Lời nói đầu
Hà Nội là trung tâm lớn thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc của cả nước, có một vị trí quan trọng trong lĩnh vực văn hoá, chính trị, xã hội, khoa học,... nhưng đồng thời Hà Nội cũng có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế và giao lưu trong khu vực Đông Nam á. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay và những năm đầu của thế kỷ XXI, Hà Nội đang và sẽ giữ vai trò lớn trong công cuộc xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một trong các lĩ
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh vực có tác động mạnh nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nền kinh tế quốc dân là lĩnh vực sản xuất công nghiệp.
Mặc dù có nhiều khó khăn và đang tồn đọng nhiều yếu tố cản trở sự phát triển song nhìn chung, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thời gian qua tương đối ổn định và có bước tăng trưởng, góp phần rất lớn vào tổng sản phẩm trong nước của thành phố.
Xuất phát từ thực tiễn trong thời gian thực tập tại phòng Thống kê Công nghiệp - Cục Thống kê Hà Nội, được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo TS Trần Ngọc Phác cùng với sự giúp đỡ của các cô, các chú trong phòng, em mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp, đó là:
Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Kết hợp giữa lý luận với thực tiễn để đánh giá tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất và kiến nghị góp phần nhỏ vào sự phát triển của ngành công nghiệp Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về công nghiệp.
Chương II: Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS Trần Ngọc Phác và các cô, các chú phòng Thống kê Công nghiệp - Cục Thống kê Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình.
Chương I:
Một số lý luận cơ bản về công nghiệp
I. Khái niệm, đặc điểm, vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Khái niệm: Công nghiệp là ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất - một bộ phận cấu thành nền sản xuất vật chất của xã hội. Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ; sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội; khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt
Đặc điểm ngành công nghiệp
- Công nghiệp là ngành được ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Công nghiệp có những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học - công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và điều kiện sản xuất hoàn thiện. Đổi mới công nghệ trong công nghiệp hiện nay diễn ra rất mạnh mẽ, nhanh chóng, đồng bộ, toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực: Công cụ lao động, năng lượng, vật liệu, phương pháp công nghệ, khoa học quản lý,...
- Công nghiệp là ngành có chu kỳ sản xuất ngắn, có khả năng thực hiện tái sản xuất mở rộng nhanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất với những chủng loại sản phẩm mới, loại bỏ những sản phẩm lỗi thời, những sản phẩm khó tiêu thụ và bổ xung những sản phẩm mới. Những sản phẩm bổ xung này có thể là sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường hoặc mới đối với doanh nghiệp sản xuất. Khả năng thực hiện tái sản xuất mở rộng phụ thuộc vào vốn, công nghệ và khả năng nắm bắt nhu cầu của thị trường, kịp thời sản xuất và đưa ra thị trường. Do đó, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh.
- Khác với nông nghiệp, công nghiệp là ngành hầu như không phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Do đó, không chịu tác động bởi những rủi ro do yếu tố tự nhiên gây ra.
- Công nghiệp là ngành có hiệu quả sản xuất cao do được ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại làm cho chu kỳ sản xuất ngắn, chi phí sản xuất thấp, sản phẩm đa dạng, đáp ứng được nhu cầu luôn thay đổi của người tiêu dùng.
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật và trình độ trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất nên công nghiệp là ngành có năng suất lao động thường cao hơn các ngành khác.
Vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Công nghiệp, một trong những ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vị trí đó xuất phát từ các lý do chủ yếu sau:
- Công nghiệp là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, công nghiệp phát triển từ vị trí thứ yếu trở thành ngành có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế đó.
- Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, công nghiệp là ngành không những chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thuỷ được khai thác và sản xuất từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản phẩm trung gian để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người.
- Sự phát triển của công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, tuỳ theo trình độ phát triển của bản thân công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế, xuất phát từ những điều kiện và đặc điểm cụ thể của mỗi địa phương, mỗi thời kỳ cần phải xác định đúng đắn vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, hình thành phương án cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ và định hướng từ chuyển dịch cơ cấu đó một cách có hiệu quả.
Có thể nói, trong quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp là ngành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển các ngành kinh tế khác.
II. Phân ngành công nghiệp theo ngành kinh tế quốc dân
Từ tháng 10 - 1993 Chính phủ đã ra nghị định số 75/CP ban hành hệ thống phân ngành KTQD gồm 20 ngành cấp I và QĐ số 143/TCTK ngày 22-12-1993 cụ thể hoá các ngành cấp II, III, IV.
Bảng phân ngành KTQD mới được xây dựng theo hệ thống phân ngành quốc tế (ISIC-International Standard Industrial Classification).
Trong bảng phân ngành lần này có:
- 20 ngành cấp I được ký hiệu bằng các chữ cái: A, B, C, D, E,...
- 60 ngành cấp II được ký hiệu bằng các chữ số từ 01 đến 99.
- 159 ngành cấp III được ký tự bằng ba chữ số từ 001 đến 999.
- 299 ngành cấp IV được ký tự bằng bốn chữ số từ 0111 đến 9999.
Ngành công nghiệp gồm các hoạt động chính được đăng ký trong các lĩnh vực khai khoáng, chế biến, sản xuất và phân phối điện, ga và nước theo các ngành tương ứng C, D và E trong bảng phân ngành ISIC. Các hoạt động nàu được định nghĩa như sau:
1. Ngành công nghiệp khai thác mỏ (C)
Ngành công nghiệp khai thác mỏ gồm có: 5 ngành cấp II, 10 ngành cấp III và 12 ngành cấp IV, gồm các hoạt động khai thác bằng hầm lò, khai thác lộ thiên hoặc khai thác bằng giếng các khoáng sản tự nhiên ở dạng cứng (như than đá, quặng kim loại,...), dạng lỏng (như dầu thô,...), dạng khí (như khí thiên nhiên,...) và các hoạt động phụ (như nghiềm, mài, sàng,...) được tiến hành tại mỏ để sản xuất ra những nguyên liệu thô.
Trong ngành khai thác mỏ không bao gồm các hoạt động sau:
- Sản xuất phụ như nghiền, sàng, mài,... các sản phẩm không được tiến hành cùng với khai thác quặng và khai thác đá tại mỏ.
- Sản phẩm đóng chai nước khoáng tự nhiên, nước suối ở các giếng và các suối đã được phân vào ngành sản xuất đồ uống không cồn.
- Sản xuất, lọc và phân phối nước.
- Các công tác điều tra thăm dò khoáng sản.
2. Ngành công nghiệp chế biến (D)
Ngành công nghiệp chế biến gồm có: 23 ngành cấp II, 61 ngành cấp III và 127 ngành cấp IV, gồm các hoạt động làm thay đổi về mặt lý, hoá học của vật liệu hoặc thay đổi các thành phần cấu thành của nó để tạo ra những sản phẩm mới. Các hoạt động đó có thể được tiến hành bằng máy móc hoặc bằng thủ công, tiến hành trong nhà máy hoặc ở tại nhà của người lao động, người thợ
Ngoài ra ngành công nghiệp chế biến còn bao gồm các hoạt động như lắp ráp sản phẩm, gia công phần việc như: sơn, mạ, đánh bóng,... các sản phẩm.
Hoạt động lắp ráp được coi là chế biến là những hoạt động sau khi lắp ráp làm thay đổi hình thái ban đầu của sản phẩm.
Ngành công nghiệp chế biến không bao gồm những hoạt động sau:
- Lắp ráp đường ray, xây cầu, nhà kho, thang máy và lắp ráp các thiết bị máy móc vào dây chuyền sản xuất.
- Hoạt động lắp ráp ở các đơn vị bán buôn, bán lẻ.
- Sửa chữa ôtô, môtô, xe máy và các xe có động cơ khác, gắn với việc bán phụ tùng là chính.
- Bảo dưỡng và sửa chữa vật phẩm tiêu dùng cá nhân và đồ dùng gia đình, gắn với việc bán phụ tùng là chính.
3. Ngành sản xuất, phân phối điện, ga và nước (E)
Ngành sản xuất, phân phối điện, ga và nước gồm có: 2 ngành cấpII, 4 ngành cấp III và 4 ngành cấp IV, bao gồm các hoạt động sau:
- Sản xuất, tập trung, chuyển tải và phân phối điện để bán cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh, hộ gia đình và các đơn vị dịch vụ khác.
