Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định của Công ty cổ phần cơ khí Yên Thọ thời kỳ 2004-2007

A. LỜI NÓI ĐẦU Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta hiện nay thì nhu cầu về các sản phẩm cơ khí chất lượng đảm bảo và giá thành hợp lí ở trong nước là rất lớn. Nó chính là một phần tất yếu để tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước nhằm mục đích cạnh tranh và khẳng định thương hiệu hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Nắm bắt được tính cần thiết của lĩnh vực cơ khí nên năm 2004 công ty cổ phần cơ khí Yên Thọ đã được thành lập, mục đích của công

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định của Công ty cổ phần cơ khí Yên Thọ thời kỳ 2004-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty là cung cấp cho thị trường trong nước những sản phẩm cơ khí đủ tiêu chuẩn chất lượng và giá thành cạnh tranh. Trong lĩnh vực cơ khí thì yếu tố quan trọng để tạo ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp là tài sản cố định. Do đó, công ty cổ phần cơ khí Yên Thọ cũng không phải là ngoại lệ nên cả về chất lượng và hiệu quả của tài sản cố định luôn được ban lãnh đạo công ty đánh giá rất cao. Do tính chất rất quan trọng của tài sản cố định đối với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên em lựa chọn đề tài: “Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định của Công ty cổ phần cơ khí Yên Thọ thời kỳ 2004-2007”. Trong đề tài, em có trình bày một số vấn đề về tài sản cố định và phân tính yếu tố này trong công ty, cụ thể gồm: Chương I: Lý luận chung về tài sản cố định của doanh nghiệp. Chương II: Hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp thống kê nghiên cứu qui mô, cơ cấu, và hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định của Công ty cổ phần cơ khí Yên Thọ thời kỳ 2004 -2007 Do điều kiện thời gian và kiến thức còn hạn chế nên đề tài còn nhiều thiếu sót, em rất mong được sự góp ý và chỉ bảo của các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn. B. NỘI DUNG CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP. I. Tài sản cố định: 1. Khái niệm về tài sản cố định: Tài sản cố định là bộ phận quan trọng trong quá trình sản xuất, thường có giá trị lớn và được sử dụng lâu dài (thường là trên một năm). Trong quá trình sản xuất kinh doanh, hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi đồng thời giá trị của nó được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm. Theo quan điểm của thống kê công nghiệp, tài sản cố định còn phải đảm bảo một số điều kiện khác như là: Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản (đối với TSCĐ hữu hình) hay do tài sản mang lại (đối với TSCĐ vô hình). Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy. Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo qui định hiện hành. 2. Tầm quan trọng của TSCĐ trong doanh nghiệp: Tài sản cố định là một phần không thể thiếu của bất kỳ một doanh nghiệp nào, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất. Để sản xuất kinh doanh, bên cạnh lao động, đối tượng lao động, doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động và tài sản cố định là một bộ phận của tư liệu lao động. Trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, cùng với sức lao động, tài sản cố định tham gia trực tiếp và quá trình sản xuất để góp phần biến những tư liệu đầu vào thành sản phẩm đầu ra đồng thời chuyển một phần giá trị của mình vào sản phẩm đầu ra đó để tạo ra giá trị mới (cả về mặt giá trị và giá trị sử dụng cho sản phẩm), từ đó tạo ra doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Không chỉ vậy, việc sử dụng TSCĐ vào mục đích sản xuất ra của sản phẩm tạo doanh thu cho doanh nghiệp cũng là quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Do đó, nó cũng chính là một phần rất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Vì thế, việc nghiên cứu về TSCĐ là rất quan trọng cần thiết. II. Phân loại tài sản cố định: Tài sản cố định trong doanh nghiệp có nhiều loại, mỗi loại đều có những tính chất và công dụng riêng. Để thuận tiện cho công tác quản lý, hạch toán và nghiên cứu về TSCĐ thì ở doanh nghiệp thường phân loại theo một số tiêu thức cơ bản: Theo hình thái biểu hiện: TSCĐ của một doanh nghiệp theo hình thái biểu hiện thường được phân thành hai loại là TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. 