Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết xã hội loài người đã trải qua năm phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Mỗi một phương thức sản xuất ở từng thời kỳ đó nó lại gắn với một xã hội và mỗi một xã hội thì lại có những mối quan hệ sản xuất riêng, tương ứng với lực lượng sản xuất riêng ở mỗi thời kỳ, trình độ nhận định. Thế nhưng chúng đều được một kiến trúc thượng tầng tạo nên. Từ khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào nước ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình trạng thoái trào, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, chính vì thế nó càng tạo điều kiện cho các thế lực đối nghịch của chủ nghĩa Mác-Lê nin của chủ nghĩa xã hội càng có dịp vu cáo, làm xuyên tạc bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong đó học thuyết “ Hình thái kinh tế xã hội” là trọng điểm, là trung tâm bị công kích từ nhiều phía – chính vì vậy để đem lại tính đích thực, sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và lý luận của Mác về Hình thái kinh tế xã hội nói riêng không gì khác ta phải đứng dậy đấu tranh để đè bẹp những ý đồ đen tối của các thế lực đối nghịch.
Chương I: Những lý luận chung về hình thái
kinh tế xã hội.
Học thuyết của Mác – Lênin về " Hình thái kinh tế xã hội " xét trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về nguồn gốc, động lực của sinh vật. Nếu như triết học phương đông thì khi nói đến yếu tố bản chất tức là nói đến sự chuyển biến của hai mặt đối lập; đực và cái, trời và đất… Thì Hêracơlit cho rằng biện chứng chỉ thực sự khi ông coi sự vận động và phát triển của thế giới giống như một dòng sông luôn luôn chảy mãi.
Phép biện chứng duy vật mang tính khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, phép biện chứng chẳng qua nó cũng chỉ là một môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vật và sự phát triển của xã hội loài người, của tư duy. Phép biện chứng duy vật với tư cách là phương pháp luận của nhận thức khoa học, chính vì thế đòi hỏi ta phải xem xét các sự vật hiện tượng trong sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự vận động và phát triển.
I/ Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật .
1/ Quy luật đồng nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Đây là quy luật quan trọng nhất trong phép biện chứng duy vật. Quy luật này là “ hạt nhân của phép biện chứng” vì nó vách ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của bản thân sự vật hiện tượng, động thời tác động đến tất cả các quy luật và phạm trù của phép biện chứng. Nội dung của quy luật được làm sáng tỏ thông qua một loạt các phạm trù cơ bản “mặt đối lập”,”sự thống nhất”.
Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có quan hệ hữu cơvới sự đứng im ,sự ổn định tạm thờicủa sự vật. Sự đấu tranh có quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tuyệt đối. Lêninviết: sự thống nhất(…)của các mặt đối lập là tương đối ,sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng là sự phát triển ,sự vận động là tuyệt đối .
Mâu thuẫn với tư cách là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khái niệm rã ràng mọi sự vật hiện tượng đều có các mặt khác nhau, trong đó có các mặt đối lập nhau. Các mặt đối lập này vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo nên mâu thuẫn của sự vật. Chính mâu thuẫn này là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. Có thể nói rằng sự vận và phát triển là một quá trình hình thành và giải quyết các mâu thuẫn. để nhận thức được mâu thuẫn của sự vật phải tuân thủ những nguyên tắc của phương pháp phân tích mâu thuẫn. Mâu thuẫn không phải được giải quyết một sớm một chiều mà nó được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi, không được vội vàng khi chưa có đủ điều kiện, không được giải quyết một cách tự phát phải cố gắng tạo điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết. Mặt khác mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới hình thức khác nhau, phương pháp khác nhau. Vì vậy phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
2/ Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất và ngược lại.