- Sản xuất nhiên liệu khí, sản xuất khí bằng cách cacbon hoá than đá hoặc bằng cách trộn khí được sản xuất với khí tự nhiên, hoặc với xăng, hoặc với các chất khác. Thuộc nhóm này còn bao gồm các hoạt động phân phối bằng hệ thống đường dẫn tới các đơn vị sản xuất, kinh doanh, hộ gia đình và các đơn vị dịch vụ khác.
- Khai thác, lọc và phân phối nước (không kể nước nóng) cho các hộ gia đình, các đơn vị sản xuất kinh doanh và các đơn vị còn lại khác.
III. Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội
1. Tình hình kinh tế xã hội thủ đô Hà Nội
Những thành tựu kinh tế xã hội chủ yếu của Hà Nội
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, Hà Nội đã có bước phát triển mạnh về mọi mặt, đạt được những thành tựu hết sức to lớn và tương đối toàn diện. Nó đã tạo ra cho Hà Nội thế và lực mới, những thời cơ để phát triển toàn diện, vững chắc trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
So với năm 1990, năm 2000, tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng gấp 3 lần. Trong giai đoạn 1990-2000 tốc độ tăng trưởng bình quân của Hà Nội đạt 11,6%/năm, trong khi của cả nước chỉ đạt 7,7%/năm. Hà Nội là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng cao. Điều này cho thấy vai trò đầu tàu của thủ đô Hà Nội trong quá trình phát triển kinh tế của khu vực phía Bắc nói riêng và cả nước nói chung.
Dưới đây là một số kết quả chủ yếu:
- Tổng sản phẩm nội địa (GDP) liên tục tăng cao. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển quan trọng theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Năm 1990, ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng 29,2%, nông nghiệp: 7,34%, dịch vụ: 63,46%. Năm 1995, tương ứng là: 33,01%-5,39%-61,6%. Năm 2000 là: 38,5%-3,5%-58%. Nhìn chung cơ cấu kinh tế bước đầu đã có sự thay đổi về chất. Năm 2000 so với năm 1990, nông nghiệp giảm hơn 3%, dịch vụ giảm hơn 5%, trong khi đó công nghiệp tăng hơn 8%.
- Công nghiệp Hà nội đã có bước phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tốc độ phát triển bình quân hàng năm thời kỳ 1997 - 2000 là 12,03%. Các thiết bị công nghệ đang từng bước được đổi mới và hiện đại hoá. Ngoài 9 khu công nghiệp cũ, Hà Nội đang hình thành và phát triển 5 khu công nghiệp tập trung và 3 khu công nghiệp vừa và nhỏ.
- Dịch vụ: Hà Nội đã và đang tiếp tục phát huy thế mạnh của một trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước. Dịch vụ Hà Nội đạt mức tăng trưởng khá, trung bình giai đoạn 1991-2000 là 10,14%. Văn minh dịch vụ thương mại ngày càng được chú trọng theo hướng phục vụ nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Hoạt động thương mại nhộn nhịp, tập trung, hàng hoá phong phú về chủng loại, đa dạng về chất lượng.
- Nông nghiệp có bước phát triển, nhiều ngành nghề truyền thống được khôi phục, kinh tế trang trại bắt đầu được hình thành và phát huy tác dụng. Hiện đang hình thành ngành nông nghiệp sinh thái. Tốc độ tăng bình quân năm thời kỳ 1996-2000 đạt 5,1%. Năng suất lao động ngày càng được nâng cao, đến nay giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và dịch vụ bình quân một ha canh tác tăng gấp 4 lần so với năm 1989, đạt 40,4 triệu đồng năm 1999, đang từng bước ứng dụng các công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học. Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng nông thôn đã được đầu tư xây dựng. Công tác phát triển nông nghiệp đã gắn với xây dựng nông thôn mới.
- Với các chính sách và cơ chế huy động vốn cả các thành phần trong nước và nước ngoài vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội, vì thế vốn đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội Hà Nội những năm qua ngày càng tăng và sử dụng có hiệu quả hơn. Nếu như trong cả thời kỳ 1991-1995 tổng vốn đầu tư xã hội của Hà Nội đạt 32,6 nghìn tỷ đồng, bình quân 6,5 nghìn tỷ đồng/năm thì trong 5 năm 1996-2000 tổng vốn đầu tư xã hội đã đạt hơn 67 nghìn tỷ đồng, bình quân 13,5 nghìn tỷ đồng/năm, gấp hai lần thời kỳ trước.
- Hoạt động tài chính, tín dụng trong những năm qua đã được cải tiến và thu được nhiều kết quả khá tốt. Tổng thu ngân sách bình quân năm thời kỳ1996-2000 là 13,1% gấp hơn hai lần thời kỳ1991-1995.
- Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. GDP bình quân đầu người tăng từ 470 USD (năm 1991) lên gần 990 USD (năm 2000) bằng 2,29 lần chỉ tiêu tương ứng của vùng đồng bằng sông Hồng và 2,07 lần so với cả nước. Năm 1999, tỷ lệ hộ nghèo trên toàn thành phố chỉ còn 1,3%, cơ bản không còn hộ đói và nhà dột nát.
- Cùng với những thành tựu về kinh tế nêu trên, một số mặt hoạt động xã hội trong những năm qua cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tỷ suất sinh thô đã giảm từ 1,93% năm 1990 xuống 1,877% năm 1995 và 1,5% năm 2000. Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm ở khu vực thành thị năm 2000 gấp hơn hai lần năm 1990. Hà Nội là một trong các địa phương đi đầu trong cả nước trên các lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số kế hoạch hoá gia đình, xoá đói giảm nghèo, giáo dục đào tạo. Là địa phương đi đầu trong cả nước hoàn thành phổ cập trung học cơ sở (năm1999). Hệ thống chính trị từ thành phố đến cơ sở được củng cố, an ninh chính trị, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp của thành phố có những mặt tiến bộ. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được tiêu chuẩn hoá.
Trong những năm gần đây, một chặng đường không dài so với bề dày lịch sử của Hà nội, song kinh tế Hà nội đã thực sự khởi sắc, tạo nên những biến đổi sâu sắc, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội. Ghi nhận những thành tựu trên, UNESCO đã đánh giá: Thành phố Hà nội có một quá trình phát triển đầy ấn tượng và đã được UNESCO bình chọn là thành phố duy nhất ở khu vực châu á - Thái Bình Dương được nhận danh hiệu cao quí Thành phố vì hoà bình và là thủ đô anh hùng của đất nước Việt Nam anh hùng.
Những hạn chế và tồn tại
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, tình hình kinh tế xã hội Hà nội cũng đã biểu hiện những mặt hạn chế:
- Kinh tế phát triển chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng những năm gần đây chậm dần. Cơ cấu ngành kinh tế lớn tuy đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực nhưng chậm. Hà Nội chưa tạo sự chuyển biến rõ cơ cấu trong nội bộ ngành vì thế chưa dẫn đến sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, xây dựng và quản lý đô thị nhiều mặt còn lộn xộn, bất cập, cải cách hành chính chậm, ít hiệu quả.
- Vốn đầu tư xã hội tăng nhanh nhưng do đầu tư nhiều vào cơ sở hạ tầng nên chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nguồn vốn huy động vào tín dụng ngân hàng tăng nhanh nhưng tỷ lệ sử dụng chưa cao dẫn đến còn đọng lại tại kênh ngân hàng nhiều. Nguồn vốn huy động cho sự phát triển kinh tế trung và dài hạn còn hạn chế, chưa phát huy được hết nội lực của nền kinh tế. Mặt khác, vốn đầu tư vẫn còn dàn trải, chưa tập trung, dẫn đến lãng phí, thất thoát. Nguồn vốn tín dụng giải ngân chậm do còn nhiều thủ tục phiền hà, công tác giải phóng mặt bằng chậm, việc huy động và sử dụng vốn trong dân còn mang nặng tính tự phát. Các chính sách của Nhà nước chưa khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm.
- Tuy đời sống của tuyệt đại đa số bộ phận dân cư được cải thiện nhưng phân hoá giàu nghèo giữa các bộ phận dân cư ngày càng rõ nét. Theo kết quả điều tra đời sống hộ gia đình năm 2000 thì khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa 10% hộ giàu nhất và 10% hộ nghèo nhất là 11,9 lần. Một số tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm phát triển nhiều và chưa được ngăn chặn kịp thời, ý thức pháp luật của một bộ phận dân chúng, nhất là lớp thanh niên còn kém.
