Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường nhìn từ góc độ triết học

Lời nói đầu Sinh viên ra trường thất nghiệp hiện nay đang là vấn đề báo động trong xã hội. Câu hỏi đặt ra ở đây là:Nguyên nhân của tình hình sinh viên thất nghiệp hiện nay là đâu? Hậu quả để lại là gì? Vấn đề đó đã gây thiệt hại gì cho nền kinh tế của nước nhà? Và chúng ta phảI làm gì để khắc phục tình trạng trên? Vấn đề này được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người dều có một quan điểm khác nhau .Tuy nhiên giải pháp nhằm giải quyết vấn đề này cần phải đặt ra gấp nhằm đảm bảo lực lượn

doc9 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6923 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường nhìn từ góc độ triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lao động cho xã hội cũng như đảm bảo công ăn việc làm cho hàng nghìn sinh viên sau mỗi năm ra trường. Vấn đề này cần sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, và nó không nằm ngoài sự quan tâm của em, do vậy em xin chọn đề tài: “Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường nhìn từ góc độ triết học” để nghiên cứu. Bài tiểu luận của em gồm có các phần chính như sau: Phần I: Cơ sở triết học Phần II: Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay Phần III: Nguyên nhân – Hậu quả - Giải pháp của vấn đề này Do trình độ hiểu biết của em trong quá trình học chưa được sâu nên không thể tránh khỏi được những thiếu xót.Vì vậy em kính mong các thầy cô góp ý, bổ sung để bài viết của em được tốt hơn trong các lần sau. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy Nông Đức Kế đã giúp em hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Nội Dung I.Cơ sở triết học 1. Nguyên nhân –Kết quả Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định ở sự vật đó Kết quả là những biến đổi xuất hiện ở sự vật do nguyên nhân tạo ra 2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả Mối quan hệ nhân quả có tính khách quan ,tính phổ biến. Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân tạo ra.Trong mối quan hệ xác định, nguyên nhân có trước kết quả, kết quả có sau nguyên nhân, nhưng nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa cho nhau, trong mối quan hệ này thì nó là nguyên nhân,trong mối quan hệ khác nó là kết quả và ngược lại .Có nhiều loại nguyên nhân: bên trong, bên ngoài, cùng chiều, ngược chiều, chủ quan, khách quan, chủ yếu, thứ yếu… Từ mối quan hệ nhân quả:hoạt động thực tiễn chúng ta càn phải tôn trọng tính khách quan của mối quan hệ này, phải biết phát huy những tác động cùng chiều,tránh và hạn chế những tác động trái chiều bất lợi cho sản xuất, kinh doanh. II.Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay Từ khi đất nước ta có chính sách mở cửa giao lưu hợp tác với các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới, kinh tế chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần tự do cạnh tranh phát triển đã phát huy rất nhiêù mặt tích cực. Mặt tích cực đáng chú ý là sự cố gắng vươn lên của lớp thanh niên mới để có thể đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của công việc. Sự mở rộng và phát triển kinh tế thị trường thục sự đã mang lai những cơ hội việc làm cho sinh viên có khả năng,co năng lực, linh hoạt. Nhưng ko phải mọi sinh viên ra trưòng đều có việc làm và đây là một vấn đề đang được quan tâm của xã hội. Căn cứ vào điều tra mới nhất của bộ GD-DT thì “năm 2000 cả nước có 126 trường đại học, cao đẳng với hơnn 73000 sinh viên chính quy tốt nghiệp thì đến năm học 2001-2003 đã có 157 trường đại học, cao đẳng với gần 12200 sinh viên ra trường”(nguồn tin trên mạng Internet). Kết quả cho thấy tỷ lệ chung của sinh viên có việc làm