản lượng 2,49 triệu tấn thuỷ hải sản, trong đó khai thác 1,4 triệu tấn, nuôi trồng 1,09 triệu tấn (tăng 11,6%) trên diện tích 1 triệu ha (tăng 4,7%). Để có thể phát triển bền vững khai thác xa bờ, cần phải thực hiện tốt việc điều tra dự báo nguồn lợi, tập trung tháo gỡ khó khăn lựa chọn và phát triển những mô hình hoạt động hiệu quả, tổ chức hợp tác với các nước trong khu vực như Ma- lai-xia, In-đô-nê-xia...Đặc biệt ngành sẽ tập trung đầu tư nâng cao năng lực hậu cần, tổ chức tốt khâu bảo quản sau thu hoạch tại tầu cá, cảng cá nhằm đảm bảo nguyên liệu tươi tốt khi về đến nhà máy chế biến hoặc bán cho người tiêu dùng.
Nuôi trồng thuỷ sản sẽ tiếp tục được chú trọng để trở thành nguồn cung cấp nguyên liệu chính cho chế biến xuất khẩu, thay thế dần nguồn khai thác biển đang cạn kiệt. Các địa phương trong cả nước sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển đổi đất canh tác nông nghiệp kém hiệu qủa sang nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là đẩy mạnh các dự án nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm trên cát, nuôi hải sản trên biển, nuôi cá tra cá basa, cá rôphi trong các vùng nước ngọt. Tuy nhiên, nếu không khắc phục trở ngại trong việc cung cấp giống với giá cả hợp lý và chuyển giao kỹ thuật nuôi cho ngư dân thì việc phát triển nuôi trồng sẽ khó có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Bên cạnh đó, Bộ Thuỷ sản sẽ sớm hoàn thành quy hoạch tổng thể ngành, đặc biệt là quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản vùng đồng bằng sông Cửu Long ...
Trước việc EU tăng cường kiểm tra 100% lô hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam nhằm phát hiện dư lượng kháng sinh, nhất là chloramphenicol và nitrofurans, Bộ Thuỷ sản đã tổ chức tốt công tác kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng các loại kháng sinh bị cấm vào nuôi trồng, bảo quản và chế biến thuỷ sản. Nhờ đó ngày 2/10/2002, EU đã quyết định bình thường hoá việc kiểm tra hàng thuỷ sản nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, từ 3/10 đến 4/12 họ đã tiếp tục phát hiện nhiều lô hàng xuất khẩu của ta chứa dư lượng 2 loại kháng sinh nguy hiểm trên và cảnh báo nếu số lô hàng bị phát hiện chứa dư lượng không giảm, sẽ phục hồi quyết định kiểm tra 100% lô hàng như trước Vấn đề là ở chỗ tuy EU chỉ chiếm tỷ lệ 5-6% giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, nhưng các thị trường khác đều rất coi trọng các tiêu chí đánh giá chất lượng của họ. Ngay sau khi EU tăng cường kiểm tra hàng thuỷ sản thì một loạt thị trường khác cũng có hành động tương tự. Như vậy, để đảm bảo uy tín chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam không thể không coi trọng công tác đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì thế một trong những nhiệm vụ năm nay của ngành thuỷ sản là ban hành chế tài xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuỷ sản, hoàn thiện các tiêu chuẩn vùng, cơ sở nuôi an toàn để có thể nhanh chóng truy nguồn gốc sản phẩm, nâng cấp năng lực kiểm tra cho Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản.
Nạn bơm chí._.ch tạp chất vào tôm nguyên liệu là vấn đề nhức nhối nhiều năm nay. Nếu không giải quyết dứt điểm vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm liên quan đến dư lượng kháng sinh và bơm chích tạp chất thì không thể tiếp tục duy trì tăng trưởng được vì hiện nay uy tín chất lượng của tôm Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Khách hàng Nhật Bản đã lên tiếng phàn nàn về chất lượng của tôm Việt Nam. Thế nhưng, giải quyết vấn đề này một doanh nghiệp không thể làm được, mà chính quyền các địa phương sẽ phải phối hợp chặt chẽ và đồng bộ với nhau, Nhà nước phải ban hành chế tài xử phạt nghiêm khắc.
Về phía các doanh nghiệp chế biến, chính bản thân họ cũng phải nhanh chóng đổi mới tư duy quản lý, nâng cấp nhà xưởng, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, đưa vào áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng theo HACCP...Hiện nay trong số 320 cơ sở chế biến thuỷ sản quy mô công nghiệp chỉ có 124 (38,75%) đạt tiêu chuẩn thực phẩm ngành; 68 (21,25%) được phép xuất khẩu sang EU; 128 (40%) áp dụng chương trình HACCP để xuất khẩu sang Mỹ. Mặt khác, ở nhiều cơ sở việc áp dụng HACCP vẫn mang tính hình thức. Do đó, vẫn tiếp tục tái diễn tình trạng hàng bị thị trường Mỹ trả về và cảnh báo do nhiễm khuẩn, ghi sai nhãn, chứa kháng sinh bị cấm.