Tóm lại, tuy còn một ít khuyết điểm, song những năm qua, tình hình kinh tế xã hội Thủ đô Hà Nội đã có bước tiến hết sức đáng kể. Tình hình chính trị xã hội luôn ổn định. Nền kinh tế thị trường XHCN từng bước được hình thành và tốc độ tăng trưởng nhanh. Hà Nội tiếp tục xứng đáng là trung tâm đầu não về chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, là đầu mối giao lưu quốc tế của cả nước.
2. Tình hình sản xuất công nghiệp Hà Nội
Trước thời kỳ đổi mới (trước 1986) nền công nghiệp của Việt Nam nói chung, của thủ đô Hà Nội nói riêng hoạt động dưới cơ chế quan liêu bao cấp. Các nhà máy sản xuất theo chỉ tiêu từ trên giao xuống. Trong giai đoạn này, sản xuất chủ yếu tập trung vào số lượng (sản xuất được càng nhiều càng tốt). Do vậy, khối lượng sản phẩm sản xuất ra không được chú trọng về chất lượng. Chỉ tiêu đầu ra dùng để tính năng suất lao động trong giai đoạn này chủ yếu dùng khối lượng sản phẩm hiện vật, chỉ tiêu đầu vào chủ yếu dùng số ngày công tham gia sản xuất của công nhân. Công nghiệp trong thời kỳ này đã đóng vai trò tích cực tạo ra của cải vật chất khắc phục hậu quả sau chiến tranh. Tuy nhiên, phải sau thời kỳ đổi mới thì sản xuất mới thực sự được chú trọng về chất lượng, hiệu quả và mang tính cạnh tranh.
Giai đoạn 1986-1990
Nét nổi bật ở giai đoạn này là công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện. Đây thực sự là một bước ngoặt lớn trong sự phát triển. Tuy vậy, thời kỳ đầu đổi mới là giai đoạn thử nghiệm, bản lề để chuyển sang thực hiện cơ chế mới ở giai đoạn này, tuy đã tìm cách tháo gỡ những vướng mắc do phát triển sản xuất kinh doanh nhưng yếu tố bao cấp vẫn còn nhiều bao cấp qua giá, quyền tự chủ hạn chế, sự chồng chéo, trùng lắp giữa quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp, những nhà đầu tư và sản xuất còn nghi ngờ chủ trương phát triển kinh tế tư nhân.
Nhìn chung, sự phát triển của công nghiệp Hà Nội trong thời kỳ này vẫn được duy trì so với trước. Tốc độ phát triển của ngành công nghiệp bình quân hàng năm trong thời kỳ này là 4,8%, có được sự phát triển đó vì:
- Đây là thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, chính sách mới được ban hành và thực hiện. Chẳng hạn QĐ 217 HĐBT ngày 14-11-1987, NQ 16 CT và QĐ27,28,29 HĐBT, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987),... Các văn bản này như tạo ra luồng sinh khí mới trong việc huy động các nguồn lực cho phát triển công nghiêp.
- Một số nguồn lực dự trữ giai đoạn trước vẫn còn hoặc nguồn cung ứng, tài trợ theo hiệp định vẫn còn hiệu lực đã góp phần tạo cơ sở ổn định cho sự phát triển công nghiệp trong giai đoạn này.
- Các thị trường truyền thống, như thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu vẫn còn, vốn là những nơi tiêu thụ phần lớn hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam nói chung cũng như của Hà Nội nói riêng hoặc thực hiện nhiệm vụ gia công hợp tác sản xuất vẫn được duy trì. Đó cũng là yếu tố góp phần ổn định sự phát triển công nghiệp trong những năm đầu thời kỳ đổi mới.
Những năm 1989-1990, công nghiệp Việt Nam nói chung, công nghiệp Hà Nội nói riêng đứng trước những thử thách gay gắt. Lúc này thị trường Liên Xô cũ và Đông Âu không còn. Các khoản bao cấp cơ bản, các khoản viện trợ, tài trợ phát triển ưu đãi hầu như đã hết, ... Cũng trong thời gian này nhiều doanh nghiệp Nhà nước bị chao đảo, đang tự tìm lối thoát để khởi sắc vươn lên. Chính sự chao đảo đó đã chấm dứt một thời kỳ phát triển mang nặng hình thức sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ phát triển trên cơ sở coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả.
Giai đoạn từ 1991 đến nay
Qua thời kỳ khủng hoảng 89-90, năm 1991 bắt đầu phát triển trong cơ chế mới, cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, đây là thời kỳ công nghiệp Hà Nội bắt đầu vực dậy. Điều đó được thể hiện:
- Sự phát triển, cơ cấu, trình độ và tính chất phát triển công nghiệp đã gắn với thị trường và nâng cao hiệu quả. Đó là bước chuyển từ tập trung phát triển công nghiệp nặng sang phát triển công nghiệp nhẹ là chủ yếu.
- Sự phát triển công nghiệp đi theo hướng huy động tốt hơn các nguồn lực tự có và bên ngoài, nguồn lực tự nhiên, nguồn lực sản xuất và nguồn lực nhân tạo. Số dự án, tổng số vốn công nghiệp ngày càng nhiều, kinh tế tư nhân trong những năm trước đây chủ yếu đầu tư vào thương mại, dịch vụ, nay đang dần chuyển hướng sang đầu tư vào sản xuất gắn sản xuất với hoạt động thương mại, tài chính và các dịch vụ khác. Các làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp qui mô nhỏ vốn bị mai một trong những năm khó khăn chung, nhất là những năm đầu chuyển đổi cơ chế, nay đã vực dậy, phát triển đi lên như một luồng gió mới trong sự phát triển công nghiệp.
Như vậy, cơ chế mới với các chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư và chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy và huy động các nguồn lực cho phát triển công nghiệp, đặc biệt là nguồn lực nội sinh.
- Công nghiệp từ chỗ phát triển mang nặng tính hình thức, kém hiệu quả, nay thực chất hơn. Các doanh nghiệp đã luôn chú ý tới chất lượng, giá thành, nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Nhiều sản phẩm đã lấy lại sự tín nhiệm của người tiêu dùng như bia, nước ngọt, đường, sữa... và nhất là nhiều sản phẩm đã thâm nhập và cạnh tranh trên thị trường thế giới như hàng may mặc,...
- Việc tạo dựng các khu công nghiệp tập trung đã thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo việc làm và nâng cao tay nghề của công nhân. Tính đến thời điểm này toàn thành phố có 5 khu công nghiệp tập trung: KCN Nội Bài, KCN Thăng Long, KCN Hà Nội - Đài Tư, KCN Sài Đồng B, KCN Daewoo - Hanel.
- Tính đến đầu năm 2000, trên địa bàn thành phố có 15316 đơn vị sản xuất công nghiệp đủ mọi thành phần kinh tế, bao gồm 167 doanh nghiệp Nhà nước TW quản lý, 106 doanh nghiệp Nhà nước địa phương, 182 HTX, 38 doanh nghiệp tư nhân, 284 công ty trách nhiệm hữu hạn, 6 công ty cổ phần, 14428 hộ sản xuất công nghiệp nhỏ và 107 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). So với năm 1990 số cơ sở sản xuất công nghiệp tăng 91%, đặc biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ con số 0 tăng lên 105 cơ sở. Không chỉ tăng về số lượng mà cơ cấu ngành sản phẩm cũng đã chuyển theo hướng đa dạng, gắn với thị trường tiêu thụ thủ đô và cả nước. Đáng chú ý hơn nữa là đã xuất hiện một số ngành công nghiệp công nghệ cao như lắp ráp ôtô, xe gắn máy, sản xuất đồ điện dân dụng cao cấp, lắp ráp điện tử, điện lạnh, máy vi tính... Từ những cơ sở công nghiệp nhỏ là chủ yếu, máy móc thiết bị cũ và công nghệ lạc hậu với đội ngũ cán bộ công nhân được đào tạo và vận hành theo cơ chế bao cấp trước đây, công nghiệp Hà Nội đã từng bước đổi mới theo hướng hiện đại. Qui mô lao động và vốn của các doanh nghiệp ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong những năm qua TW, thành phố và các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đã tập trung vốn và công nghệ đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp với qui mô và mức độ cao hơn thời kỳ trước. Riêng ngân sách thành phố đã dành từ 31-33% để đầu tư cho công nghiệp, trong đó ưu tiên hàng đầu cho các doanh nghiệp mũi nhọn sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Cơ cấu đầu tư cũng đã chuyển dần từ chiều rộng sang chiều sâu để giúp doanh nghiệp đổi mới máy móc, thiết bị, phương tiện, hiện đại hoá qui trình sản xuất. Song song với đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ, thành phố còn chú trọng đầu tư để đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân công nghiệp để họ có đủ sức tiếp cận, sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị hiện đại và công nghệ mới trong sản xuất và quản lý doang nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP của thành phố ngày càng tăng.
