Vận dụng lý luận quan điểm toàn diện để phân tích tình hình kinh tế Việt Nam từ 1975 - 2000
Lời nói đầu
Năm 1975, giải phóng Miền Nam, đất nước ta hoàn toàn độc lập, hai miền Nam - Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. nhiệm vụ đặt ra trước mắt là phải khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh và cải rạo nền kinh tế Miền Nam cho phù hợp với mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa ( XHCN).
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
17 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng lý luận quan điểm toàn diện để phân tích tình hình kinh tế Việt Nam từ 1975-2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một trong những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta và đã được các Nghị quyết của Đại hội VI, đại hội VII. Đại hội VIII, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 1991 - 2000, Đại hội IX và Nghị quyết trung ương Đảng khẳng định trong đó cơ chế thị trường và quản lý nhà nước là hai yếu tố cơ bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đảng và Nhà nước đã quyết tâm thực hiện quá trình đổi mới thông qua một chương trình đổi mới thể chế một cách sâu rộng triệt để và toàn diện nhằm thực hiện việc xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN. Đổi mới cơ chế quản lý với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành toàn diện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Do vậy việc nghiên cứu quan điểm toàn diện trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường XHCH là hết sức quan trọng và cấp bách. Trong 15 năm nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Thoát khỏi khủng hoảng, đạt tốc độ phát triển nhanh, đời sống của nhân dân được cải thiện, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ. Với nền kinh tế đa thành phần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Và nhất là hiện nay toàn Đảng toàn dân đang tích cực tham gia góp ý kiến xã hội 10 năm phát triển 2001 - 2010 thì nghiên cứu quan điểm toàn diện càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
I. Những lý luận về quan điểm toàn diện
1. Cơ sở lý luận
Quan điểm toàn diện được xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép quan hệ biện chứng đó là:
Các sự vật hiện tượng không tồn tại cô lập, biệt lập mà thống nhất với nhau, ràng buộc lẫn nhau, qui định và chuyển hoá lẫn nhau.
Không chỉ trong tự nhiên mà trong lĩnh vực đời sống xã hội và tinh thần, mọi sự vật - hiện tượng cũng luôn luôn liên hệ, tác động quan lại lẫn nhau. Sự liên hệ đó mang tính khách quan và là tính phổ biến của các hiện tượng - sự vật trong thế giới khách quan.
Trong thế giới khách quan có vô vàn mối liên hệ, chúng rất đa dạng và giữ vai trò vị trí khác nhau trong sự tồn tại vận động và phát triển sự vật hiện tượng.
+ Có mối liên hệ bên trong ( sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận bên trong sự vật hiện tượng ), lại có mối liên hệ bên ngoài và nó cũng là mối liên hệ hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy không có sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời các sự kiện khác.
+ Có mối liên hệ chung trong toàn bộ thế giới cũng có mối liên hệ riêng trong từng lĩnh vực cụ thể.
Từ nhận thức trên trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có các yếu tố thị trường, các công cụ quản lý kinh tế. Quan điểm toàn diện ở đây thể hiện ở chỗ muốn xây dựng nền kinh tế thị trường phải xây dựng các yếu tố thị trường mang tính đồng bộ, tính toàn diện, xây dựng các công cụ đồng thời cũng hoạt động chứ không thể xây dựng các công cụ riêng biệt đứng lẻ loi, riêng rẽ, sẽ rất khó có tác dụng trong việc xây dựng nền kinh tế.
2.Yêu cầu của quan điểm toàn diện
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự vật chúng ta phải xem xét nó trên hai khía cạnh
a. Trong mối quan hệ giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác của sự vật đó.
b. Trong mối liên hệ giữa sự vật đó với sự vật khác ( kể cả trực tiếp và gián tiếp )
V.I lênin viết: " Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và " quan hệ gián tiếp " của sự vật đó" ( V.I Lê nin toàn tập Nhà xuất bản tiến bộ Matxcơva, 1979, t.42, tr 364).
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ỉng với mỗi con người mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy tri thứcđạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.
