Lời mở đầu
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hêt sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, một công cụ trong việc điều hành chính sách tiền tệ của quốc gia. Mỗi sự thay đổi của lãi suất đều tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các hoạt động của nền kinh tế như các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hành vi tiết kiệm và đầu tư của công chúng, hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Do đó kéoo theo sự thay đổi của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác như lạm
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước để phát triển hoạt động của Ngân hàng thương Mại Cổ phần quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát, tăng trưởng thất nghiệp...Bên cạnh đó lãi suất còn được xem như là một công cụ để điều hoà mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trong nền kinh tế, mỗi sự tăng hay giảm của lãi suất sẽ kéo theo sự khuyến khích lợi ích vật chất đối với chủ thể kinh tế này đồng thời hạn chế lợi ích của chủ thể kinh tế khác. Lãi suất có thể sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành, lĩnh vực này đồng thời kiềm chế sự phát triển của các ngành lĩnh vực khác, tăng lợi ích của nhóm người này, giảm lợi ích của nhóm người kia. Lãi suất còn là công cụ tạo ra các kênh chu chuyển nguồn lực xã hội từ ngành lĩnh vực này, sang ngành lĩnh vực khác, từ vùng này sang vùng khác. Do đó tạo ra sự thay đổi cơ cấu vùng, cơ cấu ngành của nền kinh tế...
Chính vì lãi suất có một vai trò hết sức quan trọng như vậy cho nên việc vận hành một chính sách lãi suất như thế nào cho thích hợp, nhằm đảm bảo cân đối hài hoà lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nói chung luôn là mối quan tâm hàng đầu trong việc thực thi chính sách tiền tệ của mối quan hệ quốc gia.
Trong suốt thời gian qua, kể từ khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp cho đến nay NHNN Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích to lớn trong việc thực hiện chức năng quản lý, trên lĩnh vực chính sách tiền tệ nói chung và việc thực thi chính sách lãi suất nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tế việc thực hiện chính sách lãi suất hiện hành còn nẩy sinh rất nhiều vấn đề bất cập gây khó khăn cho hoạt động của ngành ngân hàng cũng như của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách lãi suất được đặt ra như một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Mỗi một chính sách quản lý lãi suất của NHNN đều có tác động trực tiếp đến hoạt động của hệ thống NHTM nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng.Vì vậy, việc áp dụng một chế độ lãi suất cụ thể như thế nào cho phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động của ngân hàng mình trên cơ sở chính sách quản lý lãi suất hiện hành của NHNN, luôn là một vấn đề được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm. Đó cũng chính là lý do tại sao sau một thời gian thực tập tại NHTMCPQĐ, người viết Quyết định lựa chọn đề tài: "Vận dụng chính sách lãi suất của Nhà nước để phát triển hoạt động của NHTMCPQĐ" làm chuyên đề nghiên cứu của mình.
Trong bài này người viết sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích các số liệu vừa mang tính logic vừa mang tính lịch sử để làm rõ thực trạng tình hình quản lý lãi suất của NHNN cũng như tại NHTMCPQĐ đồng thời chỉ ra một số định hướng xây dựng chính sách lãi suất của NHNN trong thời gian tới trên cơ sở đó nêu lên một số biện pháp cũng như kỹ thuật mà các NHTM vận dụng để phát triển hoạt động của mình
Với nội dung đó ngoài phần mở đầu và kết luận bài viết được chia làm 3 chương:
ChươngI: Vai trò của chính sách lãi suất
Chương II: Thực trạng tình hình quản lý lãi suất của NHNN và tác động của
nó đến hoạt động của NHTMCPQĐ
Chương III: Vận dụng chính sách lãi suất nhằm phát triển hoạt động của
NHTMCPQĐ.
Em xin chân thành cám ơn cô giáo, PTS Trần Thu Hà đã tận tình giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề này.
Em cũng xin chân thành cám ơn toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng Tài chính trường Đại học - Kinh tế Quốc Dân cùng toàn thể các cô các chú các bác các anh chị tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Quân Đội đã tạo điều kiện để em hoàn thành chuyên đề nghiên cứu của mình.
Chương I
Vai trò của chính sách lãi suất
I. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
1. Khái niệm và các phép đo về lãi suất:
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế vi mô hết sức quan trọng của nền kinh tế, mỗi sự thay đổi của lãi suất sẽ kéo theo hàng loạt sự thay đổi khác trong các hoạt động kinh tế, từ hành vi tiết kiệm hay tiêu dùng của dân cư, mở rộng hay thu hẹp sản xuất của các doanh nghiệp. Kết quả là sự thay đổi các chỉ tiêu lạm phát, tăng trưởng và việc làm. Tại sao lãi suất lại quan trọng và có ý nghĩa như vậy?.
Thật vậy, lãi suất là giá cả của tiền tệ và là tỷ lệ giữa số lợi tức phải trả cho một khoản vay và số tiền gốc cho vay tính cho cùng một thời kỳ nào đó (năm, tháng, ngày).
i : lãi suất tính theo %; I : Số tiền các lợi tức; P : Tiền gốc
Theo Samuelson, lãi suất là giá mà người đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng một khoản tiền trong một thời gian xác định. Nó là giá cả của việc mua bán quyền sử dụng tiền trong một thời gian xác định. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả của hàng hoá được hình thành là kết quả của sự vận động giữa cung và cầu... Quyền sử dụng vốn là một loại hàng hoá đặc biệt và kết quả của sự vận động giữa cung và cầu về vốn chính là lãi suất.
Một đồng tiền bỏ ra hôm nay sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn trong tương lai do đồng tiền đó được trả lãi. Chính vì vậy, lãi suất là một biến số làm cân bằng giá trị của một lượng tiền nhận được trong tương lai với giá trị của nó ở thời điểm hiện tại, hay còn gọi là lãi suất hoàn vốn. Lãi suất hoàn vốn là thước đo chính xác nhất của khái niệm "lãi suất" mà người ta thường dùng. Do đó phép đo lãi suất chính là phép đo lãi suất hoàn vốn. Tuỳ theo các công cụ tài chính mà chúng ta có các phép đo khác nhau. Thông thường lãi suất được đo lường thông qua 4 công cụ cơ bản:
- Vay đơn:
i =
Trong đó: i là lãi suất, V là giá trị tương lai của tiền, c là giá trị hiện tại của tiền.
- Vay hoàn trả cố định (Fixed payment loan)
Lãi suất được xác định từ công thức:
Trong đó: C là khoản tiền vay, F là tiền trả hàng năm, i là lãi suất.
- Trả khoán Coupon (vay trả lãi định kỳ, cuối kỳ trả gốc (Copporate Bond):
Lãi suất i được xác định từ công thức:
P là giá mua
C là mệnh giá
i là lãi suất
- Trả khoán giảm giá (là các khoản mua với giá thấp hơn mệnh giá (Discount bond) cuối kỳ thanh toán theo mệnh giá )
ở Việt Nam hiện nay, do sự hạn chế về kỹ thuật cũng như tính đơn điệu của thị trường, hai công cụ cho vay trả cố định và trái khoản giảm giá được sử dụng rất hạn chế mà chủ yếu là sử dụng hai công cụ vay đơn và trái khoản Coupon.
2. Phân loại lãi suất
Nói chung lãi suất là giá cả của tiền hay giá cả của quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau người ta chia lãi suất thành các loại lãi suất khác nhau:
- Căn cứ vào giá trị thực tế của tài sản người ta có sự phân biệt giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa. Trong đó lãi suất danh nghĩa là mức lãi suất áp dụng tính đến sự gia tăng của giá cả hàng hoá hay tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực hay giá cả thực tế của tiền là lãi suất được đo bằng gía trị tài sản hay được đo bằng hàng hoá và dịch vụ, tức giá cả của tiền đã trừ đi yếu tố lạm phát. Nếu gọi r là lãi suất thực, i là lãi suất danh nghĩa, P là tỷ lệ lạm phát thì ta có r = i-P
- Căn cứ vào cách thức mà NHNN cấp vốn cho các NHTM có sự phân biệt giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn trong đó lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do NHNN áp dụng khi tái cấp vốn cho các NHTM (chủ yếu là các NHTMQĐ). Còn lãi suất tái chiết khấu là lãi suất áp dụng trong trường hợp NHNN cấp vốn cho các tổ chức tín dụng trên cơ sở chiết khấu các giấy tờ có giá.
- Căn cứ vào đối tượng sử dụng ta có sự phân biệt giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra; trong đó lãi suất đầu vào là lãi suất mà các tổ chức tái sử dụng khi huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư, lãi suất đầu ra là lãi suất mà các NHTM áp dụng khi cho vay hoặc đầu tư.
- Căn cứ vào thời hạn của các khoản vay ta có sự phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung và dài hạn
- Căn cứ vào cách thức trả lãi chúng ta có sự phân biệt giữa lãi suất đơn và lãi suất kép
- Căn cứ vào cơ chế quản lý lãi suất chúng ta có sự phân biệt giữa lãi suất cố định và lãi suất thay đổi. Trong đó lãi suất cố định là lãi suất áp dụng một cách thống nhất trên cơ sở có sự thương lượng từ đầu trong suốt thời gian tồn tại của khoản vay. Còn lãi suất thay đổi là lãi suất có thể được điều chỉnh theo các biến động của thị trường trong khoảng thời gian tồn tại của khoản vay.
3. Hình thái diễn biến của lãi suất:
ở phần này chúng ta sẽ xem xét lãi suất danh nghĩa được xác định như thế nào và những yếu tố ảnh hưởng đến hình thái diễn biến của nó (lãi suất thực được xác định bằng cách: lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát).
Có 2 lý thuyết xác định lãi suất:
Trước hết chúng ta xem xét lãi suất được xác định như thế nào trong khuân mẫu tiền vay bằng cách phân tích lượng cung và cầu trên thị trường trái khoán.
i*
i
Q*
Q
BD
BS
Tương tự phân tích cung cầu trên thị trường hàng hoá khi giá (P) của trái khoán tăng, lượng cầu giảm, lượng cung tăng lại làm cho lãi suất i giảm và ngược lại. Do đó, nếu xét trên một hệ trục toạ độ, trục tung là đường lãi suất tăng dần, trục hoành là số lượng trái khoán (R) tăng dần. Khi đó đượng cầu về trái khoán (BD ) có độ dốc đi lên, ngược lại đường cung (BS ) có độ dốc đi xuống và thị trường cân bằng tại BD = BS, tại đó xác định số lượng trái khoán được giao dịch B* và lãi suất thị trường được xác định là i* (đồ thị trên).
Tiếp theo chúng ta sẽ phân tích xem những yếu tố gì có thể tác động làm dịch chuyển đường cung và cầu về trái khoán.
- Các nhân tố làm dịch chuyển đường cầu bao gồm:
+ Của cải: Trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng với của cải tăng lên, đường cầu trái khoán tăng lên và đường cầu trái khoán dịch chuyển sang bên phải và ngược lại.
+ Lợi tức dự tính: lãi suất dự tính cao hơn trong tương lai thì lợi tức dự tính của trái khoán sẽ sút giảm, làm giảm nhu cầu về trái khoán dài hạn và dịch chuyển đường cầu về bên trái và ngược lại.
Một sự gia tăng trong mức lạm phát dự tính cũng sẽ làm giảm lợi tức dự tính do đó làm cho lượng cầu về trái khoán giảm xuống, đường cầu dich chuyển sang bên trái và ngược lại.
+ Rủi ro: Một sự gia tăng rủi ro của trái khoán làm cho lượng cầu về trái khoán giảm sút và đường cầu về trái khoán dịch chuyển sang bên trái. Ngược lại, một sự gia tăng tính rủi ro của những tài sản thay thế làm cho lượng cầu trái khoán tăng lên, đường cầu do đó dịch chuyển về bên phải.
+ Tính lỏng: Khi trái khoán được mua bán rễ ràng hơn, tính lỏng của nó sẽ tăng lên làm cho lượng cầu về trái khoán tăng lên và đường cầu dịch chuyển sang bên phải. Một cách tương tự, tính lỏng của các tài sản thay thế tăng lên làm giảm bớt lượng cầu trái khoán và dịch chuyển đường cầu về bên trái.
- Các yếu tố làm dịch chuyển đường cung trái khoán bao gồm:
+ Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư: Trong giai đoạn phát đạt của một chu kỳ kinh doanh, lượng cung trái khoán tăng lên và đường cung dịch chuyển về bên phải và ngược lại.
+ Lạm phát dự tính: Khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực của việc vay vốn giảm làm cho cung trái khoán tăng lên, đường cung dịch chuyển sang phải.
+ Hoạt động của chính phủ: Thâm hụt ngân sách của chính phủ lớn sẽ làm tăng lượng cung trái khoán và dịch chuyển đường cung sang phải.
- Những thay đổi lãi suất cân bằng: Từ sự phân tích trên, chúng ta thấy:
+ Khi lạm phát dự tính tăng lên sẽ làm cho BD giảm, BS tăng do đó lãi suất tăng lên và ngược lại. (mối quan hệ giữa lạm phát dự tính và lãi suất lần đầu tiên đã được nêu ra bởi nhà kinh tế học Ining FQher).
+ Giai đoạn phát triển của chu kỳ kinh doanh: Làm cho cơ hội đầu tư tăng lên, BS dịch chuyển sang phải, kết quả lãi suất tăng lên hay giảm xuống còn phụ thuộc vào BS hay BD tăng nhiều hơn.
i1
i
B1
B
BD1
BS2
i2
BD2
BS1
B2
Thực tế cho thấy BS thường tăng nhiều hơn bởi BS tăng lên mới làm cho của cải tăng lên, BD tăng lên sau. Vì vậy, trong giai đoạn phát triển của chu kỳ kinh doanh, nền kinh tế tăng trưởng nhanh thì thường kéo theo lãi suất tăng lên nhưng sau đó sẽ giảm xuống và ổn định dần.