1.1. TSCĐ hữu hình: Là những tài sản tồn tại dưới các hình thức vật chất cụ thể. Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng thì TSCĐ hữu hình của doanh nghiệp được phân thành các loại: - Nhà cửa, vật kiến trúc: gồm nhà làm việc, nhà kho, xưởng sản xuất, cửa hàng, tháp nước, bể chứa, sân phơi, đường xá, cầu cống, hàng rào…phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Máy móc, thiết bị: gồm các loại máy móc, thiết bị dùng trong sản xuất, kinh doanh. - Phương tiện, vận tải truyền dẫn: gồm ôtô, máy kéo, tàu thuyền, toa xe, hệ thống thiết bị truyền dẫn như băng tải, hệ thống đường ống dẫn nước, dẫn nhiên liệu, hệ thống đường dây điện, truyền thanh thông tin … - Thiết bị, dụng cụ quản lý: gồm các thiết bị, dụng cụ phục vụ cho việc quản lý kinh doanh, quản lý hành chính như các thiết bị điện tử, dụng cụ đo lường, máy vi tính, máy fax… - Cây lâu năm, súc vật làm việc: gồm các loại cây lâu năm (chè, cao su, cà phê…) và xúc vật làm việc (trâu, bò, ngựa, voi cày kéo). - Tài sản cố định hữu hình khác: gồm các loại tài sản cố định chưa được xếp vào các loại trên như tác phẩm nghệ thuật, sách chuyên môn kỹ thuật. TSCĐ hữu hình của doanh nghiệp có những đặc điểm: Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, kinh doanh mà vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho đến khi hư hỏng và bị loại bỏ. Trong quá trình sử dụng, TSCĐ hữu hình bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi phí sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2. TSCĐ vô hình: Là các tài sản không tồn tại dưới các hình thái vật chất cụ thể, nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm vững, sử dụng trong sản xuất kinh doanh hoặc cho các đơn vị khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận của chúng. Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng thì TSCĐ vô hình của doanh nghiệp được phân thành: - Quyền sử dụng đất có thời hạn: bao gồm số tiền doanh nghiệp đã chi ra để có quyền sử dụng đất trong một thời gian nhất định, chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng, (đối với trường hợp quyền sử dụng đất riêng biệt đối với giai đoạn đầu tư nhà cửa, vật kiến trúc trên đất), lệ phí trước bạ…không bao gồm các chi phí chi ra để xây dựng các công trình trên đất. - Nhãn hiệu hàng hoá: là các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá. - Quyền phát hành: là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành. - Phần mềm máy vi tính: là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có được phần mềm máy vi tính. - Giấy phép và giấy phép nhượng quyền: là các khoản chi ra để doanh nghiệp có được giấy phép và giấy phép nhượng quyền thực hiện công việc đó như giấy phép khai thác, giấy phép sản xuất loại sản phẩm mới… - Bản quyền, bằng sáng chế: là các chi phí thực tế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế. - Công thức và cách pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu: là các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có công thức và cách thức pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu. - Tài sản cố định vô hình đang triển khai: các tài sản vô hình tạo ra trong giai đoạn triển khai và được ghi nhận là TSCĐ vô hình nếu thoả mãn 7 điều kiện: + Tính khả thi về mặt kỹ thuật đảm bảo cho việc hoàn thành và đưa tài sản vô hình vào sử dụng theo dự tính hoặc có thể bán. + Doanh nghiệp dự định hoàn thành tài sản vô hình để sử dụng hoặc để bán. + Doanh nghiệp có khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó. + Tài sản vô hình