Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sở hữu tư liệu sản xuất là một nhân tố cơ bản cấu thành hệ thống quan hệ sản xuất trong từng chế độ kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một trong những nội dung cơ bản cần phải giải quyết là phải tiến hành cải tạo các quan hệ sản xuất mà điểm xuất phát là cải biến quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sang quan hệ sở hữu công cộng để đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, quá trình ch

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1364 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyển sở hữu tư nhân sang sở hữu nhà nước được thực hiện thông qua quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản dưới hai hình thức không bồi thường và có bồi thường; chuyển sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tập thể thông qua phong trào hợp tác hoá để tập thể hoá tư liệu sản xuất. Việc làm đó đããđưa quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất vượt quá xa so với khả năng quản l› và trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và văn kiện các kỳ Đại hội Đảng từ Đại hội VII đến nay đều khẳng định thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể phải ngày cảng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Điều đó có nghĩa là song song với phát triển kinh tế tư nhân phải từng bước chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Thực hiện chủ trương đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và sở hữu tư liệu sản xuất nói riêng đã được triển khai mạnh mẽ. Tuy vậy, đến nay trên một số lĩnh vực việc nghiên cứu lý luận vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước đã được nhiều công trình nghiên cứu, nhưng vấn đề chuyển từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng còn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ; quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chuyển sở hữu thuần túy của nhà nước sang sở hữu của các cổ đông đã làm cho nhiều người lầm tưởng đó là quá trình tư nhân hóa tư liệu sản xuất. Trong khi đó, trên thực tế quá trình cổ phần hóa đang được đẩy mạnh, quá trình chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng đã và đang diễn ra thường xuyên và phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Thực trạng đó phải được lý giải về mặt lý luận để làm cơ sở cho việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là lý do để tác giả lựa chọn “Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta” làm đề tài luận văn tốt nghiệp sau quá trình học tập hệ cao học chuyên ngành Kinh tế chính trị tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở Việt Nam, trong hơn hai thập niên vừa qua, liên quan đến vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất đã có nhiều công trình nghiên cứu, cụ thể là: Luận văn thạc sĩ triết học của Vũ Hồng Sơn với đề tài: Đa dạng hoá sở hữu ở nước ta hiện nay, xu hướng và vận dụng. Bảo vệ năm 1993, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Đình Kháng với đề tài: Sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần. Bảo vệ năm 1993 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án phó tiến sĩ kinh tế của Đỗ Trọng Bá với đề tài: Vấn về sở hữu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Bảo vệ năm 1994, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án phó tiến sĩ triết học của Lương Minh Cừ với đề tài: Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội. Bảo vệ năm 1996 tại Viện Triết học. Năm 1998, Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản cuốn Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế trị trường, cũng năm này Nxb Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam do PGS.PTS Nguyễn Tĩnh Gia chủ biên. Tác phẩm Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam của hai tác giả PGS.PTS Nguyễn Đình Kháng và PTS Vũ Văn Phúc xuất bản năm 1999. Năm 2004, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay do GS.TS Nguyễn Văn Thạo và TS Nguyễn Hữu Đạt đồng chủ biên. Cùng năm này, Nxb Khoa học xã hội cũng giới thiệu cuốn Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt nam của tác giả Nguyễn Văn Thức. Năm 2006, Nxb lý luận chính trị cho ra mắt bạn đọc cuốn Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam của hai tác giả PGS.TS Nguyễn Cúc và PGS.TS Kim Văn Chính. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và diễn đàn trên đã làm rõ vị trí, vai trò của từng hình thức sở hữu trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Song, việc nghiên cứu sự biến đổi sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất dưới các hình thức còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Do đó chưa làm rõ nội dung và yêu cầu xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta để xác định phương hương và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với những nhận xét đó, luận văn mong muốn góp phần vào việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trên đây. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Khái quát hoá những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất và sự biến đổi của quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng những luận điểm đó vào thực tiễn nước ta thời kỳ trước và sau đổi mới, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất và sự biến đổi quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. - Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta giai đoạn trước và sau đổi mới. - Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu 3.3.1. Về nội dung Lý luận Mác – Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất rất rộng lớn và trừu tượng, bao hàm nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, song luận văn chỉ tập trung vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự biến đổi quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tư liệu sản xuất bao gồm nhiều loại, nhưng luận văn chỉ phân tích làm rõ sự biến đổi quan hệ sở hữu về những tư liệu sản xuất do lao động của con người tạo ra thông qua sự chuyển hoá từ vốn tiền tệ thành tư liệu sản xuất và ngược lại. 3.3.2. Về thời gian Nghiên cứu sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta từ khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cho đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Những nguyên lý kinh tế, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề sở hữu nói chung và sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết vấn đề sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin, thông qua phương pháp trừu tượng hóa nhằm làm rõ các quan hệ lợi ích kinh tế từ sở hữu và sự cần thiết biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất để thực hiện lợi ích kinh tế. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp cụ thể như điều tra khảo sát, thu thập và xử lý tư liệu để làm cơ sở cho việc phân tích và tổng hợp, rút ra những kết luận cần thiết. 5. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Làm rõ những cơ sở lý luận về sự biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta trong quá trình đổi mới. - Phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong thời gian qua. - Đề xuất các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta. - Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy và hoạch định chính sách về xã hội hóa sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1 NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SỞ HỮU VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT 1.1.1. Khái quát một số luận điểm chủ yếu về sở hữu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Sở hữu luôn là một vấn đề được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin quan tâm đặc biệt. Trong hầu hết các tác phẩm từ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đến bộ “Tư bản”, dù không dành riêng một phần nào để nói về sở hữu, về chế độ sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, nhưng khi bàn về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ông luôn đặt sở hữu lên vị trí hàng đầu và coi đó là vấn đề cơ bản mà các cuộc cách mạng xã hội phải giải quyết. Qua nghiên cứu những tư tưởng đã được nêu lên trong các tác phẩm của các nhà kinh điển xoay quanh các vấn đề về sở hữu, có thể rút ra những luận điểm chủ yếu về sở hữu như sau: Một là, sở hữu trước hết là quan hệ xã hội giữa người với người trong việc chiếm hữu sản phẩm tự nhiên và của cải do con người tạo ra. Sở hữu chính là phương thức chiếm hữu mang tính xã hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể đối với những của cải vật chất và tinh thần được sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất ấy, hoặc để thỏa mãn mọi nhu cầu sinh hoạt của con người. Theo Mác: “Khoa kinh tế chính trị không nghiên cứu các vật phẩm, mà nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người, xét cho đến cùng là giữa giai cấp với giai cấp, nhưng các quan hệ đó bao giờ cũng gắn với các vật phẩm và biểu hiện ra như là những vật phẩm” [31, tr.615]. Cho nên, nói đến sở hữu là nói đến quan hệ xã hội giữa người và người đối với vật. Hai là, sở hữu được coi là điều kiện của nền sản xuất xã hội. Mác viết: “Bất cứ nền sản xuất nào cũng đều là việc con người chiếm hữu những vật phẩm của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định và thông qua hình thái đó. Theo ý nghĩa đó, nói rằng sở hữu (sự chiếm hữu) là một điều kiện của sản xuất...” [30, tr.860]. Mác lại nói “Nhưng khi người ta nói rằng, nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó cũng không thể có một nền sản xuất nào cả, do đó cũng không có một xã hội nào cả, thì đấy chỉ là một điều lắp lại” [30, tr.860]. Trên thực tế, sản xuất xã hội lại là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người, vì thế sở hữu là vấn đề trọng yếu trong lịch sử nhân loại. Ba là, quan hệ sở hữu luôn luôn biến đổi, không có một hình thức sở hữu nào tồn tại vĩnh viễn. Nguyên nhân của sự biến đổi đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, đòi hỏi phải có quan hệ sở hữu mới phù hợp. F.