Ngoài ra, để có thể mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng cạnh tranh của sản phẩm trên trường quốc tế, các xí nghiệp chế biến phải chủ động quy hoạch và phát triểnvùng nguyên liệu cho đơn vị mình. Các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản và EU vẫn tiếp tục phải duy trì nhưng bên cạnh đó phải xúc tiến mở rộng thị trường Trung Quốc và các thị trường khác Bộ Thuỷ sản sẽ phối hợp với các Bộ ngành liên quan để tìm biện pháp giải quyết vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa, chuẩn bị đối phó với vụ kiện bán phá giá tôm tại thị trường Mỹ.
Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp từ phát triển vùng nguyên liệu, nâng cao uy tín chất lượng sản phẩm tăng cường xúc tiến thương mại trong năm qua đã giúp ngành Thuỷ sản vượt qua khó khăn để giữ vững nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu, đạt mục tiêu kế hoạch 2,3 tỷUSD năm 2003, hướng tới 3 tỷUSD năm 2005 và 5 tỷUSD năm 2010.
2. Việc thực hiện chương trình xuất khẩu thuỷ sản.
Trong chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005 được Chính phủ phê duyệt vào những ngày cuối năm 1998, mục tiêu giá trị xuất khẩu thuỷ sản được xác định phải phấn đấu đạt 1,1 tỷUSD vào năm 2000 và 2,5 tỷUSD vào năm 2005. Nhưng thực tế cho thấy, những năm qua vào năm 2000 xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,475 tỷUSD năm 2001 đạt 1,7 tỷUSD, năm 2002 đạt 2tỷUSD. Như vậy có thể thấy xuất khẩu thuỷ sản đã ghi một dấu ấn đáng ghi nhớ, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thủy sản có sự thay đổi tỷ trọng cá và các sản phẩm giá trị gia tăng đều tăng; đa dạng hoá các mặt hàng chế biến xuất khẩu, tận dụng đưa vào chế biến và xuất khẩu nguồn nguyên liệu từ chương trình khai thác hải sản xa bờ; khai thông và mở rộng thị trường Mỹ EU Việt Nam đã có tên trong danh sách các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU. Hiện nay, có gần 70 đơn vị áp dụng HACCP(hệ thống phân tích tại điểm kiểm soát tới hạn) đủ điều kiện để mở rộng lối vào thị trường Mỹ - thị trường đầy tiềm năng về thuỷ sản .
Qua việc thực hiện Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản, cho thấy nhận thức về vị trí và sự cần thiết phải tăng cường phát triển xuất khẩu thuỷ sản đã có chuyển biến đáng kể trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo của nhiều địa phương, doanh nghiệp và cả của nông ngư dân. Nhiều tỉnh đã ưu tiên dành nguồn lực để phát triển thuỷ sản, một số tỉnh có nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản nhanh, đóng góp vào thành công chung trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản như Bình Định, Tiên Giang, Đồng Tháp, An Giang, CầnThơ, Cà Mau. Nhiều doanh nghiệp tích cực đầu tư nâng cấp và mở rộng cơ sở chế biến, trang bị các máy móc hiện đại, áp dụng cộng nghệ tiên tiến, đổi mới phong cách quản lí, đáp ứng yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm. Do đó làm tăng tính cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Đó là các doanh nghiệp đã chủ động làm tốt trong lĩnh vực này như Xí nghiệp chế biến hàng xuất khâủ Cầu Tre, Xí nghiệp chế biến thuỷ sản Thái Tân, Xí nghiệp đông lạnh 8. Nông và ngư dân ở nhiều địa phương nhất là các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ đã mạnh dạn bỏ vốn hoặc vay vốn phát triển nuôi tôm, tạo nguồn nguyên liệu cho các cơ sở chế biến. Vì vậy có thể nói Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đã thổi thêm luồng sinh khí mới vào phong trào nuôi trồng thuỷ sản trong cả nước, tạo ra một khối lượng lớn nguyên liệu ổn định, đạt yêu cầu chất lượng để chế biến xuất khẩu.
Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, một lực lượng đông đảo các tổ chức, doanh nghiệp, dự án trong nước và quốc tế đã được tập hợp nhằm phục vụ công tác xuất khẩu thuỷ sản, từ việc xây dựng các đề án, chương trình phát triển của địa phương đến qui hoạch , phát triển thị trường, sắp xếp đổi mới doanh nghiệ, đào tạo, hợp tác với nước ngoài. Chính sức mạnh tổng hợp này đã đem lại sự khởi sắc đáng mừng cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong những năm qua.