đó phải tạo ra được lợi ích kinh tế trong tương lai, + Có đầy đủ các nguồn lực về kỹ thuật, tài chính và các nguồn lực khác để hoàn tất các giai đoạn triển khai, bán hoặc sử dụng tài sản vô hình đó. + Có khả năng xác định một cách chắc chắn toàn bộ chi phí trong giai đoạn triển khai để tạo ra tài sản vô hình đó. + Ước tính có đủ tiêu chuẩn về thời gian sử dụng và giá trị theo quy định cho TSCĐ vô hình. Theo quyền sở hữu: TSCĐ của doanh nghiệp theo quyền sở hữu được phân thành TSCĐ tự có và TSCĐ thuê ngoài. Việc phân chia này giúp cho doanh nghiệp có thể đề ra được một kế hoạch sử dụng TSCĐ hợp lý. 2.1. TSCĐ tự có: Là tài sản được mua sắm, xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn tự bổ xung, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các tài sản cố định đựơc biếu tặng…có nghĩa đây là những tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp. 2.2. TSCĐ thuê ngoài: Là tài sản đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo hợp đồng thuê tài sản. Căn cứ vào các điều khoản trong hợp đồng thuê tài sản mà tài sản cố định đi thuê được chia thành hai loại như sau: - TSCĐ thuê tài chính: cũng được coi là tài sản cố định của doanh nghiệp nên doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và trích khấu hao như tài sản cố định tự có của mình. Các trường hợp dẫn đến hợp đồng thuê tài chính: + Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên thuê khi hết hạn hợp đồng. + Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, bên thuê có quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê với mức giá ước tính thấp hơn giá hợp lý vào cuối thời hạn thuê. + Thời hạn thuê tài sản chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu. + Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản thuê. + Tài sản thuê thuộc loại chuyên dùng mà chỉ có bên thuê có khả năng sử dụng không cần có sự thay đổi, sửa chữa nào. Hợp đồng thuê tài sản được coi là hợp đồng thuê tài chính khi thoả mãn ít nhất một trong các trường hợp sau: + Nếu bên thuê huỷ bỏ hợp đồng và đền bù tổn thất phát sinh liên quan đến việc huỷ hợp đồng cho bên thuê. + Thu nhập tổn thất do sự thay đổi giá trị hợp lý của giá trị còn lại của tài sản thuê gắn với bên thuê. + Bên thuê có khả năng tiếp tục thuê lại tài sau khi hết hạn hợp đồng thuê với tiền thuê thấp hơn giá thuê thị trường. - TSCĐ thuê hoạt động: là tài sản cố định thuê nhưng không thoả mãn một điều khoản nào của hợp đồng thuê tài chính. Bên đi thuê chỉ được quản lý, sử dụng tài sản trong thời hạn của hợp đồng thuê và phải hoàn trả cho bên cho thuê khi kết thúc hợp đồng. 3. Theo công dụng kinh tế: Phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế giúp ta thấy được vai trò của từng loại TSCĐ đối với hoạt động sản xuất. Theo cách phân loại này, tài sản cố định gồm TSCĐ dùng cho sản xuất và TSCĐ dùng cho không sản xuất. 3.1. TSCĐ dùng cho sản xuất: Là loại TSCĐ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, lao động sử dụng TSCĐ này để tác động vào các nguyên liệu đầu vào để tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Giá trị tài sản cố định dùng cho sản xuất sẽ giảm và chuyển dần giá trị của mình vào giá trị sản phẩm sản xuất ra và được thu hồi dần qua khấu hao, được tích luỹ lại hình thành quỹ hay vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn tài sản cố định . TSCĐ dùng cho sản xuất biểu hiện dưới hình thái hiện vật là các loại máy móc, công cụ… được trang bị cho lao động để tiến hành quá trình sản xuất sản phẩm. 3.2. Tài sản cố định không dùng cho sản xuất: Là loại TSCĐ không được tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Nó chỉ có tác dụng gián tiếp giúp cho quá trình sản xuất, kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp. TSCĐ không dùng cho sản xuất biểu hiện dưới hình thái hiện vật là các bộ phận nhà xưởng, văn phòng, phương tiện vận chuyển… Giá trị tài sản cố định dùng cho không sản xuất cũng giảm dần, nó cũng được khấu