Ăngghen viết: “Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa” [29, tr.467]. C.Mác cũng đã nói về sự chuyển biến liên tục của quan hệ sở hữu từ thấp đến cao: “Quan hệ sở hữu “cổ đại” đã bị quan hệ sở hữu “phong kiến” tiêu diệt, và quan hệ sở hữu phong kiến đã bị quan hệ sở hữu “tư sản” tiêu diệt. Như vậy, chính lịch sử đã phê phán những quan hệ sở hữu đã qua” [32, tr.41]. C.Mác cũng đã chỉ ra cơ sở khách quan quyết định sự tồn tại của một hình thức sở hữu nhất định nào đó chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất: Sự chiếm hữu đó nhất thiết phải có một tính chất phổ biến, phù hợp với những lực lượng sản xuất và sự giao tiếp. Bốn là, sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên. Một hình thái xã hội - với một hình thức sở hữu nhất định chỉ mất đi, một hình thái xã hội mới với một hình thức sở hữu mới chỉ ra đời trong những điều kiện nhất định nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Bởi vì, theo C.Mác: Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ [31, tr.15-16]. Năm là, quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa chuyển biến theo hướng xã hội hóa, quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng. C.Mác chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản trong quá trình sản xuất, theo đuổi giá trị thặng dư đã tạo ra những nhân tố kinh tế mang tính chất quá độ sang phương thức sản xuất mới là các công ty cổ phần và nhà máy hợp tác của công nhân. Những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, cũng như nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể, nhưng chỉ có điểm khác nhau là: trong những xí nghiệp cổ phần tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn được giải quyết một cách tiêu cực, còn trong những nhà máy hợp tác, mâu thuẫn được giải quyết một cách tích cực [36, tr.673]. Điều đáng chú ý là, khi nghiên cứu công ty cổ phần, C.Mác đã thấy “chức năng tư bản tách rời với quyền sở hữu tư bản”, và Người cho rằng “đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa” [36, tr.670, 668]. Sự tách rời đó chính là sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng (quyền quản lý và quyền kinh doanh). Điều này cũng được C.Mác đề cập rất kỹ khi nghiên cứu về tư bản cho vay và địa tô. Với sự tách rời này cho phép huy động được nguồn vốn to lớn trong xã hội cho sự phát triển sản xuất. Sáu là, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xóa bỏ chế độ tư hữu phải là một quá trình lâu dài. Tư tưởng này được F.Ăngghen nêu rõ: Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không? Trả lời: Không, không thể được, cũng như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu [29, tr.469]. Khi bàn về cải tạo chế dộ tư hữu, Ph.Ăngghen còn nói rõ thêm: “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản” [29, tr.615], và “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác” [4, tr.618]. Vận dụng quan điểm này, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tuân theo di huấn của các nhà kinh điển: không nôn nóng xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sử dụng các thành phần kinh tế dựa trên tiền đề sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đang phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất nhưng phải tìm cách hạn chế và ngăn cấm lợi dụng quyền sở hữu tư liệu sản xuất để nô dịch người lao động. Bảy là, sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong một giai đoạn nào đó của sự phát triển xã hội, bên cạnh một phương thức sản xuất chủ đạo còn phải kế thừa những tàn dư của các phương thức sản xuất tàn dư, điều đó khiến cho trong cùng một thời gian, trong một nước có thể cùng tồn tại nhiều hình thức sở hữu. C.Mác viết: Chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ. Ngoài những tai họa của thời đại hiện nay ra, chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do chỗ các phương thức sản xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra [35, tr.19]. Sau này, V.I.Lênin đã khẳng định sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu và nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ: “Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có” [21, tr.362]. Vị trí của sở hữu tư liệu sản xuất trong các cuộc cách mạng xã hội Trong lịch sử, các cuộc cách mạng xã hội đã diễn ra bao giờ cũng gắn liền với mục tiêu cải biến hoặc thay đổi chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm giữ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp đó nắm giữ quyền thống trị xã hội về mặt kinh tế và do đó thống trị chính trị, tư tưởng. Theo C.Mác: “Vấn đề sở hữu bao giờ cũng là vấn đề sống còn của giai cấp này hay giai cấp khác - tùy thuộc vào trình độ phát triển của công nghiệp” [29, tr.428]. Đối với những người cộng sản, sở hữu được coi là vấn đề hàng đầu, vấn đề cơ bản của mọi phong trào cách mạng. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản: “Tóm lại, ở tất cả mọi nơi, những người cộng sản đều ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống lại trật tự xã hội và chính trị hiện hành. Trong tất cả phong trào ấy, họ đều đưa vấn đề sở hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào” [29, tr.645-646]. Xuất phát từ quan niệm cho rằng mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ xã hội mới bao giờ cũng phải đưa vấn đề chế độ sở hữu lên hàng đầu, song mục đích của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ hoàn toàn mọi thứ sở hữu, cũng không tước bỏ mọi quyền chiếm hữu sản phẩm xã hội của người lao động, mà chỉ tước bỏ quyền chiếm hữu sản phẩm lao động ấy để nô dịch lao động của người khác. Khi coi chế độ sở hữu tư sản hiện đại là thứ sở hữu dựa trên “bóc lột lao động làm thuê”, thứ sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực: Tư bản và lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản. Nhưng chế độ tư hữu hiện thời, chế độ sở hữu tư sản lại là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người kia. Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu [29, tr.616]. Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, C.Mác đã chỉ rõ vị trí và vai trò của sở hữu trong sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản chi phối các yếu tố khác của đời sống xã hội. Mặt khác, bản thân chế độ sở hữu cũng là một yếu tố động, luôn có sự cải biến. Một trong những động lực chủ yếu, nguyên nhân chủ yếu của sự vận động, biến đổi, cải biến đó là sự phát triển không ngừng cả về trình độ, tính chất và quy mô của lực lượng sản xuất xã hội. Khi chế độ sở hữu thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi mọi yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, cuối cùng sẽ làm thay đổi toàn bộ hình thái kinh tế - xã hội, một chế độ xã hội nào đó. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một chế độ sở hữu cơ bản đặc trưng cho hình thái kinh tế - xã hội đó. Từ chế độ sở hữu, trong những quan hệ sở hữu, “bao giờ chúng ta cũng tìm được cái điều bí ẩn sâu xa nhất, cái nền móng thầm kín của toàn bộ kết cấu xã hội” [37, tr.499]. C.Mác chỉ ra rằng, giai cấp nào nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó nắm quyền tổ chức quản lý sản xuất, nắm quyền phân phối sản phẩm xã hội. Giai cấp nào nắm quyền chi phối lĩnh vực sản xuất các giá trị vật chất thì giai cấp đó cũng nắm quyền chi phối mọi lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội, là giai cấp thống trị trong xã hội. C.Mác đã nêu lên các giai đoạn phát triển của xã hội loài người, trải qua năm phương thức sản xuất, đánh dấu những bước tiến của lịch sử xã hội loài người, tương ứng với các giai đoạn phát triển đó là những hình thái (chế độ sở hữu) khác nhau: sở hữu bộ lạc, sở hữu công xã hay sở hữu nhà nước thời cổ, sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp, sở hữu tư sản, sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự thay thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác là một tất yếu khách quan, là kết quả tác động của các quy luật khách quan, trong đó chủ yếu là tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. 1.1.3. Vị trí của sở hữu tư liệu sản xuất trong hệ thống các quan hệ sản xuất Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát trong hệ thống các quan hệ sản xuất. Ta biết rằng quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình tái sản xuất, do sự chi phối của ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối. Sở hữu là mặt đầu tiên, là cơ sở cho các mặt khác của quan hệ sản xuất. 1.1.3.1. Sở hữu - cơ sở của các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối Trong một xã hội nhất định, giai cấp nào, tập đoàn nào nắm quyền sở hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu thì giai cấp đó, tập đoàn đó nắm quyền chi phối việc tổ chức quản lý sản xuất và phân phối kết quả sản xuất, quyết định hình thức thực hiện lợi ích kinh tế có lợi cho mình. Ngược lại, những giai cấp khác, tập đoàn khác không nắm được quyền quyết định về những tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ bị rơi vào tình trạng phụ thuộc và phục tùng, do đó mọi hoạt động sản xuất cũng như những thành quả thu được bởi lao động của họ chỉ nhằm phục vụ trước hết cho lợi ích của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, trên thực tế, từ khi quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư liệu sản xuất thì mâu thuẫn giữa chủ sở hữu tư liệu sản xuất với người lao động sử dụng tư liệu sản xuất xuất hiện. Vấn đề đầu tiên và cuối cùng mà người lao động quan tâm là phân phối như thế nào, tức là vấn đề lợi ích kinh tế. Chỉ thông qua lợi ích, các thành viên có liên quan trong hệ thống quan hệ sản xuất mới nhận thức đúng về quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất. Quan hệ giữa người với người đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất là cơ sở quyết định vai trò cũng như việc thực hiện lợi ích kinh tế của mỗi người, mỗi tập đoàn, giai cấp. Nói cách khác, lợi ích là quan hệ phản ánh cái bản chất sâu thẳm bên trong của quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu. Lịch sử cho thấy, con người từ xưa đến nay tranh giành quyền sở hữu, quyền tổ chức quản lý sản xuất cuối cùng cũng chỉ để thực hiện lợi ích kinh tế mà thôi. Giai cấp bị trị xưa nay đi theo lực lượng tiến bộ thực hiện các cuộc cách mạng xã hội để cuối cùng có được lợi ích chính đáng của mình. Xác định điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc xác định mối quan hệ trực tiếp giữa quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối. Khi lợi ích của người lao động không được bảo đảm thì sớm muộn gì cũng tạo ra mâu thuẫn với chủ sở hữu mà trước hết là mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế rồi tất yếu sau đó là mâu thuẫn về quyền lợi xã hội, chính trị. Tuy quan hệ sở hữu có vai trò quyết định đối với những mặt khác của quan hệ sản xuất, nhưng các quan hệ phân phối và tổ chức quản lý, đến lượt nó lại quyết định trở lại đối với việc bảo tồn hay phá vỡ quan hệ sở hữu. Nếu hệ thống tổ chức quản lý thích hợp, giải quyết hài hòa vấn đề lợi ích kinh tế thì nó duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sở hữu. Trái lại, không có một hệ thống tổ chức quản lý thích hợp và không giải quyết tốt vấn đề lợi ích thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá vỡ quan hệ sở hữu. Nói cách khác, nếu bỏ qua hai yếu tố quản lý và phân phối thì việc xác lập