Quy luật này là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó chỉ rõ cách thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan
Nội dung của quy luật: mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi đó không diễn ra độc lập với nhau, trái lại chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Thí dụ như khi ta xét đến trạng thái tồn tại khác của nó với tư cách là những chất khác nhau( chất – trạng thái) ứng với chất – trạng thái đó lượng ở đây cũng là nhiệt độ, thì dù kượng có thay đổi trong phạm vi lớn (0oC < toC < 100oC) nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức chưa thay đổi về chất trạng thái). Như vậy sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất trong những giới hạn nhất định. Vượt qua giới hạn đó nó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
3/ Quy luật phủ định của phủ định:
Bằng việc làmsáng tỏ mối liên hệ giữa các nấc thang khác nhau của quá trình phát triển, quy luật này đòi hỏi ta phải chỉ rõ khuynh hướng của quá trình phát triển. Trong quá trình sự vật và hiện tượng vận động và phát triển không ngừng thường xuyên xảy ra sự phủ định sự vật hiện tượng này bằng sự vật hiện tương khá. Các mối phủ định cái cũ sau một thời gian nhất định rồi lại xuất hiện cái khác cao hơn, phát triển hơn, hợp hơn phủ định nó ra đời và cứ như vậy…
II/ Các quan điểm duy vật về lịch sử và hình thái học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội.
1/ Quan điểm thừa nhận sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.
Sản xuất là một hoạt động có đặc trưng riêng của xã hội loài người, đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người. Theo Ph.ăng ghen, “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người với xã hội loài vật ở chỗ : loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm trong khi con người biết sản xuất”. Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách biệt với nhau, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội và xét đến cùng nó quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội. Chính nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình mà con người sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó.
2/Quan điểm về mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
C.Mác viết “ những quan hệ sản xuất đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất”. Do đó những lực lượng sản xuất mới loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đồi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nó đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” ( trích trong tác phẩm người khốn cùng của triết học).
C.Mác đã nêu một tư tưởng quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội. Như vậy theo Mác lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất.
3/ Quan điểm về mồi quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Để khắc phục quan điểm duy tâm giải thích sự vận động của đời sống kinh tế xã hội bằng nguyên nhân thuộc về ý thức, tư tưởng về vai trò của nhà nước pháp quyền. Chủ nghĩa Mác khẳng định quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là quan hệ xã hội cơ bản quyết định mọi quan hệ khác như chính trị, tư tưởng … Mác viết “ không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó mà trái lại phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất … nếu ta không thể nhận định một người căn cứ vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì ta cũng không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”.
Từ những quan điểm trên Mác đi đến kết luận “trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có quan hệ nhất định, tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ”. Trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị. Hình thái ý thức xã hội nhất định tác động một cơ sở hiện thực đó từ đó có thể xác định rằng: Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sự vật đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Mác đã xây dựng tư tưởng vô sản bằng cách, trong tất cả mọi quan hệ xã hội, ông làm nổi bật quan hệ xã hội vật chất, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định các mối quan hệ khác.
C.Mác coi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, là những yếu tố hợp thành không thể thiếu được của hình thái kinh tế-xã hội, đồng thời ông còn coi mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận động của các yếu tố đó chính là những quy luật phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội với tư cách là quá trình lịch sử tự nhiên, mỗi hình thái kinh tế-xã hội coi như cơ thể xã hội phát triển theo quy luật vốn có của nó. Sự thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Đó là quá trình tiến hoá bao hàm nhiều bước nhảy vọt đã tạo nên sự tiến bộ trong lịch sử loài người. Mặt thống nhất của phương thức sản xuất, cách thức mà con người ta tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh của mình, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói nên năng lực thực tế,để tạo ra của cải xã hội. Ngày nay khoa học phát triển, con người điều khiển các quá trình công nghệ tạo ra những ngành sản xuất mới hiện đại. Có thể nói rằng chưa bao giờ tri thức khoa học được vật hoá, kết tinh thâm nhập vào yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhanh, tinh vi như ngày nay. Lực lượng sản xuất quyết định đối với sự phát triển của sản xuất vật chất. Xét đến cùng sự hình thành hình thái kinh tế xã hội do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao, thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người, và cũng là yếu tố phát triển của một hình thái kinh tế xã hội, quan hệ sản xuất giữa người đối với người là quan hệ cơ bản đầu tiên trong toàn bộ các quan hệ xã hội khác nó có vai trò quyết định tất cả quan hệ sản xuất khác. Mỗi hình thái kinh tế xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất tương ứng với một trình độ của nhưngx lực lượng sản xuất nhất định. Trong lý luận về hình thái kinh tế xã hội, C.Mác coi bên cạnh các quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác. Ông không chỉ nghiên cứu quan hệ xã hội khác và coi quan hệ sản xuất hình thành trên một lực lượng sản xuất nhất định.