Tuy nhiên, nhìn lại việc thực hiện Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản càng thấy rõ những khó khăn bất cập trong công tác quản lí điều hành của Ban chỉ đạo chương trình ở cấp ngành cũng như các địa phương. Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản của các địa phương tuy đã được xây dựng nhưng nhìn chung bị hạn chế về chất lượng, lúng túng trong định hướng và cách làm. Nhiều địa phương chưa có qui hoạch chung về phát triển thuỷ sản cũng như qui hoạch cụ thể các vùng nuôi tôm và mạng lưới công nghiệp chế biến thuỷ sản, hoặc qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương tuy đã được thông qua nhưng không còn phù hợp với xu thế phát triển và cơ chế quản lí mới, năng lực xây dựng dự án còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển.
3. Một số vấn đề trong sản xuất các mặt hàng thuỷ sản ở nước ta hiện nay.
Đối với nước ta nông nghiệp chiếm một vai trò quan trọng, cho nên việc phát huy tiềm năng về lĩnh vực chế biến nông - thuỷ sản là điều kiện hiển nhiên của một nước đang phát triển với chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Đóng góp của Thuỷ sản so với Nông sản
Năm
1996
1997
1998
1999
% so với nông sản
42,3
38,2
39,7
39,2
Nhìn ở bảng trên ta thấy sự đóng góp của thuỷ sản so với nông sản hàng năm không phải là nhỏ. Song một điều đáng tiếc là cho đến nay các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng thô mới qua sơ chế nên giá trị không cao. Do đó vô hình chung mà chúng ta đã bỏ phí một lượng của cải vật chất tương đối lớn. Nguyên nhân tạo nên tình trạng trên thì rất nhiều nhưng chủ yếu là:
Không được đầu tư một cách thích đáng vào các nhà máy chế biến thuỷ sản.
Hệ thống máy móc của các nhà máy chế biến chủ yếu đã xuống cấp Đây là vấn đề tương đối bức bách bởi các thiết bị máy móc của các nhà máy chủ yếu từ thời bao cấp để lại. Các phân xưởng xây dựng đã lâu nay không còn phù hợp với sản xuất, cụ thể là không còn phù hợp về an toàn vệ sinh thực phẩm. Thế nhưng cũng có một số nhà máy năng động, kịp thời xây dựng và mua trang thiết bi mới, đồng thời nâng cấp các phân xưởng, áp dụng các tiêu chuẩn về vệ sinh như: GMP (thực hành sản xuất tốt) HACCP(hệ thống phân tích tại điểm điểm kiểm soát tơí hạn) hay SSOP (tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm) nhưng nhìn chung vẫn còn rất rời rạc. Trong khi đó khách hàng nước ngoài chủ yếu đến với những nhà máy đã được chứng nhận về tiêu chuẩn vệ sinh quốc tế.
Một thực tế đang diễn ra là các doanh nghiệp thiếu tính đoàn kết trong sản xuất và kinh doanh, làm ăn theo kiểu chụp giật, từ đó ảnh hưởng mạnh đến uy tín của ngành thuỷ sản Việt Nam . Chính vì vậy, các ngành, các cấp có chức năng cần có biện pháp nghiêm khắc để xử lí những trường hợp cố tình làm ăn chụp giật kiểu trên.
Thêm vào đó tình trạng: “cá lớn nuốt cá bé ’’ những doanh nghiệp lớn có uy tín, được đầu tư, được cấp chứng chỉ quốc tế về vệ sinh, rõ ràng đơn đặt hàng phải nhiều, nhiều khi không đủ cung cấp về số lượng và chủng loại vì vùng biển Việt Nam là vùng biển nhiệt đới, nên nguyên liệu dù đa dạng song không đồng đều và không ổn định, thành ra các nhà máy không đáp ứng nổi số lượng mà khách hàng yêu cầu, vì uy tín lại không được từ chối, nên chấp nhận và sau đó đi đến các xí nghiệp nhỏ đặt hàng. Do đó các doanh nghiệp lớn o ép về giá cả, chất lượng đối với các xí nghiệp nhỏ. Nếu
không gia công thì các xí nghiệp này lấy gì trả lương cho công nhân, cho các chi phí khác như hao mòn nhà cửa, máy móc thiết bị. Vì vậy , chúng ta phải tạo ra một khối thống nhất về hành động ở các nhà máy chế biến.