quan hệ sở hữu chỉ là hình thức, không có tác dụng tích cực trong thực tế. Vai trò của quan hệ quản lý và quan hệ phân phối là ở chỗ chúng làm cho quan hệ sở hữu từ chỗ được thừa nhận về mặt pháp lý trở nên có nội dung hiện thực, được cảm nhận rõ ràng và cụ thể ở việc thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu. Lịch sử cho thấy, nhờ cải cách trong quản lý tổ chức sản xuất và điều hoà vấn đề lợi ích giữa chủ sở hữu tư bản với người lao động mà xã hội tư bản vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến ngày nay. Quyền sở hữu của chủ sở hữu sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có lợi ích kinh tế. Lợi ích sẽ được duy trì tương đối ổn định và trở thành động lực bên trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội khi chủ sở hữu và chủ sử dụng tư liệu sản xuất được thực hiện về mặt kinh tế trong quá trình tái sản xuất. Thực tiễn đổi mới trong 20 năm qua cho thấy vai trò to lớn của việc thực hiện đúng đắn lợi ích kinh tế quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ xã hội. 1.1.3.2. Sở hữu - cơ sở của chế độ chính trị - xã hội Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội giữ vai trò phương pháp luận để phân tích các thời đại lịch sử khác nhau. Để nhận thức đúng các giai đoạn lịch sử xã hội của các chế độ chính trị, nhất thiết phải căn cứ vào đặc tính quy định của hệ thống các quan hệ sản xuất, trong đó các quan hệ sở hữu và phương thức kết hợp các yếu tố sản xuất để thực hiện các lợi ích kinh tế được coi là hạt nhân quy định bản chất và phương thức vận động của toàn bộ hệ thống. Quan hệ sở hữu là cơ sở để phân định bản chất chế độ xã hội; là cơ sở phân kỳ lịch sử và phân biệt sự giống và khác nhau của các giai đoạn lịch sử xã hội. Sự biến đổi của quan hệ sở hữu là động lực bên trong thúc đẩy sự thay đổi một hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội. Chính trị bắt nguồn từ kinh tế, chính trị chẳng qua là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, do kinh tế và vì kinh tế. Cho nên chế độ chính trị thực chất là một hệ thống thiết chế nhằm bảo vệ chế độ sở hữu để thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu. Do vậy, sự biến đổi của cơ sở kinh tế, của chế độ sở hữu sẽ kéo theo sự biến đổi của chế độ chính trị với tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng. Từ mối quan hệ tất yếu giữa chế độ sở hữu và chế độ chính trị cho phép chúng ta tin tưởng vào dự báo khoa học về tính tất yếu của cách mạng vô sản và sự ra đời của xã hội cộng sản văn minh. Một xã hội: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [29, tr.628]. Logic này cho phép chúng ta khẳng định cách mạng xã hội chủ nghĩa lấy việc xây dựng và phát triển chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm cơ sở là đúng đắn, xa rời mục tiêu này sẽ không còn mang ý nghĩa là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất không những là đặc trưng có ý nghĩa quyết định để phân biệt xã hội chủ nghĩa với tư bản chủ nghĩa, mà còn là cơ sở để các đặc trưng cơ bản khác của chủ nghĩa xã hội tồn tại và phát huy tác dụng. Trong kiến trúc thượng tầng thì chế độ chính trị là một bộ phận quan trọng nhằm bảo đảm quyền lực của giai cấp cầm quyền qua những thiết chế, thể chế tương ứng để thực thi quyền lực về chính trị - kinh tế - xã hội, chủ yếu là thực hiện lợi ích kinh tế trong đó vấn đề sở hữu là căn bản nhất. Không phải ngẫu nhiên mà tất cả các cuộc cách mạng xã hội đều coi việc xác lập quyền thống trị của mình đối với tư liệu sản xuất - tài sản quốc gia như là điều kiện tiên quyết để giữ vững những thành quả cách mạng và phát triển kinh tế. Như vậy, chế độ sở hữu và chế độ chính trị là những thành phần cốt lõi nhất của một chế độ xã hội. Chế độ chính trị là một phạm trù lịch sử, nó biến động cùng với sự biến động của cơ sở kinh tế, của chế độ sở hữu. Quan hệ sở hữu lại phụ thuộc vào lực lượng sản xuất ở một trình độ phát triển nhất định. Thực chất quan hệ giữa chế độ sở hữu và chế độ chính trị là sự phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong đời sống xã hội hiện thực. Do vậy, để xác định đúng mối quan hệ giữa sở hữu và chính trị chúng ta phải căn cứ vào đời sống hiện thực của xã hội. Chế độ sở hữu và chế độ chính trị có mối quan hệ biện chứng. Tuy sở hữu đóng vai trò là cơ sở của chế độ chính trị nhưng chế độ chính trị lại là nhân tố tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và vận động của chế độ sở hữu. Thông thường trong lịch sử, khi quan hệ sở hữu lỗi thời, trở thành lực cản của lực lượng sản xuất thì tất yếu sẽ bị thay thế bởi quan hệ sở hữu tiến bộ hơn và theo đó chế độ chính trị phải tương ứng. Nhưng mặt khác, giai cấp thống trị cũng thông qua những thiết chế của hệ thống chính trị để tác động, xây dựng và bảo vệ chế độ sở hữu, duy trì quyền lợi kinh tế cho mình. Tùy theo chế độ chính trị và mức độ tác động của nó tại một thời điểm nhất định mà cơ cấu sở hữu ở các nước có sự khác nhau. Nếu trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển chế độ tư hữu là đặc trưng chủ yếu, thì trong các nước xã hội chủ nghĩa việc xây dựng chế độ công hữu là đặc trưng nền tảng cho một chế độ mới. Như vậy, trong cơ cấu sở hữu của hai chế độ xã hội tuy có những đặc trưng khác nhau, nhưng trong quá trình vận động vẫn có điểm tương đồng là cùng thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong quá trình phát triển kinh tế. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua phát triển kinh tế thị trường cho nên không thể không thực hiện đa dạng hóa các loại hình sở hữu trong kinh tế, đồng thời cũng không thể không tăng cường các quyền lực chính trị của nhà nước xã hội chủ nghĩa (thông qua việc từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị). Vì điều đó bảo đảm cho nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo đúng định hướng phục vụ lợi ích của quần chúng lao động và sự tự do sáng tạo trong mỗi con người.._. Trong việc hoàn thiện hệ thống chính trị, cần đặc biệt chú trọng vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong việc nhạy bén nắm bắt, xác lập, thừa nhận về mặt pháp lý các hình thức sở hữu được hình thành từ phong trào quần chúng cho phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân tích mối quan hệ giữa sở hữu và chế độ chính trị, nhất là vai trò tác động tích cực của hệ thống chính trị giúp chúng ta có cơ sở phương pháp luận trong việc hình thành những nguyên tắc và giải pháp hoàn thiện quan hệ giữa các loại hình sở hữu trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay. 1.2. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ SỰ BIẾN ĐỔI QUAN HỆ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Những luận điểm chủ yếu về sự biến đổi sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư bản tư nhân Sở hữu tư nhân cũng phát triển từ nhỏ đến lớn. Sự ra đời và phát triển của sở hữu tư nhân từ sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư bản tư nhân gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa, từ sản xuất hàng hóa nhỏ lên sản xuất hàng hóa lớn (còn gọi là sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa). Cách thức thực hiện lợi ích của chủ sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất là kết hợp trực tiếp sức lao động của bản thân với các thành viên trong gia đình với tư liệu sản xuất của chính mình sản xuất ra các sản phẩm để sử dụng trực tiếp gọi là sản xuất nhỏ tự cung tự cấp; hoặc thông qua trao đổi để sử dụng vào đời sống và sản xuất của gia đình họ, cách thức thực hiện lợi ích đó gọi là sản xuất hàng hóa nhỏ. Khi quy mô sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vượt quá khả năng sử dụng của các thành viên trong gia đình thì chủ sở hữu phải sử dụng sức lao động của những người ngoài gia đình để thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu các tư liệu sản xuất. Trong lịch sử, việc thực hiện lợi ích kinh tế quyền sở hữu ấy đã diễn ra như sau: thời cổ đại, chủ nô sử dụng lao động nô lệ; thời trung cổ, chủ sở hữu ruộng đất - địa chủ sử dụng lao động tá điền; thời hiện đại, chủ sở hữu tư bản sử dụng lao động công nhân làm thuê. Trong các thời đại ấy, sở hữu tư bản tư nhân là đỉnh cao nhất, là hình thái cuối cùng của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự chuyển hóa sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ sang sở hữu tư bản tư nhân được thực hiện trước hết là do sự tác động của quy luật giá trị đã làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ. Quy luật này đòi hỏi: trong quá trình sản xuất hàng hóa, người sản xuất phải thực hiện nguyên tắc hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) thì người sản xuất hàng hóa mới có lãi. Muốn vậy, người sản xuất hàng hóa phải tìm mọi cách để hạ thấp giá trị cá biệt của sản phẩm so với thời gian lao động xã hội cần thiết; còn trong trao đổi phải thực hiện nguyên tắc ngang giá, nghĩa là giá cả bằng giá trị, phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho người sản xuất hàng hóa (dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết). Để tồn tại và phát triển, người sản xuất phải tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm giá trị cá biệt so với giá trị xã hội của hàng hóa, bằng cách tăng năng suất lao động. Cơ sở nào biết cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất lao động cá biệt, nâng cao giá trị sử dụng của hàng hóa, đồng thời hạ thấp giá trị cá biệt sẽ chiến thắng các đối thủ cạnh tranh, có lãi cao, có điều kiện mở rộng sản xuất, thuê mướn nhân công, họ ngày càng giàu có, khối lượng tiền của ngày càng tăng và dần dần trở thành chủ sở hữu lớn tư bản. Ngược lại, đại bộ phận những người sản xuất hàng hóa nhỏ do những khó khăn không cải tiến được kỹ thuật, năng suất lao động cá biệt thấp, sản xuất ngày càng sa sút, dần dần đi đến phá sản, không còn tư liệu sản xuất, chỉ còn lại khả năng lao động. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, muốn tồn tại, họ phải bán sức lao động cho người tập trung được phần lớn tư liệu sản xuất - các nhà tư bản và trở thành lao động làm thuê. Trong thực tế, sự tác động phân hóa này của quy luật giá trị diễn ra chậm chạp, phải trải qua một thời kỳ lâu dài. Vì vậy, trong lịch sử, quá trình phân hóa này đã được đẩy nhanh thông qua tích lũy nguyên thủy tư bản. Trong quá trình phát triển của sản xuất hàng hóa nhỏ, từ khi tiền tệ ra đời là sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân hoạt động trên cơ sở mua rẻ, bán đắt để thu lợi nhuận. Tích lũy sự giàu có vào tầng lớp thương nhân, đến cuối thế kỷ XV, chủ thuyết làm giàu bằng cách mở rộng trao đổi không ngang giá được hình thành ở nhiều nước trên thế giới. Địa vị kinh tế của tầng lớp thương nhân ngày càng tăng, họ sử dụng lực lượng kinh tế thông qua thuế và tín dụng để chi phối nhà nước phong kiến, buộc nhà nước phong kiến phải ban hành các chính sách và xây dựng lực lượng đáp ứng yêu cầu của họ về tích lũy nguyên thủy tư bản. Trong trường hợp này, nhà nước có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Đó là vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng việc đưa ra các chính sách đẩy mạnh quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản. Thực chất của tích lũy nguyên thủy tư bản là dùng bạo lực để tước đoạt quyền sở hữu tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ, nhất là người nông dân để tập trung tiền của vào tay các nhà tư bản và biến họ thành những người lao động làm thuê. Điển hình của quá trình này là ở nước Anh, giai cấp tư sản dựa vào nhà nước phong kiến dùng bạo lực đuổi nông dân, biến đồng ruộng thành bãi chăn cừu. Đồng thời, ban hành các đạo luật hà khắc để buộc những người nông dân bị mất đất phải vào làm thuê trong các xí nghiệp tư bản. Tích lũy nguyên thủy tư bản còn được thực hiện bằng việc đi chinh phục và bóc lột thuộc địa, buôn bán nô lệ da đen từ Châu Phi đến các vùng đất mới ở Châu Mỹ, thực hiện thương mại không bình đẳng,v.v… Tóm lại, quá trình chuyển sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ sang sở hữu tư nhân tư bản được thực hiện thông qua tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa nhỏ và thông qua tích lũy nguyên thủy tư bản. Trong đó, tác động của quy luật giá trị là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện sở hữu tư nhân tư bản; tích lũy nguyên thủy tư bản là nhân tố trực tiếp tạo ra sở hữu tư bản tư nhân quy mô lớn và làm xuất hiện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ cuối thế kỷ XVII. Những luận điểm chủ yếu về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tư bản độc quyền và sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh, C.Mác đã chỉ rõ: tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ sản xuất; tích tụ sản xuất phát triển tới một mức nào đó sẽ dẫn tới sự xuất hiện các tổ chức độc quyền, cạnh tranh tự do sẽ nhường chỗ cho độc quyền. C.Mác cũng xác định sự hình thành các công ty cổ phần và chế độ độc quyền là: “Điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp” [24, tr.192]. Đó là một xu hướng có tính quy luật của nền kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên C.Mác mới nêu lên những tư tưởng đầu tiên về sự biến đổi của sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tập thể của các nhà tư bản (sở hữu độc quyền) chứ chưa xây dựng một học thuyết hoàn chỉnh về chủ nghĩa đế quốc. Quan sát thực tế vận động của chủ nghĩa tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có dự báo thiên tài rằng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, cạnh tranh tự do tất yếu sẽ dẫn đến độc quyền và độc quyền tư nhân sẽ chuyển thành độc quyền nhà nước. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã nhận xét: Sự cạnh tranh trong nội bộ quốc gia nhường chỗ cho sự độc quyền của một công ty duy nhất trong nội bộ quốc gia đó. Đại biểu chính thức của xã hội tư bản chủ nghĩa, tức là nhà nước, cũng phải đảm đương lấy việc lãnh đạo các tư liệu sản xuất…Tư liệu sản xuất hay tư liệu giao thông đã thực sự vượt quá sự quản lý của các công ty cổ phần, và do đó việc quốc hữu hoá trở thành không thể tránh khỏi về mặt kinh tế [33, tr.385-386]. Trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng đó, khái quát hóa các hiện tượng độc quyền trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã vạch ra đặc trưng của thời đại mới, xây dựng học thuyết hoàn chỉnh về chủ nghĩa đế quốc, về sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân thuần túy sang sở hữu tư bản độc quyền và từ sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước. Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã chỉ ra quy luật chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc) là do sự tích tụ sản xuất đã đạt đến trình độ cao vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cuối thế kỷ XIX, tích tụ và tập trung tư bản dẫn đến tích tụ sản xuất diễn ra mạnh mẽ trong nền kinh tế ở các nước tư bản phát triển. Sở dĩ như vậy là do sự phát triển nhanh của lực lượng sản xuất và việc ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật mới vào sản xuất đòi hỏi nguồn vốn lớn, cùng với nó là các cuộc khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ ở hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa. Những nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản hàng loạt, còn các nhà tư bản lớn thì phát tài và tăng quy mô tư bản một cách nhanh chóng hơn trước. Thêm vào đó, sự ra đời nhanh hơn của các cơ cấu tài chính trung gian như tín dụng, ngân hàng; sự hoạt động của các công ty cổ phần và chế độ liên hợp sản xuất đã thúc đẩy nhanh hơn quá trình tích tụ sản xuất trong các công ty lớn. Lênin giải thích: tích tụ sản xuất có nghĩa là tập trung sản xuất vào những xí nghiệp lớn, nhưng không phải chỉ là kết quả của tập trung tư bản mà mà là kết quả của cả hai quá trình: tích tụ và tập trung tư bản. Các xí nghiệp cá biệt đã qua quá trình tích tụ tư bản (tích lũy nội bộ, nhờ tư bản hóa giá trị thặng dư) nay lại diễn ra quá trình tập trung thành những xí nghiệp khổng lồ và dẫn đến sự thay đổi quan trọng trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX: đó là sự hình thành các tổ chức độc quyền. Lênin khẳng định rằng: hình thức tích tụ sản xuất là “một đặc điểm cực kỳ trọng yếu mà người ta gọi là chế độ liên hợp hóa, nghĩa là sự tập trung vào trong tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau” [20, tr.398]. Các công ty cổ phần lớn và các xí nghiệp liên hợp tạo cơ sở vật chất để tự do cạnh tranh chuyển thành độc quyền. Khi mỗi ngành sản xuất còn phân tán trong hàng trăm, hàng ngàn xí nghiệp độc lập nhỏ bé thì không thể có sự thỏa thuận để chi phối thị trường. Do tích tụ sản xuất, trong mỗi ngành nổi lên năm, bảy xí nghiệp kếch sù nắm đại bộ phận sản xuất của ngành đó và cạnh tranh nhau gay gắt thì lúc đó xuất hiện xu hướng thỏa thuận, liên minh với nhau để “điều tiết việc sản xuất”, “quy định giá cả”, vì trong điều kiện mới, cạnh tranh khó khăn và ác liệt, tư bản cố định to lớn, không thể dễ dàng di chuyển tự do từ ngành này sang ngành khác. Cho nên, nghiên cứu quá trình tích tụ sản xuất, Lênin rút ra kết luận quan trọng: tích tụ và tập trung sản xuất tất yếu “dẫn thẳng đến độc quyền. Vì vài chục xí nghiệp khổng lồ có thể dễ dàng thỏa thuận với nhau; mặt khác chính quy mô to lớn của các xí nghiệp làm cho cạnh tranh ngày càng khó khăn và làm nảy sinh khuynh hướng đi đến độc quyền” [20, tr.398]. Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã phát triển lên một nấc thang mới - chủ nghĩa tư bản độc quyền, cạnh tranh tự do thống trị chuyển thành độc quyền thống trị đồng thời đã đánh dấu sự biến đổi về chất cục bộ trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân thuần túy đã chuyển sang sở hữu tập thể của các tư nhân. Điều đó có nghĩa là quan hệ giữa từng nhà tư bản với lao động làm thuê đã chuyển sang quan hệ giữa tập thể các nhà tư bản với lao động làm thuê. Cho nên độc quyền không xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê mà chỉ làm thay đổi hình thức vận động của quan hệ sản xuất: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sở hữu tư bản cá thể thì nay dựa trên sở hữu độc quyền - sở hữu của tập thể các nhà tư bản thống trị các ngành kinh tế. Như vậy, quá trình hình thành các tổ chức độc quyền đã dẫn đến sự biến đổi quan hệ sở hữu tư bản chủ nghĩa: sở hữu tư nhân tư bản cá thể, phân tán biến thành sở hữu độc quyền, hay sở hữu của tập thể của các nhà tư bản để điều tiết các quan hệ kinh tế theo yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Sau khi phân tích, tìm ra nguyên nhân và khẳng định tính tất yếu của việc xuất hiện các tổ chức độc quyền, Lênin đã nghiên cứu các tổ chức độc quyền - những biểu hiện của sự biến đổi sở hữu tư bản tư nhân sang sở hữu độc quyền. Các hình thức tổ chức độc quyền ra đời và phát triển trong giai đoạn đó là Các-ten, Xanh-đi-ca, Tơ-rớt và Công-xooc-xi-om. Lênin chỉ rõ, độc quyền ra đời từ cạnh tranh tự do nhưng không thủ tiêu cạnh tranh tự do mà nó tồn tại bên trên và bên cạnh tự do cạnh tranh. Sống trong thời đại tư bản độc quyền, Lênin đã được chứng kiến sự phát triển của độc quyền tư bản chủ nghĩa với những hình thức phong phú của nó, đặc biệt là thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc đã trực tiếp can thiệp vào quá trình kinh tế, thậm chí dùng “mệnh lệnh” để buộc một số xí nghiệp dân sự phải chuyển sang hình thức hoạt động mang tính quân sự hóa. Từ đó Lênin đã rút ra nhận xét: chiến tranh đã thúc đẩy nhanh chóng, phi thường sự chuyển hóa của chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nếu “tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền” [38, tr.402], các tổ chức độc quyền dựa trên sở hữu tập thể tư nhân tư bản chủ nghĩa, thì tập trung sản xuất cao hơn nữa làm cho tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất phát triển, trình độ quốc tế hóa của sản xuất cao hơn nữa làm cho sở hữu tập thể của tư bản tư nhân trở nên không còn phù hợp, tất yếu ra đời chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Nội dung chủ yếu của nó là sự liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức độc quyền với nhà nước tư sản về kinh tế và chính trị để chi phối trên tất cả các mặt của quan hệ sản xuất, qua đó tăng sức mạnh của độc quyền và mở rộng vai trò kinh tế của nhà nước tư sản, biến nhà nước tư sản thành người đại diện lợi ích của các tổ chức độc quyền. Sự biến đổi từ sở hữu độc quyền của tập thể các tư nhân sang sở hữu độc quyền nhà nước là để thích ứng với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Khi đã đạt trình độ xã hội hóa cao, đòi hỏi phải có một lực lượng kinh tế mới là tư bản độc quyền nhà nước điều hòa phối hợp quá trình sản xuất xã hội thông qua việc nhà nước kế hoạch hóa sự phát triển các ngành kinh tế; nhà nước đầu tư vào những ngành mà tư nhân không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư nhưng lại rất cần cho sự phát triển; nhà nước đại diện cho lợi ích các tổ chức độc quyền trong quan hệ kinh tế quốc tế; nhà nước ban hành các chính sách nhằm ổn định xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp tư sản phát triển, v.v.. Xét về bản chất của sở hữu tư bản độc quyền nhà nước thì sở hữu của nhà nước tư sản là sở hữu tập thể của toàn bộ giai cấp tư sản, sở hữu độc quyền là sở hữu tập thể của tư nhân trong các tổ chức độc quyền. Khi chúng xâm nhập vào nhau hình thành tư bản độc quyền nhà nước thì hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền, phải