- Sự phát triển khá nhanh và đồng đều của công nghiệp các khu vực, các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội không chỉ tạo thêm nhiều loại sản phẩm có chất lượng cao làm phong phú hơn của cải vật chất cho cả nước mà còn tăng mức nộp ngân sách cho thành phố. Theo số liệu tổng hợp, các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội năm 1995 đã nộp ngân sách 1000 tỷ đồng chiếm 15% tổng số thu trên địa bàn, năm 1997 và 1998 là 1812 tỷ đồng và 2057 tỷ đồng, lần lượt chiếm tỷ trọng là 18% và 18,5%.
Tóm lại, hiện nay Hà Nội hướng vào phát triển công nghiệp với tốc độ nhanh, hiệu quả lớn trên cơ sở cải tiến cơ cấu sản xuất với phương châm ưu tiên những ngành đòi hỏi kỹ thuật tiên tiến, lao động lành nghề, hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ trong mối quan hệ cạnh tranh, thích ứng với thị trường và đảm bảo môi trường sinh thái, đa dạng hoá các loại thành phần kinh tế và hợp tác với nước ngoài, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, thay thế nhập khẩu, tăng cường nhiều mặt hàng xuất khẩu. Với những ưu thế về vị trí, cơ sở hạ tầng... những khó khăn, vướng mắc của công nghiệp Hà Nội đã được giải quyết kịp thời để công nghiệp Hà Nội ngày càng phát triển.
Chương II:
Một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tình hình sản xuất công nghiệp
Để phân tích tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp, thống kê thường sử dụng một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống đó gồm hai loại chỉ tiêu: Chỉ tiêu cơ bản và chỉ tiêu chi tiết.
- Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh một cách tổng hợp nhất qui mô kết quả sản xuất kinh doanh như giá trị sản xuất, doanh thu, số lao động,...
- Các chỉ tiêu chi tiết phản ánh sâu về từng mặt nào đó của kết quả sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như chỉ tiêu giá trị sản xuất phân theo nguồn tiêu thụ, doanh thu nội bộ, doanh thu xuất khẩu,...
Tuy nhiên những chỉ tiêu trên cũng chỉ cho phép nghiên cứu mặt lượng, nghĩa là chỉ phản ánh được qui mô cũng như kết quả của hoạt động sản xuất công nghiệp. Nghiên cứu mặt chất của hoạt động sản xuất công nghiệp, thống kê cần nghiên cứu một số chỉ tiêu hiệu quả như hiệu năng sử dụng tài sản cố định, năng suất lao động,...
Dưới đây là nội dung, phương pháp tính một số chỉ tiêu chính sau:
1. Chỉ tiêu về nguồn lực sản xuất
Chỉ tiêu lao động
Số lượng lao động hiện có là những người lao động đã ký kết hợp đồng lao động với doanh nghiệp, được ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp, được doanh nghiệp quản lý sử dụng sức lao động và được trả mọi thù lao lao động theo kết quả hoàn thành công việc được giao.
Số lượng lao động hiện có của doanh nghiệp được thống kê theo hai chỉ tiêu: số lượng lao động hiện có cuối kỳ nghiên cứu và số lượng lao động hiện có bình quân trong kỳ nghiên cứu.
Số lượng lao dộng hiện có bình quân (T) được tính theo công thức:
Hoặc
Ti : Số lượng lao động có trong ngày i của kỳ nghiên cứu, những ngày lễ và chủ nhật thì lấy số lao động có ở ngày liền trước đó.
n: Số ngày theo lịch của kỳ nghiên cứu.
ni: Số ngày có số lao động là Ti (hay tần số xuất hiện Ti trong thời gian tính theo lịch của kỳ nghiên cứu).
: Tổng các tần số (với = n là số ngày theo lịch của kỳ nghiên cứu).
Trên đây là những chỉ tiêu phản ánh chi phí và kết quả sản xuất. Bằng cách so sánh tương đối giữa kết quả kinh tế với chi phí bỏ ra ta có thể xác định được hiệu quả kinh tế. Nâng cao hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với yêu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển của xã hội loài người nói chung. Như vậy, nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển chung của xã hội cũng như là cơ sở vật chất để không ngừng nâng cao mức sống dân cư. Từ 3 chỉ tiêu trên, chúng ta có thể xác định một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế sau:
Chỉ tiêu tài sản cố định
Tài sản cố định là các tư liệu lao động có tính chất vật chất (hữu hình), có giá trị lớn và có thời gian sử dụng qua nhiều kỳ sản xuất kinh doanh (Việt Nam qui định giá trị không nhỏ hơn 5 triệu và thời gian sử dụng không dưới 1 năm).
Tài sản cố định của doanh nghiệp có đặc điểm: tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh, trong quá trình sử dụng tài sản cố định bị hao mòn dần, giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào giá trị của sản phẩm và hình thái vật chất ban đầu của nó vẫn được giữ nguyên trong suốt thời gian hữu dụng.
Có thể đánh giá tài sản cố định theo các phương pháp sau:
- Đánh giá tài sản cố định theo nguyên giá: Cách đánh giá này cho biết qui mô các nguồn vốn đã đầu tư vào TSCĐ từ khi doanh nghiệp mới thành lập đến nay.
- Đánh giá tài sản cố định theo giá ban đầu còn lại: Cách đánh giá này phản ánh tổng giá trị TSCĐ danh nghĩa còn lại tại thời điểm đánh giá sau khi đã trừ đi giá trị hao mòn hữu hình của chúng.
- Đánh giá tài sản cố định theo giá khôi phục: cách đánh giá này giúp nắm được qui mô nguồn vốn để tranng bị lại TSCĐ ở tình trạng mới nguyên. Đó cũng là tổng giá trị ban đầu của các TSCĐ tương tự được sản xuất ở thời kỳ đánh giá lại.
- Đánh giá tài sản cố định theo giá khôi phục còn lại: Cách đánh giá này phản ánh tổng giá trị TSCĐ thực tế còn lại tại thời điểm đánh giá sau khi đã trừ đi giá trị hao mòn của chúng.
Chỉ tiêu Vốn sản xuất.
Chúng ta đều biết rằng vốn là biểu hiện của giá trị tài sản được sử dụng vào quá trình sản xuất. Vốn là điều kiện tiên quyết là cơ sở vật chất để doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông thường vốn của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn sau:
* Căn cứ vào thời gian luân chuyển: ta có thể phân chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn.
Thông thường những nguồn vốn có thời hạn hoàn trả từ một năm trở nên gọi là nguồn dài hạn còn những nguồn vốn có thời hạn hoàn trả dưới một năm gọi là nguồn ngắn hạn. Trong nguồn dài hạn người ta còn phân ra nguồn dài hạn với thời hạn hoàn trả từ 3 năm trở nên (có nơi tính từ 5 năm) và nguồn trung hạn (từ 1 năm đến 3 năm). Tuy nhiên tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại thực tế không giống nhau giữa các nước, ngay cả các ngân hàng cũng có thể phân loại khác nhau.
* Xét trên góc độ quyền sở hữu đối với các khoản Vốn: Ta có vốn chủ sở hữu và nợ.
Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn._. của chính chủ doanh nghiệp, được hình thành từ vốn góp ban đầu cho việc thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, bổ xung trong quá trình kinh doanh (lợi nhuận để lại, nhượng bán tài sản...), chênh lệch đánh giá lại tài sản, các quỹ của doanh nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản...các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì vốn chủ sở hữu có nguồn gốc khác nhau.
Vốn vay: là các nguồn vốn hình thành từ việc đi vay từ ngân hàng, tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, vay doanh nghiệp khác, sử dụng tín dụng thương mại...
Đây là cách phâ loại được sử dụng phổ biến hơn các hình thức khác bởi nó giúp doanh nghiệp lắm được tình hình tài chính của mình dựa trên việc so sánh phần vốn chủ sở hữu với phần vốn được tài trợ từ các chủ nợ, đồng thời xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc thanh toán nợ vay.Trên cơ sở đó, chủ doanh nghiệp có thể xác định được cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể.
Ngoài ra người ta có thể phân loại nguồn vốn doanh nghiệp theo đặc tính thường xuyên (nguồn tìa trợ thường xuyên) và tính tạm thời (nguồn tài trợ tạm thời) song hình thức này không phổ biến bằng hai hình thức trên.