Hiện nay, nước ta đã đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Nhất là năm 1998 ngành thuỷ sản Việt Nam đã làm được một bước đột phá, đó là thâm nhập vào thị trường Mỹ. Đây không những là một thị trường rộng lớn mà còn hào phóng và nhiều tiềm năng. Hơn nữa vị trí của các mặt hàng chế biến thuỷ sản trong đời sống hiện nay càng ngày càng được nâng lên, rất phù hợp với xu hướng ẩm thực chung. Đó là giảm tiêu dùng các thực phẩm chứa nhiều chất béo, tăng thực phẩm chứa nhiều chất đạm . Hàng thuỷ sảnViệt Nam được nhập khẩu trực tiếp vào Mỹ, Châu Âu (9,8 và 11,3% ) điều đó nói lên sự nỗ lực của bộ, ngành thuỷ sản và các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản trong những năm gần đây. Trong tương lai chúng ta có quyền tin tưởng rằng ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ là ngành mũi nhọn thực sự, vững vàng thực sự trong mọi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt , đồng thời là ngành tiên phong của đất nước trong quá trình hội nhập, giao lưu theo xu hướng chung “ toàn cầu hoá “ nền kinh tế thế giới.
4 . Những thuận lợi trong vấn đề xuất khẩu thuỷ sản
Có thể nói chưa bao giờ xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam lại gặp khó khăn như trong năm 2002. Trước hết, đó là việc Liên minh châu Âu (EU) tăng cường kiểm tra dư lượng kháng sinh 100% lô hàng tôm nhập khẩu, khiến một loạt các thị trường khác như Mỹ, Ca-na -đa và Nhật Bản cũng áp dụng quy định tương tự. Tiếp đến, tại thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mỹ, Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) kiện các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa Việt Nam bán phá giá.Tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản năm qua vẫn tăng mạnh cả về lượng và chất, đạt hơn 2 tỷ USD -tăng 2 lần trong vòng 3 năm .
Nếu xuất khẩu thuỷ sản trong nửa cuối năm 2002 cứ như những tháng đầu năm, thì ngay cả những người lạc quan nhất cũng không dám dự đoán sẽ hoàn thành mục tiêu 2 tỷUSD. Sáu tháng đầu năm các doanh nghiệp thuỷ sản mới xuất khẩu được 845 triệuUSD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2001. Điều đó có nghĩa để hoàn thành kế hoạch năm, mỗi tháng còn lại phải xuất khẩu 195-200 triệuUSD. Thế nhưng, những nỗ lực của ngành thuỷ sản đã được đền đáp xứng đáng.
Thứ nhất, xuất khẩu thuỷ sản tăng cả khối lượng và giá trị, năm 2002 tăng gần 20% về lượng và 15% về giá trị so với năm 2001. Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 tăng 2,2 lần năm 1999 và gấp 1,5 lần năm 2000 .
Thứ hai , sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam đã tăng đáng kể. Ngư dân Việt Nam đã tận dụng tốt lợi thế so sánh để phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đa dạng hoá đối tượng nuôi có giá trị xuất khẩu, làm ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ và khối lượng lớn.
Đặc biệt sản phẩm philê chế biến từ cá tra, cá basa của vùng Cửu Long hiện được coi là mặt hàng không có đối thủ cạnh tranh về mặt chất lượng và giá cả trên thị trường quốc tế, kể cá nheo nuôi tại Mỹ. Trái ngược với lo ngại của nhiều người là thị trường xuất khẩu cá tra cá basa sẽ xấu đi do ảnh hưởng của vụ kiện chống phá giá tại Mỹ, khối lượng đặt hàng vẫn tăng mạnh với giá tăng 5-10%. Từ chỗ chỉ tiêu thụ ở vài thị trường, trong đó Mỹ chiếm tới 80-90% đến nay sản phẩm philê từ 2 loài cá nước ngọt này đã được xuất sang gần 30 thị trường trong đó có Nhật Bản, Trung Quốc, Thuỵ Sỹ, Ô-xtrây-lia ...
Ngoài mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn (55,1%) là tôm, cá cũng đang trở thành mặt hàng xuất khẩu mạnh của Việt Nam với tỷ trọng tăng từ 13% năm 1999 lên 20% năm 2002.
Thứ ba, các doanh nghiệp chế biến đã tích cực đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất, áp dụng chương trình quản lý chất lượng sản phẩm theo HACCP, quản lý chất lượng theo ISO 9001 .
Thứ tư, thị trường xuất khẩu ngày càng rộng mở. Từ chỗ chỉ có 45 thị trường trong năm 1997, đến năm 2002 con số này đã tăng lên trên 80. Xuất khẩu sang 2 thị trường lớn là Mỹ và Nhật Bản lần lượt là 34%(680 triệuUSD) và 28% (560 triệuUSD) trong tổng kim ngạch xuất khẩu.Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đã nổi lên là những thị trường lớn. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2002 sang Trung Quốc trị giá trên 300 triệuUSD (15%), sang Hàn Quốc 100triệuUSD (5%) và Đài Loan 100 triệuUSD (5%). Trong khi đó giá trị xuất khẩu sang 15 nước thành viên EU giảm gần 30% chỉ đạt khoảng 80 triệu USD
Trong năm 2002, trước khó khăn về nguồn nguyên liệu cho chế biến và thị trường có nhiều bất lợi, ngành Thuỷ sản đã thực hiện đồng bộ một loạt giải pháp: Xây dựng những vùng nuôi an toàn, với việc áp dụng và hướng dẫn người nuôi thực hiện các quy định nuôi sạch và an toàn; Tăng cường kiểm soát việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh, thức ăn và hoá chất dùng trong nuôi trồng, bảo quản và chế biến thuỷ sản. Các chi nhánh Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản đã được đầu tư nâng cấp thiết bị kiểm tra dư lượng kháng sinh với giá trị 27 tỷ đồng. Ngành còn đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, với việc tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát thị trường và tham dự hội chợ thương mại tại Mỹ, Trung Quốc, Pháp ...