Lý thuyết thứ 2: Khuôn mẫu ưa thích tiền mặt, phân tích lượng cung cầu trên thị trường tiền (do John Maynand Keynes xây dựng). Keynes cho rằng tài sản chủ yếu mà dân chúng dùng để dự trù của cải của họ là tiền và trái khoán. Do vậy, tổng của cải trong nền kinh tế bằng tổng trái khoán cộng với tiền cung ứng (BS + MS) và cũng bằng chính lượng cầu về trái khoán và tiền mà dân chúng lưu giữ (BD + MD) do đó ta có:
BS + MS = BD + MD
hay BS - BD = MS + MD
Nếu thị trường trái phiếu cân bằng BS = BD ị BS - BD = 0
ị MD - MS = 0 ị MD = MS
Tức là thị trường tiền tệ cũng cân bằng do đó lãi suất được xác định trên hai thị trường là tương đương nhau. Khác nhau của hai lý thuyết này là ở chỗ việc xác định lãi suất theo khuôn mẫu ưa thích tiền vay dễ sử dụng hơn khi phân tích những tác động do lạm phát dự tính và tăng trưởng. Còn khuôn mẫu ưa thích tiền mặt đem lại một sự phân tích đơn giản về tác động của thu nhập, mức giá và lượng cung ứng tiền.
- Cầu tiền tương quan nghịch đảo với lãi suất và nằm dốc xuống do chi phí cơ hội của việc không nắm giữ trái khoán thay thế là chứng khoán.
- Cầu tiền ổn định theo lãi suất bởi nó bị kiểm soát chủ quan của ngân hàng Trung ương.
i1
i
Q
M1D
i2
M
M2D
MS
- Những tác động làm thay đổi lãi suất:
+ Tác động của thu nhập: khi thu nhập tăng lên, dân chúng muốn nắm giữ thêm nhiều tiền (do các giao dịch về tiền tăng lên) do đó MD tăng lên và dịch chuyển sang phải làm lãi suất tăng lên và ngược lại.
+ Tác dụng của mức giá: khi mức giá tăng lên, dân chúng muốn nắm giữ tiền danh nghĩa lớn hơn để mua được cùng một lượng hàng hóa như trước. Do đó, MD tăng lên làm lãi suất tăng lên và ngược lại.
+ Hoạt động của Ngân hàng Trung ương làm tăng MS thì lãi suất giảm xuống và ngược lại. Tuy nhiên nếu xem xét một cách kỹ lưỡng và dài hạn hơn thì kết luận nêu trên chưa hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ chúng ta thấy việc tăng MS sẽ làm tăng tính lỏng ngay do đó lãi suất sẽ giảm ngay lập tức, nhưng còn các tác dụng khác khi tăng lượng tiền cung ứng đó là làm tăng lạm phát dự tính, tăng đầu tư và tăng thu nhập và sau một thời gian sẽ tác động làm tăng lãi suất. Vì vậy, việc tăng MS trong tức thời có thể làm giảm lãi suất do tính lỏng tăng lên, nhưng sau đó có thể làm tăng lãi suất do tác động của lạm phát dự tính và do tác dụng của thu nhập do đó khi sử dụng lượng tiền cung ứng để điều tiết lãi suất cần phải xem xét. Nếu tác dụng của tính lỏng lớn hơn tác dụng của thu nhập và lạm phát dự tính thì sẽ làm cho lãi suất giảm và ngược lại sẽ làm lãi suất tăng lên.
ở Việt Nam, việc tăng MS tác động làm tăng lãi suất bởi tác dụng tính lỏng của chúng cao hơn, trong khi sẽ làm tăng cao lạm phát dự tính và có tác dụng thu nhập do nền kinh tế đang tăng trưởng cao sẽ làm lãi suất tăng lên chứ không giảm xuống như kết luận chung ở trên.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:
Trong phần này chúng ta sẽ xem xét và giải thích tại sao các trái khoán có kỳ hạn khác nhau lại có lãi suất khác nhau và vì sao những trái khoán có cùng kỳ hạn cũng có lãi suất khác nhau? Lý thuyết giải thích các hiện tượng này được gọi là "Cấu trúc rủi ro và cấu trúc kỳ hạn của lãi suất" sẽ góp phần tạo lên một bức tranh hoàn hảo về hình thái diễn biến của lãi suất.
4.1. Cấu trúc rủi ro của lãi suất
Những trái khoán có cùng kỳ hạn thanh toán có mức lãi suất khác nhau, tính tương quan giữa các loại lãi suất này được gọi là cấu trúc rủi ro của lãi suất. Có 3 yếu tố cơ bản gây ra hiện tượng này:
- Rủi ro vỡ nợ: là rủi ro do khả năng có thể người phát hành trái khoán sẽ vỡ nợ tức là không thể thực hiện được việc thanh toán tiền lãi hoặc mệnh giá khi các trái khoán đó mãn hạn.
Các trái khoán hay tiền gửi có mức rủi ro khác nhau do đó lãi suất của chúng khác nhau. Khoảng cách giữa lãi suất của một trái khoán có rủi ro và mức lãi suất của trái phiếu không có rủi ro được gọi là mức bù rủi ro. Trái khoán có mức rủi ro càng cao thì mức bù rủi ro càng cao. Trái khoán chính phủ được gọi là loại không có rủi ro bởi lẽ rất ít khi chính phủ mất khả năng thanh toán.
Q
i
i1 C
i
Q
i2 C
D2C
SC
D1C
i1df
i2df
Mức bù trừ rủi ro
Thị trường chứng khoán chính phủ
Thị trường chứng khoán công ty
Giả sử ban đầu trái khoán công ty và trái khoán chính phủ có cùng những thuộc tính như nhau (rủi ro và hạn kỳ thanh toán như nhau) khi đó mức lãi suất cân bằng trên 2 thị trường bằng nhau (i1C = i1df). Một sự tăng rủi ro vỡ nợ của trái khoán công ty sẽ làm giảm lượng cầu từ D1C đến D2C đồng thời làm tăng lượng cầu của những trái khoán không có rủi ro vỡ nợ từ D1df đ D2df . Mức lãi suất cân bằng của thị trường trái khoán công ty tăng từ i1C đ i2C trong khi đó lãi suất cân bằng của thị trường trái khoán không có rủi ro giảm từ i1df đ i2df . Mức bù rủi ro của trái khoán công ty là (i2C - i2df).
- Tính lỏng: tính lỏng của một tài sản là khả năng tài sản đó có thể chuyển đổi thành tiền mặt một cách nhanh chóng và ít tốn kém khi nhu cầu chuyển đổi nảy sinh. Trong điều kiện các yếu tố khác được giữ ngang bằng, một tài sản càng lỏng thì càng được ưa chuộng; Cầu về tài sản đó tăng lên, lãi suất của trái khoán đó càng thấp hơn so với các trái khoán khác. Trái khoán của chính phủ là loại lỏng nhất. Tương tự như rủi ro vỡ nợ, sự chênh lệch về lãi suất của các loại tài sản có tính lỏng khác nhau (các điều kiện khác ngang bằng) được gọi là "mức bù tính lỏng" và đôi khi chúng được gọi chung là "mức bù rủi ro".
- Tình hình thuế thu nhập: đối với các khoản thu nhập lãi của người nắm giữ trái khoán khác nhau làm cho lợi tức sau thuế của những người nắm giữ trái khoán có sự thay đổi dẫn đến sự thay đổi trong lượng cầu và lãi suất của các trái khoán đó. Chẳng hạn trái khoán A có lãi suất 10% và thuế thu nhập tiền lãi là 30%, lãi suất sau thuế của nó là 7%. Trong khi đó trái khoán B có lãi suất là 8% và không phải chịu thuế thu nhập từ tiền lãi, lãi suất thực tế của trái khoán B vẫn là 8% như vậy trái khoán B vẫn được ưa chuộng hơn bởi lãi suất sau thuế của nó cao hơn và tính lỏng kém hơn.
4.2. Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất:
Phần này chúng ta xem xét tại sao các loại trái khoán hay tiền gửi có kỳ hạn khác nhau thì khác nhau về và thông thường thì các mức lãi suất này thay đổi liên quan với nhau và lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn dài hạn. Những trái khoán có cùng đặc tính về rủi ro, tính lỏng và thuế có thể có những lãi suất khác nhau và kỳ hạn thanh toán khác nhau. Giải thích điều này liên quan đến 3 giả thuyết.
- Giả thuyết về dự tính cho rằng lãi suất của một trái khoán dài hạn bằng trung bình của các lãi suất ngắn hạn mà dân chúng dự tính trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn.
Hay nói cách khác lãi suất n giai đoạn bằng trung bình của các lãi suất mỗi giai đoạn dự tính diễn ra trong quá trình tồn tại n giai đoạn của trái khoán này. Giả thuyết này cho rằng các trái khoán có kỳ hạn khác nhau thì có thể thay thế hoàn hảo với nhau do vậy việc mua một trái khoán dài hạn hay nhiều trái khoán ngắn hạn là không ảnh hưởng gì đến lợi tức dự tính. Lãi suất dài hạn cao hơn lãi suất ngắn hạn là do mức lãi suất ngắn hạn dự tính cao hơn trong tương lai do đó bình quân của các lãi suất ngắn hạn này cao. Lãi suất có kỳ hạn khác nhau thì có liên quan chặt chẽ với nhau.
- Lý thuyết thị trường phân cách cho rằng những trái khoán với kỳ hạn khác nhau hoàn toàn không phải là những thứ có thể thay đổi cho nhau. Do đó, lợi tức dự tính khi nắm giữ một trái khoán có một kỳ hạn nào đó sẽ không tác dụng gì đến lượng cầu trái khoán có kỳ hạn khác. lý thuyết thị trường phân cách này hoàn toàn đối lập với giả thuyết về dự tính. Lý thuyết này giải thích lãi suất của trái khoán dài hạn cao hơn vì cầu của nó cao hơn loại ngắn hạn và đường cong lãi suất có xu hướng dốc lên nhưng lại không giải thích được tại sao lãi suất các kỳ hạn khác nhau lại có những diễn biến theo nhau.
- Lý thuyết môi trường ưu tiên cho rằng lãi suất của một trái khoán dài hạn sẽ bằng trung bình của những lãi suất ngắn hạn được trong đợi trong thời gian tồn tại của trái khoán dài hạn đó cộng với một mức bù hạn kỳ, mức bù này ứng với điều kiện cung cầu của trái khoán đó. Lý thuyết này thừa nhận rằng những trái khoán có kỳ hạn thanh toán khác nhau là những thứ thay thế cho nhau.
knt là mức bù kỳ hạn cho trái khoán n giai đoạn tại thời điểm t. Đây là phần thưởng cho các nhà đầu tư khi họ chuyển từ trái khoán có kỳ hạn ưu tiên sang nắm giữ các trái khoán kỳ hạn khác.
Lý thuyết này thể hiện sự đúng đắn của 2 lý thuyết trên và loại bỏ những mâu thuẫn và nhược điểm giữa chúng. Nó giải thích:
+ Lãi suất ngắn hạn liên quan đến dài hạn: một sự tăng lên lãi suất ngắn hạn sẽ làm cho lãi suất dài hạn tăng lên.
+ Lãi suất dài hạn thường cao hơn lãi suất ngắn hạn do có thêm mức bù kỳ hạn dương.
+ Khi lãi suất ngắn hạn thấp thì lãi suất thường đồng biến với kỳ hạn. Ngược lại, lãi suất ngắn hạn cao, lãi suất có thể diễn biến nghịch biến với kỳ hạn. Vì khi lãi suất ngắn hạn cao dân chúng sẽ có tâm lý rằng lãi suất sẽ giảm trong tương lai do vậy, mức trung bình của nó kể cả thêm phần bù kỳ hạn có thể thấp hơn lãi suất ngắn hạn và ngược lại.
Sử dụng lý thuyết này có thể giải thích nguyên nhân tại sao lãi suất dài hạn tại Việt Nam chúng ta nhiều khi ở mức thấp hơn so với lãi suất ngắn hạn mặc dù nhu cầu về vốn trung dài hạn vẫn rất cao. Bởi có thể dân chúng và các ngân hàng sẽ dự tính lãi suất ngắn hạn trong tương lai còn giảm đặc biệt là sau những lần điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Mặc khác có thể mức rủi ro của loại này quá cao khiến cho cung trái khoán (hay cầu về vốn) quá thấp đồng thời cầu về trái khoán (cung về vốn) của loại này cũng thấp.
lãi suất dài hạn
lãi suất ngắn hạn
Bs
BD1
BD
BD
i+Di
i
4.3. Ngoài ra lãi suất còn chịu tác động bởi các yếu tố khác đó là các thuộc tính về chính trị và sự ổn định của đồng tiền.
Các trái phiếu bằng đồng tiền của một nước nhưng có thể phát hành bằng đồng tiền của nhiều nước khác nhau. Vì vậy, có sự khác nhau về lãi suất của cùng loại trái phiếu đó. Vì các nhà đầu tư có thể nghĩ rằng chính quyền của mỗi nước có thể áp dụng những biện pháp về kiểm soát ngoại hối hay hạn chế sự tái nhập vốn từ một trung tâm tài chính nước ngoài khác nhau hoặc những biến động nào đó về nội các chính phủ có thể đưa lại những thay đổi trong chính sách tài chínhh tiền tệ. Trong những trường hợp như vậy, các nhà đầu tư có thể gặp rủi ro về chính trị.
Lãi suất còn chịu tác động bởi các thuộc tính về đồng tiền. Thị trường chứng khoán trong điều kiện kinh tế mở có sự giao lưu về vốn giữa các quốc gia. Trên thị trường xuất hiện những chứng khoán qui định việc trả lãi và vốn bằng các đồng tiền khác nhau dẫn đến lãi suất của các loại chứng khoán đó khác nhau. Chẳng hạn nhà đầu tư nếu dự kiến đồng USD sẽ xuống giá so với VNĐ họ sẽ đòi hỏi lãi suất cao hơn đối với các chứng khoán mua bằngb USD nhằm bù đắp những thua lỗ mà họ phải gánh chịu khi nắm giữ các chứng khoán đó. Nếu tỉ suất giảm giá của đồng USD càng cao thì lãi suất của trái khoán ghi bằng USD càng cao so với lãi suất của trái khoán ghi bằng VNĐ. Trong trường hợp các nhà đầu tư dự kiến tỷ lệ lạm phát của đồng VNĐ tăng nhanh hơn so với tỷ lệ lạm phát của các đồng tiền khác như USD, Yên Nhật... thì lãi suất yêu cầu của chứng khoán ghi bằng VNĐ sẽ tăng lên vì họ cho rằng lạm phát sẽ làm cho VNĐ mất giá trên thị trường hối đoái và do đó họ sẽ đòi hỏi khoản bù đắp về sự thay đổi đó.