Như vậy quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó.
3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện
Để cải tạo một sự vật hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động thực tiễn, đòi hỏi một hệ thống các biện pháp nhất định. Nếu thiếu tính toàn diện trong các chủ trương biện pháp thì sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Song toàn diện đồng bộ không phải cái gì cũng đặt ra một cách giàn đều, tràn lan, mà đòi hỏi trong mỗi một thời kỳ, mỗi một giai đoạn phải có những chủ trương, những biện pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm, xác định được những khâu then chốt tập trung giải quyết để làm cơ cở cho những chủ trưởng biện pháp khác một cách đồng bộ.
Góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều, phiến diện. Chống lại chủ nghĩa chết chung và thuật nguỵ biện ( chủ nghĩa chết chung nhân danh toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật ); ( thuật ngụy biện thì lại lập luận chủ quan thứ yếu thay cho chủ yếu, lấy cái không cơ bản thay cho các cơ bản ... nhằm xuyên tạc biện chứng của sự vật ).
II. Vận dụng lý luận vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa " chính sách dàn đều" và chính sách có trọng điểm" V.I Lê nin.
1. Khái niện nền kinh tế thị trường, ưu điểm và nhược điểm. Thị trường định hướng XHCN.
a. Khái niệm
Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ trở lên phổ biến. Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra các hình thức kinh tế khác nhau như: Kinh tế tự nhiên, kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế văn minh, đó là nền kinh tế vận động, phát triển gắn liền với hệ thống đồng bộ các thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài nguyên.
Kinh tế thị trường đầy đủ gắn liền với một hệ thống luật lệ thể chế, hệ thống các đạo luật, các qui phạm và xương sống của nền kinh tế. Về thực chất là các khuôn khổ pháp lý đảm bảo cho nền kinh tế năng động và có trật tự.
b. Mặt tích cực và hạn chế của nền kinh tế thị trường trong đời sống xã hội nước ta.
Nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện chúng ta nhận thấy rằng một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh thúc đẩy khoa học phát triển, tiếp thu các công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp bị phá sản.
* Về mặt tích cực
Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động, quyết đoán, có được kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại của mình nhằm:
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
+ Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất.
+ Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
+ Kích thích nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế, hàng hoá dịch vụ dồi dào và luôn luôn được cải tiến.
+ Tính năng động và tự điều chỉnh của nền kinh tế.
* Về mặt hạn chế
- Phân hoá giàu nghèo quá xa nhau không công bằng mâu thuẫn xã hội làm cản trở cho sự phát triển của xã hội.
- Động cơ săn đuổi lợi nhuận tối đa gắn liền với những thủ đoạn không lành mạnh: Đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường truyền thống và các chuẩn mực xã hội.
- Giá cả hình thành tự do trên thị trường.
- Xuất hiện nhiều mặt trái của cạnh tranh không lành mạnh.
c. Mục đích của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là
Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH; sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để phát triển đúng hướng đi lên CNXH.
* Đặc điểm kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta.
- Có nhiều thành phần kinh tế, có nhiều hình thức sở hữu nhưng sở hữu công cộng là chủ yếu.
- Có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước ta là Nhà nước XHCH, Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường và kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích Nhà nước của nhân dân lao động.
- Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng ngay trong từng bước phát triển.
2. Thực trạng và quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam
a. Giai đoạn từ năm 1975 - 1986
Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Trong 10 năm nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử thách, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế bị tàn phá, từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, ytế, thiết lập củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến, trang thiết bị là phổ biến, năng suất xã hội thấp, kinh tế lạc hậu, mất cân đối, không có tích luỹ lệ thuộc vào nhiều bên ngoài.
Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra trong nhiều năm, lạm phát lên đến 774% năm 1986 (tạp chí cộng sản số 17 tháng 9 - 2000 ) tài nguyên, thiết bị và lao động sử dụng thấp, nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hoá tinh thần đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được đảm bảo; tham nhũng, tệ nạn xã hội phát triển.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta từ Nghị quyết hội nghị lầ thứ VI ban chấp hành Trung ương khoá IV ( năm 1997 ); các quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã được chấp nhận nhưng mới chỉ ở mức độ thứ yếu. Đó là do nhiều thập kỷ qua tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến, xây dựng theo mô hình dập khuôn giáo điều, chủ quan duy ý chí ( bố trí cơ cấu kinh tế thiên về công nghiệp nặng qui mô lớn, vội xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nặng về hình thức, phủ nhận nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu lực. Những sai lầm đó đã kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển. Cuộc cải cách kinh tế bị đẩy lùi, tư tưởng Lênin trong chính sách kinh tế mới bị xem như bước lùi tạm thời bất đắc dĩ.
b. Giai đoạn từ năm 1986 - 1990
Trước tình hình đó tháng 12/1986 Đại hội VI đã nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận những sai lầm thiếu sót chủ quan trong lãnh đạo điều hành. Đồng thời Đảng quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược mở ra thời kỳ mới phát triển nền kinh tế đất nước.
Thi hành đổi mới tư duy lý luận, tư duy kinh tế, cơ chế quản lý: Xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng và hoàn thiện một bươc quản lý sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, củng cốk các thành phần kinh tế XHCN.
Đảng và Nhà nước ra đã nhận thấy phải sản xuất đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá là tất yếu khách quan. Vận dụng tổng hợp các qui luật: Giá trị, cung cầu .... Sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế ... bố trí cân đối, liên kết với nhau phù hợp với điều kiện thực tế bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định.
Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, với những biện pháp đổi mới làm cho nền kinh tế chúng ta có nhiều khởi sắc. Ví dụ: Trong giai đoạn 1986 - 1990 đầu tư toàn xã hội trung bình là 12,5% GDP, tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%, kim ngạch xuất khẩu trung bình là 2,3 tỷ USD/năm; kim ngạch nhập khẩu trung bình là 2,3 tỷ USD/năm; về lạm phát thì năm 1986 là 774,7 % đến năm 1990 giảm còn 67,1% ( Nguồn Tổng cục thống kê )
c. Giai đoạn 1991 - 2000
Đại hội Đảng VII ( 6/1991) với những quyết sách quan trọng như:
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Đổi mới kinh tế làm trọng, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, phát triển sản xuất, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo nhiều việc làm cho người lao động, giảm nhịp độ tăng dân số ...
Trong 5 năm đầu ( 1991 - 1995) tuy nền kinh tế vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với việc triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng phủ hợp với nguyện vọng của nhân dân, đã tạo được nhiều động lực mới: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,2% ( mục tiêu là 5 - 6,5%. Trong đó nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp và xây dựng tăng 13,6% và dịch vụ tăng 8,8%, lạm phát kiềm chế ổn định ở mức 23,4%/năm (Nguồn: Bộ kế hạch và đầu tư).
Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1991 - 1995 Đại hộ VIII đã kết luận: "Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá"
Vì vậy giai đoạn 1996 - 2000 được xác định rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới. Mục tiêu và chỉ tiêu phát triển của kế hoạch 5 năm đã xây dựng với mức phấn đấu rất cao cả về tốc độ phát triển, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế. Việc chuyển từ giai đoạn lấy ổn định kinh tế xã hội làm trọng tâm sang giai đoạn phát triển làm trọng tâm, đặt ra yêu cầu rất cao, rất toàn diện theo chiều sâu cải cách kinh tế. Đặc biệt phải nhanh chóng hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý với cơ chế quản lý đủ sức vận hành thông suốt, hướng nền kinh tế đi vào phát triển ổn định.
Tuy nhiên các tiền đề cần thiết cho sự phát triển cao như chất lượng: Nguồn trình độ và năng lực khoa học công nghệ, điều kiện kết cấu hạ tầng, khả năng tài chính quốc gia, cơ chế thị trường đồng bộ... chưa chuẩn bị đầy đủ và còn quá thấp so với yêu cầu.