Coi quan hệ sinh vật là bộ xương của chế độ xã hội ngoài ra còn có các quan điểm về chính trị, pháp lý ... cùng với những thể chế tương ứng hình thành trên cơ sở xuất hiện thực, kinh tế chính trị tương ứng với nó. Quan hệ sản xuất tự gắn bó mật thiết với lực lượng sản xuất hai mặt này tạo thành thể thống nhất hữu cơ của phương thức sản xuất. Phát triển sản xuất là nền tăng vật chất và hình thành kinh tế xã hội. Ngoài những yếu tố cơ bản lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kinh tế chính trị còn có các hoạt động và các mặt khác như sự tồn tại của các cộng đồng người, các quan hệ gia đình, các hoạt động, mối quan hệ này tuy không thuộc quan hệ cơ sở kinh tế chính trị của xã hội những vẫn có những mối quan hệ phổ biến với bất cứ một hình thái kinh tế xã hội nào, các mặt lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kinh tế thị trường đều có những mối phát triển của các hình thức kinh tế xã hội chủ nghĩa, đó là quan hệ về sự phù hợp của quan luật sản xuất đối với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật có hình thức quyết định kinh tế thị trường đối với cơ sở hạ tầng.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trở thành động lực thúc đẩy, định hướng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển sản xuất, thông qua những phương thức sản xuất nhất định, phương thức sản xuất là cách thức sản xuất ra của cải vật chất mà trong đó lực lượng sản xuất là mặt năng động, sáng tạo, luôn phát triển nó thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội còn quan hệ sản xuất thì luôn bảo thủ và tương đối ổn định, nó chỉ thay đổi khi đã lạc hậu, mâu thuẫn xung đột với lực lượng sản xuất. Sự thay đổi đó có tính gián đoạn trong sự phát triển của xã hội. Khi quan hệ sản xuất thay đổi (CSHT) kéo theo kinh tế thị trường cũng phát triển. Kết quả là sự ra đời của một hệ thống kinh tế mới cao hơn so với cái cũ. Tuy nhiên LLSX,QHSX, kinh tế thị trường chỉ là những mặt cơ bản nhất của hình thức kinh tế - xã hội do vậy sự phát triển của hình thức kinh tế xã hội nó chỉ là con đường tổng quát sự phát triển lịch sử và cũng không có nghĩa là nó đã giải thích chi tiết cụ thể về lịch sử. Lịch sử hiện thực là lịch sử của các dân tộc, quy tắc ra sinh sống trong những điều kiện khác, những đặc trưng hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài yếu tố quyết định là sản xuất vật chất các yếu tố khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của lịch sử, văn hoá, tập quán... những nhà khoa học, nhà lý luận trước đã tuyệt đối hoá tính đa dạng, phong phú của lịch sử, họ cho rằng : thời gian lịch sử không có sự lắp lại không có tính kết yếu mà chỉ có cách biệt, ngẫu nhiên mà thôi. Chủ nghĩa duy vật lịch sử làm rõ con đường tổng quát quá trình phát triển lịch sử và họ khẳng định: " lịch sử không những là tập hợp ngẫu nhiên của các sự kiện mà là một quá trình tất yếu thống nhất vận động và phát triển theo quy luật khách quan".