Ngoài ra, chênh lệch về lãi suất của các trái phiếu tương tự bằng các loại ngoại tệ còn bao gồm một khoản "hoa hồng" về sự rủi ro. Nếu các nhà đầu tư cảm thấy các chứng khoán bằng một đồng tiền nào đó là không ổn định hơn trên thị trường hối đoái, họ có thể đòi hỏi một khoản "hoa hồng" để nắm giữ chứng khoán lập bằng đồng tiền đó như là sự bù đắp cho sự rủi ro lớn hơn.
II. Vai trò của chính sách lãi suất.
Như đã nêu ở phần đầu, chúng ta thấy lãi suất có một vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong nền kinh tế, mỗi một sự thay đổi của lãi suất đều kéo theo sự thay đổi của các hoạt động kinh tế như tiết kiệm, đầu tư, xuất nhập khẩu... và do đó sẽ tác động đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng khác như lạm phát, tăng trưởng hay mức hữu nghiệp... ở phần này, chúng ta sẽ xem xét vai trò của lãi suất đối với một số hoạt động của nền kinh tế.
Trong việc phân tích của Keynes cách thứ nhất mà lãi suất ảnh hưởng đến tổng sản phẩm là thông qua ảnh hưởng của lãi suất đến chi tiêu đầu tư có kế hoạch và xuất khẩu ròng.
Sau khi giải thích tại sao lãi suất ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư có kế hoạch ta sẽ sử dụng sơ đồ của Keynes để hiểu lãi suất tác động đến tổng sản phẩm như thế nào.
1. Lãi suất và khuynh hướng chi tiêu đầu tư trong nền kinh tế.
Các nhà doanh nghiệp và cá nhân bao giờ cũng tìm đến nơi nào mà mức lãi suất thấp và an toàn, nghĩa là ở đâu có chi phí vốn là rẻ nhất. Khi lãi suất thấp, thường các hãng hoạt động muốn đầu tư vào vốn, tài sản (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...) khi mà họ dự tính thu được từ vốn đầu tư vào sản xuất những khoản lợi nhuận lớn hơn là cho vay thu lãi suất thấp. Hay nói cách khác, khi lãi suất xuống thấp thì vốn đầu tư vào sản xuất có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn chi phí trả lãi vay. Do vậy, khi lãi suất xuống thấp sẽ có nhiều dự án đầu tư hơn được thực hiện, chi tiêu đầu tư tăng lên. Thậm chí ngay cả khi một công ty có dư thừa vốn và không muốn đầu tư vào sản xuất thì chi tiêu cho đầu tư vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất thay vì đầu tư mở rộng sản xuất công ty có thể đầu tư vào các tài sản tài chính khác như trái khoán chẳng hạn. Nếu lãi suất của các trái khoán cao thì chi phí cơ hội của việc giữ tiền hay đầu tư vào sản xuất sẽ cao do đó các doanh nghiệp thích đầu tư vào trái khoán hơn.
Chi tiêu đầu tư kể cả đầu tư cơ bản (vốn cố định) và vốn luân chuyển (hàng tồn kho) đều có mối quan hệ mật thiết với lãi suất. Các dự án đầu tư phải thu được lợi nhuận và bù đắp được chi phí cơ hội của vốn bỏ ra. Lãi suất càng thấp thì càng có nhiều dự án đầu tư có khả năng mang lại lợi nhuận do đó chi tiêu đầu tư sẽ tăng. Đường cầu đầu tư đi xuống biểu thị lợi ích biên của chi tiêu đầu tư.
Mối quan hệ giữa số tiền chi tiêu đầu tư có kế hoạch với bất kỳ một mức lãi suất nào được minh hoạ bằng đường biểu diễn đầu tư trong hình dưới đây:
i
i3
i2
i1
I3 I2 I1 I
Chỉ tiêu đầu tư có kế hoạch
Đường nghiêng xuống dưới biểu diễn mối quan hệ nghịch giữa chỉ tiêu đầu tư có kế hoạch với lãi suất. Với một mức lãi suất thấp i1 thì mức chi tiêu đầu tư có kế hoạch I1 là cao, ngược lại, với mức lãi suất i3 cao thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch I3 lại thấp.
Khi Ngân hàng Trung ương tăng mức cung tiền tệ thì lãi suất có xu hướng giảm và tín dụng trở lên dồi dào hơn, kết quả là việc thực hiện những dự án đầu tư mới có lợi hơn do đó vốn đầu tư tăng. Điều này làm tăng mức tổng cầu trong nền kinh tế và tăng sản lượng và giá cả. Mối quan hệ trên có thể được mô tả một cách đơn giản theo trình tự sau:
Cung tiền (M) tăng đ lãi suất (i) giảm đ Đầu tư (I) tăng đ tổng cầu (AD) tăng đ GNP và giá cả (P) tăng.
Khi Ngân hàng Trung ương thu hẹp mức cung tiền tệ (thông qua hoạt động của thị trường mở) sẽ đẩy lãi suất lên. Việc làm này làm giảm lượng đầu tư và thông qua hệ số nhân làm giảm tổng cầu do đó làm giảm tổng thu nhập quốc dân và giá cả. Có thể nói việc giữ lãi suất thấp sẽ đẩy mạnh được đầu tư cho sản xuất, là cơ hội đẩy mạnh qui mô sản xuất của nền kinh tế.
2. Tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu:
Lãi suất có tác động rất quan trọng đến hoạt động kinh tế đối ngoại của một quốc gia đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Khi lãi suất thực của đồng nội tệ tăng lên thì các khoản tiền gửi bằng đồng nội tệ trở lên hấp dẫn hơn so với tiền gửi bằng ngoại tệ, do đó làm cho giá trị của tiền gửi nội tệ hay cầu về đồng nội tệ tăng lên nghĩa là tỷ giá hối đoái tăng lên. Giá trị cao hơn của đồng nội tệ do kết quả của việc lãi suất thực tế tăng lên làm cho hàng hoá trong nước trở lên đắt hơn hàng ngoại do đó làm giảm xuất khẩu ròng .Vì vậy, khi lãi suất tăng lên thì giá trị của đồng nội tệ tăng lên và hàng nội trở lên đắt hơn và xuất khẩu giảm xuống. Mối tương quan tỉ lệ nghịch giữa lãi suất và xuất khẩu ròng được miêu tả trong hình dưới: Với một mức lãi suất thấp i1, tỷ giá là thấp và xuất khẩu ròng là cao. Với một mức lãi suất cao i3 thì tỷ giá là cao và xuất khẩu ròng NX3 là thấp.
i
i3
i2
i1
NX3 NX2 NX1 Xuất khẩu ròng
Đường xuất khẩu ròngròng
lãi suất
3. Hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước thông qua phân tích mô hình IS - LM của Keynes:
3
2
1
Y=Yad
Yad1
Yad2
Yad3
(H1)
Y3 Y2 Y1 Tổng sp
450
lãi suất i
i3
i2
i1
3
2
1
(H2)
Đường IS
Y3 Y2 Y1 Tổng sp
Như vậy chúng ta đã xem xét mối quan hệ giữa lãi suất với chi tiêu đầu tư có kế hoạch và xuất khẩu ròng, ta thấy rằng giữa chúng có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau. Khi lãi suất tăng thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch và xuất khẩu ròng đều giảm do đó tổng cầu sẽ giảm.
Mô hình đường chéo của Keynes cho chúng ta thấy rằng ở mức lãi suất thấp i1 có mức chi tiêu theo kế hoạch (I1) và xuất khẩu ròng (NX1) là cao nhất do vậy tổng cầu (Y1ad = I1 + NX1 + G + C) là cao nhất. Điểm 1 trong hình 2 chỉ ra mức thăng bằng của sản phẩm Y1 nó tương đương với mức lãi suất i1 . Khi lãi suất tăng lên đến i2 thì cả chi tiêu đầu tư và xuất khẩu ròng đều giảm do có sản phẩm thăng bằng giảm đến Y2 .
Đường thẳng nối liền các điểm tại đó có sự kết hợp giữa lãi suất và tổng sản phẩm thăng bằng được gọi là đường IS. Đường này có độ dốc đi xuống cho chúng ta biết rằng với một mức lãi suất cao hơn sẽ dẫn đến chi tiêu đầu tư có kế hoạch và xuất khẩu ròng thấp hơn và từ đó tổng sản phẩm thăng bằng sẽ thấp hơn (đường chéo 450 trong hình 1 là tập hợp các điểm mà tại đó tổng sản phẩm sản xuất ra bằng tổng cầu Y = Yad ).
Mô hình phân tích ở trên có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó chỉ ra cho chúng ta biết mức sản phẩm sản xuất ra phải hướng về đâu để đạt được sự thăng bằng trên thị trường hàng hoá (tổng sản phẩm = tổng cầu) tại mỗi một mức lãi suất nhất định. Tuy nhiên khó khăn của chúng ta là lãi suất thăng bằng lại được xác định trên một thị trường khác đó là thị trường tiền tệ. Chúng ta sẽ hoàn thiện mô hình này bằng việc xem xét lãi suất cân bằng và tổng sản phẩm cân bằng được xác định như thế nào?
Trên thị trường tiền tệ với mỗi mức cung tiền nhất định do Ngân hàng Trung ương qui định). Bất cứ yếu tố gì chẳng hạn như thu nhập tăng lên sẽ làm cho cầu về tiền tăng lên và do đó lãi suất cân bằng sẽ tăng lên và ngược lại.
-
-
-
-
-
-
I3
I2
I1
I3
I2
I1
lãi suất i
lãi suất ._.i
Đường LM
3
2
1
1
2
3
A
B
Md3
Md2
Md1
M
Y1 Y2 Y3 tổng sản phẩm Y
(Đường cầu tiền dốc xuống bởi mức lãi suất thấp chi phí cơ hội của việc gửi tiền là thấp do đó câù tìên sẽ tăng).
Mô hình trên cho chúng ta thấy mức sản lượng là y1 thì đường cong cầu tiền tệ là Md1 thăng bằng trên thị trường tiền tệ đạt được tại điểm 1. Khi tổng sản phẩm đạt được mức cao hơn y2 thì đường cong cầu tiền dịch chuyển đến Md2 tức là (y2). Tương tự với mức tổng sản phẩm cao hơn y3 đường cong cầu tiền dịch chuyển đến Md3. Theo thứ tự mức lãi suất cần bằng đạt được ở mức cao hơn c2 và c3. Bởi vì mức sản phẩm cao hơn có nghĩa là tại bất kỳ mức lãi suất đã cho nào thì cầu về tiền tệ cũng cao hơn.
Tập hợp tất cả các điểm từ đó có sự kết hợp giữa sản phẩm và lãi suất cân bằng của thị trường tiền tệ cho ta đường cong LM. Đường LM có một vai trò quan trọng, nó cho chúng ta biết lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ sẽ hướng về đâu khi nền kinh tế ở trạng thái mất cân bằng.
Chẳng hạn từ điểm A, lãi suất ở trên mức cân bằng cho chúng ta biết dân chúng đang nắm giữ nhiều tiền hơn là họ muốn và do đó để loại bỏ số tiền vượt quá của mình, họ sẽ mua trái khoán làm cho giá trái khoán tăng và lãi suất giảm xuống, hướng đến các điểm thăng bằng trên đường LM.
Như vậy, chúng ta đã xem xét thị trường hàng hoá và thị trường tiền tệ đạt được sự cân bằng như thế nào. Thông qua các đường cong IS và LM để biết được các thị trường này thống nhất với nhau như thế nào nhằm đạt được sự cân đối của các chỉ tiêu. Vì vậy chúng ta phải đặt các đường cong IS, LM trên cùng một đồ thị
LM
B
E
A
lãi suất i
Tổng sản phẩm Y
i*
y*
Điểm duy nhất mà tại đó thị trường hàng hoá và thị trường tiền tệ cùng thăng bằng là điểm cắt nhau của đường IS và LM, đó là điểm E tại đây tổng sản phẩm bằng tổng cầu (Y = Yad) và lượng tiền được yêu cầu bằng lượng tiền được cung ứng (trên đường LM).
Tại bất kỳ điểm nào khác (ngoài điểm E) thì ít nhất một trong các điều kiện thăng bằng đó không được thoả mãn và các lực lượng thị trường sẽ vận động để hướng nền kinh tế về mức thăng bằng (điểm E). Chẳng hạn như tại điểm A, điểm này nằm trên đường IS nhưng lại không nằm trên đường LM. do đó, mặc dù thị trường hàng hoá đạt được mức thăng bằng (tổng sản phẩm bằng tổng cầu) nhưng lãi suất lại nằm trên mức thăng bằng của nó do vậy cầu tiền tệ ít hơn cung tiền tệ, vì dân chúng có nhiều tiền hơn là họ muốn giữ, nên họ tìm cách loại bỏ tiền đi bằng cách mua trái khoán. Kết quả giá trái khoán tăng lên làm lãi suất giảm xuống, lãi suất giảm làm cho chi tiêu đầu tư có kế hoạch, xuất khẩu ròng tăng lên và như vậy tổng sản phẩm tăng lên. Nền kinh tế lúc này chuyển động dọc xuống đường IS, quá trình này được kéo dài cho đến khi lãi suất giảm đến mức i* và tổng sản phẩm tăng lên đến Y*, nghĩa là cho đến khi nền kinh tế thăng bằng tại điểm E.
Nếu nền kinh tế nằm trên đường LM mà không nằm trên đường IS, tại điểm B thì nó cũng hướng đến sự thăng bằng tại điểm E. Tại điểm B mặc dù cầu tiền bằng cung tiền, nhưng sản phẩm lại cao hơn mức thăng bằng và vượt quá tổng cầu. Các doanh nghiệp như vậy không có khả năng bán các sản phẩm của mình và tồn kho không có kế hoạch, bị tích dồn lại, thúc đẩy các hãng cắt giảm hạ thấp lương sản phẩm. Sự giảm sản phẩm có nghĩa là cầu tiền tệ sẽ giảm làm cho lãi suất sẽ hạ xuống. Do vậy, nền kinh tế vận động dọc xuống theo đường LM, cho đến khi nó đạt điểm thăng bằng E.