Mặt khác tác động của cuộc khủng hoảng khu vực và thiên tai khắc nhiệt làm khó khăn cho nền kinh tế. Vì vậy một số các chỉ tiêu của Đại hội VIII đều không đạt mục tiêu: Tốc độ tăng GDP trung bình 9,0 - 10,0%/ năm nhưng chỉ đạt 6,55%/ năm. Kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 21%/năm... (Nguồn văn kiện Đại hộ Đảng VIII). Nhưng nhìn chung thực hiện chiến lược 1991 - 2000 cũng đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng như: Sau 10 năm tăng gấp đôi, tích luỹ nội bộ đến năm 2000 đạt 25%GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế TB 7,5%/ năm (Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư). Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển nhanh. Chúng ta đã hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, thu hút nhiều nguồn đầu tư nước ngoài. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện và phát triển.
d. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là trọng tâm đến đổi mới chính trị, văn hoá xã hội, từ đổi mới tư duy, nhận thức tư tưởng đến hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đổi mới là Đảng phải đổi mới trên cả ba lĩnh vực: Đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phong cách làm việc. Đổi mới tư duy là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều chủ quan, siêu hình nhằm quán triệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật, hình thành những quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con người đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ xung và phát triển những thành tựu lý luận mà Đảng đã đạt được.
Để phát huy tính năng động, phát triển là hai mặt của quá trình tồn tại của sự vật: Sự vật liên hệ tác động qua lại lẫn nhau gây lên vận động, ngược lại vận động tạ ra liên hệ. Yêu cầu toàn diện chỉ đạt được khi tính đến sự phát triển. Và ngược lại chỉ có thể dự báo được xu hướng phát triển khi xem xét một cách toàn diện.
Đảng ta yêu cầu toàn Đảng toàn dân, toàn quân nắm vững các định hướng lớn:
Chủ nghĩa Mác - Lênin và từ tưởng Hồ Chí MInh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ đổi mới nền kinh tế ở nước ta.
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá nhân loại.
3. Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường.
a. Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường.
Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc thúc đẩy sự hình thành phát triển và từng bước hoàn thện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ.
(1) Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Thị trường hàng hoá và dịch vụ là yếu tố nòng cốt của nền kinh tế hàng hoá. Có thị trường hàng hoá phát triển mới có thể đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng đa dạng. Để thực hiện vấn đề này, một mặt phải ra sức sản xuất những hàng hoá gì mà thị trường cần, mặt khác phải nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả thành thị và nông thôn, chú ý các thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Mở rộng thêm nhiều thị trường ở nước ngoài.
(2) Phát triển thị trường lao động.
ở nước ta thị trường lao động chưa được phát triển. Tuy nhiên theo quan điểm toàn diện, lao động là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Do vậy việc mở rộng thị trường thị trường lao động cần có sự kiểm tra giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích người lao động và của người sử dụng lao động.
(3) Phát triển thị trường vốn.
Phát triển nhanh thị trường vốn nhất là vốn dài hạn và trung hạn là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển và tăng trưởng cao. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển đôi của đồng tiền Việt Nam.Tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán an toàn hiệu quả, cũng như tổ chức thị trường ngân hàng.
Ngoài các thị trường chủ yếu như trên, còn phải phát triển thị trường bất động sản, thị trường nhà ở, thị trường đất đai và một số các thị trường khác.
Như vậy việc vận dụng quan điểm toàn diện đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường là yếu tố cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
b. Hoàn chỉnh đồng bộ và toàn diện hệ thống các công cụ quản lý thị trường xã hội chủ nghĩa.
Để tiến hành quản lý kinh tế, Nhà nước phải sử dụng một hệ thống các công cụ quản lý, đó là các phương tiện mà Nhà nước sử dụng để tác động vào nền kinh tế nhằm đạt được những mong muốn của mình.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách các đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước.
Hệ thống các công cụ được Đảng và Nhà nước chỉ ra đó là:
(1) Các công cụ pháp luật là bảo đảm môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế phát triển.