Với khả năng vượt qua những thử thách khắc nghiệt như năm qua, có cơ sở để tin rằng ngành thuỷ sản tiếp tục giữ vững nhịp độ tăng trưởng, đạt mục tiêu 2,3 tỷ USD trong năm 2003 .
5 . Những khó khăn trong vấn đề xuất khẩu thuỷ sản
Để hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch của năm 2003 -năm bản lề mang tính quyết định bảo đảm cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm chương trình xuất khẩu thuỷ sản 2001-2005 -mà còn cả cho những giai đoạn tiếp sau; chúng ta cần phải nhận thức một cách rõ ràng những gì có thể là khó khăn, trở ngại trên con đường xuất khẩu.Đó là:
Trước hết, cần nói đến những gì chưa hoàn thiện trong những điểm tựa cơ bản nhất của sự phát triển ngành. Luật Thuỷ sản đã được xây dựng để trình Quốc hội và chắc sẽ được phê duyệt trong thời gian trước mắt. Song việc thể hiện nó bằng những qui phạm quản lí dưới luật và đưa vào thực tiễn không phải là điều có thể làm được ngay. Sẽ có những thay đổi trong quan điểm và thực tiễn quản lí việc sử dụng nguồn lợi, phát triển thủy sản một cách bền vững. Điều đó sẽ còn khó khăn hơn khi mà cơ cấu bộ máy quản lí ngành, từ trung ương đến địa phương còn đang trong quá trình chuyển đổi và sự thiếu vắng cơ quan chuyên ngành ở cấp cơ sở đối với hoạt động sản xuất ở cấp xã, huyện, thậm chí là ở cả nhiều tỉnh trên cả nước . Trong bối cảnh như vậy, qui hoạch tổng thể -căn cứ pháp lí cơ bản nhất cho việc hoạch định những chương trình, kế hoạch phát triển, những chỉ tiêu cơ bản trong một giai đoạn dài cũng chưa được phê duyệt, mặc dù đã qua nhiều lần tu chỉnh. Sự vắng mặt của một qui hoạch tổng thể như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc hạn chế tính tự phát trong quá trình phát triển. Dù những hạn chế, khó khăn nêu trên có ảnh hưởng đến công tác quản lí và hoạch định chính sách của ngành trong thời gian trước mắt, song nó đã được nhận biết và đang được tích cực khắc phục, vì vậy chắc chắn sẽ không phải là khó khăn lâu dài. Nhưng dẫu sao, ngay trong thời gian đầu của năm nay cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến tính ổn định của việc thực hiện các kế hoạch phát triển.
Nhóm khó khăn thứ hai đến từ chính sự trưởng thành vượt bậc của ngành trong thời gian qua. Về phía bên trong, sự tăng trưỏng của ngành, mà chủ yếu dựa trên một nghề “khai thác các tiềm năng của thiên nhiên “ đã dẫn chúng ta nhanh chóng tiếp cận đến giới hạn của sự bền vững. Những thông báo mới đây về tình hình nguồn lợi biển vùng gần bờ cho thấy đã đạt tới hoặc vượt quá giới hạn cho phép. Quỹ diện tích có thể chuyển đổi cho nuôi trồng đang dần tiến tới giới hạn. Tính hiệu quả trong khai thác xa bờ cũng đang là vấn đề tranh luận. Chúng ta cố gắng để phát triển nuôi các đối tượng mới, nhưng vấn đề sản xuất đủ con giống đòi hỏi những nỗ lực rất lớn. Thêm vào đó, sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành thuỷ sản Việt Nam, nhất là về kim ngạch xuất khẩu, cũng dẫn tới nhiều khó khăn từ bên ngoài. Theo số liệu thống kê, các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn, có kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ đôla bao giờ cũng phân thành 2 nhóm rõ rệt. Nhóm dẫn đầu chỉ khoảng 5 quốc gia, luôn giữ khoảng cách khá xa (khoảng 1tỷ đôla ) so với nhóm thứ hai, là nhóm các nước có kim ngạch xuất khẩu từ 1,8 tỷ đôla trở xuống. Năm 2002 chúng ta đã vượt qua nhóm này để bước vào khoảng giữa 2 nhóm và trong thời gian tới sẽ tiến vào nhóm dẫn đầu. Vì vậy, cách cư xử của các quốc gia khác đối với chúng ta không thể như trước. Bây giờ, một mặt họ sẽ kính nể, ca ngợi chúng ta nhiều hơn mặt khác cũng có sự e ngại nhiều hơn thậm chí là có những tác động ngăn cản sự phát triển của ngành thuỷ sản nước ta. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy như tranh chấp về thương hiệu, kiện về bán phá giá, gia tăng các điều kiện về kĩ thuật như đã và đang xảy ra.Nếu chúng ta muốn gia tăng nuôi tôm nhưng lại phụ thuộc về con giống, thức ăn ...vào những bạn hàng mà chính họ cũng là người nuôi xuất khẩu thì không thể lúc nào chúng ta cũng thu được thành công như mong muốn. Như vậy, để phát triển một cách bền vững, lâu dài đòi hỏi chúng ta phải vượt lên, đạt được sự độc lập tiên tiến trong nhiều lĩnh vực như sản giống, thức ăn, công nghệ. Cũng chính trong sự tăng trưởng nhanh chóng của xuất khẩu đã buộc chúng ta phải nhận thức được một vấn đề quan trọng: tỷ trọng sản lượng nguyên liệu được sử dụng cho chế biến xuất khẩu ngày một cao hơn trong tổng sản lượng. Để duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng sản lượng nguyên liệu, đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ bản công nghệ chế biến để sử dụng ít nguyên liệu hơn nhưng lại đạt giá trị cao hơn.