Như vậy, mô hình IS - LM của Keynes không chỉ giúp chúng ta thấy được mối quan hệ giữa lãi suất với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác như tổng cầu (đầu tư theo kế hoạch và xuất khẩu ròng), tăng trưởng kinh tế (tổng sản phẩm sản xuất ra) mà nó còn giúp cho các nhà hoạch định chính sách thấy được nền kinh tế đang ở trong trạng thái nào cân bằng hay mất cân bằng, trên cơ sở đó đưa ra chính sách và biện pháp thích hợp nhằm điều chỉnh nền kinh tế đạt các mục tiêu đã đề ra trong mỗi thời kỳ nhất định như lạm phát, tăng trưởng và mức độ sử dụng nhân công.
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển vì vậy tăng trưởng kinh tế cao và ổn định được xem là mục tiêu quan trọng của các nhà hoạch định chính sách vì vậy lãi suất còn được duy trì ở mức thấp nhằm khuyến khích đầu tư, khai thác ở mức tối đa các tiềm lực hiện có để đạt được mục tiêu tận dụng nhân công và tăng trưởng kinh tế.
4. Lãi suất với ổn định giá trị đồng tiền và kiềm chế lạm phát.
Trong mô hình phân tích của Keynes ông ta giả định rằng giá cả của hàng hoá là không thể thay đổi hay nói cách khác là sẽ không có sự gia tăng của lạm phát. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta thấy rằng khi lãi suất hạ xuống thấp, chi tiêu cho đầu tư có kế hoạch và xuất khẩu ròng sẽ tăng lên làm cho tổng cầu tăng và do đó giá cả hàng hoá và dịch vụ cũng sẽ tăng theo tức là có sự gia tăng của lạm phát. Thực tế cho thấy một nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao thì lạm phát cũng ở mức cao và đồng tiền trở nên kém giá trị hơn trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Chính vì vậy các nhà hoạch định chính sách luôn phải đối mặt với những khó khăn trong việc lựa chọn giữa tăng trưởng và lạm phát. Mục tiêu này gần như đối lập hoàn toàn với nhau, bởi nếu theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao thì lạm phát cũng sẽ gia tăng, đồng tiền trở nên mất giá trị. Ngược lại, nếu theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định gía trị đồng tiền thì gắn liền với nó là sự suy giảm trong mức tăng trưởng kinh tế. Bởi vậy, thực thi một chính sách lãi suất như thế nào để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa duy trì sự ổn định của giá trị đồng tiền là một vấn đề hết sức khó khăn đối với những người hoạch định chính sách, đặc biệt là ở một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ khác nhau chính sách các quốc gia khác nhau, tuỳ thuộc vào việc ưu tiên cho mục tiêu nào hơn, chính sách lãi suất sẽ được điều chỉnh để hướng vào thực hiện mục tiêu áy. Chẳng hạn như ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tăng trưởng kinh tế cao và ổn định được xem là mục tiêu ưu tiên hơn cả. Chính vì vậy lãi suất được điều chỉnh thấp xuống và chúng ta phải chấp nhận một sự gia tăng nhất định tỷ lệ lạm phát.Dù sao đi nữa lãi suất cũng được coi là một công cụ bậc nhất để chống lạm phát có hiệu quả biểu hiện rõ nhất mà chúng ta thấy đó là việc thi hành Quyết định số 29/NHQĐ ngày 16 tháng 3 năm 1991 nâng lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng là 12% và không kỳ hạn là 9%. Với mức lãi suất đó lần đầu tiên sau 20 năm các Ngân hàng nước ta bội chi tiền mặt, nay có bội thu, lạm phát từ trên 300%/năm của năm 1990 và những tháng đầu năm 1991 giảm xuống dưới không trong tháng 5, 6 năm 1991. Những năm tiếp theo và cho đến nay lãi suất vẫn là công cụ quan trọng để kiềm chế và đẩy lùi lạm phát.
Chương II
Thực trạng xây dựng và quản lý chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua và ảnh hưởng của nó đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội.
I. Tình hình thực hiện chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua
Giai đoạn từ 1988 đến nay là giai đoạn chứa đựng nhiều bước ngặt lịch sử của nền kinh tế Việt Nam. Chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước, hoạt động của hệ thống Ngân hàng cũng có nhiều đổi mới từ khi có hai pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước năm 1992, nền kinh tế có nhiều chuyển biến mới và chính sách lãi suất có nhiều thay đổi cho phù hợp điều kiện kinh tế đất nước và thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, đây là quá trình đổi mới đầy phức tạp. Để thấy được những bước chuyển biến đó chúng ta xem xét diễn biến của lãi suất qua ba giai đoạn với những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế cho mỗi giai đoạn.
1. Giai đoạn từ 1988 - 1990
Có thể nói giai đoạn này được bắt đầu từ khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, quốc hội khoá V năm 1987, trong đó nêu rõ: "Xoá bỏ triệt để quan liêu bao cấp trong giá lương, tiền là một yêu cầu hết sức cấp bách, là khâu đột phá có tính chất Quyết định, đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị trường, ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân lao động, thay đổi toàn bộ cơ chế quản lý ..."
Đây được coi là mốc lịch sử quan trọng trong việc thực hiện chính sách kinh tế nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng được tính từ năm 1988 đến nay: Giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô cuả Nhà nước.
Trong giai đoạn này hai pháp lệnh Ngân hàng chưa ra đời,thực hiện quản lý và kinh doanh tiền tệ đều do Ngân hàng Nhà nước qui định và đang chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế bao cấp, các Ngân hàng Nhà nước chủ yếu thực hiện chức năng nhận tiền gửi và đều chuyển cho vay theo mức lãi suất chỉ định của Nhà nước. Tuy nhiên, hệ thống Ngân hàng một cấp này bắt đầu có những điều chỉnh về lãi suất trên thị trường nhằm tạo một mức lãi suất phù hợp hơn.
Ngày 26 tháng 10 năm 1988 . Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định 85/NHQĐ, căn cứ Quyết định 111/QĐ-HĐBT về nâng lãi suất tín dụng, đã qui định về mức lãi suất tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với nền kinh tế như sau:
Biểu 1:
Nội dung
Lãi suất (%)
A. Lãi suất tiền gửi.
I. Gửi tiết kiệm.
1. Tiết kiệm không kỳ hạn
2. Tiết kiệm định mức
3. Tiết kiệm có kỳ hạn 3 - 5 năm
4. Tiết kiệm có kỳ hạn lớn hơn 5 năm
5. Tiết kiệm có mục đích
II. Tiền gửi của các TCKT và cơ quan
1. Tổ chức kinh tế quốc doanh
2. Tiền gửi của xí nghiệp quốc doanh
3. Hợp tác xã và các tập đoàn sản xuất.
4. Cơ quan đoàn thể.
5. Tư doanh cá nhân.
B. Lãi suất cho vay.
I. Đối với xí nghiệp quốc doanh.
1. Cho vay trong định mức VLĐ-XN nông nghiệp
2. Cho vay trong định mức VLĐ-XN thương nghiệp
3.Cho vay trong định mức VLĐ-XN Lâm nghiệp
4. Cho vay thanh toán.
II. Đối với kinh tế tập thể.
1. Cho vay vốn lưu động HTX Nông nghiệp.
2. Cho vay vốn cố định HTX Nông nghiệp.
III. Tư doanh cá thể.
1. Vốn lưu động:
- Kinh doanh hộ gia đình
- Tư doanh vận tải.
2. Vốn cố định.
- Với cán bộ công nhân viên.
- Tư doanh, tiểu thủ công nghiệp
1,00
1,00
1,50
2,00
0,10
0,15
0,21
0,39
0,54
0,69
0,54
0,06
0,54
0,24
0,51
0,29
1,00
3,00
0,06
1,20
Tiếp theo sau Quyết định 85/NHQĐ là Quyết định số 68/NHQĐ của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 2 tháng 7 năm 1989, căn cứ theo Quyết định số 99/HĐBT ra ngày 28 tháng 6 năm 1989 như sau:
Biểu 2.
Nội dung
Lãi suất áp dụng % tháng
I. Tiền gửi
1. Tiền gửi tiết kiệm
2. Tiền gửi các tổ chức KTQD
3. Tiền gửi của tập thể, cơ quan
II. Cho vay
1. Cho vay trong hạn mức của KTQD
2. Cho vay ngoài hạn mức của KTQD
3. Cho vay tập thể
4. Cho vay các đối tượng khác
5. Cho vay vốn cố định
6. Lãi suất nợ quá hạn
2,40
0,90 - 1,50
1,80
2,40 - 3,00
3,60 - 5,10
2,70 - 4,20
5,10 - 7,90
2,10 - 3,90
15,0 - 21,0
Ngày 23/11/1989 Ngân hàng Nhà nước đã ra Quyết định điều chỉnh hạ thấp một số mức lãi suất:
- Lãi suất tiền gửi còn: 0,90 - 1,80%/tháng
- Lãi suất cho vay cố định: 1,50%/tháng
- Lãi suất cho vay vốn lưu động 1,80%/tháng
Qua một số lần điều chỉnh lãi suất chúng ta thấy, trong giai đoạn này, nền kinh tế nói chung, ngành Ngân hàng và chính sách lãi suất nói riêng có những đặc trưng cơ bản đó là: Mới bước sang thời kỳ đổi mới, do nền kinh tế cũng như ngành Ngân hàng còn mang nặng tính tập trung, áp đặt, bao cấp. Ngành Ngân hàng chưa phải là một ngành kinh doanh tiền tệ, nó chỉ thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ do nhà nước giao. Trong chính sách lãi suất, điều này được thể hiện qua các biểu lãi suất và các lần điều chỉnh như sau:
Nhà nước còn áp đặt một cách tuyệt đối các mức lãi suất tiền gửi cũng như cho vay khiến cho mất cân đối cung cầu về tiền, cũng như trong việc huy động cho vay.
Lãi suất được phân ra quá nhiều mức khác nhau cho các đối tượng khác nhau, về mặt tích cực có thể ưu tiên ngành này, phát triển ngành kia. Nhưng mặt khác sẽ gây mất cân bằng, mất cân đối trong cơ cấu ngành bởi vì những ngành yếu kém được ưu tiên sẽ tiếp tục yếu kém. Ngược lại những ngành đang phát triển có thể bị chững lại vì lãi suất vay Ngân hàng qúa cao.
Nền kinh tế đang trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng sản xuất kinh doanh đình đốn, đặc biệt là lạm phát tăng vọt (15 - 20%/tháng) do một số nguyên nhân:
- Thay đổi chính sách kinh tế - xã hội đổi tiền sau năm 1988 đã làm cho đồng VN mất giá nghiêm trọng.
-Nạn đầu cơ trong dân chúng gia tăng, bởi vì lạm phát quá cao, không ai dại gì mà gửi tiền vào Ngân hàng vì lãi suất không thể bù lỗ do tiền trượt giá quá nhanh. Thực tế ở giai đoạn này tổng tiền gửi vào Ngân hàng chỉ đạt 20 tỉ VNĐ còn lại đa số cá nhân và các tổ chức kinh tế chuyển sang dự trữ bằng vàng, ngoại tệ, mua vật tư hàng hoá hoặc quay vốn ngoài hệ thống Ngân hàng.
- Sản xuất kinh doanh đình đốn, tổng cung giảm. Nạn đầu cơ tăng làm cho giá cả về hàng hoá tăng, tổng cầu tăng làm cho giá cả hàng hoá tiếp tục tăng vọt.
Vì những lý do đó, lãi suất trong giai đoạn này lâm vào một tình trạng chung là: tất cả các chủ thể tham gia quan hệ tài sản bao gồm người gửi tiền, Ngân hàng và doanh nghiệp vay tiền đều bị lỗ. Những khoản lỗ này được Nhà nước bù lỗ cho ngành Ngân hàng bằng cách in thêm tiền và vay nợ nước ngoài khiến cho tình trạng càng khó khăn hơn.
- Người gửi tiền lỗ do lãi suất thực âm, lạm phát quá cao, lãi suất danh nghĩa không thể bù đắp nổi dù cho Ngân hàng đã nâng lên ở lần điều chỉnh thứ hai.
- Hoạt động Ngân hàng bị lỗ do Ngân hàng không thể phát huy được chức năng huy động và cung ứng vốn tích cực cho nền kinh tế. Một thời gian dài, ngành Ngân hàng chìm trong cảnh nhà nước bao cấp về tín dụng đồng thời áp đặt các mức lãi suất cứng nhắc, chênh lệnh lãi suất đầu ra, đầu vào của các Ngân hàng âm.
- Doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng cũng bị lỗ do kinh tế tăng trưởng chậm, công nghệ kỹ thuật thấp kém, tỉ suất lợi nhuận kinh doanh thấp vì thế kinh doanh không thể chi trả lãi cho Ngân hàng.
Với thực tế nói trên lãi suất Ngân hàng không còn là công cụ đòn bẩy kinh tế và ổn định tiền tệ như Nghị quyết Đại hội Đảng VI đề ra đó là: "Ngân hàng có nhiệm vụ khẩn cấp cùng với các hoạt động tài chính và các ngành kinh tế khác phấn đấu giảm lạm phát, điều chỉnh hợp lý khối lượng tiền lưu thông trên cơ sở tăng nhanh vòng quay đồng tiền và áp dụng phổ biến các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ổn định sức mua đồng tiền, đáp ứng nhu cầu đồng tiền cho việc mở rộng lưu thông hàng hoá. Bên cạnh những nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của Nhà nước cần xây dựng hệ thống Ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ Ngân hàng hoạt động theo chế độ hạch toán kế toán phải trên cơ sở phục vụ tốt việc thực hiện chức năng giám sát bằng đồng tiền các hoạt động sản xuất kinh doanh, chống thái độ cửa quyền. Phát triển rộng các tổ chức tín dụng tập thể trong nhân dân, ngăn chặn tư nhân cho vay nặng lãi..." (Trích Nghị quyết Đại hội Đảng VI).
