Vận dụng cặp phạm trù cái riêng, cái chung vào việc xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Lời nói đầu Việc nghiên cứu xây dựng nền kinh tế thị trường là vấn đề rất quan trọng được tiến hành hầu hết trên mọi quốc gia trong thời đại ngày nay. Trong đó có Việt Nam. Việt Nam là đất nước đang phát triển, đâng trong thời kì quá độ lên CNXH. Cho nên việc đi sâu tìm hiểu nền kinh tế thị trường không còn là vấn đề mới mẻ. Nó là điều kiên quyết để đưa Việt Nam qua thời kì quá độ lên CHXN. Nước ta còn là một nước công nghiệp lạc hậu, phải gánh nhiều hậu quả của chiến tranh để lại. Với những

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng cặp phạm trù cái riêng, cái chung vào việc xây dựng nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dư âm của xã hội và nền kinh tế quan liêu bao cấp. Cho nên để khắc phục những khó khăn này, đưa đất nước Việy Nam ra khỏi khủng hoảng, ổn định nền kinh tế-xã hội, tạo điều kiện vững chắc cho đất nước phát triển thì Đảng và Nhà nước ta đã sáng suốt lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN vào Việt Nam. Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đường lối phát triển kinh tế là yeéu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường ( KTTT ) hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Do vậy, Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi và khó khăn cần được giải quyết. 2. Theo quan điểm của các nhà triết học, kinh tế học thì để thu được kết quả tốt phải biết ứng dụng KTTT vào thực tiễn đúng hướng. Thích hợp với mỗi môi trường của mỗi quốc gia và những điều kiện khách quan và chủ quan sao cho thuận lợi. Đối với Việt Nam chúng ta thì phải định hướng: Nền kinh tế nước ta là một bộ phận của nền kinh tế thế giới Phải có sự quản lí đúng đắn của Nhà nước Phấn đấu xây dựng nền kinh tế thị trường vì một xã hội nhân văn. Nội dung I/ cặp phạm trù cái riêng-cái chung là phạm trù cơ bản của triết học 1/ Định nghĩa cái chung – cái riêng 1. 1/ Định nghĩa cái riêng Cái riêng là phạm trù triết họcdùng để chỉ một sự vật một hiện tượng, một quá trình riềng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn một hiên tượng kinh tế, một giai đoạn xã hội, một con người vv… 1. 2/ Định nghĩa cái chung Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính, những mối liên hệ tồn tại không chỉ ở một sự vật mà trong nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù triết học Mac-xít về vật chất, vân đong, không gian, thời gian vv… 2/ Mối quan hệ biên chứng giữa cái riêng-cái chung 2. 1/ Quan điểm của một số nhà triết học về mối quan hệ giữa cái chung-cái riêng Trong lịch sử triết học tồn tại hai quan điể trái ngược nhau về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung của phái duy thực và phaí duy danh. Phái duy thực: Cho rằng, chỉ có cái chung mới tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người, không phụ thuộc vào cái riêng, sinh ra cái riêng. Phái duy danh: Cho rằng, chỉ cái riêng mới tồn tại khách quan, cái chung chỉ là những từ trống rỗng, do tư tưởng của con người sáng tạo ra. 2. 2/ Triết học Mác khẳng định Cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng hữu cơ với nhau. Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự rồn tại của mình. Tức là cái chung không tồn tại thuần tuý bên ngoài cái riêng, mà nó phải thông qua cái riêng. Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung. Tức là không có cái riêng nào tồn tại độc lập, mà cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Như vậy sự vật hiện tượng nào cũng có hai mặt là cái riêng và cái chung, hai mặt này đều tồn tại khách quan. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung. Còn cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung bởi ngoài những cái ra nhập với cái chung, nó còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng, bởi vì nó phản ánh những mặt những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại. Vì vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của sự vật. Nêu lên mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, Lênin viết “…Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chấy của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi mặt riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không tham gia đầy đủ vào cái chung…Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng ngàn sự chuyển hoá mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác ( Sự vật, hiện tượng, quá trình ) Đó là những quan hệ giữa cái riêng và cái chung về mặt phương pháp luận theo các quan điểm của cacs trường phái triết học. Và theo quan điểm hiện nay thì quan điểm triết học Mác-Lênin là cơ sở, là tiền đề, phương pháp luân của triết học. 3/ ý nghĩa phương pháp luận Cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau nên khi khi vận dụng vào giải quyết vấn đề lợi ích của con người phải chú ý đến cả cái riêng và cái chung ( lợi ích chung, riêng ). Nếu như chỉ chú ý đến lợi ích chung mà không quan tâm đến lợi ích riêng thì phá vỡ sự tồn tại của tập thể, ngược lại chỉ thấy được lợi ích của cái riêng sẽ dẫn đến cá nhân ích kỉ, tách ra khỏi tập thể. Cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng nên khi ứng dụng bất kì một cái chung nào cần phải được cá biệt hoá vào những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Cái chung chỉ tồn tại như một bộ phận của cái riêng. Vì vậy muốn phát hiện cái chung cần phải thông qua nhiều cái riêng. Tuyệt đối hoá cái chung sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện. Tuyệt đối hoá cái riêng sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm. II/ kinh tế thị trường( KTTT ) 1/ Khái quát chung về kinh tế thị trường KTTT xuất hiện sớm từ các nước TBCN và nhanh chóng đưa nền kinh tế các nước này phát triển một cách mạnh mẽ. KTTT trong CNTB tạo ra sự bóc lột của đồng tiền. Điều này dẫn đến nền KTTT đi ngược lại tiến bộ xã hội, phản nhân đạo. KTTT đi sâu, xâm nhập vào từng quóc gia, đưa các nước đó phá triển và dẫn tới sự phát triển đồng bộ nền KTTT trên toàn thế giới. ở Việt Nam KTTT được hình thành và phát triển từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 1986 ) được phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Cho nên chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. 2/ Khái niệm về KTTT KTTT là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Mà phát triển nền KTTT là điều kện tất yếu để có sự đồng nhất hoá toàn cầu. Để có sự lớn mạnh chung của thế giới, để đưa nền kinh tế của mỗi quốc gia tiến bộ và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, là cầu nối hữu hình giữa nền kinh tế các quốc gia. Nền KTTT đã phát triển lâu nay, mầm mống của nó tồn tại ngay trong nền kinh tế hàng hoá. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là phát triển KTTT. III/ vận dụng cặp phạm trù cái riêng cái chung vào việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở việt nam Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Với nền kinh tế còn non yếu Đảng và nhà nước đã quyết định xu hướng phát triển nền KTTT nhưng theo định hướng XHCN. 1/ Đặc trưng chung của nền KTTT Do KTTT là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá và mọi yếu tố của sản xuất đều được thị trường hoá cho nên KTTT có những đặc trưng chủ yếu sau: Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, tự do liên kết, tự do liên doanh theo luật định. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng động. Hai là, hàng hoá trên thị trường rất phong phú phản ánh trình độ cao của năng suất lao động, trình độ phân công lao động xã hội, sự phát triển của sản xuất và thị trường. Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Bốn là, cạnh tranh là một tất yếu của KTTT, có nhièu hình thức phong phú vì mục tiêu lợi nhuận. Năm là, KTTT là hệ thống kinh tế mở. Trong nền KTTT thì mọi chủ thể tự quyền quyết định hành động của mình, quyết định hành động của mình, quyết định mặt hàng sản xuất và tiêu chí sản phẩm mình đặt ra …Dưới sự quản lí của các luật kinh tế, luật kinh doanh. Chính vì đó các sản phẩm trên thị trường vô cùng phông phú, nó đánh giá về trình đọ sản xuất ngày càng cao, các sản phẩm bán ra có giá cả không ổn định tuỳ thuộc vào cung cầu. Nền KTTT là một môi trường sản xuất kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt của các chủ thể…Cạnh tranh và đào thải một cách có chọn lọc được điều tiết bởi bàn tay vô hình. Nền KTTT thâm nhập vào mỗi quốc gia đưa nền kinh tế riêng biệt hoà đồng vào nền kinh tế toàn cầu. Có thể nói KTTT là một nền kinh tế mở. Chính vì nhũng đặc trưng này, để ứng dụng vào nền KTTT, đưa nền kinh tế trở nên vững mạnh, phát triển thì phải hiểu sâu sắc các đặc trưng của nó-cái chung và vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng cho hợp lí. Cái chung của nền KTTT và cái riêng là nền kinh tế nước nhà phải định hướng theo XHCN đối với nước Việt Nam chúng ta. 2/ Bản chất của nền KTTT định hướng XHCN Bản chất của KTTT định hưóng XHCN ở Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là KTTT với cái đặc thù là định hướng XHCN, dựa trên nguyên tắc lấy cái đặc thù-định hướng XHCN làm chủ đạo. Với định nghĩa nói trên cho thấy nổi nên ba khía cạnh chủ yếu: Thứ nhất: Với tư cách là cái chung-KTTT đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng các yếu tố: a) Cở sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để nền kinh tế có tự do hoá kinh tế ( tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ );b) Các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như hàng hoá, tiền tệ, thị trường, cạnh tranh, cung cầu, giá trị thị trường, giá cả thị trường và lợi nhuận; c) các quy luật kinh tế của KTTT ( Quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu; d) Cơ chế vận hành nền KTTT-cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Thứ hai: Với tư cách là cái đặc thù-định hướng XHCN-trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu các đăc trưng của CNXH mà nước ta cần xây dựng. Định hướng XHCN ở nước ta là một sự lựa chọn tất yếu, một khái niệm khoa học. Tuy vậy vẫn có một số cách hiểu khác nhau, thậm chí không phải không có tư tưởng hoài nghi về tính hiện của định hướng XHCN mà Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã chọn. Thứ ba: Trong mối quan hệ giữa cái chung-KTTT với cái đặc thù-định hướng XHCN, không thể lấy KTTT làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù, vì chúng ta không chủ trương xây dựng mô hình KTTT bất kì, trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng mô hình KTTT định hướng XHCN làm chủ đạo. Vấn đề ta cần xét ở đây là môí quan hệ giữa cái chung và cái riêng diễn ra như thế nào? theo quan điểm của Mác- Lênin: thì cái chung và cái riêng tồn tại khách quan và chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. ở đây cái chung là nền KTTT trong xu hướng, đặc điểm phát hiên chung là nền kinh tế mở cửa nhưng nó được đưa vào ứng dụng tạ môi trường và hoàn cảnh Việt Nam chúng ta thì nó tồn tại trong nền kinh tế nước nhà đi theo định hướng XHCN. Thông qua môi trường hoàn cảnh xu hướng của nền kinh tế Việt Nam hoà nền KTTT có những đặc điểm chung, nhưng khi nó đuiược đưa vào nền kinh tế nước ta theo định hướng XHCN thì ngoài những đặc điểm chung nó còn mang những đặc thù riêng mà chỉ thông qua cái đặc thù riêng đó nó biểu hiện sự tồn tại thích nghi của mình. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung: tức là không có cái riêng tồn tại độc lập, mà chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung. Nền KTTT được ứng dụng vào nước ta theo định hướng XHCN nó trở thành KTTT với những cái đặc thù mới. Nó hoà nhập, tồn tại và thể hiện trong nền KTTT thế giới. Điều cần đưa ra ở đây là cái chung và cái riêng luôn có quan hệ hữu cơ với nhau. Chúng luôn xen lẫn và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. 3/ Nguyên tắc hình thành Với tư cách là cái chung KTTT đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế. Cặp phạm trù vốn có của nền KTTT, các quy luật nền KTTT, cơ chế vận hành. Nền KTTT là một phạm trù để chỉ một nền kinh tế mở rộng, một nền kinh tế luôn biến động, một nền kinh tế có đầy đủ qui luật cạnh tranh và đào thải, được ứng dụng phát triển mạnh mẽ. Được thâm nhập và vận hành với sự kết hợp của mọi thành phần kinh tế. Nền KTTT nó có những đặc tính chung những qui luật chung. Và nó mang cavs đặc tính chung này vào mọi quốc gia có nền KTTT ( những thuộc tính chung đưịc lạap lại trong nhiều sự vật hay quá trình riêng lẻ ). Với tư cách là cái riêng, cái đặc thù-định hướng XHCN, trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu, nguyên tắc và nhiệm vụ kinh tế cơ bản hướng đến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta cânf xây dựng. Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế còn lạc hậu non nớt. Với quá nhiều tàn dư của xã hội cũ, những quan điểm cổ hủ về nền kinh tế bao cấp đã dàn dần được xoá bỏ. Với môi trường kĩ thuật công nghệ còn yếu kém. Với thời kì đang quá độ lên CNXH nó còn phức tạp và quá nhièu khó khăn phải giải quyết, những mục tiêu để đạt được. Vởy với môi trường, hoàn cảnh nền kinh tế Việt Nam theo định hướng mà Đảng đã đề ra. Nền kinh tế Việt Nam theo định hướng XHCN ( là một chủ thể riêng ) có những đặc thù riêng. Vậy để kết hợp cái chung với nền KTTT thì nền kinh tế Việt Nam sẽ có một nền KTTT mang nhiều đặc tính riêng phát triển theo xu hướng mà Đảng đã đề ra. Trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng này, không thể lấy các chung làm cái chủ đạo, cũng như không thể lấy nền KTTT làm cái quyết định mà nhất thiết phải lấy định hướng XHCN làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ cái chung-KTTT với cái đặc thù-định hướng XHCN. 4/ KTTT định hướng XHCN KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức, một kiểu vận hành kinh tế mà một mặt tuân theo những qui luật của KTTT, mặt khác, dựa trên cơ sở bản chất của và nguyên tắc của CNXH. Từ kiểu tổ chức kinh tế đến kiểu vận hành kinh tế nó đều có những đặc trưng riêng. Nền KTTT là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá. Tức là với phạm trù nền KTTT ở đây nói lên: là một nền kinh tế tự do, tụ chủ. Mọi thành vien tham gia đều có quyền tự quyết. Đây là môi trường đấu tranh gay gắt. Các chủ thể kinh tế luôn có những phương châm kế hoạch để vượt lên nhau, thạm chí cả thủ đoạn để loại bỏ nhau. Nền kinh tế này nó mang đậm phong cách tư bản chủ nghĩa. Đó là cạnh tranh gay gắt, đàn áp và bóc lột lẫn nhau ( bóc lột giá trị thặng dư…). Đó là những đặc điểm chung của KTTT. Nhung khi nền KTTT được ứng dụng tại Viẹt Nam chúng ta thì nó bị biến đổi chuyển hoá dần theo hưoứng mà Đảng và nhan dân đề ra. Đó là một nền KTTT hoàn toàn mới- nền KTTT định hướng XHCN. 5/ Định hướng XHCN của KTTT ở Việt Nam Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hai mặt kinh tế-xã hội ngay trong từng bước phát triển. Phát triển nền kinh tế tức là phát triển về mặt vật chất nhưng đồng thời phát triển xã hội ổn định và đáp ứng về mặt tinh thần của xã hội. Nền KTTT định hướng XHCN ở Viêt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đại hội VI đã đề ra để nền kinh tế ổn định thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì phải phát triẻn nên kinh tế nhiều thành phần phát triẻn trên mọi lĩnh vực với sự định hướng của nền kinh tế quốc dân. Sự vận hành của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là sự kết hợp chặt chẽ giữa thị trường và kế hoạch. Nhà nước quản lí nền KTTT ở nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chính điều này làm cho mô hình KTTT của ta khác về bản chất với mô hình kinh tế TBCN. Nền kinh tế ấy đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dưới sự quản lí của nhà nước XHCN Việt Nam, nhằm hạn ché, khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiẹn các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân KTTT không làm được. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với kinh tế quốc tế. Với những đặc trưng của nền KTTT-cái chung và nhũng cái đặc thù của cái riêng-định hướng XHCN thì cái riêng và cái chung ở đây phải có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cái chung đi vào và tồn tại trong cái riêng. Cũng như một cái ao cá Thì cá bắt về để thả trong ao là những chủ thể của cái chung. cá được đưa về từ ao giống, đều có những đặc tính chung giống nhau giữa các loài…Nhưng khi được đưa vào nuôi sống, ở đây chủ thể ao_môi trường nước, thức ăn hệ sinh thái, điều kiện sống là những cái đặc thù của cái riêng. Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung ở đây là mối quan hệ tồn tại, mối quan hệ tương tác và biến đổi lẫn nhau. trong đó môi trường sống là yếu tố quyết định tác đọng đến cá mới được đưa vào và biến đổi chúng sao cho chúng thích nghi với trường sống mới. Cũng như mối quan hệ giữa nền KTTT và định hướng XHCN thì ở đây môi trường định hướng là Đảng đã đặt ra là chủ đạo và quyết định nền kinh tế thị trường, làm cho nền KTTT phù hợp với nền kinh tế của từng quốc gia đang phát triển theo định hướng XHCN của Việt Nam chúng ta. III/ thực trạng và quá trình xây dựng KTTT theo định hướng XHCN ở việt nam 1/ Thực trạng và quá trình xây dựng KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam. Giai đoạn trước năm 1986 Giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam còn nặng về quan liêu bao cấp. Quản lí theo phương thức bảo thủ trì trệ, tàn dư của xã hội cũ rất nhiều. Toàn bộ dân tộc vừa thống nhất đi lên XHCN ( 1975 ). Hậu quả của chiến tranh năng nề, thiệt hại về cả vật chất lẫn tinh thần. Nền kinh tế Việt Nam đi lrrn từ hai bàn tay trắng, từ hoang tàn đổ nát, bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng. Nền ngân sách thì eo hẹp, công nghệ thấp kém, quản lí trì trệ. Có chăng thì trong nền kinh tế nước nhà mới chỉ có những mầm mống tự phát sơ nguyên của KTTT. Giai đoạn từ năm 1986 đến 1991 Tại đại hội VI Đảng và Nhà nước quyết định Nhà nước Việt Nam là nhà nước đang phát triển, đang trong thời kì quá độ đi lên XHCN. Để khắc phục nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu thì buộc phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nền KTTT. Tự vận động, cạnh tranh và điều tiết theo quy luật của KTTT với sự định hướng và quản lí vĩ mô của Nhà nước. ở giai đoạn này là giai đoạn mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của nền KTTT. Cơ cấu quản lí thay đổi hoàn toàn. Chống quan liêu bao cấp, chông bảo thủ trì trệ. Phát triển một nền kinh tế mở cửa thâm nhập dần vào thị trường thế giới. Tuy nhiên ở giai đoạn này mới chỉ là là sự bắt đầu. Một sự bắt đầu với vô vàn khó khăn… trong tình trạng chưa có một nền móng ổn định những kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, 5 năm, 10 năm được đề ra và thực hiện. Hơn nữa trong giai đoạn này CNXH đông âu đi vào lũng đoạn và tự sụp đổ. Khiến hệ thống XHCN trên toàn thế giới gặp những khó khăn và khủng hoảng manh, gay gắt, Nhưng dẫu khó khăn chồng chất thì toàn dân chung lòng cùng Đảng đã từng bước và khắc phục dần dần. Nền kinh tế có tăng trưởng cao, chính trị dần dần ổ định thu hút đầu tư nước ngoài, mở cửa lưu thông liên minh đoàn kết với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Giai đoạn từ năm 1991 đến nay Tuy hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ. Nhung CNXH Việt Nam đã kịp thời có những cải cách tích cực, phù hợp với môi trường hoàn cảnh sống con người Việt Nam. Nền kinh tế đi vào quy luật chung, ổn định và ngày càng vững mạnh: Nền KTTT phát triển, nền kinh tế Nhà nước bắt kịp và hoà nhập dần vào nền kinh tế khu vực và nền kinh tế thế giới. Thực tế nhận thâý đời sống của nhân dân ta nâng cao hơn, tinh thần ổn định, có niềm tin sâu sắc vào Đảng và Nhà nước. Cái riêng và cái chung xâm ngập hái hoà và cải biến lẫn nhau. 2/ Thành tựu và hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam 2. 1/ Thành tựu Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tổng sản phẩm trong nước(GDP ) sau 10 năm tăng gấp đôi. Tích luỹ nội bộ vủa nền kinh tế từ mức không đáng kể đến năm 2000 đã đặt 25% GDP. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước từng bước được đổi mới và phát triển, hình thành các tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Các thành phần kinh tế khác phát triển khá nhanh. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, bình thường hoá và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, phát triển kinh tế với hầu khắp các nước, ra nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút đáng kể đầu tư trực tiếp và nguồn tài trợ chính thức từ nước ngoài. Nền KTTT được ứng dụng vào Việt Nam và nhìn thấy những chuyển biến rõ rệt. Nhưng ngoài những mặt tích cực ra nền KTTT còn đem lại những mặt hạn chế. 2. 