sau khi ra trường hiện nay là 72,47%,trong đó khối kỹ thuật công nghiệp chiếm 74,8%, sư phạm chiếm 81,5%(báo Tiền Phong số 115 ra ngày 24-3-2002).Và theo số liệu mới của viện kinh tế phát triển thì sinh viên khối kinh tế ra trường năm 2002 thất nghiệp 87% hoặc làm việc trái nghề. Bên cạnh những sinh viên có đủ những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đòi hỏi hoặc những người có ngưoừi thân, xin việc hộ thì số còn lại phải chật vật chạy đi chạy lại với các trung tâm việc làm. Cũng phải nói thêm rằng chính dựa vào sự khan hiếm việc làm này mà nhiều trung tâm giới thiệu việc làm “ma” mọc lên vài ba bữa để thu tiền lệ phí, tiền môi giới việc làm rồi biến mất. Hoặc một số sinh viên ra trường chấp nhận làm trái nghề hoặc bất cứ nghề gì miễn là có thu nhập. Đó là về phía sinh viên,còn về phía nhà tuyển dụng thì họ vẫn ”than” là thiếu lao động mà theo họ là thiếu những người có kinh nghiệm và khẩ năng làm việc độc lập cungx như một số yêu cầu khác. Sinh viên ra trường tìm việc phải cần đến 4 chữ “T”. Các nhà doanh nghiệp luôn tìm việc theo tiêu chuẩn này:Tâm,Trí ,Tin, Tình.Có được những yếu tố này mới trở thành những người lao động tốt. Một số công ty rất coi trọng việc rèn luyện đạo đức.Trong khi đó sinh viên không chịu rèn luyện đạo đức của mình. Bên cạnh đó, hiện nay khi đi xin việc bất cứ sinh viên nào cũng phải có kèm thêm 2 bằng đó là bằng ngoại ngữ và bằng Tin, như vậy thì mới có cơ may tìm được việc làm. III. Nguyên nhân - Hậu quả - Giải pháp của vấn đề 1.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên a.Từ phía nền kinh tế-xã hội Trong những năm trước ta còn thực hiện chính sách bao cấp thì ko có hiện tượng sinh viên ra trường thất nghiệp.Phần lớpn là vì ngày đó sinh viên còn ít, số lượng trường đại học không nhiều nhưng chủ yếu là sinh viên ra trường và được phân công tác luôn.Thậm chí, làm ở đâu chỉ là hình thức ,nhiều lúc “chơi dài ngày” hết tháng thì nhận lương nhà nước. Nhưng từ khi nhà nước có chính sách mở cửa kinh tế,nhà nước chuyển sang nền kinh tế thị trường,các doanh nghiệp phải tự lo tìm người lao động cho mình,không có sự bao cấp của nhà nước thì vấn đề xin việc trở nên cấp bách hơn khi sinh viên ra trường tự kiếm việc làm phù h ợp với năng lực của mình. Hiện nay một số sinh viên ở các tỉnh khác chỉ muốn trụ lại ở những thành phố lớn sầm uất và sôi động. Họ làm mọi việc dù không phù hợp với mình thậm chí cả những việc có thu nhập thấp. Chính vì vậy mà dẫn đến tình trạng ở những vùng sâu xa thì càng thiếu nguồn lao động trong khi ở thành phố nạn thất nghiệp đày dãy.Đến đây chúng ta thấy được tính hai mặt của nền kinh tế thị trường.Một mặt nó tạo điều kiện cho thành phần kinh tế có khả năng phát triển mạnh hơn, cạnh tranh cao hơn. Mặt khác, nó có tác động không lớn đến vấn đề xã hội. Gây ra sự thiếu thừa “giả” về lực lượng lao động, mất cân đối về nguồn lao động và gây ra tiêu cực trong việc làm . b.Từ chất lượng đào tạo Cơ cấu đào tạo của nước ta quá lạc hậu và cũ kĩ, không bám sát thực tế. Học không đi sâu vào thực tế mà chỉ lướt qua và đi sâu vào lý thuyết. Trang thiết bị giảng dạy thiếu thốn, nên không phát huy được hết khả năng sáng tạo của sinh viên. Đất nước Việt Nam rất cần đến đội ngũ kỹ sư về kĩ thuật,công nghệ, xác định cơ bản thì nguồn cung cấp nhân lực từ phía đào tạo không đáp ứng được. Bên cạnh đó do xã hội ngày càng phát triển với tốc độ cao và vì vậy việc sản xuất cũng thay đổi .Phương thức sản xuất thay đổi trong khi đó đào tạo không bắt kịp và nó bị tụt hậu khi không có sụ cân bằng, đồng bộ giữa đào tạo và thực tế làm cho sinh viên ra trường không đủ khả năng phục vụ cho công việc. Họ rất lúng túng trước yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động Do sự phát triển của KH-KT ngày càng cao, công việc yêu cầu cũng ngày càng cao hơn nên đòi hỏi đội ngũ lao động phải có trình độ, năng lực thực sự của mình. c.Về chính sách của nhà nước. Trong những năm gần đây, nhà nước cũng có rất nhiều quan tâm đến sự nghiệp đào tạo nói chung và đào tạo đại học nói riêng cùng với những khuyến khích đẻ sử dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp; ví dụ như sinh viên thuộc khối sư phạm được miễn học phí .nhưng về cơ bản thì nhà nước vẫn chưa có chính sách hợp lí đẻ khuyến khích cũng như tạo điều kiện cho sinh viên sau khi ra trường yên tâm công tác và phát huy hết khả năng; chẳng hạn như chính sách đối với những người về công tác tại những vùng sâu, vùng xa, hải đảo chưa hợp lí cho lắm nên không thu hút được sinh viên sau khi ra trường tự nguyện về đây công tác. Vậy nên chăng nhà nước cần có chính sách hợp cũng như thoả đáng hơn nữa cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để sinh viên sau khi ra trường sẵn sàng có công tác ở bất cứ nơi đâu để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và đổi mới đất nước. d.Về bản thân và gia đình sinh viên Mỗi sinh viên ai cũng muốn có một việc làm ổn định ở thành phố nên ai cũng chia nhau đi tìm việc, khi chưa tìm được việc, họ không bỏ về quê phục vụ cho quê hương mình mà họ còn làm những công việc khác mặc dù không đúng nghành nghề của mình để có thu nhập.Vì thế nên tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì lượng dân cư tăng lên nhanh chóng. 2. Hậu quả của vấn đề này Sinh viên thất nghiệp gây lên một hậu quả không nhỏ đối với nước ta. Hiện nay trên đất nước ta có những khu vực thừa nguồn tri thức( tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh…) nhưng lại có những khu vực thiếu nguồn tri thức( tập trung ở các tỉnh nghèo, miền núi ). Chính vì thế nó gây ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình phát triển của xã hội. Thành phố chật hẹp ngày càng chật hẹp thêm do số lượng sinh viên ở lại tìm cho mình một chỗ đứng đông, nạn thất nghiệp xảy ra nhiều và nó cũng là nguyên nhân dẫn tới các tệ nạn xã hội. 3.Giải pháp khắc phục tình trạng trên Chúng ta đều nhận thất rằng tình trạng thất nghiệp ở sinh viên sau khi ra trường không phải do lôĩ toàn bộ của bất cứ ban ngành nào mà nó do nhiều yếu tố tác động đến,nguyên nhân khách quan như tình hình kinh tế xã hội, nguyên nhân chủ quan là về hệ thống giáo dục đào tạo, chính sách sử dụng và đãi ngộ lao động chưa hợp lý cũng như tâm lý chủ quan về phía bản thân của sinh viên. Nhưng dù nói gì đi nữa thì thất nghiệp ngày càng tăng sẽ ảnh hướng không tốt đến tình hình phát triển xã hội của đất nước nhất là Việt Nam. Với số dân gần 80 triệu người và sẽ còn tăng trong những năm tới.lượng sinh viên ra trường ngày càng nhiều vì vậy việc làm là một vấn đề cấp bách của xã hội. Để tạo thêm công ăn việc làm thì không còn cách nào khác là phải mở rộng các ngành nghề sản xuất - kinh doanh.Muốn làm được điều này thì nhà nước cần phải thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia vào đầu tư, phát triển mở rộng sản xuất cũng như tạo ra các điều kiện thuận lợi về môi trường để họ có thể hoạt động thuận tiện hơn. Bên cạnh đó nhà nước cũng phải là người đi đầu, chủ trương trong việc thực hiện các trương trình quốc gia về khoa học – kỹ thuật cũng như đưa nó vào thực tiễn sản xuất nhằm nâng cao điều kiện sống cho người lao động. Nhà nước cũng cần đưa ra các chính sách hợp lý để thu hút và tạo điều kiện cho sinh viên vào học các ngành nghề kỹ thuật mà hiện nay một đất nước đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá rất cần đến. Nhà nước cũng nên có chính sách quan