2. Chỉ tiêu kết quả sản xuất
Chỉ tiêu giá trị sản xuất
Giá trị sản xuất là toàn bộ kết quả lao động hữu ích của những người lao động sản xuất ra. Nó bao gồm của cải vật chất và dịch vụ trong một thời kỳ nhất định thường là một năm.
Nội dung giá trị sản xuất của ngành công nghiệp gồm các khoản mục sau:
- Giá trị thành phẩm đã sản xuất ra trong kỳ bằng nguyên vật liệu của đơn vị.
- Giá trị thành phẩm đã sản xuất ra trong kỳ bằng nguyên vật liệu của người đặt hàng đem đến.
- Giá trị các công việc có tính chất công nghiệp làm thuê cho bên ngoài
- Chênh lệch giá trị cuối kỳ trừ đầu kỳ của sản phẩm dở dang, công cụ, mô hình tự chế và các chi phí dở dang khác.
- Giá trị các sản phẩm kèm theo, phế liệu thu hồi đã tiêu thụ trong kỳ (giá trị phế kiệu thu hồi trong kỳ bản chất không nên tính vào kết quả sản xuất mà nên tính vào giảm chi phí trung gian không nên xem phế liệu thu hồi là sản phẩm xã hội. Hiện nay cơ quan Thống kê các nước và Việt Nam quy định được tính vào giá trị sản xuất. Diều này không ảnh hưởng đến kết quả tính VA và tính GDP nhưng ảnh hưởng đến nội dung kinh tế và ý nghĩa chỉ tiêu già trị kinh tế được tính)
- Doanh thu cho thuê thiết bị, máy móc sản xuất công nghiệp và các tài sản cố định khác không kể đất.
Chỉ tiêu giá trị sản xuất ngành công nghiệp thường tính theo giá hiện hành (giá thực tế năm báo cáo) và giá so sánh.
- Giá hiện hành (giá thực tế năm báo cáo) phản ánh thành quả sản xuất năm đó, phản ánh mối liên hệ kinh tế thực tế; là căn cứ để phân phối, sử dụng và tính các chỉ tiêu kinh tế khác.
- Giá so sánh là giá của thời kỳ được chọn làm gốc so sánh. Nó được dùng để nghiên cứu về mặt khối lượng, được sử dụng để so sánh tốc độ phát triển kinh tế qua các năm, để phân tích nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng sản xuất. Giá so sánh còn dùng để so sánh quốc tế.
Ngoài ra, giá trị sản xuất còn được tính theo giá cố định. Giá cố định là loại giá so sánh đặc biệt, do Nhà nước tính toán, ban hành và thường được cố định trong một thời kỳ dài.
Phương pháp tính cụ thể
Giá trị sản xuất công nghiệp được tính theo phương pháp doanh nghiệp, có nghĩa là chỉ tính vào giá trị sản xuất công nghiệp các kết quả hoạt động cuối cùng của các doanh nghiệp, không tính các kết quả trung gian( chu chuyển nội bộ doanh nghiệp).
Kinh tế Nhà nước TW, kinh tế Nhà nước địa phương, kinh tế hỗn hợp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Theo quyết định số 1141/TC/QĐ-CĐKT của Bộ Tài chính của tất cả các doanh nghiệp công nghiệp để tổng hợp và tính toán theo phương pháp sau:
Giá trị sản xuất là tổng các yếu tố:
- Doanh thu thuần cộng thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu phải nộp.
- Doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất phụ (trường hợp giá trị doanh thu nhỏ không tách ra được để đưa về các ngành phù hợp).
- Doanh thu cho thuê thiết bị, máy móc thuộc dây chuyền của sản xuất công nghiệp và các tài sản khác không kể đất.
- Doanh thu bán phế liệu thu hồi, sản phẩm kèm theo tận thu từ sản xuất công nghiệp.
- Chênh lệch cuối kỳ trừ đầu kỳ thành phẩm tồn kho.
- Chênh lệch cuối kỳ trừ đầu kỳ sản phẩm dở dang, công cụ, mô hình tự chế và các chi phí dở dang còn lại khác.
- Chênh lệch cuối kỳ trừ đầu kỳ giá trị hàng gửi đi bán chưa thu được tiền.
- Giá trị nguyên vật liệu của người đặt hàng đã đem gia công chế biến.
Hoặc:
Giá trị sản xuất = Tổng chi phí sản xuất trong kỳ + Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu phải nộp + Lợi tức thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh`
Riêng đối với ngành công nghiệp sản xuất điện, nước và khí đốt gồm có hai loại hoạt động nên cách tính giá trị sản xuất như sau:
- Sản xuất diện, nước, khí đốt: Phương pháp tính giá trị sản xuất giống như các ngành công nghiệp khai thác hoặc công nghiệp chế biến.
- Phân phối điện, nước và khí đốt: Phương pháp tính giá trị sản xuất như sau:
GTSX = DT thuần về bán điện, nước, hơi đốt + Thuế doanh thu, thuế xuất khẩu phải nộp - Trị giá điện nước khi mua vào.
Hoặc:
GTSX = Tổng CP sản xuất trong kỳ + Thuế doanh thu, thuế xuất khẩu phải nộp + Lợi tức thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Cộng giá trị sản xuất của cả hai loại hoạt động trên ta được giá trị sản xuất của toàn bộ ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước.
Kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể
Đối với các đơn vị có đủ nguồn thông tin như đơn vị kinh tế Nhà nước thì tính giá trị sản xuất theo phương pháp trên.
Đối với các đơn vị không có đầy đủ báo cáo quyết toán năm thì căn cứ vào nguồn thông tin về tổng số lao động bình quân, số liệu điều tra chọn mẫu của các đơn vị về lao động, giá trị sản xuất, doanh thu bán sản phẩm sản xuất trong năm để tính theo phương pháp sau:
Tài liệu
điều tra
chọn mẫu
Suy rộng
toàn bộ
Ngành công nghiệp cấp 2
Lao động bình quân trong kỳ
GTSX theo giá tt
GTSX chia cho lao động bq
Tổng lao động bq trong kỳ
Tổng GTSX
A
1
2
3=2/1
4
5=3x4
Nội dung giá trị sản xuất của các đơn vị điều tra chọn mẫu giống như nội dung giá trị sản xuất cuả thành phần kinh tế Nhà nước ở trên.
Ngoài thông tin được tính từ tài liệu điều tra chọn mẫu cảu thống kê công nghiệp cần đối chiếu, so sánh thêm với tài liệu tổng hợp của cơ quan thuế vụ của ban công nghiệp từ cấp cơ sở để có được số liệu đầy đủ, chính xác, phù hợp với thực tế của cả nước, của từng vùng lãnh thổ.
Chỉ tiêu giá trị tăng thêm (VA).
Giá trị tăng thêm là một bộ phận của GO, nó thể hiện phần lao động hữu ích do hoạt động sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp toạ ra trong một khoảng thời gian nhất định. Nó chỉ bao gồm phần giá trị mới được tạo ra.
Nội dung của VA: Xét theo yếu tố giá trị gia tăng có nội dung gồm.
a/ Thu nhập của người lao động (Thường gọi là thu nhập lần đầu của người lao động) nó gồm những khoản sau:
Tiền lương, tiền công
Tiền thưởng có liên quan đến sản xuất kinh doanh
Các khoản trích nộp BHXH, BHYT...
Các khoản trợ cấp cho người lao động
Chi phí du lịch, nghỉ mát
b/ Khấu hao TSCĐ
c/ Thuế sản xuất
d/ Lãi (lỗ ) của doanh nghiệp
Phương pháp tính VA.
- Phương pháp sản xuất
Theo phương pháp này, giá trị tăng thêm bằng giá trị snả xuất trừ đi chi phí trung gian:
VA
=
GO -
IC
GO (Tính theo giá bán buôn công nghiệp) = Giá thành sản phẩm + lãi định mức + Các khoản thuế sản xuất phải nộp.
Phương pháp phân phối:
Thu nhập của người lđ
(V)
Thu nhập của doanh nghiệp (M)
Khấu hao tài sản cố định
VA
=
+
+
3. Chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất
Chỉ tiêu năng suất lao động sống
Năng suất lao động là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hay mức hiệu quả của lao động.
Mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng (hay giá trị) sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị lao động hao phí. Nếu ký hiệu số lượng (hay giá trị) sản phẩm là Q, số lao động hao phí để tạo ra số lượng (hay giá trị) sản phẩm đó là T và mức năng suất lao động là W, thì W được xác định bằng công thức:
Vì Q có thể được tính bằng đơn vị hiện vật, hiện vật qui ước hay đơn vị tiền tệ, còn T có thể được tính bằng số người, số ngày người hay giờ người làm việc thực tế để tạo ra Q, cho nên cứ ứng với mỗi biểu hiện cụ thể của Q và T sẽ xác định được mức năng suất lao động.