Nhóm khó khăn thứ ba, đó là hiệu quả đầu tư cho sản xuất khai thác nuôi trồng và chế biến ngày một thấp dần, khiến lợi thế trong đầu tư của ngành ngày một ít hấp dẫn hơn. Trong chế biến, không chỉ đầu tư cho nhà xưởng, thiết bị hiện đại ...mà còn phải đầu tư cho các hệ thống bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bao bì, thương hiệu...Thêm vào đó nguồn nhân lực ngày càng hiếm hoi, khó đáp ứng hơn cho việc mở rộng quy mô sản xuất. Do đó chúng ta thấy xuất hiện tình trạng các nhà đầu tư ngày càng chú trọng tìm kiếm, mở rộng các cơ sở nuôi trồng hơn là phát triển chế biến. Lĩnh vực khai thác lại càng khó thu hút đầu tư hơn nữa do tính bấp bênh của nguồn lợi tính mạo hiểm trong nghề nghiệp trong khi đó giá sản phẩm ngày càng giảm chi phí xăng dầu, điện nước ngày càng gia tăng.
Như vậy, có thể nói duy trì sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu là một điều rất khó. Chính vì vậy mà chúng ta phải dự đoán trước những khó khăn để tìm biện pháp khắc phục sớm thì sự tăng trưởng mới đảm bảo được tính bền vững, dài lâu.
6 . Đôi điều về một doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản đạt hiệu quả
Đó chính là Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Cầu Tre thuộc Tổng công ty thương mại Sài Gòn, là một doanh nghiệp nhà nước, được thành lập từ tháng 1/1993. Ngành sản xuất kinh doanh là: Sản xuất chế biến thuỷ súc sản ( đông lạnh và khô ), nông sản thực phẩm tươi và khô phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Trong 5 năm (1996-2000) Xí nghiệp đã có tốc độ tăng trưởng rất nhanh về doanh thu, kim ngạch xuất khẩu ...Giá trị tổng sản lượng thực hiện năm 2000 là 184,562 triệu đồng so với năm 1996 tăng 224%. Tương ứng: kim ngạch xuất khẩu đạt 14,170 triệuUSD, tăng 188%; hàng chế biến tiêu thụ nội địa đạt 31 tỷ đồng, tăng 34%.
Sở dĩ Xí nghiệp đạt được những thành quả đáng khích lệ nói trên là nhờ những yếu tố cơ bản mà xí nghiệp tích cực phấn đấu:
Xí nghiệp đã định hướng đúng trong pháy triển sản xuất kinh doanh là tập trung sản xuất sản phẩm giá trị cao.
Hàng năm Xí nghiệp xây dựng kế hoạch có tính khả thi cao dựa trên sự đánh giá đúng mức tiềm năng và triển vọng.
Xí nghiệp đã tập trung đổi mới công nghệ, đổi mới quản lí chất lượng theo các yêu cầu khó tính của các thị trường như Mỹ, EU...
Đa phương hoá và cơ cấu thị trường phù hợp nhằm tránh rủi ro khi có biến động kinh tế.
Cơ cấu mặt hàng liên tục được đa dạng hoá, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, tận dụng năng lực sản xuất.
Coi trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn cho công nhân.
Ban Giám đốc, Đảng bộ, Công đoàn ...là một khối đoàn kết.