tâm đến những người làm việc, công tác tại những vùng sâu vùng xa, những vùng khó khăn để động viên họ cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ có thể yên tâm đem hết tâm huyết và năng lực ra phục vụ cho dất nước. Bên cạnh đó nhà nước cần tạo cơ hội để các trường đào tạo có điều kiện tiếp cận được với thị trường lao động để biết được tình hình thực tế cũng như những thay đổi về khoa học – công nghệ, các loại máy móc hiện đại để từ đó có thể cập nhập cho sinh viên một cách liên tục và kịp thời những sự thay đổi đó. Hiện nay rất nhiều đối tượng chọn trường đại học nhưng không có sự định hướng cho khả năng của đầu ra sau này mà chỉ chọn như một cái “mốt” với những ngành đang “nổi” như tài chính , Ngân hàng, bưu chính viễn thông…Đây là một tư tưởng tiêu cực có ảnh hưởng không tốt tới quá trình phát triển kinh tế – xã hội gây ra tình trạng thừa thiếu bất hợp lý.Và lại tâm lý hiện nay của nhiều bậc phụ huynh là bắt buộc phải vào được đại học. Nhưng chúng ta cũng cần biết rằng đại học chưa phải là con đường duy nhất để lập nghiệp.Vì vậy bản thân đối tượng được đào tạo cũng như các bậc phụ huynh cần phải đánh giá lại cách nhìn nhận làm sao để chọn cho con em mình và hoàn cảnh gia đình mình mà vẫn có ích cho xã hội .Những sinh viên ra trường cũng cần có một cách nhìn nhận đúng đắn hơn trong việc chọn cho mình một nơi làm việc. Kết luận Bằng việc phân tích cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả đã cho ta thấy được nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp của sinh viên là do chất lượng đào tạo không cao, một loạt những chính sách chưa hợp lý của nhà nước ,cá nhân mỗi sinh viên và do xã hội. Kết quả dẫn đến là ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của kinh tế của nước ta. Đất nước muốn phát triển thì sinh viên là những chủ nhân của đất nước, chính họ là những tiềm năng của mỗi nước, nên chúng ta phảI làm cáI gì đó để những tiềm năng này không bị mai một, không phảI chịu làm những công việc tráI với nghề nghiệp của mình. Nên việc cần thiết hiện nay là chúng ta cần phải tìm ra những giảI pháp nhằm thúc đẩy tình trạng trên theo một chiều hướng khác, nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Mục lục Lời nói đầu 1 Nội Dung 2 I. Cơ sở triết học 2 1.Cặp phạm trù nguyên nhân – kết qủa 2 2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân – kết quả 2 II. Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay 2 III. Nguyên nhân – Hậu quả - GiảI pháp của vấn đề này 3 1.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên 3 a.Từ phía nền kinh tế – xã hội 3 b.Từ chất lượng đào tạo 4 c.Về chính sách của nhà nước 4 d.Về bản thân và gia đình của mỗi sinh viên 5 2.Hậu quả của vấn đề này 5 3.GiảI pháp khắc phục tình trạng trên 5 Kết Luận 7 Tài liệu tham khảo Giáo trình triết học của trường Quản Lý Kinh Doanh Tài liệu trên lớp của thầy Nông Đức Kế Báo Sinh Viên Việt Nam Báo Lao động Trang www.tintucvietnam.com Đề cương tiểu luận triết học Đề tài: Vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường nhìn từ góc độ triết học Lời nói đầu Nội Dung I. Cơ sở triết học 1.Cặp phạm trù nguyên nhân – kết qủa 2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân – kết quả II. Thực trạng về sự thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường hiện nay III. Nguyên nhân – Hậu quả - GiảI pháp của vấn đề này 1.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên Từ phía nền kinh tế – xã hội Từ chất lượng đào tạo Về chính sách của nhà nước Về bản thân và gia đình của mỗi sinh viên 2.Hậu quả của vấn đề này 3.GiảI pháp khắc phục tình trạng trên Kết Luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0341.doc
Tài liệu liên quan