Chúng ta đều biết quy luật của đời sống xã hội có đặc điểm và tác động thông qua con người nhưng không những vì thế mà nó mang tính khách quan mà ngược lại xã hội vận động không ngừng không những phụ thuộc mà còn quyết định cả ý định của con người.
Như trên đã nói xã hội loài người đã trải qua hình thái kinh tế xã hội tiếp , nhưng không phải một quốc gia, một dân tộc nào cũng đều trải qua tất cả những hình thức kinh tế - xã hội trên.
Tính tuần tự từ thấp đến cao theo một sơ đồ chung bởi đặc điểm về lịch sử, không gian, thời gian không phải quốc gia nào cũng giống nhau. Thực tế lịch sử chứng tỏ có nhiều quốc gia trong những điều kiện lịch sử nhất định phát triển tuần tự qua các hình thái kinh tế xã hội nhưng một số quốc gia khác lại phát triển theo con đường bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế xã hội nào đó như Italia, Pháp.. chế độ phong kiến đã bắt đầu hình hành trong lòng chế độ nô lệ, ở Mác do đặc điểm lịch sử của mình mà chế độ tư bản hình thành trong điều kiện xã hội không trải qua chế độ phong kiến.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định một hoặc vài hình thái kinh tế xã hội nhất định. Trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, Việt Nam là một quốc gia chưa trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Đối với nước ta quá độ trực tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội là không có khả năng. Bởi vậy, con đường phát triển rút gắn hay gọi theo V.I Lênin phát triển không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là con đường hiện thực. Từ lâu (và ngay cả hiện nay) có một số người không nhận thức được vấn đề này và họ phủ định con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội ở nước ta họ cho rằng con đường mà Đảng và Nhà nước ta chọn là con đường sai trái. Với Mác nhất thiết phải phát triển tuần tự qua các giai đoạn và trước mắt là chủ nghĩa tư bản. Đó là một điều thật phi lịch sử và không phù hợp với quan niệm của Mác về quá trình lịch sử tự nhiên. Trong bối cảnh lịch sử nói chung và triết học nói riêng có thể nói học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của Mác ra đời là một cuộc cách mạng thực xong khác hoàn toàn với các lý luận duy tâm, siêu hình, trước đó chỉ ra rằng động lực của lực sử không phải là một thứ tinh thần thần bí nào đó mà chính là hoạt động thực tiễn của con người và nó xuất phát từ sự thật hiển nhiên. Đó là con người trước hết phải ăn, uống, ở và mặc nghĩa là phải lao động trước khi có thể đấu tranh để dành quyền thống trị quyền tham gia hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học.... chừng nào có sự thật hiển nhiên đó còn tồn tại thì chừng đó quan niệm duy vật về lịch sử vẫn không thể trở lên lạc hậu được.
Trong tất cả mọi quan hệ xã hội Các Mác đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất tức là quan hệ sản xuất những quan hệ cơ bản, ban đầu, và quyết định các quan hệ khác. Do đó chủ nghĩa duy vật đã cung cấp cho khoa học xã hội một tiêu chuẩn khách quan để phát hiện và tìm kiếm quy luật xã hội. Khái quát lại thành một khái niệm cơ bản duy nhất là : Hình thái kinh tế xã hội.
Vậy học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội là cơ sở phương pháp luận khoa học, là nền tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội, và do đó là một trong những nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Lần đầu tiên học thuyết này cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp ta hiểu được lôgic khách quan của quá trình tiến hoá xã hội, đồng thời nó vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của sự kiện ở các nước khác nhau trong thời kỳ khác nhau vì thế nó đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để tìm ra những mối liên hệ nhân quả, giải thích sự kiện lịch sử. Là cơ sở khoa học tiếp cận đúng đắn khi giải quyết những vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội rất đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào từ kinh tế đến tinh thần đều có thể được hiểu đúng khi gắn với một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Chương II. Vận dụng hình thái kinh tế xã hội vào công cuộc đổi mới ở nước ta.