phục tùng lợi ích của các tổ chức độc quyền và biến thành nhà tư bản tập thể của các tổ chức độc quyền. Vì theo Ăngghen: “Nhà nước hiện đại…là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự” [33, tr.387]. Sở hữu tư bản độc quyền nhà nước được hình thành dưới những hình thức sau: xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách (trong đó có cả doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà nước và doanh nghiệp liên kết với tư bản tư nhân trong và ngoài nước, kể cả liên kết với các nhà nước khác); quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân, mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy nội bộ và vốn từ ngân sách. Sự biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất từ sở hữu tư bản độc quyền sang sở hữu tư bản độc quyền nhà nước là một tất yếu kinh tế mang đặc trưng vận động của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn lực lượng sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa cao. 1.3. NHỮNG LUẬN ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ GIẢI QUYẾT QUAN HỆ SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Những luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Ăngghen về giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa Luận điểm cơ bản của Mác - Ăngghen về giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là: xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, cho nên thủ tiêu chế độ tư hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội, do đó: “Những người cộng sản hoàn toàn đúng khi đề ra việc thủ tiêu chế độ tư hữu thành yêu cầu chủ yếu của mình” và “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu” [28, tr.447, 616]. Trong “Bản thảo kinh tế - triết học” năm 1844, C.Mác đã đề cập đến những quan niệm khác nhau của một số trào lưu tư tưởng cộng sản chủ nghĩa trước đây về vấn đề xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân. Trên quan điểm khách quan khoa học, ông đã xem xét sự diệt vong của chế độ tư hữu do tính tất yếu lịch sử của nó và vì thế, ông đã phê phán gay gắt “chủ nghĩa cộng sản thô lỗ” khi họ chủ trương xóa bỏ tư hữu bằng chủ nghĩa bình quân. Theo C.Mác: với chủ nghĩa bình quân, “chủ nghĩa cộng sản thô lỗ” chỉ là “hình thức biểu hiện của sự ty tiện” của chế độ tư hữu. “Người ta thấy rõ điều đó chính là sự phủ định một cách trừu tượng toàn bộ thế giới văn hóa và văn minh”. Bằng cách đó, “con người không những không vượt lên trên trình độ của chế độ tư hữu mà còn chưa đạt tới chế độ đó” [26, tr.126 - 127]. Khuyết tật lớn nhất của chế độ tư hữu đối với con người, theo cách lập luận của C.Mác, là nó đã làm tha hóa con người. “Chế độ tư hữu đã làm cho chúng ta ngu xuẩn và phiến diện đến nỗi một đối tượng nào đó chỉ là của chúng ta khi nào chúng ta chiếm hữu nó, nghĩa là khi nó tồn tại đối với chúng ta như là tư bản hoặc khi chúng ta trực tiếp chiếm hữu nó, ăn nó, uống nó, mặc vào ta hay cư trú ở trong đó v.v.. nói tóm lại khi chúng ta tiêu dùng nó”. Do vậy, “xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu…là sự xóa bỏ một cách tích cực sự tha hóa”. Đó là sứ mệnh lịch sử của chủ nghĩa cộng sản mới - chủ nghĩa cộng sản với tính cách là “chủ nghĩa tự nhiên hoàn bị”, “chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị” [26, tr.128-129, tr.134-135]. Không chỉ dừng lại ở việc đưa ra mục đích, nhiệm vụ của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ chế độ tư hữu, C.Mác còn vạch ra con đường, cách thức để hiện thực hóa lý tưởng ấy. C.Mác viết: “Muốn xóa bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xóa bỏ chế độ tư hữu trong hiện thực thực tế thì đòi hỏi phải có hành động cộng sản chủ nghĩa, hiện thực” [26, tr.159]. Chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa, cũng như tất cả các chế độ sở hữu trước đó, chỉ là “những quan hệ lịch sử, mang tính nhất thời của quá trình phát triển của sản xuất, chứ không phải là những quy luật vĩnh cửu của tự nhiên và của lý trí ” [29, tr.619]. Việc xóa bỏ, thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, một kết quả đương nhiên trong quá trình phát triển của lịch sử loài người. Trong tác phẩm “Tư bản” C.Mác khẳng định: Sự độc quyền của tư bản trở thành những xiềng xích ràng buộc cái phương thức sản xuất đã thịnh vượng lên cùng với độc quyền đó và dưới độc quyền đó. Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hóa lao động đạt tới cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản của chúng nữa [29, tr.317-318]. Khi đó, chính giai cấp tư sản chứ không phải là ai khác, với chế độ sở hữu của mình, ngoài ý muốn chủ quan của giai cấp đó, đã không những “rèn những vũ khí sẽ giết mình”, mà còn “tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy” -đó là những công nhân hiện đại, giai cấp vô sản. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ, giai cấp vô sản sẽ thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình như thế nào, đặc biệt là trong vấn đề giải quyết vấn đề sở hữu - một trong những nội dung cơ bản của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. C.Mác nhấn mạnh rằng, giải quyết vấn đề sở hữu phải nhằm mục đích tạo điều kiện để giai cấp vô sản giành lấy toàn bộ lực lượng sản xuất, xóa bỏ sự tách rời người lao động khỏi những điều kiện lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ hơn nữa, bảo đảm cung cấp đầy đủ các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong xã hội. C.Mác cũng chỉ ra rằng, quá trình xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa không phải là quá trình phủ định sạch trơn sở hữu, mà là quá trình xóa bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai cực Tư bản và Lao động. Đối với tư bản, đó là quá trình chuyển biến tính chất xã hội của sở hữu, xóa bỏ tính chất tư sản của sở hữu, xóa bỏ quyền dùng chiếm hữu để nô dịch người khác. Đối với lao động, đó là quá trình xóa bỏ tính chất bi thảm của phương thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa, “cái phương thức khiến cho người công nhân chỉ sống để làm tăng thêm tư bản, và chỉ sống trong chừng mực mà những lợi ích của giai cấp thống trị đòi hỏi” [29, tr.617]. C.Mác khẳng định, giải quyết vấn đề sở hữu trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa bao hàm hai mặt: xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, phải dựa trên những điều kiện hiện thực và là kết quả của hoạt động hiện thực. Bước đầu tiên là, giai cấp vô sản phải làm “nổ tung tất cả cái thượng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phương”, giành lấy dân chủ, giành lấy chính quyền, trở thành giai cấp nắm quyền tối cao. Sau đó, với công cụ chính quyền nhà nước trong tay, giai cấp vô sản sẽ “từng bước một” thực hiện quá trình thay đổi tính chất của sở hữu, chuyển sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sang công hữu xã hội chủ nghĩa. Nhấn mạnh sự cần thiết phải tiến hành sự chuyển biến sở hữu “từng bước một”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến những điều kiện vật chất khách quan đảm bảo cho sự chuyển biến này. C.Mác viết: Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới cao hơn cũng không bao giờ xuất hiện trước những điều kiện vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ [31, tr.15-16]. Điều kiện vật chất đó chính là sự phát triển của công nghiệp, hay nói khác đi, đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Đúng như Ph.Ăngghen đã chỉ ra: “Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội. Việc cải tạo này là kết quả tất yếu của sự phát triển của công nghiệp” [29, tr.467]. Những luận điểm chủ yếu về giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất thông qua chính sách kinh tế mới của Lênin Kế thừa những luận điểm khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng chủ nghĩa cộng sản là sự xóa bỏ chế độ tư hữu những đó là quá trình được thực hiện từng bước một và bằng những hình thức hết sức đa dạng, phong phú, tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước, nhất là đối với những nước mà nền kinh tế chưa phát triển cao. Thông qua các tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết (1918), bàn về thuế lương thực (4 -1921), bàn về chế độ hợp tác (1923)…”, V.I.Lênin đã luận chứng cho tính tất yếu của sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó được khẳng định trong việc thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP) với nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở thừa nhận sự đa dạng trong chế độ sở hữu. V.I.Lênin nhận định rằng, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có một thời kỳ quá độ, thời kỳ này dài hoặc ngắn, có ít hoặc nhiều khó khăn tùy vào chỗ: ở điểm xuất phát trong nền kinh tế, địa vị thống trị thuộc về chế độ canh tác quy mô lớn. Ở một nước trong đó những người tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư thì chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nước tư bản phát triển - nơi công nhân làm thuê trong công nghiệp. Khi chúng ta đang chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cần nhận rõ “chúng ta” là những ai; cần nhớ tất cả những danh sách các bộ phận tổ thành, những chế độ kinh tế khác nhau đã hợp thành nền kinh tế quốc dân. Người viết: “Chúng ta” tức là đội tiên phong, là đội tiên tiến của giai cấp vô sản, chúng ta trực tiếp chuyển lên chủ nghĩa xã hội; nhưng đội ngũ tiên tiến chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp vô sản và giai cấp vô sản lại cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong quần chúng nhân dân. Và để Chúng ta có thể làm tròn một cách thắng lợi nhiệm vụ của chúng ta, tức là chuyển thẳng lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề [23, tr.274]. Lênin cũng chỉ ra rằng, các bộ phận tổ thành, hay các thành phần kinh tế thuộc những kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau trong nền kinh tế quốc dân ở Nga khi thực hiện chính sách kinh tế mới gồm 5 bậc thuộc 5 kết cấu, từ kết cấu gia trưởng là nửa dã man đến kết cấu xã hội chủ nghĩa, trong đó chiếm ưu thế là kết cấu tiểu nông, tức là kết cấu một phần có tính chất gia trưởng, một phần có tính chất tiểu tư sản. Trong tình trạng trên, không ai có thể phủ nhận tính chất quá độ của nền kinh tế ở nước Nga. Danh từ “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết” có nghĩa là chính quyền Xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là chế độ kinh tế hiện thời là chế độ xã hội chủ nghĩa. Vận dụng vào kinh tế, danh từ quá độ có nghĩa là trong chế độ hiện thời có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Các thành phần thuộc các kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau thời đó ở Nga gồm: 1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; 2) Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì); 3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân; 4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước 5) Chủ nghĩa xã hội Các loại hình khác nhau của kết cấu kinh tế - xã hội nói trên xen kẽ với nhau [23, tr.48]. Ở đây, Lênin sắp xếp các thành phần kinh tế theo trình tự từ thấp đến cao, kinh tế gia trưởng bị phá vỡ sẽ chuyển lên kinh tế hàng hóa nhỏ; sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển, dưới tác động của quy luật giá trị, sẽ phân hóa thành hai cực và chuyển thành sản xuất hàng hóa tư bản tư nhân; tư bản tư nhân phát triển đến trình độ cao sẽ hình thành chủ nghĩa tư bản nhà nước; và chủ nghĩa tư bản nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, giữa nó và chủ nghĩa xã hội không còn bức tường ngăn cách nào, vì chủ nghĩa xã hội là một bước tiến liền ngay sau chế độ độc quyền tư bản nhà nước. Thành phần kinh tế hàng hóa nhỏ bao gồm nông dân, thợ thủ công và những người làm dịch vụ cá thể, nhưng ở một nước tiểu nông thì nông dân chiếm đại đa số. Nông dân, cũng như những người sản xuất hàng hóa nhỏ nói chung - vừa là người lao động, vừa là người tiểu tư hữu, vừa là người đầu cơ. Bởi vậy, lịch sử đã dậy chúng ta rằng: “nông dân nếu không đi theo công nhân thì đi theo tư bản, không thể khác được” [22, tr.435]. Một trong những điều kiện cơ bản để cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể thắng lợi triệt để là: “sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước, với đại đa số nông dân. Thỏa thuận là một khái niệm rất rộng, nó bao hàm cả một loạt biện pháp và bước quá độ” [23, tr.69]. Nhưng nông dân chỉ tin vào hành động, vào kinh nghiệm thực tiễn. Phải làm cho nông dân tin rằng, giai cấp vô sản tạo ra cho họ những điều kiện sinh sống tốt hơn các điều kiện mà giai cấp tư sản đã tạo ra cho họ. Chính vì thế vấn đề đầu tiên khi bắt đầu thực hiện chính sách kinh tế mới ở Nga là dùng những biện pháp cấp bách để nâng cao lực lượng sản xuất của nông dân và cải thiện đời sống của họ. Muốn cải thiện đời sống của công dân thì phải có bánh mì, nên phải bắt đầu từ nông dân. Chỉ có bằng con đường này mới tăng cường được liên minh của công nông, củng cố được chuyên chính vô sản. Khi việc nâng cao lực lượng sản xuất của nông dân đi đôi với việc khuyến khích tự do buôn bán thì nhiều người nông dân nghèo sẽ trở thành trung nông, sẽ phục hồi giai cấp tiểu tư sản và chủ nghĩa tư bản, thành thử thế lực tự phát tiểu tư hữu, tiểu tư sản sẽ tăng lên. Đặc điểm cơ bản trong quan điểm tiểu tư hữu là cốt vơ vét được phần hơn còn thì “sống chết mặc bay”. Vì thế những điều kiện kinh tế tiểu tư sản và tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù chính và nguy hiểm nhất của chủ nghĩa xã hội. Chính tầng lớp những người tiểu tư hữu vô cùng rộng rãi ở nước Nga là cơ sở kinh tế của tệ đầu cơ. Chủ nghĩa tư bản tư nhân có đại diện của mình ở trong mỗi người tiểu tư sản. Hàng triệu cái vòi của con thuồng luồng tiểu tư sản đang quấn lấy một số tầng lớp của công nhân; nạn đầu cơ đang chui vào mọi chân lông, kẽ tóc của đời sống kinh tế - xã hội nước Nga, phá hoại bằng nhiều cách chống lại sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước. Chừng nào giai cấp công nhân biết cách giữ gìn trật tự nhà nước, chống tình trạng vô chính phủ tiểu tư hữu, chừng nào giai cấp công nhân học được cách sắp đặt tổ chức sản xuất với quy mô lớn toàn quốc, trên cơ sở chủ nghĩa._.hà nước cho những người có thực lực, có khả năng đem lại sức sống mới cho doanh nghiệp nhà nước. Những chủ thể có thực lực phải là người có vốn, có kinh nghiệm, có những mối quan hệ làm ăn, đảm bảo được các cam kết khi nhận giao doanh nghiệp. Tuy nhiên qua nghiên cứu kinh nghiệm tư nhân hóa của quốc tế, qua thực tiễn thực hiện Nghị định 103/CP về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp, trong thời gian tới chỉ nên áp dụng hình thức bán đứt doanh nghiệp, bãi bỏ các hình thức giao, khoán, cho thuê toàn bộ doanh nghiệp nhà nước. Xác định rõ quyền, nghĩa vụ và điều kiện của người mua. Hiện nay đa số người mua cổ phần là cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp, số cổ đông bên ngoài rất ít. Thực trạng đó là do hai nguyên nhân cơ bản: giới quản lý doanh nghiệp nhà nước lo ngại người ngoài doanh nghiệp (nhất là nhà đầu tư nước ngoài có thực lực) mua nhiều cổ phiếu sẽ có khả năng điều khiển, trở thành chủ của công ty; Nhà nước có chính sách bán cổ phiếu ưu đãi giảm giá cho người lao động trong doanh nghiệp. Tình trạng bán nội bộ này làm cho các công ty cổ phần sau cổ phần hóa vẫn không năng động hơn mà hoạt động vẫn theo cung cách quản lý cũ, hiệu quả khó cải thiện triệt để. Điều này càng đúng đối với các công ty cổ phần mà Nhà nước sở hữu trên 50% cổ phần. Trong khi đó, điều lệ công ty khi cổ phần hóa hoặc điều kiện bán cổ phần không có ràng buộc cụ thể, điều đó dẫn đến khả năng cổ phần được mua bán lại trên thị trường thứ cấp không chính thức gây nên những tranh chấp rất phức tạp trong tổ chức quản trị công ty hậu cổ phần hóa. Do vậy để đảm bảo đạt được các mục tiêu của tái cấu trúc doanh nghiệp, cần mở rộng tỷ lệ số cổ phần bán cho các cổ đông ngoài doanh nghiệp; đồng thời, nếu nhu cầu xã hội lớn mà doanh nghiệp không thuộc diện đặc biệt thì không nên khống chế mức giữ lại sở hữu nhà nước. Song song với biện pháp trên, cần quy định rõ điều kiện sở hữu cổ phần, trách nhiệm, nghĩa vụ của người mua, đặc biệt là trong trường hợp bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp ra ngoài. Ngoài ra, không nên coi những người mua cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa là cổ đông sáng lập. Một mặt, Nhà nước có vai trò nhất định thông qua đại diện phần vốn của mình ở công ty cổ phần để đảm bảo không có sự lừa đảo các cổ đông trong việc phát hành cổ phiếu. Mặt khác, những người có cổ phần lớn, có tư cách sáng lập phải được quy định rõ ràng và cam kết trách nhiệm vật chất theo luật doanh nghiệp, điều này phải được ghi cụ thể trong điều lệ doanh nghiệp. Tất cả các cổ đông tự do, phải được quyền chuyển nhượng cổ phiếu. Về thể chế thực hiện cổ phần hóa và chuyển đổi sở hữu Cổ phần hóa hay giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước đều cần thể chế thực hiện. Lâu nay ở Việt Nam vẫn làm cổ phần hóa theo kiểu hành chính, tức là đơn phương tổ chức và đưa ra giá từ phía Nhà nước với sự tư vấn của hội đồng định giá. Cách làm này gây ra nhiều dư luận bất bình khi cách định giá khá tùy tiện. Về lâu dài, để người bán, người mua dễ dàng, thuận lợi trong việc thực hiện chuyển đổi cần thực hiện đồng bộ các loại thị trường với các trung tâm giao dịch chuẩn hóa cho phép cung cấp các thông tin tin cậy. Đồng thời phải phát triển đồng bộ các loại hình dịch vụ thị trường đầu tư, tư vấn tài chính, các tổ chức định giá, các tổ chức buôn bán chứng khoán… để hỗ trợ doanh nghiệp khi chuyển đổi. Trước mắt, do nước ta chưa thể hình thành ngay các loại dịch vụ này cho nên cần các giải pháp trung gian như hình thành các công ty mua bán nợ, khuyến khích công ty đầu tư chứng khoán mở rộng dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, có cơ chế bắt buộc doanh nghiệp nhà nước phải phối hợp với các công ty này trong việc định giá doanh nghiệp…Có thể áp dụng ngay giải pháp thuê các công ty tư vẫn quốc tế đối với những trường hợp khó. Hoặc cũng có thể áp dụng cơ chế bỏ thầu giá đối với các cổ đông chọn lọc trên cơ sở các tài liệu do chính các tổ chức chuyên môn của doanh nghiệp soạn thảo, có kiểm toán độc lập và lấy đó làm giá tham chiếu để xác định giá bán cho người mua. Tóm lại, cần áp dụng triệt để những nguyên tắc thị trường vào cơ chế thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. Cơ chế thị trường sẽ giúp tổ chức triển khai và định giá nhanh hơn, công bằng hơn, dễ được xã hội chấp nhận hơn, bảo đảm được không làm thất thóat tài sản của nhà nước, duy trì và nâng cao được sức sống, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Đồng thời, cần tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch quá trình bán cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa cũng như quá trình chuyển giao doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức giao, bán, khoán, cho thuê. 3.3. ĐA DẠNG HOÁ CÁC LOẠI HÌNH KINH TẾ TƯ BẢN NHÀ NƯỚC, TẬP TRUNG ƯU TIÊN PHÁT TRIỂN NHỮNG LOẠI HÌNH PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đa dạng hóa các loại hình kinh tế tư bản nhà nước là một trong những giải pháp quan trọng đẩy nhanh xu hướng chuyển sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Đa dạng hóa các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước là đa dạng hóa các hoạt động đầu tư trên cơ sở phát huy nguồn lực của nhà nước để khai thác các tiềm năng phong phú trong nước và ngoài nước, đặt nó trong cơ cấu thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau tăng trưởng. Việc mở rộng các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước nhằm để thực hiện mục tiêu chung: tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tạo việc làm, tận dụng các nguồn lực trong nước, tăng thu ngân sách, đẩy mạnh xuất khẩu,…Tuy nhiên không thể đạt được tất cả các mục tiêu đó trong mỗi một hình thức cụ thể. Do đó, cần phải mở rộng tất cả các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước nhằm khai thác tối đa ưu thế của mỗi loại hình để phát triển kinh tế đất nước. Về cơ bản, trong điều kiện nước ta hiện nay, hướng chủ yếu để lựa chọn và mở rộng các loại hình chủ nghĩa tư bản nhà nước là: Hình thức liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với tư bản nước ngoài: Trong điều kiện của nước ta hiện nay như đã phân tích ở phần thực trạng, mặc dù trong thời gian thu hút đầu tư nước ngoài, liên doanh là hình thức được ưa chuộng nhất so với các hình thức khác và là hình thức thu hút vốn nhiều nhất. Nhưng trên thực tế, trong thời gian gần đây, hình thức xí nghiệp liên doanh đang bộc lộ những giới hạn của nó. Điều đó cho thấy không phải lúc nào hình thức liên doanh cũng phù hợp và có thể đạt hiệu quả như mong muốn, nhất là trong tình hình vốn góp và cán bộ là những điểm yếu của ta hiện nay. Vì vậy, chúng tôi cho rằng việc xây dựng ồ ạt các xí nghiệp liên doanh, thậm chí vội vã lập các liên doanh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các đối tác nước ngoài vừa yếu về năng lực tài chính, vừa kém về phẩm chất càng làm cho liên doanh kém hiệu quả, dẫn đến thất thoát tài sản của nhà nước. Phải lấy việc bảo toàn và phát triển vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước làm mục tiêu chứ không chạy theo số lượng liên doanh. Những năm đầu khi chưa kịp đào tạo cán bộ, còn thiếu cán bộ tốt, có năng lực, Nhà nước thiếu vốn và để tập