Trước thực tế đó, ngày 26.3.1990 HĐBT đã ra Quyết định số 33/HĐBT về việc cải tổ bộ máy hoạt động của hệ thống Ngân hàng, chuyển hệ thống Ngân hàng từ một cấp thành hai cấp, có sự tách biệt giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh: trong đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý và các Ngân hàng Thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiềntệ. Điều này đã mở ra cho ngành Ngân hàng một bước chuyển đổi mới về cơ cấu tổ chức hoạt động và thực hiện chính sách tiền tệ, trong đó có chính sách lãi suất.
2. Diễn biễn điều chỉnh lãi suất từ 3/1990 - 11/1993:
Do có sự đổi mới trong cơ cấu tổ chức mà trong thời kỳ này ngoài lãi suất Ngân hàng đối với nền kinh tế còn có thêm lãi suất giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng, thể hiện mối quan hệ tín dụng trong nội bộ ngành Ngân hàng. Trên cơ sở đó, lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế có một số điều chỉnh như sau:
Biểu 3: Điều chỉnh lãi suất tiền gửi tiết kiệm
Quyết định
điều chỉnh
Thời điểm
điều chỉnh
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm
Không kỳ hạn (%tháng)
Kỳ hạn 3 tháng %tháng
29/NH-QĐ
71/NH-QĐ
94/NH-QĐ
09/NH-QĐ
18/NH-QĐ
92/NH-QĐ
16.03.89
29.05.89
29.06.89
09.02.90
19.03.90
10.07.90
9,00
7,00
5,00
4,00
2,40
2,10
42,0
9,00
7,00
6,00
4,00
2,50
Biểu 4: Điều chỉnh lãi suất tiền gửi và cho vay đối với các tổ chức kinh tế.
Quyết định
điều chỉnh
Thời điểm
điều chỉnh
Lãi suất
tiền gửi
Lãi suất cho vay %tháng
Vốn lưu động
Vốn cố định
Nợ quá hạn
85/NHQĐ
42/NHQĐ
73/NHQĐ
100/NHQĐ
09/NHQĐ
05.12.88
15.04.89
31.05.89
12.07.89
09.02.90
0,9-1,5
4-5,8
2,7-4
1,8-3
1,2-22
1,8%-6%
6-6,6
4,8-5,9
2,1-4
2,1-4
1,5 - 10%
5,9 - 6,18
4,5 - 5,3
3,3 - 3,87
2,6 - 3,5
18
18
8
6
6
Quan sát lãi suất trong giai đoạn này ta thấy từ 1990 - 1993, Ngân hàng Nhà nước liên tục ra các Quyết định thay đổi lãi suất theo định hướng của Hội đồng bộ trưởng.
Năm 1991 với mục tiêu chống lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao 9% - 12%/tháng (QĐ 29/NH) sau đó giảm xuống 5% - 7%/tháng vào cuối năm (QĐ 94/NHQĐ) mức tiền gửi của các tổ chức kinh tế đầu năm 1991 là 4% - 5,8%/tháng (năm 1990 là 0,9% - 1,5%/tháng) từ đó kích thích được tâm lý của người gửi tiền vào Ngân hàng một cách ồ ạt, do vậy mà khối lượng tiền trôi nổi trong lưu thông đã được thu hút về Ngân hàng. Cụ thể với mức huy động bình quân là 20 tỷ đã tăng lên 121 tỉ đồng. Tiếp đó tháng 2.1992 dù lãi suất tiết kiệm đã giảm xuống ở mức là 1,2 - 2,2%/tháng thì lượng thu hút tiền gửi vào các Ngân hàng vẫn tương đối cao. Lạm phát trong giai đoạn này đã được kiềm chế đáng kể nhờ biện pháp nâng cao lãi suất tiết kiệm. Năm 1991 đã chặn đứng được lạm phát phi mã, lạm phát được kiềm chế ở mức 34,7%/năm đặc biệt vào tháng 5,6,7/1991 lạm phát là 0,2% - 0,9% -1,5%/tháng.
Một vấn đề đặt ra đối với lãi suất tín dụng trong thời gian này là: Với chính sách lãi suất như đã nêu trên (nhìn chung cả lãi suất huy động và cho vay đều cao hơn so với tỷ lệ lạm phát và tỷ suất lợi nhuận bình quân) đã làm tăng tỉ trọng nguồn vốn tiết kiệm của Ngân hàng, thường chiếm 70% nguồn vốn huy động của Ngân hàng vì lãi suất huy động cao. Nguồn tiền trong nền kinh tế đã bị thu hút hết vào Ngân hàng cho nên đã gây nên sự khan hiếm tiền mặt và vốn trong nền kinh tế. Người có tiền thì gửi vào Ngân hàng lấy lãi cao hơn là kinh doanh. Các doanh nghiệp vì lãi cao mà không muốn vay vốn Ngân hàng để mở rộng kinh doanh mà một phần cũng vì sức mua trong nền kinh tế giảm do khan hiếm tiền mặt; sản xuất vì vậy mà đình đốn, các ngành sản xuất chỉ xoay quanh các ngành dịch vụ, vốn nhỏ, thu hồi nhanh.
Đối với hoạt động của hệ thống Ngân hàng: Tỉ trọng tiền gửi tiết kiệm cao trong tổngvốn huy động, lãi suất cho vay r thấp hơn lãi suất đầu vào (ví dụ năm 1992 lãi suất cho vay cao nhất là 3,5%/tháng thì lãi suất tiền gửi cao nhất là 4%/tháng) Cộng với khả năng cho vay ra thấp đã bị lỗ vốn và Ngân hàng Nhà nước vẫn phải bao cấp tín dụng.
Chính vì vậy Chỉ thị 39/CT ban hành ngày 6.2.1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã chỉ rõ nguyên tắc điều chỉnh lãi suất Ngân hàng : Lãi suất phải bảo đảm bảo toàn vốn cho người gửi tiền và người cho vay, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động của thị trường giá cả xã hội. Lãi suất cho vay phải lấy phục vụ sản xuất kinh doanh có hiệu quả là chính, đồng thời đảm bảo chi phí và hạch toán của Ngân hàng có ưu tiên với một số ngành mặt hàng theo qui định của Nhà nước, việc điều chỉnh lãi suất được tiến hành từng bước theo hướng thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất tiền gửi tiết kiệm với lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế để tiến tới một mức lãi suất hợp lí. Quán triệt quan điểm này Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất theo hướng hạ đồng bộ các mức lãi suất, cải tiến biểu lãi suất: VD Quyết định 18/NHQĐ chia lãi suất tiền gửi tiết kiệm làm 2 loại không kỳ hạnvà có kỳ hạn 3 tháng.
Tuy nhiên,sự điều chỉnh lãi suất vẫn còn ở mức cao, cuối năm 1993 lãi suất tiền gửi tiết kiệm là 2,1 - 3,5%; lãi suất cho vay 2,5 - 3,5% so với trước thì mức lãi suất này đã giảm nhiều, song trước tình hình đất nước đang trong tình trạng lạm phát cao (1992: 67,1% ; 1993: 67,5%) thì giảm mức lãi suất cao lúc này là không phù hợp. Thực tế trong năm 1993 một khối lượng vốn lớn tồn động trên thị trường đang tìm kiếm nơi đầu tư, tiền mất giá trị bởi lạm phát. Điều đó tạo ra sức ép từ phía người gửi tiền đòi nâng cao lãi suất tiền gửi cho đồng tiền khỏi mất giá. Nếu năm 1991, lãi suất tín dụng được sử dụng làm công cụ hữu hiệu thông qua bao cấp thì đến năm 1993 nó trở thành một điều bất bình thường trong nền kinh tế thị trường. Điều này có tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Đến năm 1991 tăng trưởng kinh tế đạt 6,8% đến năm 1992 đạt 5,1% và năm 1993 là 6% điều này thể hiện sản xuất kinh doanh trong nước rơi vào tình trạng suy thoái.
Giai đoạn này lãi suất của Ngân hàng Nhà nước áp dụng cho Ngân hàng Thương mại cũng được điều chỉnh giảm (biểu đồ 5). Lãi suất chiết khấu (lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng Thương mại thông qua việc tái chiết khấu các giấy tờ có giá) là một công cụ quan trọng trong chính sách tiền tệ để nó được áp dụng và có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường lành mạnh. Vì vậy, giai đoạn này lãi suất chiết khấu cũng được áp dụng với vai trò là công cụ của chính sách tiền tệ để điều chỉnh lượng tiền cung ứng, nhưng trên thực tế chưa phát huy hiệu quả do tác động của nó rất khó kiểm soát. Giai đoạn này Ngân hàng Nhà nước cũng tiến hành trả lãi cho các khoản tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại nhằm tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại còn chưa mạnh ở giai đoạn này hoạt động tốt hơn.
Biểu đồ 5: Lãi suất của Ngân hàng Nhà nước áp dụng đối với các Ngân hàng Thương mại.
Quyết định điều chỉnh
Thời điểm điều chỉnh
Lãi suất tiền gửi
Lãi suất cho vay
Lãi suất nợ quá hạn
27/NHQĐ
50/NHQĐ
76/NHQĐ
101/NHQĐ
10/NHQĐ
19/NHQĐ
44/NHQĐ
12.03.1991
19.04.1991
08.04.1991
12.07.1991
09.02.1992
29.03.1992
16.09.1992
1,5 - 1,8
4,0 - 5,8
27 - 4,0
1,8 - 3,0
1,2 - 2,4
0,9 - 1,5
0,9
1,5
5,9 - 6,09
4,2 - 4,5
1,05 - 3,3
2,1 - 3,0
1,5 - 2,4
1,8
15
15
8
6
6
5
4
Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu thanh toán các nghiệp vụ Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định 176/NHQĐ ngày 04.10.2000 với lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán như sau:
- Thời hạn 1 - 5 ngày lãi suất 0,1%/ngày.
- Thời hạn 5 - 10 ngày lãi suất 0,15%/ngày
- Nợ quá hạn (trên 10 ngày lãi suất 0,2%/ngày.
3. Giai đoạn 1993 - 1997:
Trải qua thời kỳ đầu của quá trình đổi mới kết quả đạt được chưa nhiều lại phải gánh chịu những tổn thất đáng kể nhưng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã rút ra được bài học quý báu. Từ năm 1993 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng chính sách tiền tệ. Trong đó chính sách lãi suất được Ngân hàng Nhà nước coi là quan trọng và chú ý đổi mới cho phù hợp với nền kinh tế. Trong giai đoạn này nền kinh tế đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, mọi hoạt động kinh tế đều chỗi dậy, hoạt động kinh tế đối ngoại được mở rộng. Lạm phát được đẩy lùi xuống dưới mức 15%. Nền kinh tế bắt đầu có mức tăng trưởng khá và ổn định cụ thể là: từ năm 1993 - 1997 tương ứng các mức là 6%; 8,3%; 8,0%, 8,8%; 9,5%. Hoạt động kinh tế đối ngoại đặc biệt được chú trọng và đạt mức tăng cao hàng năm. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nguồn ngoại tệ phát triển mạnh các hình thức tín dụng ngoại tệ bắt đầu được mở ra. Chính sách thu hút dự trữ và kiểm soát ngoại tệ thông qua các văn bản, Quyết định của Ngân hàng Nhà nước đảm bảo sự ổn định của đồng tiền VN. Để đáp ứng nhu cầu thay đổi của nền kinh tế Ngân hàng Nhà nước đã ra Quyết định điều chỉnh đồng bộ lãi suất tín dụng trong nền kinh tế. Diễn biến quá trình điều chỉnh lãi suất Ngân hàng đối với nền kinh tế được mô tả trong bảng V dưới đầy:
Trong đó kể từ Quyết định 222 ngày 17 tháng 10 năm 1994, lãi suất cho vay miền núi, hải đảo giảm 15% lãi suất cho vay cùng loại.
Theo Quyết định 381/QĐNH1 ngày 28 tháng 12 năm 1997, Ngân hàng Nhà nước chỉ khống chế trần lãi suất cho vay tối đa :
- Cho vay ngắn hạn tối đa là: 1,75%/tháng hay 21%/năm
- Cho vay dài hạn tối đa là: 1,7%/tháng hay 20,4%/năm.
Lãi suất huy động các Ngân hàng Thương mại tự xác định theo nguyên tắc tỷ lệ giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng và 4,2%/năm.
Bảng 5: Diễn biến điều chỉnh lãi suất Ngân hàng với nền kinh tế (1993 - 1998)
Đơn vị: %/tháng
Quyết định
điều chỉnh
Thời điểm
điều chỉnh
Lãi suất tiền gửi
lãi suất cho vay
Tiền gửi tiết kiệm
Tài gửi của TCKT
Vốn LĐ
VCĐ
XDCB
N.quá
hạn
NNTMCPNTHTXTD
KKH
KH3T
KH6T
KH1N
KKH
KH3T
KH6T
202/NHQĐ
130/NHQĐ
222/NHQĐ
223/NHQĐ
79/NHQĐ
184/NHQĐ
180/NHQĐ
241/QĐ-NH1
381/QĐ-NH1
30.10.93
28.7.95
17.10.95
17.10.95
14.4.95
28.09.97
01.07.97
09.09.97
20.12.97
-
-
1
-
0,8
0,7
-
-
*
-
-
2
-
1,7
1,4
-
-
*
-
-
-
-
-
1,7
-
-
*
-
-
-
-
-
2
-
-
*
1
-
0,3
-
0,1
0,1
0,5
0,7
*
2,1
-
1,5
-
1
0,8
-
-
*
2,4
-
1,5
-
1
1
-
-
*
5
-
2,7
-
2,3
2,1
-
-
1,75
3,6
-
1,8
-
1,5
1,2
-
-
1,7
-
1,2
-
0,81
0,7
0,7
-
-
1,1
150
150
150
150
150
150
150
150
150
3,5
-
3
2,7
-
-
*
+ Nợ quá hạn: 150% lãi suất cho vay cùng loại
+ (-) : Giống kỳ trước.