hao như đối với TSCĐ dùng cho sản xuất. Tuy nhiên, nguồn vốn khấu hao của bộ phận này là tiết kiệm thuần của doanh nghiệp ( được tạo ra từ doanh thu của hoạt động sản xuất, kinh doanh và được doanh nghiệp tự đánh giá) Bên cạnh các tiêu thức phân loại trên, tài sản cố định còn được phân chia theo một số tiêu thức khác như: theo nguồn ngốc hình thành, theo thời hạn sử dụng, theo tình trạng sử dụng… III. Đánh giá tài sản cố định: TSCĐ tính theo đơn vị hiện vật là cơ sở để lập kế hoạch đầu tư mua sắm, xây dựng, sửa chữa và đánh giá hiệu quả của từng loại TSCĐ. Nhưng trong nhiều trường hợp người ta cần dùng đến chỉ tiêu giá trị toàn bộ của TSCĐ (TSCĐ của doanh nghiệp được tính theo đơn vị tiền tệ). Do đó cần phải đánh giá TSCĐ theo các loại giá khác nhau để nắm được tổng giá trị TSCĐ đầu tư ban đầu, tổng giá trị TSCĐ hao mòn, tổng giá trị TSCĐ còn lại Đánh giá TSCĐ: Trong nghiên cứu đánh giá TSCĐ, người ta sử dụng ba loại giá chính: 1.1. Nguyên giá (hay giá ban đầu) của TSCĐ: Là toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có được TSCĐ tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng (TSCĐ hữu hình) hay thời điểm đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính (TSCĐ vô hình). Nguyên giá của TSCĐ được xác định theo từng trường hợp cụ thể trong chuẩn mực kế toán Việt Nam. 1.2. Giá đánh giá lại (hay giá khôi phục) của TSCĐ: Là nguyên giá (hay giá ban đầu hoàn toàn) của TSCĐ mới nguyên sản xuất ở kỳ báo cáo, được dùng để đánh giá lại TSCĐ đã được mua sắm ở các thời kỳ trước. Các TSCĐ giống nhau sẽ có giá trị khôi phục giống nhau mặc dù chúng được mua sắm, xây dựng vào các thời kỳ khác nhau và có nguyên giá khác nhau. 1.3. Giá còn lại của TSCĐ: Là hiệu số giữa nguyên giá (hay giá đánh giá lại) với số khấu hao luỹ kế. Hoặc có thể tính: Giá trị còn lại = Nguyên giá(hay giá đánh x Tỷ lệ còn lại của TSCĐ giá lại) của TSCĐ của TSCĐ Các phương pháp đánh giá TSCĐ: Chỉ tiêu giá trị tài sản cố định là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm. Nghiên cứu thống kê giá trị tài sản cố định cho phép ta xác định tổng giá trị tài sản cố định đã đầu tư ban đầu, tổng giá trị tài sản cố định đã hao mòn và tổng giá trị tài sản cố định còn lại. Muốn vậy ta phải đánh giá tài sản cố định theo các loại giá khác nhau: Giá ban đầu hoàn toàn, giá khôi phục hoàn toàn, giá ban đầu còn lại, giá khôi phục còn lại. 2.1. Đánh giá TSCĐ theo nguyên giá (hay giá ban đầu hoàn toàn): Đánh giá tài sản cố định theo giá ban đầu hoàn toàn phản ánh đúng quy mô nguồn vốn thực tế bỏ ra để có tài sản cố định, là cơ sở để tính khấu hao TSCĐ và lập bảng cân đối TSCĐ. Tuy nhiên do thời kỳ mua sắm hoặc xây dựng khác nhau nên cùng một loại tài sản cố định trong doanh nghiệp lại có nhiều giá ban đầu khác nhau gây khó khăn cho việc so sánh và nghiên cứu các chỉ tiêu về sử dụng tài sản cố định. Bên cạnh đó, đánh giá TSCĐ định theo giá ban đầu hoàn toàn không xác định được trạng thái và giá trị còn lại của TSCĐ, không cho phép nghiên cứu biến động thuần tuý về mặt khối lượng của TSCĐ. 2.2. Đánh giá TSCĐ theo giá ban đầu còn lại: Cách đánh giá này phản ánh tổng giá trị TSCĐ danh nghĩa còn lại tại thời điểm đánh giá sau khi đã trừ đi giá trị hao mòn hữu hình luỹ kế của chúng. 2.3. Đánh giá TSCĐ theo giá đánh giá lại (hay giá khôi phục hoàn toàn): Đánh giá TSCĐ theo giá trị khôi phục hoàn toàn thực chất là đánh giá lại giá trị của những tài sản cố định cùng loại đã được sản xuất ở các thời kỳ khác nhau theo một giá thống nhất trong điều kiện hiện tại. Cách đánh giá này giúp ta nắm được tổng nguồn vốn để trang bị lại tài sản cố định ở tình trạnh mới nguyên từ đó xác định được mức độ hao mòn vô hình của TSCĐ và lập bảng cân đối TSCĐ. Tuy nhiên dùng loại giá này cũng không cho phép xác định được trạng thái và giá trị còn lại của TSCĐ đồng thời để đánh giá tài sản cố định theo giá khôi phục hoàn toàn cần phải tổ chức tổng kiểm kê TSCĐ. 2.4. Đánh giá TSCĐ theo giá