Lý luận về sự phát triển lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế xã hội không mâu thuẫn với lý luận vì sự phát triển rút ngắn mà các nhà kinh điển đề ra. Để có thể phát triển rút ngắn lên chủ nghĩa xã hội các nhà kinh điển của Mác Lênin chỉ ra rằng cần phải có sự giúp đỡ tích cực của các nước tiên tiến và giai cấp vô sản ở nước đó. Các nước tiền tư bản chủ nghĩa có thể rút ngắn được con đường đi tới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có đủ kinh nghiệm và bản lĩnh trong việc tranh thủ sự giao lưu, hợp tác quốc tế để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trước kia chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì nó ảnh hưởng rất lớn đến sự giúp đỡ của các nước đó. Nhưng giờ thì khác sự hợp tác và giúp đỡ trong khía cạnh nào đó lại đa dạng và có quy mô lớn hơn trước. Đó cũng chính là một trong nhiều nguyên nhân dẫn tới những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chúng ta đang sống trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, nó tạo cơ hội cho ta có thể nhảy vọt trong thời gian ngắn như thực tế nhiều quốc gia đã chứng minh. Đó là công cuộc đổi mới hiện đại hoá, công nghiệp hoá, đó là một cuộc chạy đua về mặt thời gian và thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội. Định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế nó bao hàm sự cam kết về tốc độ, đảm bảo, nhanh trong mọi quá trình tự phát và do lực lượng sản xuất được phát triển mạnh hơn. Nhưng nếu như chúng ta biết cách tận dụng mọi thời cơ vượt qua được những thách thức khó khăn thì nó sẽ tạo cơ sở cho sự phát triển rút ngắn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước mắt phải vạch ra được những phương hướng, chương trình cụ thể trên các lĩnh vực của xã hội. Định hướng lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài lên trong văn kiện Đại hội lần thứ VI và Đại hội lần thứ VII của Đảng, được Đảng ta xác nhận trên tinh thần:
Xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa bảo đảm mọi thành phần kinh tế phát triển và cạnh tranh lành mạnh vừa tạo điều kiện để thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa từng bước trở thành thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng để thực hiện được quá trình đổi mới là cả một vấn đề lâu dài, chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta chủ chương thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá ở các vùng nông thôn như ta đã biết nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu chiếm 80% dân cư sống tại các vùng nông thôn - là nơi tập chung đại bộ phận những người nghèo khổ của xã hội. Vì vậy việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn đang là một vấn đề nóng bỏng của toàn xã hội. Nhưng không phải tự nó có thể đổi mới được cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại để tạo công ăn việc làm cho người dân lao động mà phải có tác động mạnh mẽ của công nghệ dịch vụ phát huy tối đa, triệt để tiềm lực vốn có của từng vùng, từng địa phương. Có như thế mới phá vỡ được tình trạng trì trệ, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp làm sản phẩm xã hội và tổng thu nhập quốc dân phát triển cao và giảm được nạn đói, giảm được nạn nghèo và làm cho đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao và cải thiện, ngày một tốt hơn. Đối với người nhân dân lao động Đảng ta đã thực hiện chính sách khoán hộ cho nhân dân dài hạn, có quyền sở hữu mảnh ruộng đất ấy mà mỗi vụ hoặc mỗi năm chỉ việc nộp thuế thu nhập cho Nhà nước. Bên cạnh đó còn đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất vì thực tế nông thôn đang đứng trước một loạt những kho khăn và cần được giải quyết một cách kịp thời. Sự hạn chế về ruộng đất dư thời là tuyệt đối và tương đối mức sống cả về vật chất và tinh thần còn thấp kém. Những vấn đề trên chỉ được giải quyết khi các chương trình, biện pháp đưa ra là đồng bộ trong đó công nghiệp hoá nông thôn giữ vai trò chủ đạo quan