Chỉ tiêu hiệu năng (hay hiệu suất) tài sản cố định
Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định là mục đích của việc trang bị tài sản cố định. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định có thể được tiến hành thông qua chỉ tiêu hiệu năng (hay hiệu suất) tài sản cố định (ký hiệu: ). Để xác định được chỉ tiêu này, ta phải tiến hành so sánh hai chỉ tiêu giá trị sản xuất và tài sản cố định thông qua công thức sau:
Trong đó:
Q: Kết quả sản xuất
: Giá trị tài sản cố định bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Chỉ tiêu cho biết cứ bình quân một đơn vị giá trị tài sản cố định dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đơn vị kết quả sản xuất.
Chỉ tiêu hiệu năng sử dụng Vốn
Để đạt mục tiêu kinh doanh đề ra, để doanh nghiệp tồn tại và phát triển nhiệm vụ của nhà kinh doanh là phải biết sử dụng vốn có hiệu quả. Trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thống kê dùng các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu Hiệu suất (hiệu năng) sử sụng vốn (Hvl)
Hv = GO / Vv
Hv: Hiệu năng sử dụng vốn
GO: Giá trị sản xuất
Vv: Vốn sản xuất
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng Vốn bỏ vào kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất.
Chương III :
Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình hình sản xuất công nghiệp Hà nội
I Phân tích thống kê nguồn lực sản xuất
1. Phân tích thống kê lao động công nghiệp
Ngày nay, sự phát triển kinh tế thế giới đã đạt đến mức biên giới quốc gia chỉ còn ý nghĩa về hành chính. Sự giao lưu kinh tế đã liên kết các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau thnàh một thị trường thống nhất. Bối cảnh quốc tế và khu vực đã mở cho ta nhiều thuận lợi để phát triển quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Xu hướng phát triển khoa học công nghệ thế giới đã giúp công nghiệp nước ta nói chung, công nghiệp Hà Nội nói riêng bỏ qua giai đoạn, tiếp cận nhanh hoà kỹ thuật mới.
Những thành công bước đầu trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã tạo nên tiền đề chính trị và xã hội, vật chất và tinh thần cũng như tích luỹ thêm được kinh nghiệm quản lý điều hành kinh tế vĩ mô và vi mô. Chính sách kinh tế đúng đắn cùng với nội lực sẵn có sẽ tạo tiền đề cho quá trình phát triển nhanh của công nghiệp. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ, nội dung Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước trong những năm còn lại của thập kỷ 90 và những năm đầu của thế kỉ XX là: Phát triển ưu tiên công nghiệp chế tác, chủ yếu là chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghiệp thông tin. Khai thác mạnh về tài nguyên và tranh thủ thời cơ huy động vốn trong nước và ngoài nước để phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng, bảo đảm tăng năng lực sản xuất tương ứng với yêu cầu tăng trưởng kinh tế và có gối đầu những công trình lớn cho các năm sau. Với các nguồn tài nguyên sẵn có thì dân số và nguồn lao động là một động lực phát triển cực kỳ quan trọng, quyết định tất cả cho sự phát triển kinh tế xã hội. Những thiếu hụt trong nhân tố con người càng quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém trong nhân tố con người càng gây hậu qảu tiêu cực bấy nhiêu. Nếu không khắc phục sự yếu kém thì nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng chỉ phát triển rầm rộ lúc ban đầu, còn sau đó thì mọi nguồn lực sẽ tuột tay và nền kinh tế không tránh khỏi rơi vào tình trạng trì trệ. Nhưng bù đắp những thiếu hụt về nhân tố con người không thể ngày một ngày hai được. Xây dựng một doanh nghiệp, một nhà máy có thể chỉ mất một vài năm, thậm chí chỉ mấy tháng, nhưng có được những con người quản lý, điều hành và lao động giỏi trong công nghiệp thì phải mất hàng chục năm.
Hà Nội là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước. Trong những năm qua, công nghiệp Hà Nội đã tạo ra rất nhiều việc làm và thu hút được nhiều lao động. Điều đó được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 10: Tình hình biến động lao động công nghiệp
thời kỳ 1997-2001
Năm
Lao động (người)
Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn (%)
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn (người)
1997
177459
-
-
1998
176061
-0,788
-1398
1999
182790
3,82
6729
2000
195679
7,06
12907
2001
199950
2,17
4253
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
1.2. Phân tích biến động lao động công nghiệp trên địa bàn Hà Nội
thời kỳ 1997 - 2001
Xem xét trên giác độ về lao động, các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội quy mô không lớn và rất không đều ở các ngành, các thành phần kinh tế khác nhau.
Năm 1995, bình quân một doanh nghiệp công nghiệp (không tính hộ sản xuất công nghiệp) có 150 lao động. Trong đó doanh nghiệp nhà nước trung ương quản lý có 419 lao động, doanh nghiệp Nhà nước địa phương quản lý có 252 lao động, doanh nghiệp ngoài Nhà nước có 20 lao động và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có 163 lao động. Riêng lao động bình quân của hộ công nghiệp sản xuất nhỏ là 2,7. Số lượng lao động trên địa bàn hàng năm tăng lên. Đến năm 1998 bình quân một doanh nghiệp công nghiệp có 171 lao động (doanh nghiệp Nhà nước TW 489, doanh nghiệp Nhà nước địa phương 293, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 45, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 106), hộ sản xuất nhỏ công nghiệp 2,8 lao động. Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong các hộ sản xuất công nghiệp nhỏ chỉ chiếm có 33,04% tổng số công nghiệp trên địa bàn. Phần còn lại (60,77%) tập trung trong các doanh nghiệp nhà nước (61%) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (6.2%).
Quy mô lao động doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn Hà Nội được thể hiện cụ thể ở bảng sau
Bảng 11 : Số lượng doanh nghiệp công nghiệp chia theo quy mô lao động
có đến 31/12/2000
Tổng số
Chia ra
NNTW
NNĐP
Ngoài NN
KV có vốn ĐTNN
Tổng số
4672
534
240
3658
240
Chia ra
Dưới 50
3510
53
29
3300
128
51 - 200
672
188
100
304
80
201 - 500
305
159
74
48
24
501 - 1000
128
88
29
5
6
1000 >
57
46
8
1
2
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
* Theo thành phần kinh tế ta có số liệu sau:
Bảng 12 : Lao động công nghiệp phân theo thành phần kinh tế
thời kỳ 1997 - 2001
Đơn vị : Người
Năm
NNTW
NNĐP
Ngoài NN
KV có vốn ĐTNN
Tổng
1997
74967
27957
62802
11733
177459
1998
77519
29465
58178
10899
176061
1999
77205
30023
63561
12001
182790
2000
79707
31251
72927
11842
195697
2001
82445
30975
74754
11785
199950
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
Bảng 13 : Cơ cấu lao động công nghiệp trên địa bàn theo thành phần kinh tế thời kỳ 1997 - 2001.
Đơn vị %
Năm
NNTW
NNĐP
Ngoài NN
KV có vốn ĐTNN
Tổng
1997
42,2
15,8
35,4
6,6
100
1998
44,03
16,74
33,04
6,2
100
1999
42,23
16,42
34,77
6,56
100
2000
40,73
15,97
37,26
5,71
100
2001
41,23
15,49
37,38
5,89
100
Nhìn vào số liệu trong bảng ta thấy tỷ trọng lao động trong khu vực Nhà nước hầu như không thay đổi. Trong khi đó tỷ trọng lao động công nghiệp ngoài Nhà nước có xu hướng tăng dần và tỷ trọng lao động khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm. Theo xu hướng chung người lao động thích làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước vì việc làm ổn định, khi về hưu có lương và các khoản trợ cấp khác. Do vậy, trong một thời kỳ dài làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước là ước mơ của mọi người lao động. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, xu hướng chung người lao động thích làm việc trong khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài do nhà nước có chính sách mở cửa và có thu nhập cao hơn.