khôi phục còn lại: Cách đánh giá này phản ánh tổng giá trị TSCĐ thực tế còn lại tại thời điểm đánh giá sau khi đã trừ đi giá trị hao mòn của chúng. Đánh giá TSCĐ theo giá còn lại phản ánh tương đối chính xác trạng thái, năng lực sản xuất của TSCĐ, phản ánh số tiền còn lại cần phải tiếp tục thu hồi dưới hình thức khấu hao. Trong đó đánh giá TSCĐ theo giá khôi phục còn lại phản ánh đúng đắn nhất hiện trạng của tài sản cố định vì nó đã loại trừ cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Trong trường hợp cần nghiên cứu tình hình tăng, giảm TSCĐ theo thời gian, có thể dùng cách đánh giá TSCĐ theo giá so sánh để loại trừ ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả. CHƯƠNG II HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH SỬ DỤNG TÀI SẢN CỐ ĐỊNH. Tầm quan trọng của hệ thống chỉ tiêu và các phương pháp thống kê trong nghiên cứu TSCĐ: Như chúng ta đã biêt tầm quan trọng của TSCĐ trong sản xuất của một doanh nghiệp nói riêng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế Quốc dân nói chung. Vì vậy việc nghiên cứu về TSCĐ là rất cần thiết mà trong đó chủ yếu sử dụng hệ thống chỉ số và phương pháp phân tích thống kê. Đó là những thành phần quan trọng và có tính chất quyết định trong việc nghiên cứu TSCĐ về độ chính xác cũng như tính hiệu quả của nó. Hệ thống chỉ tiêu về TSCĐ giúp cho chúng ta có được một cái nhìn chính xác và khách quan về tất cả các yếu cố của TSCĐ của một doanh nghiệp như: qui mô, kết cấu, tình hình sử dụng, hiệu quả mang lại… Từ đó, nó giúp cho nhà quản lý có được những cách nhìn đúng đắn và có những cách quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả và hoàn thiện. Đồng thời, nó cũng cần thiết cho những nhà hoạch định chính sách để đề ra phương án sản xuất hiệu quả, linh hoạt (phát huy tối đa và sử dụng linh hoạt các công dụng của TSCĐ, có sự thay thế hợp lý để phù hợp với tình hình thị trường…). Tuy nhiên, để nghiên cứu và tính toán các chỉ tiêu đó thì nhất thiết phải sử dụng đến các phương pháp thống kê (như phương pháp chỉ số, phương pháp dãy số thời gian…). Vì vậy, việc nghiên cứu TSCĐ về mọi mặt nhất thiết phải sử dụng đến hệ thống chỉ tiêu và các phương pháp phân tích thống kê để đạt được hiệu quả tối đa. II. Hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp phân tích thống kê nghiên cứu TSCĐ: 1. Một số nguyên tắc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu và phương pháp phân tích thống kê: 1.1. Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu: Trong quá trình của hoạt động thống kê thì việc lựa chọn các chỉ tiêu thống kê là rất quan trọng, nó phải đảm bảo nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là: - Đảm bảo tính khả thi: mỗi chỉ tiêu phải đảm bảo khả năng tính toán, so sánh thành công, nghĩa là chỉ tiêu này phải đảm bảo có nguồn số liệu tương ứng để tính toán nó. Đồng thời cũng phải đảm bảo cho việc tính toán thuận lợi và ít tốn kém. - Đảm bảo tính hiệu quả: việc tính toán, so sánh các chỉ tiêu phải mang lại một kết quả nhất định, phục vụ cho một mục đích nhất định, tránh gây lãng phí công sức, thời gian, tiền của khi tính toán chúng. - Đảm bảo tính linh hoạt: mỗi chỉ tiêu thống kê có thể tính toán bằng nhiều cách khác nhau để phù hợp với điều kiện về số liệu. - Đảm bảo tính hệ thống: các chỉ tiêu thống kê phải có mối liên hệ mật thiết với nhau, đảm bảo tính so sánh được… 1.2.Lựa chọn phương pháp thống kê: Các phương pháp thống kê sử dụng cho quá trình tính toán và phân tích số liệu cũng cần đảm bảo một số yêu cầu: - Tính hiệu quả: các phương pháp thống kê đưa ra phải đảm bảo kết quả tính toán sử dụng được vào những mục đích cụ thể. - Tính khả thi: các phương pháp thống kê đưa ra phải đảm bảo có thể thực hiện được, chi phí cho quá trình thống kê cũng cần ít tốn kém. - Tính linh hoạt: phương pháp thống kê đưa ra phải áp dụng được đối với nhiều loại số liệu và trong những trường hợp khác nhau, đồng thời có thể dễ dàng trong việc thay thế