7. Những bài học kinh nghiệm trong chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Những năm gần đây, sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản có sự tăng trưởng vượt bậc. Do đó, từ thực tế phát triển xuất khẩu thuỷ sản chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong hoạt động chế biến xuất khẩu:
+ Về thị trường và hội nhập
Thị trường tiêu thụ quan trọng của chúng ta là thị trường nước ngoài, bất cứ biến động nào của thế giới cũng có thể ảnh hưởng đến sản xuất trong nước nếu ta không chủ động hội nhập. Thực tế đòi hỏi cơ quan nhà nước, bao gồm cả hệ thống cơ quan tổ chức, năng lực cán bộ cũng như luật pháp chính sách phải đi trước trong quấ trình hội nhập. Các vấn đề công nghệ, môi trường chính sách cũng phải vươn lên theo kịp yêu cầu hội nhập.
+ Về huy động sức dân
Hiện nay, trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang tăng lên rất nhanh, chiếm khoảng 30% doanh số xuất khẩu thuỷ sản. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp quốc doanh làm ăn có hiệu quả đã thực sự đi đầu chủ đạo trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản.
+ Về tổ chức hệ thống quản lý
Khi chúng ta tăng cường quản lý ra tất cả các vùng sản xuất nguyên liệu thì nhất thiết phải có cơ quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm ở địa phương. Vì vậy, chủ trương cải cách hành chính, tinh giản biên chế là cần thiết, nhưng phải xuất phát từ yêu cầu quản lý trong thời kỳ mới.
Bước vào thế kỷ XXI, thế và lực của ngành thuỷ sản đã thay đổi môi trường và bối cảnh trong nước, quốc tế cũng có nhiều thay đổi. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những bài học kinh nghiệm của thời kỳ qua và tiếp tục đổi mới để tìm ra những con đường phát triển mới.
8. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong xuất khẩu.
Năm 2002 là năm ngành thuỷ sản gặp nhiều khó khăn trong việc đối phó với rào cản kỹ thuật do các nước nhập khẩu đặt ra; như do phát hiện dư lượng các chất kháng sinh ( chloramphinecol, nitrofurans...) trong sản phẩm thuỷ sản. Cơ quan có thẩm quyền EU ra quyết định tiến hành kiểm tra 100% lô hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam, việc Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá da trơn. Hiện nay, Mỹ đang chuẩn bị kiện Việt Nam và một số nước xuất khẩu thuỷ sản khác bán phá giá tôm. Tuy vậy, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ Thuỷ sản, đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Thuỷ sản với các Bộ Y Tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thương mại cùng với sự chỉ đạo kịp thời của UBND các tỉnh, thành phố đã nhanh chóng giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuỷ sản Việt Nam bước đầu giải quyết việc quản lý sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc kháng sinh bị cấm. Những biện pháp tích cực của nước ta đã làm cho cơ quan có thẩm quyền EU bãi bỏ quyết định kiểm tra 100% lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. Các doanh nghiệp chế biến đã sát cánh cùng nhau vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản năm 2002. Qua đó cho thấy chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm là cửa mở cho xuất khẩu và hoà nhập với thế giới.
III . Thị trường xuất khẩu thế giới.
1 . Thị trường thuỷ sản thế giới và hướng mở rộng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Thời gian qua, mậu dịch thuỷ sản thế giới vẫn trong xu hướng gia tăng nhờ nhu cầu tăng trên phạm vi toàn thế giới. Các nước tiêu thụ lớn đóng vai trò chi phối thị trường như Mỹ, Nhật Bản, EU. Các khu vực thị trường khác cũng có mức tiêu thụ đáng kể như Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc ...Châu á là khu vực khai thác và xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới trong đó có Thái Lan, Ân Độ, Việt Nam ...Nhờ kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 13 và đứng vào danh sách các nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới.
Hiện nay, nguồn cung thuỷ sản trên thế giới chủ yếu vẫn do sản lượng đánh bắt, sản lượng nuôi trồng tuy có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ Một số loại thuỷ sản quý hiếm có nhu cầu tăng cao trong khi khả năng cung cấp không theo kịp làm giá có chiều hướng tăng. Những năm gần đây, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam liên tục tăng nhanh về kim ngạch và trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của cả nước; cũng như các nước đang phát triển khác ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, xuất khẩu thuỷ sản đã trở thành một nguồn thu ngoại tệ quan trọng của mỗi quốc gia. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất của các nước khu vực Châu á, các thị trường khác phải kể đến EU, Mỹ...Hàng thuỷ sản của Việt Nam đang xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau, nhưng tập trung vào Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc. Tôm và cá là những nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Mặt hàng tôm của Việt Nam đang xuất khẩu vào Mỹ vừa có khối lượng lớn vừa có giá trị cao do có ưu thế so với một số nước khác về kích cỡ sản phẩm, có uy tín về chất lượng. Hiện nay, nhu cầu nhập khẩu tôm vào Mỹ còn rất lớn, nước ta có thể tăng xuất khẩu vào Mỹ bằng cách các cơ sở chế biến trong nước không ngừng nâng cao năng lực chế biến phục vụ xuất khẩu.Cá tra và cá basa của Việt Nam đã được người tiêu dùng Mỹ quen sử dụng.Các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam muốn thành công trên thị trường như Mỹ cần phải chú trọng những yếu tố:Đầu tư xây dựnh hệ thống kho bãi hiện đại, chú trọng xây dựng thương hiệu, chú trọng sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao ...Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải có trong tay chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng HACCP- đây là điều kiện bắt buộc để giao dịch với khách hàng chính yếu trên thị trường Mỹ .