* Theo ngành công nghiệp ta có:
Bảng 14 : Lao động công nghiệp phân theo ngành công nghiệp
Đơn vị : người
Năm
Tổng số
CN khai thác
CN chế biến
CN điện ga & nước
1997
177459
5789
167166
4504
1998
176061
5800
165252
5009
1999
182790
5921
171763
5106
2000
195697
5669
185147
4881
2001
199950
5606
189472
4872
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
Bảng 15: Cơ cấu lao động trong ngành công nghiệp
Đơn vị : %
Năm
Tổng số
CN khai thác
CN chế biến
CN điện ga & nước
1997
100
3,3
94,2
2,5
1998
100
3,29
93,86
2,85
1999
100
3,23
93,96
2,81
2000
100
2,89
94,61
2,5
2001
100
2,8
94,75
2,45
Như vậy phần lớn lao động công nghiệp trên địa bàn Hà Nội làm việc trong ngành công nghiệp chế biến (hơn 90%). Tỷ trọng lao động công nghiệp khai thác và công nghiệp điện, ga, nước là rất thấp. Trong thời kỳ 1997-2001 cơ cấu lao động công nghiệp giữa các ngành hầu như không chuyển dịch. Tuy nhiên, trong nội bộ các ngành công nghiệp lại có sự thay đổi. Chẳng hạn, trong ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất hoá chất, sản xuất tivi, thiết bị thông tin,... có tỷ trọng lao động so với toàn ngành luôn tăng. Đây là những ngành đòi hỏi công nhân phải có trình độ khoa học kỹ thuật mới có thể làm được, ở Hà Nội trong vài năm trở lại đây do có đầu tư về nghiên cứu đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật nên đã phát triển được một số ngành đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao như sản xuất hoá chất, sản xuất tivi,... Do vậy, công nhân trong các ngành này có xu hướng ngày càng tăng. Trong khi đó, một số ngành như ngành dệt, tỷ trọng lao động có xu hướng giảm là do trước kia máy móc chưa được đầu tư nhiều, chủ yếu áp dụng công nghệ sử dụng nhiều lao động, khi đòi hỏi về sản phẩm có chất lượng tốt trong các doanh nghiệp đã tinh giảm biên chế để sử dụng những lao động có tay nghề, hiểu biết công nhệ mới. Do vậy, lao động trong ngành này có xu hướng giảm.
1.2 Dự đoán lao động công nghiệp của Hà Nội đến năm 2002.
Dựa vào lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân.
Từ = Ta có yn + h = yn + h x
Trong đó: là lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân
yn + h: là giá trị dự đoán
h: là khoảng cách thời gian dự đoán
Dự đoán LĐ của toàn ngành.
Lượng tăng tuyệt đối bình quân của toàn ngành là:
= = = 5624(Người)
LĐ CN dự đoán của Hà Nội năm 2002 là:199950 + 5624= 205574 (Người)
Dự đoán GTSX theo thành phần kinh tế.
Đơn vị: Người
Thành phần kinh tế
LĐCN tăng so với năm 2001
Dự đoán LĐCN năm 2002
CNNNTW
1833
84278
CNNNĐF
710
31685
CN Ngoài NN
3068
77822
KV ĐTNN
13
11798
Tổng
5624
205570
Dự đoán lao động CN theo ngành kinh tế
Đơn vị: Người
Ngành kinh tế
LĐCN tăng so với năm 2001
Dự đoán LĐCN năm 2002
CNKT
-47
5559
CNCB
5576
195048
C N Điện ga & nước
91
4963
Tổng
5624
205570
Từ kết quả trên ta thấy sang năm 2002 Công nghiệp Hà Nội sẽ giải quyết được 5624 việc làm trong đó tập trung CN Ngoài NN (3068. Người) tiếp đó là CNNNTW (1833. Người), CNNNĐF (710. Người), thấp nhất là khu vực có VĐTNN (13. Người), Nếu xét theo thành phần kinh tế thì ngành CNCB là ngành giải quyết được nhiều lao động nhất (5576. Người), ngành công nghiệp khai thác lại giảm nguyên nhân có thể là do lao động ngành này chuyển sang ngành kinh tế khác.
2. Phân tích thống kê Tài sản cố định
Tài sản cố định là một yếu tố quan trọng phản ánh tập trung nhất trình độ kỹ thuật công nghệ cũng như mức độ và khả năng đổi mới kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp.
Tổng giá trị tài sản cố định theo giá còn lại của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp Hà Nội cho đến 31/12/2000 là 11376767 triệu đồng.
Bảng 21 : Tỷ trọng giá trị tài sản cố định theo giá còn lại của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có đến 31/12/2000
Đơn vị: Tr.đồng
Giá trị TSCĐ (triệu đồng)
Tỷ trọng (%)
Nhà nước TW
3955700
34,77
Nhà nước địa phương
1708854
15,03
Ngoài nhà nước
1223409
10,75
Khu vực có vốn ĐTNN
4488804
39,45
Tổng số
11376767
100
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
Do kết quả đầu tư trong những năm qua, giá trị tài sản cố định của các doanh nghiệp công nghiệp ngày càng tăng lên. Nhưng nói chung, mức trang bị tài sản cố định cho một doanh nghiệp của Hà Nội nhìn chung là thấp, điều đó nói lên thực trạng kỹ thuật chưa phải ở tình trạng tiên tiến, nếu không muốn nói là lạc hậu.
Bên cạnh đó, mức trang bị tài sản cố định cho mỗi doanh nghiệp giữa các khu vực lại có sự khác biệt tương đối lớn. Cao nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 39,45 tỷ đồng/doanh nghiệp, tiếp đó là doanh nghiệp Nhà nước trung ương 34,77 tỷ đồng /doanh nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước địa phương 15,02 tỷ đồng. Mức trang bị tài sản cố định của một hộ sản xuất chỉ là 76,1 triệu đồng. Điều này nói lên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có trình độ kỹ thuật công nghệ vượt xa các doanh nghiệp Nhà nước và ngoài Nhà nước.
3. Phân tích thống kê vốn sản xuất.
Chúng ta đều biết rằng vốn có vai trò vô cùng quan trọng, đáp ứng cho sự tăng trưởng phát triển của mọi nền kinh tế. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội năm 2000, Đảng ta ghi rõ “Chính sách tài chính
Quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ tiêu dùng theo hưóng tăng dần tỷ lệ tích luỹ ”.Tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là những vấn đề đang được chính phủ, cùng mọi ngành, mọi cấp quan tâm.Có huy độngvốntừ bên ngoài, phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước mới có thể đáp ứng đựơc nhu cầu phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Tổng vốn sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp Hà Nội cho đến ngày 31/12/2000 là: 22736394 (tr.đ).
Bảng 21: Tỷ trọng vốn sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp theo thành phần kinh tế có đến ngày 31/12/2000.
Thành phần kinh tế
Vốn (tr.đ)
Tỷ trọng (%)
Nhà nước TW
9723402
42,77
Nhà nước địa phương
292937311
12,92
Ngoài nhà nước
2278750
10,02
Khu vực có vốn ĐTNN
7796931
34,29
Tổng số
22736394
100
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
Qua bảng trên ta có thể thấy, với chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động tối đa nguồn lực trong nước của chính phủ đã làm cho vốn sản xuất của các doanh nghiệp tăng lên. Tuy vậy lượng vốn vẫn còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, thực tế lượng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước TW ,là doanh nghiệp có tỷ trọng vốn chiếm nhiều nhất (42,77%) chỉ là 57877,392 (tr.đ/dn) chưa kể đến các doanh nghiệp ngoài nhà nước thì lượng vốn trung bình trong 1 doanh nghiệp là 141,757(tr.đ/dn), trong khi đó luợng vốn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 77969,31(tr.đ/dn) gấp 1,35 lần so với các doanh nghiệp nhà nước TW. Đối với thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế hộ sản xuất thì thực trạng vốn và trang thiết bị còn thấp, lượng vốn 1 hộ sản xuất là 36,752 (tr.đ/hộ). Điều đó cho thấy mức trang bị vốn cho mỗi doanh nghiệp giữa các khu vục có sự khác biệt đáng kể, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với lượng vốn lớn, máy móc, trang thiết bị đựơc cung cấp đầy đủ và hiện đại góp phần đáp ứng đuợc nhu cầu của quá trình sản xuất , với lượng vốn còn khiêm tốn
các doanh nghiệp nhà nước TW chưa được trang bị như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nuớc ngoài, trình độ kỹ thuật, công nghệ còn thua kém rất nhiều các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên đây ta mới chỉ nghiên cứu tổng quan về vốn của các doanh nghiệp công nghiệp Hà Nội, như vậy, mới chỉ phản ánh về mặt lượng.Để nghiên cứu về mặt chất, chúng ta cần đi sâu phân tích chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp.