bằng những phương pháp khác khi điều kiện không cho phép… 2. Hệ thống chỉ tiêu và một số phương pháp phân tích thống kê TSCĐ: 2.1. Thống kê qui mô (số lượng) TSCĐ của doanh nghiệp: Số lượng TSCĐ hiện có của doanh nghiệp là số lượng TSCĐ mà doanh nghiệp đã đầu tư mua sắm, xây dựng, đã làm xong thủ tục bàn giao đưa vào sử dụng, đã được ghi vào sổ TSCĐ của doanh nghiệp. Số lượng TSCĐ của doanh nghiệp được thống kê theo 2 chỉ tiêu: Số lượng TSCĐ có đầu kỳ và cuối kỳ; Số lượng TSCĐ có bình quân trong kỳ. * Số lượng TSCĐ có đầu kỳ và cuối kỳ: phản ánh quy mô, số lượng tài sản cố định hiện có của doanh nghiệp tại hai thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối thời điểm. Hai chỉ tiêu này cho ta biết tiềm năng về tài sản cố định của doanh nghiệp ở các thời điểm từ đó có kế hoạch sử dụng trong thời kỳ tới. Số lượng TSCĐ có đầu kỳ và cuối kỳ có thể được nghiên cứu duới hai hình thái là giá trị và hiện vật. * Số lượng TSCĐ có bình quân trong kỳ: được tính cho từng loại hay nhóm TSCĐ theo công thức: - Tính từ dãy số thời kỳ: hoặc : Số lượng TSCĐ i có trong ngày j của kỳ tính toán (những ngày nghỉ lễ, nghỉ thứ bảy và chủ nhật thì lấy số lượng TSCĐ có ở ngày liền trước đó); n : Số ngày theo lịch của ngày tính toán; : Tần số xuất hiện trong kỳ tính toán; : Tổng các tần số ( = n ) - Tính từ dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau: , ,…, : Số lượng TSCĐ i có ở thời điểm thứ 1, thứ 2,…., thứ n trong kỳ tính toán; n : Số thời điểm thống kê được số lượng TSCĐ i trong kỳ tính toán - Tài sản cố định có bình quân trong kỳ được tính chung cho các loại tài sản cố định khác nhau: Giá trị TSCĐ có Giá ban đầu hoàn toàn + Giá ban đầu hoàn toàn bình quân trong kỳ = TSCĐ có ở đầu kỳ TSCĐ có ở cuối kỳ (theo giá ban đầu hoàn toàn) 2 Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tài sản cố định của doanh nghiệp đã đầu tư cho sản xuất, kinh doanh trong kỳ tính theo giá ban đầu hoàn toàn. 2.2. Thống kê kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Kết cấu TSCĐ phản ánh tỷ trọng của từng loại hay nhóm TSCĐ trong toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp: : Kết cấu của loại hay nhóm TSCĐ i trong toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp; : Giá trị của loại hay nhóm TSCĐ i K : Tổng giá trị TSCĐ của doanh nghiệp Từ công thức trên cho thấy kết cấu tài sản cố định có thể được tính cho từng thời điểm hoặc tính bình quân cho kỳ nghiên cứu trong đó và K được tính theo nguyên giá hoặc giá đánh giá lại. Việc nghiên cứu kết cấu tài sản cố định của doanh nghiệp cho thấy đặc điểm trang bị kỹ thật của đơn vị, từ đó có kế hoạch điều chỉnh, lựa chọn cơ cấu đầu tư tốt nhất. 2.3. Thống kê hiện trạng TSCĐ: Thống kê hiện trạng tài sản cố định có nhiệm vụ phản ánh đúng và kịp thời trạng thái hiện tại TSCĐ, cũng là năng lực sản xuất hiện tại của TSCĐ của từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhân tố cơ bản làm thay đổi trạng thái TSCĐ là do sự hao mòn. Có hai hình thức hao mòn TSCĐ: - Hao mòn vô hình: là hao mòn xuất hiện do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cho ra đời một tài sản cố định cùng loại với tài sản cố định mà doanh nghiệp đang sử dụng nhưng có giá rẻ hơn, có công suất và chất lượng sản phẩm sản xuất ra cao hơn. Loại hao mòn này phụ thuộc vào nhịp độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự tăng năng suất của những TSCĐ cùng loại. - Hao mòn hữu hình: là hao mòn vật chất do quá trình sử dụng TSCĐ hoặc do tác động của thiên nhiên làm cho năng lực sản xuất của TSCĐ bị giảm sút dần hoặc bị hư hỏng. Thống kê trạng thái tài sản cố định có các chỉ tiêu sau: * Hệ số hao mòn tài sản cố định đầu kỳ hay cuối kỳ (): (đối với TSCĐ hữu hình) Hệ số hao mòn TSCĐ là tỷ số giữa tổng số hao mòn TSCĐ (giá trị TSCĐ đã bị hao mòn) đầu hay cuối kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có vào đầu hay cuối kỳ. HM: Tổng số hao mòn Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ ở các thời điểm thường là đầu hay cuối kỳ nghiên cứu, nó biểu hiện tỷ lệ giá trị TSCĐ đã chuyển vào giá trị sản phẩm và đã được thu hồi, có quan hệ tỷ lệ nghịch với trạng thái TSCĐ. Hoặc có thể tính hao mòn hữu hình theo phương pháp sau: + So sánh thời gian sử dụng thực tế với thời gian sử dụng định mức của TSCĐ. + So sánh khối lượng sản phẩm sản xuất ra tính từ khi đưa TSCĐ vào hoạt động với khối lượng sản phẩm định mức trong thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ đó. Từ hệ số hao mòn hữu hình của TSCĐ có thể xác định hệ số còn hoạt động được của TSCĐ theo công thức: Hệ số còn hoạt động = 1 - Hệ số hao mòn hữu hình được của TSCĐ của TSCĐ 2.4. Thống kê biến động TSCĐ trong kỳ nghiên cứu: TSCĐ của doanh nghiệp là bộ phận luôn có sự biến động theo thời gian do sự biến động của qui mô sản xuất kinh doanh và nhu cầu đổi mới công nghệ. Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình biến động TSCĐ: * Hệ số tăng TSCĐ: Hệ số tăng = Giá trị TSCĐ tăng trong kỳ TSCĐ Giá trị TSCĐ có cuối kỳ * Hệ số giảm TSCĐ: Hệ số giảm = Giá trị TSCĐ giảm trong kỳ TSCĐ Giá trị TSCĐ có đầu kỳ Các hệ số tăng và giảm TSCĐ tcho biết thông tin về tình hình biến động TSCĐ theo công dụng và theo nguồn hình thành tài sản. * Hệ số đổi mới TSCĐ: Hệ số đổi mới TSCĐ là tỷ số giữa giá trị ban đầu (hoặc khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ mới đưa vào hoạt động trong kỳ với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có vào cuối năm. Hệ số = Giá trị TSCĐ mới đưa vào hoạt động đổi mới Giá trị TSCĐ có cuối kỳ Chỉ tiêu này phản ánh phần TSCĐ hoàn toàn mới trong toàn bộ TSCĐ có vào cuối kỳ. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với trạng thái TSCĐ. * Hệ số loại bỏ tài sản cố định: Hệ số loại bỏ TSCĐ là tỷ số giữa TSCĐ bị loại bỏ do hao mòn, cũ kỹ trong kỳ theo giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ có đầu kỳ. Hệ số = Giá trị TSCĐ bị loại bỏ do hao mòn, cũ kỹ loại bỏ Giá trị TSCĐ có đầu kỳ Chỉ tiêu này phản ánh phần giá trị TSCĐ cũ, bị loại bỏ do hao mòn, cũ kỹ trong toàn bộ TSCĐ có vào đầu kỳ. Nó tỷ lệ nghịch với trạng thái TSCĐ. 2.5. Thống kê khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp: Khấu hao TSCĐ là sự tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong suốt thời gian sử dụng của tài sản đó. Trong đó, thời gian sử dụng của TSCĐ là thời gian mà TSCĐ phát huy được tác dụng cho sản xuất kinh doanh (được tính bằng nhiều cách khác nhau). * Theo quyết định của bộ Tài chính năm 2003 thì mức khấu hao TSCĐ được tính theo ba phương pháp: - Phương pháp khấu hao đường thẳng (hay phương pháp khấu hao bình quân theo thời gian): số khấu hao hàng năm không thay đổi trong suốt thời gian sử dụngTSCĐ. hay = K.h : Mức khấu hao TSCĐ trích bình quân hàng năm n : số năm dự kiến khấu hao TSCĐ Trường hợp thời gian sử dụng hay nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của TSCĐ bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ chia cho thời gian sử dụng xác định lại hoặc thời gian sử dụng còn lại. - Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh: số khấu hao hàng năm giảm dần trong suốt thời gian dự kiến sử dụng tài sản: = Giá trị còn lại của TSCĐ x Tỷ lệ khấu hao ở thời điểm đầu năm i nhanh Tỷ lệ khấu hao nhanh = Tỷ lệ khấu hao bình quân x hệ số điều chỉnh n = 4 năm à Hệ số điều chỉnh = 1,5 4 < n = 6 năm à Hệ số điều chỉnh = 2 n > 6 à Hệ số điều chỉnh = 2,5 Theo phương pháp này, những năm cuối khi mức khấu hao năm bằng hoặc thấp hơn mức khấu hao tính bình quân giữa giá trị còn lại và số năm sử dụng còn lại của TSCĐ thì kể từ năm đó mức khấu hao được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ chia cho số năm sử dụng còn lại của TSCĐ. TSCĐ trích khấu hao theo phương pháp này phải thoả mãn điều kiện là TSCĐ đầu tư mới đồng thời là các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm. - Phương pháp khấu hao theo sản lượng: Theo phương pháp này mức khấu hao