Thuỷ sản Việt Nam (đặc biệt là tôm) xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đang được giới tiêu dùng đánh giá cao, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đật khoảng 350 triệu USD/ năm . Hàng thuỷ sản của Việt Nam đang xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản bao gồm nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp của ta cần triển khai mạnh các chương trình phát triển những nhóm sản phẩm chủ lực, chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và nghiên cứu khách hàng...Thị trường Nhật Bản rất chú trọng những sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm cao. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ Luật kiểm dịch và Luật vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản để xâm nhập vào thị trường này một cách tốt hơn.
Việt Nam chính thức xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU từ năm 1997. Hiện nay, EU là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn của Việt Nam, chiếm khoảng 15% xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Trong những năm gần đây, có những yếu tố thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào EU. Đó là:
Tháng 11/1999 EU chính thức công nhận Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản Việt Nam có đủ điều kiện được Eu uỷ quyền kiểm tra hàng thuỷ sản trước khi xuất khẩu vào EU.
EU đã đưa hàng thuỷ sản Việt Nam vào danh sách ưu tiên hạng I các nước được xuất khẩu thẳng vào thị trường EU mà không cần có những thoả thuận song phương với từng nước như khi ở danh sách II.
Tháng 4/2000 EU đã thông qua quyết định về những điều kiện cụ thể cho việc nhập khẩu nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, loài có vỏ, loài da gai và loài chân bụng sống ở biển của Việt Nam.
Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ ba trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này năm 2001 đạt gần 30 triệu USD . Đây là khu vực thị trường rất có tiềm năng cho xuất khẩu thuỷ sản của nước ta trong thời gian tơí . Để có thể xuất khẩu được lâu dài , các doanh nghiệp của ta cần lựa chọn một số đối tác là các đại lý, các công ty tư nhân hay công ty địa phương ở Trung Quốc có uy tín. Tuy nhiên cũng có những trở ngại trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Trung Quốc, trong đó trở ngại lớn nhất là phương thức thanh toán. Đó là việc Chính phủ Trung Quốc áp dụng chính sách kiểm soát lưu thông ngoại tệ khắt khe, việc thanh toán bằng tiền mặt trong giao dịch gặp nhiều rủi ro ...
Trong những năm tới, nhu cầu về cá nói riêng và thuỷ sản nói chung của thế giới sẽ tăng chủ yếu do tăng chủ yếu do dân số tăng, thu nhập bình quân đầu người cao, tốc độ đô thị hoá tăng nhanh trên phạm vi toàn thế giới. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của thuỷ sản trong việc cung cấp nhu cầu thực phẩm cho người dân.
2. Thị trường Mỹ
2.1 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và triển vọng xuất khẩu thuỷ sản.
Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hiện nay, Mỹ được đánh giá là thị trường đầy triển vọng đứng sau Nhật Bản. Trong định hướng phát triển giai đoạn 2005-2010 của ngành thuỷ sản Việt Nam, thị trường Mỹ sẽ chiếm tỷ trọng 25-28% vào năm 2010. Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu vào Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp, chỉ có 6 triệu USD. Từ đó đến nay giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm. Năm 1998 lên tới 82 triệu USD, đưa nước ta lên vị trí thứ 19 trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập từ nước ta 130 triệu USD thuỷ sản các loại, năm 2000 đạt 302,4 triệu USD, năm 2001 đạt 482 triệu USD. Hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ tập trung chủ yếu là tôm đông lạnh, cá ngừ tươi , cá biển đông lạnh ...
Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ gắn liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ, đặc biệt sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được kí kết vào ngày 13/7/2000. Sự kiện đó đã mở ra những cơ hội kinh doanh lớn cần được chuẩn bị nắm bắt ngay đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với Việt Nam và các nước xuất khẩu thuỷ sản khác, Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới và cũng là thị trường tiêu thụ đa dạng về mặt hàng, giá trị chất lượng. Ngay sau khi Hiệp định Thương mại song phương có hiệu lực, qui chế tối hậu quốc (MFN) trong thương mại hàng hoá sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường đầy hấp dẫn này với sự ưu đãi về mức thuế nhập khẩu MFN, chẳng hạn đối với cua thuế suất MFN là ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33799.doc