2/ Hạn chế Do cách làm ăn chạy theo lợi nhuận dẫn đến tình trạng trốn thuế, lừa đảo buôn lậu…và nhiều tệ nạn trong xã hội xuất hiện như: ma tuý, mại dâm, cướp bóc… Mọi vấn đề đều bị thương mại hoá, bị đồng tiền chi phối. Tình cảm giữa người với người đôi khi có thể bị đem cân đo, đong đếm. Sự phân hoá giàu nghèo, bất công trong xã hội tăng nhanh Tuy nhiên thế giới luôn vận động và luôn tồn tại những mặt đối lập, chúng sẽ đấu tranh và loại trừ lẫn nhau. Mở cửa du nhập nền KTTT thì ngoài những tích cực những khoa học công nghệ tiên tiến thì không tránh khỏi tiêu cực. Đó là điều tất yếu mà mỗi quốc gia tự phải biết điều chỉnh và khắc phục sao cho thu được kết quả tốt đẹp. 3/ Mục tiêu KTTT định hướng XHCN Mục tiêu đề ra là phát triển kinh tế để đạt một xã hội giàu mạnh công bằng dân chủ văn minh. Tức là ngoài phát triển KTTT ta phải được những mục tiêu riêng đặt ra cho nước nhà. Nếu như nếu như nền KTTT tự do TBCN phục vụ lợi ích các nhà tưn bản, xây dựng cơ sở kinh tế theo CNTB thì KTTT định hướng XHCN lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu; phát triển KTTT để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. KTTT, bản thân nó là nội lực tự thúc đẩy tiến trình kinh tế – xã hội. Đến lượt mình, chúng ta dùng cơ chế kinh tế đó để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy CHN-HĐH, xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tưừng bước thực hiện lí tưởng XHCN. 4/ Để hiện thực hoá mô hình KTTT định hướng XHCN, cần thực hiện tốt những đièu kiện và giải pháp sau đây 4. 1/ Tạo lập duy trì và phát triển tự do hoá kinh tế Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành, tồn tại và phát triển KTTT ở nước ta. Tự do hoá kinh tế là một điều kiện tất yếu để sản sinh và nuôi dưỡng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ, rất cần thiết cho các chủ thể doanh nghiệp với tư cách là những đơn vị kinh tế tự chủ. Tương ứng với điều kiên này, các giải pháp cần có là: Tiếp tục thực hiên nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế đa dạng hoá về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Trên cơ sở đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế, tiếp tục phát triển đòng bộ các loại thị trường. Cụ thể: a) Phát triển đồng bộ giữa thị trường đầu ra ( thị trường hàng hoá và dịch vụ ) với thị trường các yếu tố đầu vào của sản xuất ( máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên nhiên liệu, sức lao động, khoa học công nghệ … ); b) Thực hiện đồng bộ giưa thị trường trong nưíc và thị trường nước ngoái trong đó lấy thị trướng trong nước làm cở sở, thị trường ngoài nước là quan trọng. Tạo dựng môi trường chính trị. Kinh tế, xã hội tương đối ổn định và thông thoáng đẻ các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài yên tâm, phấn khởi đầu tư các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh. 4. 2/ Xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật, một điều kiện cho sự phát triển KTTT định hướng XHCN. 4. 3/ Tạo dựng hành lang và cơ chế bảo đảm giữ vững định hướng XHCN đối với KTTT Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đngr một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong các ngành, các cấp, hệ thống các trường và các tổ chức kinh tế thông qua giáo dục học tập cho tất cả các tổ chức nói trên về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là cái nền tảng của cách mạng XHCN, nội dung định hướng XHCN, và sự cần thiết phải giữ vũng định hướng XHCN đối với KTTT. Thứ hai, củng cố và tăng cường năng lực và hiệu lực của quốc hội, ban hành các luật pháp cào thiếu, điều chỉnh bổ sung và hoàn thiện các luật pháp đã có sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam và có tính đến sự phù hợp với thông lệ quốc tế. Thứ ba, thực hiên nhất quán và lâu dài chính sách đa dạng hoá về sở hữu và thành phần kinh tế tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. 4. 