(2) Công cụ kế hoạch: Nhà nước làm tốt chức năng hoạch định chiến lược quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, hiện tượng thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung, đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
(3) Các công cụ chính sách: Các công cụ của chính sách tiền tệ, chính sách tài chính như dự trữ bắt buộc, thị trường mở, tai triết khấu, chi và thu thuế tỷ giá hối đoái.
Chính sách tài chính là điều tiết thu nhập thông qua việc thu thuế các doanh nghiệp, thu thuế nhập của dân cư...
- Tiền tệ...
(4) Các công cụ khác là thông tin, tuyên truyền dự trữ Nhà nước, sức mạnh của doanh nghiệp Nhà nước...
Hàng loạt các công cụ như đã trình bày ở trên không thể bỏ qua bất cứ công cụ nào, nếu thiếu đi một trong những công cụ trên thì hậu quả không lường sẽ xảy ra.
Phần kết luận.
ở nước ta thời gian qua việc tổ chức lại nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, chúng ta đã gặt hái được những thành công mà thế giới đánh giá rất cao. Đó là chúng ta đã biệt vận dụng đúng đắn quan điểm toàn diện trong việc phát triển nền kinh tế ngay từ khi bắt đầu đổi mới.
15 năm đổi mới (1986 - 2000) đã cho nhân dân ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đứng trước những khó khăn, thử thách những biến động của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu cách mạng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở đó xây dựng các chủ trương chính sách đổi mới. Chúng ta kiên trì bảo vệ những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc, vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Kinh nghiệm cho thấy rằng, đôi khi chỉ cần một nhìn nhận không đúng, ngược lại có khi chỉ cần nhanh một chút, biết chớp đúng thời cơ... thì cũng có thể đạt đến thắng lợi không nhỏ.
Chúng ta nhận thức rằng, những thành tựu mà chúng ta đạt được qua 15 năm thực hiện chiến lược kinh tế xã hội đã ghi nhận sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng toàn dân ta. Đồng thời những tồn tại và những khó khăn thách thức mà chúng ta đã và sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục cố gắng nhiều hơn nữa nỗ lực nhiều hơn nữa để nhất định vượt qua.
Với thực tiễn đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều này trên thực tế đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa bảo đảm hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
* Một số suy nghĩ để phát triển các yếu tố theo quan điểm toàn diện trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy, nhờ vận dụng quan điểm toàn diện trong việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, hình thành các công cụ quản lý kinh tế, nhất là các công cụ về pháp luật, công cụ tài chính tiền tệ.. đã thu được nhiều thành công, cho chúng ta nhiều bài học trong việc xã hội nền kinh tế thị trường rất quý giá.
Tuy nhiên, theo em hiện nay các yếu tố thị trường tuy đã được hình thành vẫn còn sơ khai và chưa thật đồng bộ, nhiều thị trường mới bắt đầu hoạt động như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường nhà ở... do vậy trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện nhiều hơn nữa các yếu tố thị trường của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và theo em cần phải hoàn thiện nhiều hơn các công cụ quản lý đã có, nhất là công cụ pháp luật, công cụ tài chính tiền tệ...
Thực tiễn chuyên đề triết học này cho em thấy vai trò của quan điểm toàn diện trong việc nhìn nhận, đánh giá và phát triển các sự vật hiện tượng là hết sức quan trọng.
Mục lục
Lời nói đầu 1
I. Những lý luận về quan điểm toàn diện 2
1. Cơ sở lý luận 2
2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện 3
3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện 3
II. Vận dụng lý luận vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam 4
1. Khái niệm nền kinh tế thị trường, ưu điểm và nhược điểm. Thị
trường định hướng XHCN 4
2. Thực trạng và quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN ở Việt Nam 6
3. Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường 11
Kết luận 14
Lời cam đoan
Em xin cam đoan bài tiểu luận này là do chính tay em viết không sao chép bài viết của người khác, không nhờ người viết hộ, không thuê viết.
Em xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan trên./.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29972.doc