trung tốt hơn cho những liên doanh có hiệu quả thì cần hạn chế tỷ lệ xí nghiệp liên doanh giữa nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài và nên khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn của tư nhân trong và ngoài nước dưới hình thức tô nhượng hay cho thuê đất và các tư liệu sản xuất khác của Nhà nước. Khuyến khích hình thức liên doanh giữa tư bản tư nhân trong nước với tư bản nước ngoài với những dự án vừa và nhỏ trong các lĩnh vực mà nhà nước không cấm. Trước mắt, để hạn chế thiệt hại và nâng cao hiệu quả của xí nghiệp liên doanh trong điều kiện hiện nay ở nước ta cần phải thực hiện một số công việc sau: - Lựa chọn kỹ các doanh nghiệp nhà nước liên doanh với nước ngoài. Khi chọn các đối tác tham gia liên doanh cần lưu ý: những doanh nghiệp nào nếu thuộc những ngành có sản phẩm tiêu thụ trong nước, vốn liếng và công nghệ không quá sức. Những ngành có những sản phẩm đã từ lâu có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước thì nhà nước không nên cho liên doanh. Công ty bia Sài Gòn là một thí dụ điển hình minh chứng cho chủ trương đúng đắn này. Đây là một nhà máy mà gần như toàn bộ thiết bị mới bên trong từ nhà xưởng đến dây chuyền sản xuất đều do công nhân nhà máy tạo nên. Mặc dù không liên doanh với nước ngoài nhưng từ lâu sản phẩm của nhà máy đã có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nên công suất hàng năm tăng lên đáng kể, nộp ngân sách ngày càng cao. - Phải tìm hiểu và nhận thức rõ đối tác bên ngoài. Muốn quản lý có hiệu quả thì phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc về đối tượng của mình, không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm. Những hạn chế về kết quả trong hợp tác liên doanh vừa qua, một phần cũng do chúng ta chưa nhận rõ đối tác bên ngoài. Thông thường khi nói về nguyên tắc liên doanh hai bên cùng có lợi, nhưng trong thực tế những năm qua, nguyên tắc này chưa được thực hiện. Nhìn chung, nước ngoài có lợi nhiều mặt, còn phía Việt Nam thua lỗ không ít. Rất nhiều liên doanh, chính phía nước ngoài đã cạnh tranh, lợi dụng khai thác triệt để thế yếu của Việt Nam, bất chấp sự sống còn của liên doanh như thế nào. Để hạn chế thiệt hại về phía mình, trước hết cần phải tìm hiểu, lựa chọn đối tác phù hợp với điều kiện, yêu cầu của chúng ta, chứ không để tình trạng đầu tư vào lĩnh vực nào cũng được. Thực tiễn cho thấy cần phải lựa chọn nhà đầu tư nước ngoài có sức nặng về tài chính, công nghệm, quản lý - họ thường làm ăn lâu dài, nghiêm túc và giữ gìn uy tín vốn có. Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua những chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia. Nó cũng có những mặt tích cực, những mặt tiêu cực. Vì vậy, chúng ta phải biết sử dụng những ưu thế của nó để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, đồng thời chủ động phòng ngừa để hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Để doanh nghiệp 199% vốn nước ngoài phát huy có hiệu quả trong điều kiện nước ta hiện nay, việc vận dụng chúng cần phải dựa vào những tiêu chuẩn sau: - Các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực có công nghệ cao như: điện tử, tin học, cơ khí chính xác, sản xuất thiết bị quang học. - Các doanh nghiệp có công nghệ sản xuất “sạch” không gây ô nhiễm môi trường. - Các doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất có tác dụng lan tỏa, nghĩa là sự hoạt động của các doanh nghiệp nàycó tác dụng kích thích sự phát triển các doanh nghiệp có liên quan hoặc để phục vụ sản xuất, hoặc gia công sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. - Có cơ chế kiểm tra, kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp loại này nhằm hướng chúng vận động theo đúng quỹ đạo chung. - Trong quá trình phát triển, khuyến khích các chủ doanh nghiệp nước ngoài cho các chủ thể kinh tế trong nước tham gia đầu tư qua hình thức mua cổ phần. Nếu thực hiện được cách này, doanh nghiệp 100 vốn nước ngoài sẽ dần chuyển hóa thành doanh nghiệp liên doanh. Cần chú ý rằng, các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước không tồn tại cố định, giữa chúng có thể có sự chuyển hóa tùy theo điều kiện kinh doanh và ý nguyện của chủ sở hữu. Chẳng hạn, hình thức ban đầu là xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, nhưng trong quá trình hoạt động, xí nghiệp này có thể kêu gọi góp vốn cổ phần của Nhà nước và do đó nó sẽ chuyển sang hình thức xí nghiệp liên doanh; ngược lại , nếu xét thấy sự tham gia của kinh tế nhà nước vào xí nghiệp liên doanh là không hiệu quả thì có thể mạnh dạn chuyển sang hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong trường hợp đó, sự chi phối của kinh tế nhà nước không cần thiết phải là sự tham gia trực tiếp của nó vào một đơn vị kinh doanh. Khuyến khích các nhà tư bản đầu tư vào các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế: Đây là một hình thức sử dụng có hiệu quả chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta. Trong thời gian tới, để tạo ra kết quả khả quan hơn nữa trong quá trình phát triển khu chế xuất, khu công nghiệp và khu kinh tế ở nước ta thì cần phải hoàn thiện chính sách và pháp luật trong lĩnh vực quản lý khu công nghiệp và khu chế xuất, đặc biệt là chính sách khuyến khích mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào khu chế xuất, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài bỏ vốn và chất xám tham gia xây dựng xí nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế. Bên cạnh đó, phải thường xuyên nâng cao trình độ tổ chức quản lý ở các cấp. Thực hiện chế độ “một cửa” là một cải tiến về thủ tục hành chính đã góp phần trực tiếp cho thành công ban đầu. Nhanh chóng thúc đẩy việc triển khai hình thức “xây dựng - kinh doanh - chuyển giao” (BOT) Nhu cầu vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng ở nước ta là vô cùng bức bách, không những đòi hỏi vốn lớn mà còn là điều kiện có tính chất cơ sở quyết định của tiến trình phát triển và sử dụng các hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta. Sử dụng hình thức BOT là để giải tỏa một phần sự căng thẳng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và cho phép các doanh nghiệp nước ngoài và cả tư nhân trong nước đầu tư vốn, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng và kinh doanh trong một thời gian sau đó chuyển giao cho nhà nước Việt Nam. Đây là hình thức mới được áp dụng ở nước ta không chỉ đối với tư bản nước ngoài mà cả đối với tư bản tư nhân trong nước. Hình thức này tỏ ra rất phù hợp và cần thiết sử dụng rộng rãi trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng đang rất cấp bách ở nước ta. Vì vậy, để thúc đẩy nhanh việc triển khai hình thức BOT, nhà nước cần sớm có quy định cụ thể và rõ ràng, xác lập khuôn khổ pháp lý, đặc biệt là quy hoạch tổng thể xây dựng kết cấu hạ tầng vùng, cũng như các hạng mục đầu tư cần gọi vốn - cần thiết áp dụng các biện pháp kích thích đặc biệt như miễn tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai đối với diện tích đất được thuê hoặc được giao để thực hiện dự án BOT; áp dụng mức thuế thấp nhất của thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập công ty. Ngoài ra, việc thành lập công ty cổ phần, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và phát triển hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước - hợp tác xã cũng là những hình thức quan trọng trong chủ nghĩa tư bản nhà nước. 3.4. XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ PHÂN PHỐI BẢO ĐẢM HÀI HOÀ CÁC LỢI ÍCH: LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG, LỢI ÍCH CỦA DOANH NGHIỆP, LỢI ÍCH CỦA NHÀ NƯỚC ĐỂ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SỞ HỮU CÔNG CỘNG Phân phối là một mắt khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất, nó có thể tác động làm cho sản xuất phát triển hoặc kìm hãm sự phát triển. Chế độ phân phối phải dựa trên quan điểm bảo đảm hài hòa quan hệ lợi ích của người lao động, của doanh nghiệp và Nhà nước, bảo đảm mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Đây được coi là cơ sở bền vững cho sự phát triển của sở hữu công cộng. Để thực hiện được mục tiêu trên, trong những năm tới cần hoàn thiện từng bước cơ chế chính sách phân phối đảm bảo công bằng xã hội theo các hướng chủ yếu sau: Một là, tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động trong các đơn vị kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Hai là, trích lập và sử dụng hợp lý quỹ tiền thưởng và phúc lợi doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện quản lý chặt chẽ việc trích lập từ lợi nhuận vào quỹ phúc lợi cũng như quỹ tiền thưởng theo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ba là, đảm bảo công bằng trong việc phân phối lợi nhuận cho cá nhân và cho nhà nước theo vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kể từ khi áp dụng hình thức phân phối theo vốn của cá nhân đưa vào sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp nhà nước, nhiều mặt tích cực đã được khẳng định. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn không ít những bất cập nảy sinh. Vì vậy, trong những năm tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau: Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp nhà nước được mua cổ phần khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần. Tuy nhiên việc xác định người lao động như thế nào được coi là nghèo và được đưa vào diện cấp cổ phần, cũng như số lượng cổ phần nên cấp là bao nhiêu, cần phải được xem xét để bảo đảm công bằng, tránh tình trạng người có mức thu nhập không coi là nghèo nhưng thực sự rất khó khăn ở gia đình thì không được hưởng ưu đãi. Trong điều kiện thực tế hiện nay, để bảo đảm chính xác khi thực hiện chính sách ưu đãi đối với người nghèo, một mặt, thực hiện thông tư số 03/1999 TT-LĐTBXH sửa đổi tiêu chuẩn nghèo mua cổ phần ở doanh nghiệp quy định phải có thu nhập bình quân bằng và thấp dưới 1/3 lương bình quân trong năm do Bộ Lao động Thương binh xã hội công bố. Mặt khác, cần căn cứ vào mức thu nhập thức tế của mỗi thành viên và điều kiện hoàn cảnh gia đình người lao động. Trong điều kiện nước ta hiện nay, để đảm bảo công bằng khi thực hiện chính sách tạo điều kiện cho người lao động trong các công ty cổ phần có vốn cổ phần, ngoài các yêu cầu trên cần thực hiện các biện pháp: - Cho phép ban lãnh đạo công ty được mua cổ phần ưu đãi theo tiêu chuẩn như mọi người lao động khác, tương xứng với công lao của họ, không nên giới hạn bằng hình thức bình quân cổ phiếu ưu đãi của các cổ đông, để khuyến khích tính tích cực trong quá trình cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. - Nâng tỷ lệ giá trị cổ phần được mua chịu của người lao động ở những doanh nghiệp có vốn nhà nước quá thấp