+ (*): Ngân hàng Nhà nước tự định.
+a/:NHTMCPNT2%;HTXTD:2,5%
Ngày 30.10.1996 Quyết định 267/ QĐNH quy định lãi suất tiền gửi trên tài khoản cá nhân từ 0,3 - 0,5%/tháng.
Các Ngân hàng Thương mại được phép huy động nguồn vốn bằng kỳ phiếu Ngân hàng theo lãi suất thoả thuận được Ngân hàng Nhà nước qui định bao gồm: lãi suất huy động + lệ phí Ngân hàng.
Ngoài ra Ngân hàng Nhà nước còn có những qui định điều chỉnh đối với lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ.
Biểu 6: Điều chỉnh lãi suất ngoại tệ của Ngân hàng đối với nền kinh tế tính theo %/năm
Quyết định điều chỉnh
Thời điểm điều chỉnh
Lãi suất tiền gửi
Lãi suất cho vay
138/QĐ - NH
198/QĐ - NH
226/QĐ - NH
28/QĐ - NH
230/QĐ - NH
50/QĐ - NH
181/QĐ - NH
6.8.1994
23.9.1994
17.10.1995
1.3.1995
6.12.1995
25.3.1996
29.6.1997
3
2,85
2
2,8
2,8
2,8
2,8
7
7
7
6,5
7,5
8,5
9,5
Lãi suất tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ đối với nền kinh tế được áp dụng trong nền kinh tế từ tháng 8 năm 1994 theo Quyết định 138/QĐNH với hình thức lãi suất này Ngân hàng Nhà nước khống chế lãi suất tiền gửi tối thiểu có kỳ hạn và lãi suất cho vay tối đa. Nhìn chung các mức lãi suất này biến động lên xuống theo từng giai đoạn. Lãi suất cho vay ngoại tệ tăng lên 9,5% so với mức 7% năm 1994, trong khi đó lãi suất tiền gửi giảm xuống.
Theo dõi diễn biến lãi suất của Ngân hàng đối với nền kinh tế trong giai đoạn này chúng ta thấy có một số điểm đáng chú ý đó là:
Nhìn chung lãi suất đã được điều chỉnh một cách đồng bộ, nhiều lần theo xu hướng giảm dần các mức lãi suất nhằm đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, ổn định tiền tệ và tăng trưởng kinh tế. Cụ thể Ngân hàng Nhà nước từ tháng 11 năm 1993 đến nay đã chín lần điều chỉnh lãi suất đối với nền kinh tế.
Lãi suất trong giai đoạn này được đa dạng hoá thành nhiều hình thức để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường như lãi suất cho vay để đầu tư xây dựng cơ bản, lãi suất tín dụng bằng ngoại tệ.
Các hình thức lãi suất có kỳ han 6 tháng, 1 năm ... hình thức giới hạn lãi suất theo khung lãi suất tối đa và tối thiểu tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng Thương mại tự do điều chỉnh lãi suất, nâng cao độ linh hoạt lãi suất.
Từ năm 1995 trở đi chuyển sang cơ chế lãi suất thấp dương, lãi suất cho vay bình quân năm 1995 - 1996 là 25% - 21%/ năm và không phân biệt doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình quân là 20,4%/ năm, có phân biệt, lãi suất cùng kỳ hạn của các tổ chức thấp hơn của dân cư. Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại được hưởng lãi 0,1%/tháng, với cơ chế lãi suất này tất cả các Ngân hàng Thương mại quốc doanh đều có lãi, Ngân hàng Nông nghiệp cũng chuyển từ lỗ nhiều năm sang có lãi.
Năm 1997 chính sách lãi suất dương tiếp tục được duy trì và không phân biệt tổ chức hay cá nhân gửi tiền, vay tiền nếu cùng tính chất, thời hạn thì lãi suất như nhau, lúc này lãi suất không kỳ hạn của doanh nghiệp bằng lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư 0,7%/tháng, lãi suất cho vay bình quân 21%/năm, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng bình quân 18,7%/năm, lãi suất cho vay ngắn hạn và trung hạn xích lại gần hơn (cho vay ngắn hạn cao hơn cho vay trung, dài hạn trung bình 0,1%/tháng).
Lãi suất được gắn với chính sách ưu tiên của Nhà nước, lãi suất cho vay miền núi, hải đảo giảm 15% so với các loại lãi suất cho vay cùng loại,lãi xuất chiết khấu giai đoạn đầu có ưu tiên đối với Ngân hàng Nông nghiệp (85%).
Nhận xét bao trùm là lãi suất huy động cao nên lãi suất cho vay cũng cao. Người gửi tiền có lợi nhiều nhất so với đầu tư kinh doanh khác, lãi suất thực của người gửi tiền (sau khi đã trừ đi tỉ số tăng giá) năm 1994 là 17,6%, năm 1995 là 21,7%, năm 1996, 1997 là 6%, nếu mua tín phiếu kho bạc thì còn lợi hơn nữa: Đối với các Ngân hàng Thương mại đã chuyển đổi thực hiện chính sách lãi suất dương, đây là điều kiện cơ bản để Ngân hàng kinh doanh tiền tệ có lãi và bước đầu ra khỏi sự bao cấp tín dụng của Nhà nước. Đối với nền kinh tế, chính sách lãi suất trong giai đoạn này đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện kế hoạch 5 năm 1993 - 1997, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, đầu tư trong và ngoài nước, đẩy lùi lạm phát và đạt mức tăng trưởng kinh tế cao.
Tuy nhiên chính sách lãi suất trong giai đọan này còn tồn tại với mặt hạn chế nhất định đó là:
- Lãi suất điều chỉnh liên tục gây khó khăn cho Ngân hàng và doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch, doanh số, lỗ, lãi thay đổi một cách bất thường do việc thay đổi lãi suất.
- Hoạt động của các Ngân hàng Thương mại gặp không ít khó khăn do việc thay đổi lãi suất nên có thời điểm Ngân hàng ứ đọng vốn lớn không cho vay được, ngược lại có những thời điểm lại khan hiếm nguồn vốn huy động để cho vay.
- Cơ cấu kỳ hạn về vốn trong giai đoạn này có nhiều bất hợp lý. Tỉ trọng huy động và cho vay trung, dài hạn thấp so với ngắn hạn điều này dẫn đến việc khan hiếm nguồn vốn trung, dài hạn chủ yếu do đầu tư nước ngoài. ở trong nước trần lãi suất cho vay trung, dài hạn thấp hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn, hơn nữa đầu tư vốn trung, dài h._. thường hết sức phức tạp, phụ thuộc vào nhiều biến số vận động trái ngược nhau, chính vì thế trên thực tế chưa có cách thức nào để dự báo chính xác sự thay đổi của lãi suất. Những dự đoán sai lầm có thể gây ra những thiệt hại to lớn, do đó ra Quyết định dựa trên dự đoán lãi suất có thể là một nguy hiểm.
Sau khi có thể biết được xu hướng vận động của lãi suất phải tiến hành phân tích tính nhậy cảm với lãi suất của các tài sản, phân tích khoảng cách và khoảng thời gian tồn tại.
Để đánh giá tính nhậy cảm với lãi suất của tài sản, người ta phải tiến hành phân tích mối quan hệ giữa mức thay đổi trong giá trị thị trường của tài sản so với mức thay đổi của lãi suất thị trường trong mối quan hệ này người ta thường sử dụng hai phươg pháp đo rủi ro.
Thứ nhất: giá trị thị trường của các tài sản thay đổi có thể tăng lên hay giảm xuống. điều đó đồng thời dẫn đến Ngân hàng có thêm thu nhập hoặc phải gia tăng chi phí của người nắm giữ tài sản so với mức thay đổi lãi suất thị trường. Trong danh mục tài sản có và tài sản nợ của Ngân hàng luôn bao gồm trong đó một số tài sản có độ nhạy cảm lãi suất là số dương, còn một số tài sản khác có độ nhạy cảm lãi suất bằng không. Loại thứ nhất bao gồm các tài sản có lãi suất có đặc tính thay đổi, chẳng hạn như các khoản cho vay với lãi suất thay đổi, các chứng khoán ngắn hạn, các chứng chỉ tiền gửi có lãi suất thay đổi, các tài sản tiền gửi trên thị trường liên Ngân hàng...Loại thứ hai bao gồm các tài sản có lãi suất cố định, chẳng hạn các tài sản cho vay dài hạn, các chứng khoán dài hạn, tiền gửi tiết kiệm dài hạn, các chứng chỉ tiền gửi dài hạn và vốn cổ phần. Ví dụ một Ngân hàng A nào đó có bảng tổng kết tài sản với tổng giá trị tài sản là 1 tỷ đồng, trong đó có 300 triệu các khoản loại nhậy cảm với lãi suất và 700 triệu còn lại là những khoản có lãi suất cố định. ở bên tài sản nợ (hay bên nguồn)tỷ lệ các tài sản hạy cảm và không nhạy cảm là như nhau đều là 500 triệu, khi đó khe hở lãi suất = tài sản loại nhạy cảm với lãi suất - Nguồn loại nhạy cảm với lãi suất (bằng 300 - 500 = - 200 triệu USD). Giả sử lãi suất tăng lên 5%/ năm thì thu nhập của Ngân hàng tăng (5% x 300 triệu) 15 triệu, đồng thời chi phí tăng (5% x 500 triệu) 25 triệu như vậy thu nhập của Ngân hàng giảm 10 triệu (25 triệu - 15 triệu) hay bằng (-200 triệu) x 5% = (-10 triệu). Ngược lại khi lãi suất giảm 5% thì thu nhập của Ngân hàng từ tài sản loại nhạy cảm với lãi suất giảm (-15 triệu) trong khi chi phí với nguồn loại nhạy cảm với lãi suất giảm 25 triệu (500 x 5%) do đó lợi nhuận của Ngân hàng tăng 10 triệu (25 triệu - 10 triệu) hay bằng (300 triệu - 500 triệu) x ( - 5%) = 10 triệu.
Sự phân tích trên đây cho phép ta đi đến kết luận: Nếu một Ngân hàng có nhiều tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất hơn là tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất thì một sự gia tăng của lãi suất sẽ làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng khi đó một sự giảm lãi suất sẽ làm tăng lợi nhuận = (Tổng tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất - Tổng tài sản nợ loại không nhạy cảm với lãi suất ) x mức thay đổi lãi suất. Hiệu số trong biểu thức trên gọi là khoảng cách hay khe hở. Phép phân tích này gọi là phân tích khoảng cách hay phân tích khe hở.
Từ cách phân tích trên đây, nếu Ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ tăng lên trong tương lai thì Ngân hàng sẽ điều chỉnh kết cấu bảng tổng kết tài sản của mình sao cho khe hở lớn hơn không. Ngược lại nếu dự đoán lãi suất giảm xuống trong tương lai thì bảng tổng kết tài sản sẽ được điều chỉnh sao cho khe hở nhỏ hơn không. Tuy nhiên trong các tài sản nhạy cảm thì tài sản có lãi suất khác nhau cũng có độ nhạy cảm khác nhau. Do đó phép phân tích trên có thể được phát triển thêm theo hai hướng là phân tích ảnh hưởng của mức độ nhạy cảm đến lợi nhuận của các tài sản loại nhạy cảm với lãi suất có lãi khác nhau: Phân tích thành nhiều khoản mãn hạn; 1 - 3 năm, 3 - 10 năm, > 10 năm để tính thay đổi của lợi nhuận khi lãi suất thay đổi trong nhiều năm.
Thứ hai: Phân tích thời gian tồn tại như trong phân cơ sở lý luận chúng ta đã đề cập. Giá trị hiện tại của các trái khoản chẳng hạn như trái khoán Coupor được xác định bằng công thức
C =
Trong đó i lãi suất chiết khấu (có mối liên hệ thuận với lãi suất thị trường) do đó giá trị của trái khoán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lãi suất. Rủi ro lãi suất ở đây được quan niệm như là sự dao động của giá cả thị trường của các tài sản tài chính (chẳng hạn như trái khoán Coupon nói trên), cũng tức là sự giao động của lượng tiền mặt chiết khấu được từ tài sản, khi lãi suất thị trường thay đổi qua thời gian. Do đó có thể định lượng lãi suất đối với người sở hữu một tài sản chứng khoán thông qua thời gian đáo hạn bình quân của tài sản đó trong mối tương quan với lượng tiền mặt triếu khấu ở mỗi giai đoạn với tư cách là tỉ trọng. Khoảng thời gian này gọi là kỳ hạn tồn tại hay khoảng thời gian tồn tại. Đây là khái niệm được Macanlay đưa ra vào năm 1938 khi phân tích rủi ro trái phiếu. Kỳ hạn tồn tại luôn không bao giờ lớn hơn thời hạn đáo hạn mà có quan hệ thuận chiều với thời gian đáo hạn và quan hệ nghịch với lượng tiền mặt thanh toán ở mỗi giai đoạn và với lãi suất. Người ta đã chứng minh được rằng: Thay đổi tính bằng % giá trị thị trường của chứng khoán xấp xỉ bằng với kết quả: ( Thay đổi % về lãi suất ) x ( khoảng thời gian tồn tại trong các năm).
Nhờ khái niệm này, người ta có thể đo lường khoảng thời gian tồn tại trung bình của các tài sản có và tài sản nợ của Ngân hàng loại nhạy cảm với lãi suất, từ đó xác định mức rủi ro lãi suất đối với tài sản dòng của Ngân hàng theo công thức: Thay đổi giá trị dòng của tài sản = ( thay đổi % về lãi suất) x (kỳ hạn tồn tại trung bình của các tài sản có - kỳ hạn tồn tại trung bình của các tài sản nợ). Chẳng hạn xét với bảng tổng kết tài sản của Ngân hàng A nói trên, giả sử khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản có của nó là 5 năm ( tức là thời gian sống trung bình của dòng thanh toán là 5 năm ) trong khi đó khoảng thời gian tồn tại trung bình của những tài sản nợ của nó là 3 năm với sự tăng thêm 5% lãi suất, giá trị thị trường của những tài sản có của Ngân hàng này giảm đi 25% ( =-5 năm x (-5%) và giá trị thị trường của những tài sản nợ này giảm sút 15% (=-5% x 3 năm). Kết qủa thực là giá trị dòng ( giá trị thị trường của những tài sản có trừ đi tài sản nợ ) giảm 10% (25% - 15%) so với tổng giá trị tài sản có ban đầu. Kết quả này cũng có thể tính trực tiếp hơn như là: ( thay đổi % về lãi suất ) x ( khoảng thời gian tồn tại trung bình của các tài sản có - thời gian tồn tại trung bình của tài sản nợ ), tức là - 5% x ( 5 năm - 3 năm ) = - 10%. Trong trường hợp này Ngân hàng có thể thu ngắn thời gian tồn tại của các tài sản có nhằm làm tăng tính nhạy cảm với lãi suất của chúng, hoặc kéo dài thời gian tồn tại của các tài sản nợ. Do sự điều chỉnh này Ngân hàng sẽ bớt đi tác động chao đảo của lãi suất.