hàng năm được tính theo công thức: : Mức khấu hao năm thứ i : Khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ (sản lượng theo công suất thiết kế) : Khối lượng sản phẩm TSCĐ sản xuất ra ở năm i Trường hợp công suất thiết kế hoặc nguyên giá của TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức trích khấu hao của TSCĐ. Theo phương pháp này, TSCĐ được trích khấu hao phải trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm, phải xác định được tổng khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của TSCĐ và công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm không thấp hơn 50% công suất thiết kế. * Trong phần khấu hao TSCĐ gồm có một số chỉ tiêu rất quan trọng: - Tổng mức khấu hao tài sản cố định (M): Tổng mức khấu hao TSCĐ là toàn bộ giá trị của TSCĐ chuyển vào sản phẩm và sẽ được thu hồi trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ. M : Tổng mức khấu hao : Giá trị ban đầu (khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ : Giá trị ban đầu loại bỏ : Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ dự kiến trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ : Chi phí hiện đại hoá TSCĐ dự kiến trong suốt thời gian hoạt động của TSCĐ Tổng mức khấu hao TSCĐ gồm hai bộ phận quan trọng: + Tổng mức khấu hao cơ bản ( ) + Tổng mức khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá ( ): Mức khấu hao cũng bao gồm hai bộ phận: + Mức khấu hao cơ bản năm ( ) + Mức khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá năm ( ): - Tỷ suất khấu hao tài sản cố định (k): Tỷ suất khấu hao tài sản cố định là tỷ lệ phần trăm giữa mức khấu hao năm với giá trị ban đầu (hoặc giá trị khôi phục) hoàn toàn của TSCĐ. Tương tự tổng mức khấu hao và mức khấu hao, tỷ suất khấu hao cũng bao gồm hai bộ phận: +Tỷ suất khấu hao cơ bản: + Tỷ suất khấu hao sửa chữa lớn và hiện đại hoá: - Quỹ (vốn) khấu hao tài sản cố định (V): Quỹ (vốn) khấu hao là giá trị tài sản cố định đã được khấu hao và được tích luỹ đén thời điểm nghiên cứu. Quỹ khấu hao được sử dụng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ và để bù đắp những chi phí sửa chữa lớn, hiện đại hoá TSCĐ. 2.6. Thống kê tình hình trang bị và tình hình sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp: * Thống kê tình hình trang bị tài sản cố định cho lao động của doanh nghiệp: Đánh giá tình hình trang bị TSCĐ cho lao động được thực hiện thông qua tính và so sánh chỉ tiêu mức trang bị TSCĐ cho công nhân sản xuất của doanh nghiệp ( ): : Giá trị TSCĐ bình quân trong kỳ : Số lao động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này càng lớn phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất, kinh doanh càng cao từ đó tạo điều kiện cho việc tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. * Thống kê tình hình sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp: Việc đánh giá tình hình sử dụng TSCĐ được thực hiện thông qua tính và so sánh một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh hiệu quả sử dụng TSCĐ, gồm các chỉ tiêu hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. - Nhóm chỉ tiêu hiệu quả trực tiếp của TSCĐ: +) Năng suất tài sản cố định ( ): Q: chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất, kinh doanh. chỉ tiêu này được tính bằng sản phẩm hiện vật, sản phẩm quy chuẩn và tính bằng tiền tệ. Q có thể là giá trị sản xuất GO, giá trị gia tăng VA, giá trị gia tăng thuần NVA, doanh thu DT, doanh thu thuần DT’… +) Suất tiêu hao TSCĐ ( ): +) Tỷ suất lợi nhuận hay mức doanh lợi TSCĐ ( ): M: Lợi nhuận hay lãi kinh doanh. - Nhóm chỉ tiêu hiệu quả gián tiếp của TSCĐ: +) Hiệu năng (hay năng suất) mức khấu hao TSCĐ ( ): : Tổng mức khấu hao TSCĐ trích trong kỳ. +) Tỷ suất lợi nhuận (hay mức doanh lợi) tính trên mức khấu hao TSCĐ (): Nếu kết quả so sánh tốc độ phát triển của ,, , và lớn hơn 100 phản ánh tình hình trang bị v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33080.doc
Tài liệu liên quan