trọng nhất. Nước ta đẩy mạnh việc phân công lại lao động xã hội đồng nghĩa với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh thế giới hiện đại, công nghiệp ở nước ta phát triển kết hợp chặt chẽ hai chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu. Để thực hiện chiến lược này, cần phải phân công lại lao động phát triển những ngành, những lĩnh vực mà đất nước có lợi thế. Trước mắt đó là những ngành nông nghiệp, công nghiệp dệt may, công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, công nghiệp lắp ráp điện tử và một số lĩnh vực khác. Thông qua việc phát triển và xuất khẩu những hàng hoá này cần tranh thủ nhập được những công nghệ thích hợp để cải thiện trình độ công nghệ và kỹ thuật sản xuất hiện nay. Điều đó cho phép ta vừa đa dạng hoá ngành nghề, vừa từng bước đổi mới trình độ lao động trong nước phù hợp với trình độ quốc tế và khu vực thực hiện công nghiệp hóa vào nông thôn còn làm thay đổi tính chất và trình độ của sản xuất nông nghiệp từ đó nó góp phần tích cực vào việc thay đổi nâng cao vai trò của bộ máy quản lý Nhà nước. Những năm vừa qua nước ta đã đổi mới một bước vai trò quản ý vĩ mô của nông nghiệp đối với nền kinh tế, chuyển từ quản lý theo kế hoạch hóa tập trung sang dùng các công cụ chính sách kinh tế mĩ mô để quản lý nền kinh tế. Trong những năm tới, đặc biệt trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cần phải tiếp tục đổi mới công cụ, chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ thống tài chính tín dụng, lưu thông tiền tệ, chính sách phân phối, thu nhập và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Việc đổi mới này vừa phải theo nguyên tắc phù hợp với phương thức quản lý của nền kinh tế thị trường, đồng thời đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng mà Đảng và Nhà nước đã chọn. Đi đôi với vấn đề công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì cơ sở hạ tầng cũng phải đáp ứng được các yêu cầu của việc phát triển nhanh chóng rộng rãi công nghiệp nông thôn. Vì vậy trước mắt Đảng và Nhà nước ta phải hỗ trợ và khuyến khích huy động vốn để phát triển công nghiệp nông thôn có những chế độ ưu đãi về thuế và bảo hộ sản xuất một cách có chọn lọc đối với một số sản phẩm và một số địa phương. Có như vậy mới có thể tạo điều kiện cho việc phát triển công nghiệp ở nông thôn và cũng từ đấy mới có thể tác động nhanh và mạnh tới mạng lưới giao thông và biển cả để việc lưu thông hàng hoá được thuận tiện. Nhìn lại quá trình tiến hành đổi mới công nghiệp hoá, một trong những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt mà Đại hội Đảng lần thứ VI và Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã để ra: Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng phát triển quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội, thúc đẩy kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý giám sát của Nhà nước. Xét từ quan hệ vật chất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất luôn luôn là yếu tố quyết định hàng đầu đối với sự phát triển của sản xuất xã hội. Ngày nay lực lượng sản xuất mang tính quốc tế hoá vì vậy đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo quy luật sự phù hợp của sản xuất với tính chất là trình độ lực lượng sản xuất để chống chủ nghĩa chủ quan duy ý trí trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Trước mắt để thực hiện công nghiệp hoá, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rằng con người luôn luôn ở vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược kinh tế xã hội. Đảng ta cũng xác định giáo dục đào tạo là quốc sách để tạo nguồn lực trí tuệ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tri thức con người là nguồn lực không bao giờ cạn và luôn được tái sinh với chất lượng ngày càng cao hơn bất cứ một nguồn lực nào khác. Lịch sử phát triển nhân loại đã kiểm nghiệm và đi đến kết luận: Nguồn lực con người là lâu bền nhất chủ yếu nhất trong sự phát triển kinh tế xã hội, sự