Như vậy cả 2 phần ở trên đều cho biết Ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro lãi suất ở mức độ nào. Đây là căn cứ để Ngân hàng tiến hành các điều chỉnh tài sản nhằm loại trừ các rủi ro lãi suất.
Một vấn đề khó khăn đặt ra cho các Ngân hàng Thương mại trong việc điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản để có lợi cho kinh doanh là ở chỗ có thể sẽ rất tốn kém đối với những hoạt động gắn hạn. Ngân hàng có thể bị ràng buộc vào các tài sản có và tài sản nợ với những khoảng thời gian tồn tại riêng biệt, bởi vì nó bị ràng buộc vào nhiều yếu tố. Trong điều kiện môi trường kinh tế luôn thay đổi, rủi ro lãi suất luôn có nguy cơ tăng lên vì thế đã thúc đẩy việc sáng tạo ra những công cụ tài chính mới giúp cho các nhà kinh doanh nói chung và kinh doanh Ngân hàng nói riêng hạ thấp thiệt hại do rủi ro lãi suất, những công cụ chủ yếu mà các Ngân hàng thường sử dụng đó là: Thực hiện trao đổi lãi suất (Snap) sử dụng các hợp đồng tài chính có kỳ hạn (thị trường giao dịch có kỳ hạn), sử dụng các công cụ nợ lựa chọn (thị trường giao dịch chọn lựa các công cụ nợ). Sau đây chúng ta sẽ xem xét các Ngân hàng sử dụng các công cụ này như thế nào để hạn chế rủi ro lãi suất của mình.
2.1 Sử dụng kỹ thuật trao đổi lãi suất (Swap lãi suất):
Phương pháp đổi chéo lãi suất xuất hiện lần đầu tiên trên thị trường trái khoán Châu Âu năm 1981. Những sự đổi chéo lãi suất, giúp một tổ chức tài chính có nhiều tài sản có, loại nhạy cảm với lãi suất hơn so với tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất có thể trao đổi các dòng tiền thanh toán với một tổ chức tài chính có nhiều tài sản nợ, loại nhạy cảm về lãi suất hơn tài sản loại nhạy cảm với lãi suất nhờ vậy giảm được rủi ro về lãi suất cho cả 2 phía. Chẳng hạn với Ngân hàng A chúng ta xét trên. Để loại bỏ rủi ro lãi suất và làm tương xứng nhạy cảm về lãi suất của những tài sản có và tài sản nợ của mình, Ngân hàng A phải chuyển 200 triệu tài sản có, loại có lãi suất cố định thành 200 triệu loại có lãi suất thay đổi. Chẳng hạn 1 Ngân hàng khác, VD Ngân hàng B, có 200 triệu tài sản nợ, loại có lãi suất cố định và 200 triệu tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất do đó Ngân hàng này muốn loại bỏ rủi ro lãi suất, thành 200 triệu tài sản có, loại có tài sản cố định. Khi đó, một trung gian tài chính sẽ làm cho 2 bên cộng tác với nhau với một món lệ phí và đưa ra một hợp đồng, trong đó Ngân hàng A sẽ thanh toán cho Ngân hàng B tiền lãi thu được của 200 triệu tài sản có, loại có lãi suất cố định. Ngược lại, Ngân hàng B sẽ thanh toán cho Ngân hàng A tiền lãi thu được của 200 triệu tài sản có, loại nhạy cảm với lãi suất cuộc đối chéo lãi suất này sẽ dẫn đến việc loại bỏ hoàn toàn rủi ro lãi suất cho cả 2 phía. Ngân hàng A sẽ có thu nhập loại nhạy cảm với lãi suất của 200 triệu tài sản có, khoản tiền này sẽ cân xứng một cách chính xác với tiền thanh toán 200 triệu tài sản nợ loại nhạy cảm với lãi suất. (500 triệu - 300 triệu = 200 triệu). Ngược lại Ngân hàng B sẽ có thu nhập loại theo lãi suất cố định của 200 triệu, khoản tiền này sẽ cân xứng một cách chính xác với tiền thanh toán loại theo lãi suất cố định của 200 triệu tài sản nợ.
Cái hay của phương pháp này là ở chỗ nó không đòi hỏi Ngân hàng nào phải dàn xếp lại bảng tổng kết tài sản cuả mình, do đó các trao đổi lãi suất là phương pháp tương đối ít tốn kém để giảm rủi ro lãi suất.
2.2 Sử dụng công cụ hợp đồng tài chính kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn.
Các Ngân hàng trong ví dụ phân tích ở trên có thể loại bỏ rủi ro lãi suất của mình bằng nghiệp vụ tự bảo hiểm, thông qua việc sử dụng các hợp đồng tài chính thời hạn hoặc giao sau. Các nghiệp vụ này thường rất phức tạp nhưng về cơ bản chúng hoạt động như sau: Giả sử Ngân hàng A trong ví dụ nêu trên dự đoán rằng lãi suất là âm (300 triệu - 500 triệu = - 200 triệu ) do đó họ đứng trước nguy cơ chịu rủi ro lãi suất, họ cần phải hoán chuyển 200 triệu tài sản có loại có lãi suất ổn định 200 triệu tài sản có loại nhạy cảm với lãi suất. Hoặc là họ phải kí hợp đồng trao đổi lãi suất cho món tiền đó. Nhưng có thể lãi suất thực tế sẽ không tăng, thậm chí giảm. Trong cả hai trường hợp này, Ngân hàng đều không thu được lợi ích gì, thậm chí bị thiệt. Do đó đề phòng lãi suất thực tế sẽ tăng, mà không phải hoán chuyển các tài sản hoặc trao đổi lãi suất, Ngân hàng A có thể ký kết các hợp đồng tài chính kỳ hạn trong đó ấn định sẽ trao đổi phần tài sản có, có lãi suất cố định với Ngân hàng B tại một thời điểm ấn định trong tương lai, với giá cả ấn định trước, tức là sự giao nộp theo kỳ hạn. Như vậy sự gia tăng lãi suất sẽ không ảnh hưởng gì đến lợi nhuận của cả hai bên. Khó khăn ở đây là đòi hỏi các tài sản đem trao đổi phải được chuẩn hoá, do vậy có thể có sự xắp xếp trùng khớp như trong ví dụ. Mặt khác, hai bên lại không có quyền đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. Để khắc phục tình trạng này, Ngân hàng còn sử dụng các hợp đồng lựa chọn trong đó có ấn định trước giá cả, nhưng có thể không thực hiện hợp đồng, tuy nhiên phải bỏ ra một chi phí để mua quyền chọn đó (ký hợp đồng thực hiện trong tương lai nhưng đến thời điểm đó căn cứ vào tình hình cụ thể của thị trường có quyền lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện hợp đồng, chi phí bỏ ra được gọi là giá của quyền chọn).
Các giải pháp và công cụ đề cập đến ở trên đây mang nặng tính kỹ thuật và đòi hỏi sự hoàn thiện của thị trường tài chính, hiện nay nó mới chỉ được áp dụng chủ yếu ở các nước có thị trường tài chính phát triển ở đó có điều kiện kỹ thuật cũng như trình độ chuyên môn cao ở đó nó được sử dụng một cách rộng rãi. Còn ở nước ta hiện nay do điều kiện kinh tế - kỹ thuật chưa cho phép do đó các công cụ nói trên chưa được đưa vào sử dụng. Tuy nhiên với đà phát triển của một nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập khu vực và thế giới thì các Ngân hàng Thương mại nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội nói riêng phải sớm nghĩ đến những giải pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro lãi suất trong hoạt động của mình, để sẵn sàng đưa vào sử dụng khi các điều kiện của thị trường cũng như bản thân Ngân hàng cho phép.
3. Lãi suất điều hoà vốn trong nội bộ ngân hàng
Do tính chất đặc thù của ngành, NHTMCPQĐ có một địa bàn hoạt động rất rộng lớn. Kéo dài từ Bắc vào Nam, từ các vùng núi cao, Tây nguyên đến các hải đảo xa xôi, cứ đâu có các doanh nghiệp quân đội hoạt động là ở đó có mặt của ngân hàng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn và thúc đẩy sự phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Vì hoạt động trên một địa bàn rộng lớn như vậy, NHTMCPQĐ có những khó khăn, thuận lợi nhất định. Do mỗi khu vực, mỗi vùng hoạt động có những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên có những tác động trực tiếp đến hoạt động huy động và cho vay của Ngân hàng, có những vùng, những khu vực có khả năng rất lớn trong việc huy động vốn nhưng lại không thể cho vay vì nhu cầu về vốn ở khu vực đó rất thấp, ngược lại có những vùng, những khu vực nhu cầu vay vốn rất cao nhưng khả năng huy động vốn lại không đáp ứng được. Xuất phát từ thực tế đó nên chăng NHTMCPQĐ thành lập riêng cho mình một quỹ điều hoà vốn nội bộ nhằm phát huy lợi thế, mà không phải ngân hàng nào cũng có được, đồng thời khắc phục những khó khăn về tình trạng huy động và cho vay không ổn định giữa các chi nhánh trong nội bộ hệ thống. Tuy nhiên, để tránh tình trạng các chi nhánh có khả năng huy động vốn lớn nhưng việc cho vay hạn chế, bị thiệt thòi do chi phí huy động cao nhưng thu nhập từ lãi vay thấp. Trung tâm điều hoà vốn nội bộ nên áp dụng một mức lãi suất nhất định (ít nhất là cũng phải đủ để bù đắp các khoản chi phí của việc huy động), đối với các chi nhánh có vốn dư thừa chuyển về Trung tâm. Các khoản chi phí này sẽ do các chi nhánh có nhu cầu điều động vốn từ trung tâm gánh chịu. Làm được như vậy sẽ không những khắc phục tình trạng dư thừa, thiếu hụt vốn giữa các chi nhánh trong nội bộ hệ thống ngân hàng mà còn thúc đẩy sự phát triển chung, đặc biệt là trong tương lai, khi phải cạnh tranh với các ngân hàng lớn thì hoạt động của trung tâm này sẽ thúc đẩy qúa trình tích tụ, tập trung vốn một cách nhanh chóng, chi phí thấp, giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tham gia vào các dự án lớn hoặc các cơ hội kinh doanh có khả năng sinh lời cao.
4. Vấn đề đối với bản thân Ngân hàng
Là một doanh nghiệp mới đi vào hoạt động, lại kinh doanh trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm đó là kinh doanh tiền tệ, Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đang gặp rất nhiều khó khăn, từ cơ sở vật chất kỹ thuật đến năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng cũng như qui mô và thị trường hoạt động. Bởi vậy, để có thể tự vươn lên khẳng định mình trong điều kiện thị trường trong nước và quốc tế ngày càng khó khăn bên cạnh sự quan tâm giúp đỡ của các ban ngành, cơ quan hữu quan như Ngân hàng Trung ương, Bộ quốc phòng, Bộ tài chính đòi hỏi bản thân Ngân hàng phải không ngừng nỗ lực cố gắng lấy mục tiêu: “an toàn, hiệu quả, phát triển trong thế ổn định”. Để thực hiện được mục tiêu đó không có cách nào khác là thực thi một giải pháp mang tính đồng bộ từ việc hoàn thiện công tác quản trị điều hành, nâng cao chất lượng tín dụng đến việc hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, tiến hành đào tạo lại đội ngũ cán bộ công nhân viên...Thực hiện điều này thời gian qua Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội đã từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức tạo ra sự thống nhất đoàn kết cao trong nội bộ Ngân hàng từ công tác quản trị điều hành đên sự phối hợp hoạt động giữa các phòng ban, hàng năm Ngân hàng có tổ chức cho cán bộ công nhân viên đi học các lớp ngắn hạn nhằm không ngừng cập nhật kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn. Ngoài ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu mở rộng thị trường cũng như địa bàn hoạt động hàng năm Ngân hàng có tổ chức các đợt thi tuyển nhằm tuyển dụng đội ngũ cán bộ mới, trẻ, năng động có năng lực trình độ chuyên môn sâu, có trình độ ngoại ngữ, tin học. Có thể nói điều này đã góp phần không nhỏ và việc thúc đẩy sự phát triển chung của hoạt động Ngân hàng thời gian qua. Ngân hàng cũng không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động cũng như các chi nhánh của mình. Hiện nay Ngân hàng Thương mại cổ phần quân đội có Hội sở chính ở Hà Nội và hai chi nhanh ở Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh ngoài ra còn có các văn phòng đóng trên các địa bàn khác hau như Lý Nam Đế, Thanh Xuân Hà Nội...Với mục tiêu phát triển ổn định không ngừng tăng cường khả năng hoạt động cũng như cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi Ngân hàng cần tiếp thu hoàn thiện và làm tốt hơn nữa các công tác trên. Về công tác quản trị, điều hành phải nhanh chóng hình thành mô hình Ngân hàng hai cấp, trong đó Hội sở chính làm chức năng điều hành còn các chi nhánh sẽ thực hiện chức năng kinh doanh, trên cơ sở phân định rõ chức năng của các bộ phận sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như công tác quản trị điều hành. Không ngừng bổ túc và nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ công nhân viên đặc biệt là những kiến thức để đáp ứng nhu cầu của thị trường phát triển trong tương lai như các nghiêp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, đại lý phát hành, môi giới chứng khoán...Ngoài ra Ngân hàng cũng cần phải tiếp tục mở rộng các chi nhánh cũng như văn phòng đại diện, tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để Ngân hàng tự giới thiệu về mình với khách hàng. Có thể nói cho đến nay trong phần lớn bộ phận dân cư còn chưa có sự hiểu biết đầy đủ về Ngân hàng chính vì vậy phải giáo dục tuyên truyền sao cho mỗi cán bộ của Ngân hàng là một nhân viên Marketing, mỗi một khách hàng là một nhân viên Marketing đem đến sự hiểu biết của công chúng đối với hoạt động của Ngân hàng.