để thu hẹp chênh lệch về thu nhập từ lợi tức cổ phần của người lao động giữa các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước thấp, nguồn vốn tự bổ sung lớn, nhà nước có thể cho phép các doanh nghiệp đó trích 50% vốn tự bổ sung để bán cổ phần ưu đãi cho người lao động. - Việc bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang công ty cổ phần chỉ được thực hiện lần đầu khi doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. Những cổ phần bán ưu đãi trả dần không phải trả lãi theo kỳ hạn sẽ không được phép bán lại nhằm tránh việc lợi dụng những ưu đãi của chính sách cổ phần hóa để hưởng chênh lệch giá chứ không có ý định trở thành cổ đông lâu dài của doanh nghiệp. + Cần phân biệt cổ phiếu ghi tên (đối với cổ phần nhà nước và cổ phần của các cổ đông sáng lập) được ứng cử, bầu sử vào Hội đồng quản trị và chuyển nhượng có điều kiện, còn cổ phiếu không gi tên được chuyển nhượng tự do trong thị trường vốn nhưng không có quyền ứng cử, bầu cử vào Hội đồng quản trị nhằm hạn chế việc đầu cơ cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, thao túng việc quản lý doanh nghiệp. + Giải pháp về phân chia cổ tức: Thứ nhất, phân chia cổ tức cần theo hướng vừa khuyến khích được người lao động góp vốn, vừa dành nhiều lợi nhuận để đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, lợi tức cổ phần cho các cổ đông chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa trong khi thị trường chứng khoán mới hình thành nên cổ phần phát hành đều theo mệnh giá. Các doanh nghiệp đang cổ phần hóa phần lớn lại dành nhiều lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức và chỉ dành số ít cho quỹ đầu tư phát triển sản xuất của doanh nghiệp. Vì thế nhà nước cần có các chính sách thuế ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường tích lũy mở rộng sản xuất tạo thêm việc làm. Việc chia lợi tức quá cao so với lãi suất tiết kiệm và và lãi suất vay ngân hàng như đã diễn ra đúng là có lợi trước mắt cho các cổ đông, nhưng xét dưới góc độ phát triển lâu dài kinh tế đất nước nói chung và doanh nghiệp nói riêng thì việc dành một phần lợi nhuận thích đáng của doanh nghiệp cho đầu tư phát triển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hiện nay. Thứ hai, phân chia cổ tức đảm bảo tính mềm dẻo , phù hợp với đặc điểm, điều kiện sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Không nên ghi vào điều lệ của doanh nghiệp cổ phần hóa mức phân phối lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức một cách cụ thể cứng nhắc như một số doanh nghiệp tiến hành. Việc chia cổ tức do Hội đồng quản trị và Đại hội cổ đông xem xét giải quyết hàng năm căn cứ vào hiệu quả kinh doanh và yêu cầu về các mặt: phát triển kinh doanh, bảo vệ lợi ích cho cổ đông, chăm lo phúc lợi cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp. Thứ ba, thực hiện phân chia công bằng lợi tức cổ phần cho các cổ đông. Các cổ đông dù là nhà nước hay người lao động đều có sự bình đẳng hưởng lợi tức theo vốn góp. Hiện nay, việc chia lãi theo vốn góp cổ phần trong các công ty cổ phần được thực hiện theo Nghị định 59/CP về quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước ngày 3 - 10 - 1996 của Chính phủ và được sửa đổi theo Nghị định 27/CP ngày 20 - 4 1999. Tuy nhiên trong nghị định này còn có những điều chưa hợp lý. Theo điều 32 của nghị định này, lợi nhuận thực hiện của doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau: 1) Bù khoản lỗ của các năm trước đối với các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhuận trước thuế; 2) Nộp tiền vốn sử dụng ngân sách nhà nước. 3) Trừ các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp 4) Lợi nhuận còn lại sau khi trừ các khoản 1, 2, 3 của điều này được phân phối theo quy định dưới đây: a) Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính; khi số dư quỹ bằng 25% vốn điều lệ thì không trích nữa; b) Trích 50% vào quỹ đầu tư phát triển; c) Trích 5% vào quỹ dự phòng mất việc làm; khi số dư quỹ này bằng 6 tháng lương thực hiện thì không trích nữa. d) Đối với một số ngành đặc thù mà pháp luật cho phép trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế thì doanh nghiệp được trích lập theo các quy định đó; đ) Chia lãi cổ phần trong trường hợp phát hành cổ phiếu; e) Số lợi nhuận còn lại sau khi trừ các khoản a, b, c, d, đ được trích lập hai quỹ khen thưởng và phúc lợi…sau khi trích hai quỹ khen thưởng và phúc lợi như trên được bổ sung toàn bộ vào quỹ đầu tư phát triển. Với trình tự phân phối như trên sẽ diễn ra trường hợp ở các doanh nghiệp có cổ phần của nhà nước và các tổ chức cá nhân khác thì việc chia lãi cho cổ phần nhà nước bao giờ cũng nhiều hơn đối với các cổ phần của các tổ chức cá nhân khác. Bởi vì khi doanh nghiệp có lãi, với lượng vốn cổ phần nhà nước nhất định, nhà nước vừa được khoản thu tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước lại vừa được chia lãi cổ phần theo tỷ lệ vốn góp như các cổ đông khác. Theo chúng tôi, để đảm bảo sự công bằng khi phân chia lãi cho các cổ đông thì chế độ phân phối lợi nhuận trong các công ty cổ phần cần bỏ mục “Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước”. Cần đổi mới sang phương thức “thu lợi tức cổ phần” với tư cách nhà nước là một cổ đông khi áp dụng rộng rãi chế độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. KẾT LUẬN Sở hữu là mặt bên trong cơ bản nhất của quan hệ sản xuất và là một phạm trù của kinh tế chính trị, có vị trí đặc biệt quan trọng trong học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc nhận thức và xử lý vấn đề sở hữu trong thực tiễn của các đảng cầm quyền có liên quan trực tiếp đến sự thành bại của mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng nói trên, từ lâu và nhất là trong giai đoạn đổi mới hiện nay ở nước ta, việc nghiên cứu vấn đề sở hữu và vận dụng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thu hút được sự chú ý đông đảo các nhà nghiên cứu và bước đầu đã thu được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, một mặt do sở hữu là một vấn đề phức tạp, trên phương diện lý luận, nhiều lĩnh vực vẫn chưa được làm sáng rõ; mặt khác, thực tiễn quá trình biến đổi sở hữu nước ta thời gian qua đã và đang đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải làm rõ về mặt cơ sở lý luận: quá trình chuyển biến từ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng đã và đang diễn ra thường xuyên và phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước tình hình đó, tôi chọn: “Vận dụng lý luận Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn đã cố gắng làm rõ một số nội dung cơ bản sau đây: Một là, hệ thống hóa những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của sở hữu tư liệu sản xuất, sự biến đổi quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong nền kinh tế thị trường và làm rõ cơ sở lý luận về sự biến đổi quan hệ sở hữu tư nhân sang sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hai là, phân tích thực trạng vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta giai đoạn trước và sau đổi mới. Qua đó rút ra những thành công, sai lầm và hạn chế và nguyên nhân của những thành công, sai lầm và hạn chế đó. Ba là, trên cơ sở phân tích thực trạng quá trình biến đổi sở hữu ở nước ta – luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nhằm hoàn thiện quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sở hữu là một phạm trù rất trừu tượng, phức tạp và rộng lớn, cho đến nay vẫn còn rất nhiều ý kiến khác nhau, vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng nó đòi hỏi phải có vốn kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm thực tế phong phú mới có thể giải quyết được một cách đầy đủ và đúng đắn. Tác giả đã cố gắng làm việc hết mình, song không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Kính mong các nhà khoa học trong hội đồng đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Trọng Ân (2004), Tìm hiểu tác phẩm của Ph. Ăngghen: Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nxb Đại học quốc gia, TP Hồ Chí Minh. Đỗ Trọng Bá (1994), Vấn đề sở hữu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1977), Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. Ba mươi năm phát triển kinh tế - văn hóa của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1976), Nxb Sự thật, Hà Nội. Bốn mươi năm nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985), Nxb Sự thật, Hà Nội. Phạm Thị Cần - Vũ Văn Phúc - Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Cúc - Kim Văn Chính (2006), Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Bùi Ngọc Chưởng (1983), Học thuyết của Lênin về chủ nghĩa đế quốc, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1991), Nxb Sự thật, Hà Nội. Lương Minh Cừ (1996), Quan niệm của C.Mác, Ph Ăngghen về vấn đề sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, Luận án phó tiến sĩ triết học, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1968), Văn kiện của Đảng về đường lối phát triển nông nghiệp miền Bắc nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đăng Hoàng (1999), “Một số quan điểm mới về chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (2), tr 32. Nguyễn Đình Kháng (1993), Sở hữu tư tiệu sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần, Luận án phó tiến sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội. Nguyễn Đình Kháng (1994), “Nhận thức sở hữu theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (3), tr.43. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. C.Mác (1978), Tư bản, quyển ba, tập II, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác (1976), Những hình thức có trước sản xuất tư bản chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác (1962), Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, tập 46, phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Công Nghiệp (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Ngọc (2000), Quan hệ biện chứng giữa các loại hình sở hữu trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội. Lê Thanh Sinh (2000), Chính sách kinh tế mới của Lênin với công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Thạo (2004), Sở hữu: Lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Hữu Đạt (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tiểu ban tổng kết hợp tác hóa nông nghiệp (1990), Dự thảo báo cáo tổng kết hợp tác hóa nông nghiệp (1958 - 1990). Nguyễn Văn Tuấn (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Đỗ Thế Tùng (2004), “Lý luận của V.I.Lênin về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông”, Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.11. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2734.doc
Tài liệu liên quan