nghiệp tiến bộ của nhân loại. Trước đây thì lao động chủ yếu là lao động giản đơn cơ bắp nhưng ngày nay đã được thay thế bằng lao động trí tuệ, lao động có kỹ thuật ,công nghệ và nghiệp vụ cao. Đầu thế kỷ 20 tỷ lệ lao động chân tay cho một đơn vị sản phẩm là 9/10 thì đến thập kỷ 90 của thế kỷ này đã giảm chỉ còn 1/5.Trong khi đó thì khối lượng sản phẩm những năm 90đặt được gấp 50 lần so với những năm 80 trở về trước. Như vậy lao động trí tuệ gắn chặt với năng xuất lao động xã hội với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội gắn với chiến lược phát triển nguồn lực con người. Không thể phù nhận rằng người lao động Việt Nam rất tháo vát, nhạy bén thích ứng một cách mau lẹ đối với mọi hoàn cảnh biến động của nền kinh tế thị trường và khả năng nắm bắt những kỹ thuật mới để sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Nhưng hiện nay với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì chất lượng người lao động Việt Nam còn thấp, hạn chế này bắt nguồn từ trình độ học vấn, người lao động Việt Nam được giáo dục và đào tạo chưa tốt, lực lượng lao động được đào tạo có hệ thống cơ bản chiếm 11% trong tổng số lao động toàn xã hội (nông nghiệp có 70% được đào tạo trong tổng số 75% lao động trong nông nghiệp của nền kinh tế ). Đào tạo nhân lực cho đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đóng vai trò là yếu tố chủ thể của lực lượng xã hội. Tốc độ phát triển chung và phát triển kinh tế của một quốc gia chỉ có thể đạt được tốc độ cao khi chúng ta giải thích tốt và tình hình đồng bộ cả hai nhân tố của quá trình sản xuất. Ngoài ra vấn đề vốn đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới để xây dựng cơ sỏ vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất kinh tế , hiện đại đòi hỏi phải có nhiều vốn và vật tư kỹ thuật. Đi đôi với việc phát triển về vốn thì việc xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng là điều kiện hết sức qua trọng và cấp thiết của nền kinh tế quốc dân cũng là nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá như đã biết nước ta đã là nước bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề chính vì thế chúng ta phải xây dựng cơ sở hạ tầng để phù hợp với kiến trúc thượng tầng cuộc sống vật chất của ngành là một trong những khẩu quan trọng nhất của kết cấu hạ tầng nó tạo điêù kiện cho ta giao lưu tiếp cần và mở rộng thị trường để học hỏi những kinh nghiệm quý báu những gía trị văn minh mới của nhân loại. Có những chính sách ưu tiên cho xuất khẩu các chế độ ưu đãi đối với hành xuất khẩu tạo điều kiện cho mọi người tự do sáng tạo đưa ra những sáng kiến của cá nhân trong việc nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ. Định hướng xã hội chủ nghĩa bao hàm sự cam kết về tốc độ. Do đó lực lượng sản xuất phải phát triển nhanh hơn trong đó khoa học công nghệ có vai trò quyết định đến lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia, chúng ta phải dùng đến trí tuệ, năng lực sáng tạo và tri thức để đề ra những biệt pháp thích ứng đất nước trong bối cảnh mới, giải quyết một cách có hiệu quả các vấn đề kinh tế xã hội, công nghệ kỹ thuật và môi trường. Nhưng trong đó nguồn nhân lực vẫn là một trong những yếu tố quan trong nhất có thể nói tình trạng người lao động nước ta thừa mà như thiếu có nghĩa là thừa về số lượng nhưng lại thiếu về mặt chất lượng vì thế chúng ta cần phải quan tâm, chú trọng hơn đến việc bồi dưỡng và sử dụng tốt nguồn lực có trình độ và kỹ năng nghề nghiệp. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân và bước đầu xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai hình thức quốc doanh và tập thể. Lực lượng sản xuất phát triển làm cho công nghiệp hoá thoát khỏi tình trạng lạc hậu và phát triển thành những ngành chủ đạo và then chốt. Quan hệ sản xuất phải luôn được cải tiến từng bước để phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng xã hội. Nó sẽ là đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0380.doc