4/ Tạo lập bộ máy Nhà nước vững mạnh Xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam vững mạnh thông qua các tiêu chuẩn sau: Trung thành với chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với lợi ích dân tộc; trong sạch về phẩm chất đạo đức; cần kiệm liêm chính công vô tư; có năng lực chuyên môn, có uy tín đối với chủ doanh nghiệp và nhân dân trong viẹc thực hiện tốt các chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước đối với KTTT. IV/ Nền KTTT định hướng XHCN dưới cái nhìn của quan điểm toàn diện Nền KTTT định hướng XHCN ở Viẹt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với nền kinh tế thế giới. Nước ta là nước XHCN cho nên tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội thì mơí thúc đẩy được KTTT phát triển. Không được nhìn KTTT dưới một góc độ, một mặt mà phải xem nó trong mối liên hệ vời nhiều yếu tố khác. Đất nước ta theo định hướng đã chọn của Đảng, của nhân dân là xây dựng một nhà nước CNXH cho nên phải ổn định nền kinh tế để tiến đến phát triển toàn diện nền kinh tế dất nước. Dưới cái nhìn của quan điểm toàn diện thì nền KTTT nói chung nói lên môi trường cạnh tranh quyết liẹt tuân theo quy luật đào thải, kẻ mạnh thì thắng như một môi trường đấu tranh cam go. Nhưng nền KTTT được ứng dụng vào Việt Nam thì nó không hẳn mất đi nhũng đặc tính của nó, mà nó chỉ bị biến đổi một cách phù hợp theo định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Tức là giữa cái riêng và cái chung có sự biến đổi, sự tác động và chuyển hoá lẫn nhau trong đó lấy cái riêng-định hướngXHCN làm chủ đạo, chúng dần dând đan xen, thâm nhập, quy định và thống nhất đẻ rồi nó tạo thành cái mới phù hợp với hoàn cảnh. Đó là nền KTTT Việt Nam, là kết quả của mối quan hệ tương tác, sự kết hợp hài hoà của nền KTTT và nền kinh tế định hướng XHCN nước nhà. Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, nền KTTT phát triển để tiến lên XHCN. Hiện nay tuy số quốc gia đi lên xây dựng CNXH không nhiều. Nhưng không phải vì thế mà làm ý chí lung lạc. Chúng ta luôn ổn định và quyết tâm đi theo con đường đã chọn, dẫu rằng sẽ còn vất phải quá nhièu những cản trở, khó khăn, sự chống đối của lực lượng thù địch, bọn phản động trông và ngoài nước. Vì đường lối, xu hướng đã chọn nên nền KTTT nước ta mang những đặc tính riêng. Quan hệ giữa cái riêng và cái chung nó khác với đa phần các nước TBCN trên thế giới. Bởi nền KTTT nước ta là nền KTTT định hướng XHCN. Quan hệ giữa cái riêng và cái chung là sự dung hoà và chuyển hoá. ậ đây cái riêng là chủ đạo, quyết định và chuyển hoá cái chung. Chúng hợp nhất nhau để tạo thành một cái mơí-một cái riêng cho nước CHXN chủ nghĩa Viẹt Nam. Đó là nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam. Kết luận Mô hình KTTT theo định hướng XHCN được áp dụng vào Việt Nam đã có nhiều thành tựu đáng kể, Đời sống nhân dân được nâng cao, đưa nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng, khỏi lạc hậu quan liêu về kinh tế quản lí. Dần dần có những nhận thức mới mẻ, năng đọng hơn. Bình quan thu nhập tăng nhiều so với những năm trước nền kinh tế nước nhà từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Qua thực hiện 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế hàng hoá về thành phần vận dụng theo cơ chế thị trường khoong hề độc lập với định hướng XHCN. Mà đây là sự kết hợp hài hoà tạo ra cái mới. Điều đó có thể nói rằng mô hình KTTT định hướng XHCN là một sự lựa chọn sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Quan hệ giữa cái chung và cái riêng được đề cập đến ở đây là một mối quan hệ chuyển hoá và biến đổi trong đó cái riêng là cái chủ đạo. Làm cho nền KTTT Việt Nam có những đặc điểm nhân văn hơn, ôn hoà hơn, không gay gắt như đối với các nước TBCN. Công cuộc xây dựng đất nước đã đưa chúng ta vào dòng chảy chung của kinh tế thế giới. Và chúng ta đã được những tán thành hưởng ứng của các thành phần tiến bộ trên thế giới. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Triết học 2. Tạp chí Kinh tế 3. Giáo trình Kinh tế chính trị 4. Tạp chí Cộng sản 5. Lênin toàn tập. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0140.doc
Tài liệu liên quan