IV. Một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
Là một sinh viên thực tập, qua việc nghiên cứu tìm hiểu tình hình thực tế, tình hình quản lý và thực thi chính sách lãi suất của NHNN tại NHTMCPQĐ em thấy còn nẩy sinh một số vấn đề cần kiến nghị đối với NHNN như sau;
1. Vấn đề lãi suất nợ quá hạn
Hiện nay nợ quá hạn đối với các ngân hàng thương mại nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng, là mối quan tâm hàng đầu của lãnh đạo ngân hàng cũng như công tác tín dụng, bởi lẽ nó liên quan trực tiếp đến chất lượng công tác tín dụng cũng như hiệu quả hoạt động chung của Ngân hàng. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết này người viết không đề cập đến những biện pháp để nâng cao chất lượng công tác tín dụng mà chỉ đề cập đến một góc độ có liên quan đến việc quản lý lãi suất của NHNN đó là vấn đề lãi suất nợ quá hạn.
Hiện nay áp dụng đối với các khoản nợ quá hạn tại các NHTM do NHNN quy định một cách thống nhất bằng 150% lãi suất trần cùng loại của các khoản vay. Như vậy chúng ta thấy, trong khi việc quản lý lãi suất của NHNN đang được dần dần nới lỏng từng bước theo hướng tự do hoá nhằm tạo điều kiện cho các NHTM chủ động hơn trong việc đề ra các mức lãi suất cụ thể của mình thì việc lãi suất nợ quá hạn vẫn bị quy định một cách cững nhắc, mang tính áp đặt chủ quan là điều chưa hợp lý và đi ngược lại xu hướng tự do hóa lãi suất. Việc người vay không trả nợ đúng hạn thì phải chịu một mức lãi suất cao hơn đối với khoản nợ quá hạn đó là một quy định được chấp nhận từ trước ở nước ta và cũng là thông lệ quốc tế. Tuy nhiên áp dụng một mưc snợ lãi suất quá hạn chung cho mọi đối tượng là điều không phù hợp bởi lẽ chúng ta biết rằng, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng nợ qua hạn của người vay, hơn nữa mưc sđộ thiệt hại do khách hàng không trả nợ đúng hạn đối với các Ngân hàng khác nhau thì khác nhau bởi vậy chỉ có bản thân các NHTM mới sbiết phải ứng xử nh cho phù hợp đối với các khoản nợ quá hạn trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn như đối với những trường hợp do nguyên nhân khách quan: thiên tai, hoả hoạn cơ chế chính sách thay đổi ... thì nên đặt khoản tiền pạht thấp hoặc không áp dụng mức phạt nhằm giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn và duy trì mối quan hệ lâu dài. Hơn thế nữa, trong nhiều trường hợp việc quy định phạt nợ qúa hạn chỉ mang tính chất hình thức và không thể thực hiện được trong thực tế bởi lẽ, do gặp phải khó khăn bất khả kháng như các trường hợp nêu trên việc trả nợ đã không thể thực hiện được thì làm sao có thể trả được lãi suất phạt quá hạn. Do đó nếu cứ cố tình áp dụng như vậy thì chỉ làm cho tình hình trở nên căng thẳng. Ngược lại đối với những trường hợp bị mắc nợ qúa hạn do nguyên nhân chủ quan như kế hoạch sản xuất kinh doanh không hiệu quả, yếu kem trong quản trị điều hành... thì nên áp dụng một mức lãi suất nợ qua hạn cao hơn để cảnh tỉnh họ. Đối với những trường hợp khách hàng cố tình vi phạm tì cần phải áp dụng mức phạt thật cao để ngăn chặn, không cho tình hình đó tái diễn. Từ thực tế phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng việc quy định lãi suất nợ qua hạn đối với từng khoản nợ qúa hạn cụ thể nên giao cho các NHTM Quyết định thì sẽ hợp lý hơn và phản ánh đúng xu hướng tự do hoá lãi suất hiện nay.
2. Mối quan hệ giữa lãi suất ngắn hạn - Trung dài hạn, giữa lãu suất nông thôn - thành thị
Mối quan hệ giữa trần lãi suất ngắn hạn với lãi suất trung, dài hạn, giữa trần lãi suất cho vay nông thôn với trần lãi suất cho vay khu vực thành thị.
Việc quy định trần lãi suất cho vay lãi suất trung, dài hạn cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn và lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn lãi suất cho vay khu vực thành thị là hoàn toàn hợp lý vì nó phù hợp với 2 nguyên tắc cơ bản trong tài chính đó là: " Một đô la hôm nay có giá trị hơn một đôla ngày mai và một đô la không có rủi ro có gía trị hơn một đô la rủi ro". Tuy nhiên trong thực tế việc áp dụng như vậy lại không khuyến khích các doanh nghiệp trong vay vốn đầu tư trung dài hạn để tái sản xuất mở rộng, đồng thời không thúc đẩy kinh tế khu vực nông thôn phát triển do đó có phần nào đi ngược lại chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, để đảm bảo hài hoà lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế đồng thời thực hiện đúng định hướng phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, cần có chính sách ưu đãi về vốn thông qua công cụ lãi suất đối với các ngành, lĩnh vực then chốt theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ nhất định, chẳng hạn như việc cấp bù chênh lệch lãi suất đối với các khoản vay theo kế hoạch nhằm đảm bảo lợi ích và khuyến khích các chủ thể thực hiện việc cho vay đó.
3. Vấn đề quản lý bằng trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
Như đã nêu ra trong phần I Chương II, việc thực hiện quản lý lãi suất bằng trần lãi suất cho vay tối đa của NHNN đối với các NHTM là một bước tiến rất lớn trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý lãi suất ở nước ta theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên trong thực tế việc thực hiện còn nẩy sinh nhiều bất cập. Bởi vậy thay cho việc quy định mức lãi suất cứng nhắc, nên chăng Nhà nước áp dụng một biên độ trần lãi suất nhất định tương tự như quản lý ngoại tệ, NHNN không thả nổi lãi suất nhưng vẫn có thể quy định biên độ lãi suất trần nhằm giúp cho các NHTM chủ động hơn nữa trong việc định ra các mức lãi suất của riêng mình, vừa không bị động trong việc huy động và cho vay vừa không vi phạm chính sách lãi suất của NHNN. Mặt khác NHNN cũng vừa có thể điều chỉnh mức trần lãi suất cong bố, vừa có thể điều chỉnh biên độ lãi suất trần, tuỳ theo đặc điểm của từng thời kỳ khác nhau. Hoặc nếu NHNN thấy có thể bù lỗ được cho các NHTM quốc doanh thì ấn định trần lãi suất đối với các ngân hàng đó, đồng thời quy định thêm một biên độ dao động nhất định nào đó đối với các NHTMCP giúp cho các Ngân hàng này hoạt động ổn định bởi lẽ nó đâu có được bù lỗ như các NHTM quốc doanh.
Việc xác định biên độ lãi suất trần có thể căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, có 3 yếu tố chính cần phải xem xét đó là: lãi suất huy động vốn bình quân, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN, mức chênh lệch bình quân đủ bù đắp chi phí, rủi ro và có lãi cho các NHTM. Chẳng hạn lãi suất huy động vốn bình quân của các NHTM là 0,8%/tháng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì lãi suất huy động bình quân sau dự trữ bắt buộc là 0,89%/tháng và mức ceenh lệch đủ để bù đắp chi phí, rủi ro ở mức độ trung bình là 0,3% thì lãi suất cho vay là 1,19%/tháng. Khi đó NHNN có thể quy định một biên độ lãi suất trần chẳng hạn là 10% thì lãi suất cho vay của các NHTM có thể dao độn từ 0,952%/tháng đến 1,119%/tháng và trong chiến lược huy động vốn của mình, mỗi NHTM sẽ dưa ra một mức lãi suất cạnh tranh nhất định. Còn đối với Nhà nước trong mỗi giai đoạn, thời kỳ nhất định, căn cứ vào tình hình cụ thể thị trường có thể đưa ra các mức lãi suất trần và biên độ dao động thích hợp.
4. Mối quan hệ giữa lãi suất trái phiếu kho bạc và lãi suất huy động vốn của hệ thống các NHTM.
Hiện nay đay là 2 kênh huy động vốn chủ yếu trong công chúng. Trái phiếu kho bạc được phát hành với mục đích chủ yếu là bù dắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước hoặc đáp ứng nhu cầu ci tiêu đầu tư cho những dự án lớn, trọng điểm của Nhà nước. Còn các NHTM huy động vốn nhằm phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình va gián tiếp phục vụ các chương trình của Chính phủ. Thuy nhiên lãi suất của 2 kênh huy động này là một vấn đề cần phải xem xét, bởi lẽ trong thực tế lãi suất huy động bằng trái phiếu kho bạc Nhà nước luôn cao hơn lãi suất các NHTM mặc dù trái phiếu kho bạc được xem như loại đầu tư an toàn và ít rủi ro, điều này đã gây ra không ít khó khăn đối với các NHTM trong việc huy động vốn của mình. Chẳng hạn như mới đây Ngân hàng đầu tư phát triển phát hành trái phiếu với lãi suất 12% mỗi năm, trả lãi trước tương ứng với 13,6%/năm nếu trả lãi sau, hoặc đợt phát hành công trái vừa rồi. Trong khi trần lãi suất được liên tục điều chỉnh giảm buộc các ngân hàng thương mại phải giảm lãi suất huy động (mức trung bình cao nhất khoảng 9,5%/năm) điều này thực sự gây khó khăn cho các NHTM trong việc huy động vốn, mặt khác chênh lệch qua scao giữa 2 loại lãi suất này đa xtạo ra các kênh chu chuyển vốn lòng vòng, các NHTM có thể kiếm lời mà không cần qua con đường tín dụng gây ra sự lãng phí nguồn lực. Chính vì vậy chênh lệch giữa hai loại lãi suất này là vấn đề cần phải xem xét.
Kết luận
Có thể nói việc chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, quan liên bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một trong những bước ngoặt quan trọng trong công tác đổi mới quản lý ở nước ta, trước hết là ở góc độ nhận thưc stư duy lí luận. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó trong thực tiễn nó đòi hỏi một qúa trình lâu dài vừa thực hiện vừa tổng kết đúc rút kinh nghiệm, không thể cho rằng thực hiện được ngay một sớm một chiều. Việc quản lý và điều hành chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam thời gian qua đã có những bươc scr biến đáng kể theo hướng dần dần nới lỏng việc quản lý mang tính chất mệnh lệnh hành chính, từng bước tạo điều kiện tốt hơn cho các Ngân hàng thương mại trong việc chủ động đề ra các mức lãi suất của riêng mình, trên cơ sở về vốn cung cầu trên thị trường. Tuy vậy chính sách lãi suất hiện hành vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi việc quản lý mang tính chất chủ quan, ép buộc gây ra nhiều khó khăn cho các NHTM trong qúa trình thực hiện, cũng như việc thực hiện chức năng đòn bẩy kinh tế của công cụ lãi suất. Chính vì vậy trong xu hướng đổi mới tư duy của nền kinh tế chính sách lãi suất cũng cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng tự do hoa strên cơ sở thừa nhận và tôn trọng sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan.
Nhiệm vụ của các NHTM là góp phần cùng NHNN thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy việc xây dựng một chế độ cụ thể vừa đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách quản lý của Nhà nước vừa đảm bảo tính cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển của bản thân ngân hàng luôn là vấn đề đượcquan tâm của các NHTM nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng
Trong phạm vi bài viết này trên cơ sở phân tích thự trạng cũng như xu hướng quản lý chính sách lãi suất của NHNN, người viết mong muốn có những đóng góp nhất định đối với NHTM nói chung và NHTMCPQĐ nói riêng trong việc xây dựng một chính sách lãi suất đảm bảo được các yêu cầu nói trên.
Mặc dù đã giành nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu tìm hiểu vấn đề song chắc chắn bài viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định cả về mặt nhận thức lí luận cũng như tình hình thực tiễn. Vì vậy em kính mong có được sự giúp đỡ
chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa ngân hàng tài chính nói chung, Cô giáo Trần Thu Hà, người trực tiếp hướng dẫn em và các cô, các Chú, các Bác, các Anh, Chị tại NHTMCPQĐ để nhận thức của em về vấn đề nghiên cứu được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn
Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.
Predric S. Mishkin. NXB Khoa học kỹ thuật, 1997
2. Ngân hàng thương mại
Eward. W. read 7 Eward K. Gill, Xuaats banr 1995
3.Kinh tế học
David Berg (Tập 2)
4. Lý thuyết tổng quát về việc làm - lãi suất - tiền tệ.
John Maynard Keynes. Nxb Giáo dục, 1996)
5. Lãi suất trong nền kinh tế thị trường
6. Pháp luật ngân hàng (1992), Luật ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng (2000)
7. Các quyết định quản lý lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
8. Các quyết định quản lý lãi suất của Ngân hàng thương mại CPQĐ
9. Tạp chí Ngân hàng.
Các số 12/1998; 1, 3, 5, 6, 9, 11, 12/1999; số 3, 4, 5/2000
10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
3/1998; 7/1998; 10/1998; 12/1998; các số 7, 9, 1/1999; 7/2000; 3/2001
11. Tạp chí Thị trường tài chính, tiền tệ
8/1998; 3/1999; 7/1999; 9/1999; 3/2000.
12. Tạp chí Tài chính
Số 9, 10, 11/1999; 2/2001
13. Tạp chí Phát triển kinh tế
7/1999; 10/1999; 1/2000
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0220.doc