II.Phân tích thống kê chỉ tiêu kết quả sản xuất
1. Phân tích thống kê giá trị sản xuất
Phân tích tình hình sản xuất công nghiệp bao gồm nhiều chỉ tiêu nhưng chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất công nghiệp hiện nay là chỉ tiêu giá trị sản xuất.
1.1 Phân tích xu thế biến động giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội
1.1.1 Phân tích xu thế biến động giá trị sản xuất chung toàn ngành
Thực hiện đường lối CNH - HĐH do Đại hội VIII của Đảng đề ra, trong những năm cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, công nghiệp Hà Nội đã có nhiều khởi sắc và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Trong thời kỳ này (1997 - 2001) tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội đạt 12,03 %/năm.
Tình hình biến động giá trị sản xuất chung toàn ngành qua các năm trong giai đoạn 1995 - 2001 được biểu hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Tình hình biến động giá trị sản xuất chung toàn ngành công nghiệp thời kỳ 1997 - 2001 (theo giá cố định 1994).
Năm
GTSX CN
(triệu đồng)
Tốc độ tăng (giảm)
liên hoàn (%)
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn (triệu đồng)
1997
12172312
-
-
1998
13865308
13,9
1692996
1999
14912886
7,55
1047578
2000
17297827
15,99
2384941
2001
19175217
10,85
1877390
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
Từ số liệu trên, ta có:
* Tốc độ phát triển bình quân của toàn ngành là:
= = = 1.1203 ( lần )
Tốc độ tăng ( giảm ) bình quân của toàn ngành: = - 1 = 0,1203 (lần) hay 12 ,03(%).
* Lượng tăng tuyệt đối bình quân của toàn ngành là:
= = = 1750726,25 ( triệu đồng ).
Năm năm qua giá trị sản xuất công nghiệp có lượng tăng khá cao, trung bình 1750726,25 (triệu đồng/năm). Có được kết quả này là do sự cố gắng của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhờ thực hiện một số chương trình quốc gia lớn về nâng cấp xây dựng cơ sở hạ tầng, chương trình nước sạch đô thị và nông thôn,... đã kéo theo nhiều ngành công nghiệp có liên quan tăng trưởng sản xuất ở mức đáng kể. Hơn nữa, cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện, môi trường kinh doanh thông thoáng hơn và đặc biệt là việc tháo gỡ kịp thời khó khăn của các cơ sở trong sự chỉ đạo của thành phố đã góp phần quan trọng để ổn định và tăng trưởng sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên, tốc độ tăng cũng như lượng tăng tuyệt đối có xu hướng tăng hoặc giảm qua các năm là không ổn định (Giá trị sản xuất năm 1998 so với 1997 tăng 13,90%, tương ứng 1692996 triệu đồng; 1999/1998 tăng 7,55%, tương ứng 1047578 triệu đồng; 2000/1999 tăng 15,99%, tương ứng 2384941 triệu đồng; 2001/2000 tăng 10,85%, tương ứng 1877390 triệu đồng) . Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp cũng như toàn thành phố cần phải có những giải pháp cụ thể giải quyết tình trạng này, để công nghiệp thành phố ngày càng phát triển.
So sánh giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội trong vùng đồng bằng sông Hồng sẽ cho ta thấy rõ được vai trò của công nghiệp Hà Nội trong quá trình phát triển kinh tế của vùng này.
Bảng 2: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng
(Giá cố định 1994)
1995
Tỉ trọng (%)
1996
Tỉ trọng (%)
1997
Tỉ trọng (%)
1998
Tỉ trọng (%)
Hà Nội
Hải Phòng
Ninh Bình
Hà Nam
Nam Định
Thái Bình
Hưng Yên
Hải Dương
Bắc Ninh
Vĩnh Phúc
Hà Tây
8463881
3013073
401404
229053
854948
971967
286074
2067153
453726
325414
1430568
45.757
16.289
2.176
1.238
4.622
5.254
1.546
11.175
2.452
1.759
7.733
10351001
3779941
552464
292452
990449
1074534
354745
2734899
480214
374915
1787257
45.433
16.598
2.425
1.284
4.349
4.718
1.557
12.009
2.108
1.646
7.848
12172312
5395195
677888
318844
1079735
1186921
613952
3399393
569381
892434
2099489
42.582
18.993
2.421
1.122
3.801
4.178
2.161
11.967
3.004
3.141
7.391
13865308
6191299
754199
424216
1247955
1250063
964479
3749519
635012
2548648
2289856
40.876
18.252
2.223
1.250
3.679
3.685
2.843
11.053
1.872
7.513
6.751
Tổng
1849726
100
22772871
100
28405544
100
33920554
100
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
Qua số liệu bảng trên, ta thấy giá trị sản xuất công nghiệp Hà Nội chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất vùng đồng bằng sông Hồng (gần 50%). Cụ thể là: Năm1995 chiếm 45,757 trong tổng số, năm 1996 chiếm 45,453%, năm 1997 chiếm 42,852%, năm 1998 chiếm 40,876%. Như vậy, có thể nói, công nghiệp Hà Nội giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng và của cả nước nói chung.
1.1 2. Phân tích xu thế biến động giá trị sản xuất theo thành phần kinh tế
Nét mới trong sản xuất công nghiệp của thành phố 5 năm qua là các khu vực và các thành phần kinh tế đều tăng trưởng khá. Công nghiệp Nhà nước trung ương nhờ có ưu thế về vốn lớn và công nghệ hiện đại, lại được bổ sung hàng năm bằng vốn đầu tư từ ngân sách khá lớn (2880 tỷ đồng trong 4 năm) nên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và giữ được vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển công nghiệp của thành phố. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong công nghiệp và đã góp phần vào duy trì tốc độ tăng trưởng cao của toàn ngành.
Bảng 3 : Giá trị sản xuất theo thành phần kinh tế
( theo giá cố định 1994 )
Đơn vị: (Tr. đồng)
TPKT
Năm
CN NNTW
CN NN ĐP
CN Ngoài NN
KV có vốn đầu tư nước ngoài
1997
5642359
1610845
1223112
3695996
1998
6228527
1725691
1374439
4536651
1999
6573386
1854244
1578309
4913321
2000
7499590
2093553
1870097
5834605
2001
8365928
2497926
2231584
6079779
Nguồn: Cục thống kê Hà Nội
Bảng 4 : Tình hình biến động giá trị sản xuất công nghiệp của các thành phần kinh tế thời kỳ 1997-2001
( theo giá cố định 1994 ).
Năm
Tốc độ tăng (giảm) liên hoàn (%)
Lượng tăng (giảm) tuyệt đối (triệu đồng)
CNNN
TW
CNNN ĐP
CN ngoài NN
KV vốn ĐT nước ngoài
CNNN
TW
CNNN ĐP
CN ngoài NN
KV vốn ĐT nước ngoài
1998
1999
2000
2001
10.4
5.5
14.1
11.6
7.1
7.4
12.9
19.3
12.4
14.8
18.5
19.3
22.7
8.3
18.8
4.2
568168
344859
926123
866419
114846
128553
239309
404373
151327
203870
291770
361505
840655
376661
921284
245174
Chung
10.3
11.6
16.2
13.3
680892
221770
252118
595945
Từ bảng số liệu trên ta thấy:
Công nghiệp Nhà nước TW vẫn giữ được mức tăng trưởng bình quân 2 con số (tốc độ tăng bình quân là 10,3%) như tốc độ thời kỳ trước đó. Sở dĩ được như vậy là do nhiều ngành công nghiệp then chốt vẫn tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của mình trong cơ cấu công nghiệp thủ đô. Năm 2001, giá trị sản xuất bình quân 1 doanh nghiệp nhà nước TW đạt 49,797 tỷ đồng và doanh thu 68,120 tỷ đồng so với 40.327 tỷ đồng và 50,04 tỷ đồng năm 1999.
Thời kỳ từ 1991 - 1995 Công nghiệp Nhà nước địa phương thuộc sự quản lý của thành phố, đã gặp phải rất nhiều khó khăn do thiếu vốn, máy móc thiết bị thì lạc hậu. Nhưng từ 1997 - 2000 thành phố đã đầu tư cho khu vực này 670 tỷ đồng. Bình quân 1 doanh nghiệp đầu tư 6,3 tỷ đồng. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn huy động các nguồn vốn tự có, vốn vay để đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị và hiện đại hoá quy trình công nghệ. Điều đó đã giúp một số không ít các doanh nghiệp công nghiệp địa phươn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33915.doc