Vấn đề thất nghiệp của nước ta từ năm 2000 đến nay

Lời nói đầu Kinh tế nước ta đang trong thời kỳ phát triển rất cao.Đặc biệt, từ khi nước ta chính thức tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, sự phát triển đó mang lại cho chúng ta nhiều kết quả tuyệt vời như tốc độ tăng GDP cao, nhu cầu đời sống của đại bộ phận người dân được nâng lên.... Tuy nhiên, những vấn đề tiêu cực mà nó mang lại cũng đang đặt chúng ta trước những thách thức khó khăn lớn mà tiêu biểu trong đó là vấn đề thất nghiệp gia tăng. Trước tình hình đó, em đã viết đề án này để c

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề thất nghiệp của nước ta từ năm 2000 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó thể đưa ra 1 cái nhìn khách quan về "Vấn đề thất nghiệp của nước ta từ năm 2000 đến nay". Đề án này gồm có 3 phần chính sau: Phần đầu: Cơ sở lý luận về vấn đề thất nghiệp Phần hai: Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam Phần ba: Định hướng giải quyết việc làm trong thời gian tới Mục lục Lời nói đầu 2 Chương I: Cơ sở lý luận 3 I. Khái niệm về thất nghiệp 3 II. Các hình thức thất nghiệp 3 III. Đối tượng thất nghiệp 5 IV. Mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát 5 V. Các vấn đề khác có liên quan 8 1. Luật về tiền lương tối thiểu 8 2. Công đoàn và thương lượng tập thể 8 3. Lý thuyết về tiền lương hiệu quả 8 4. Các vấn đề xã hội khác 8 Chương II: Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam 9 I. Tổng quan về thất nghiệp và việc làm 9 1. Lực lượng lao động 9 2. Việc làm 14 II. Thực trạng thất nghiệp Việt Nam 15 Chương III. Định hướng giải quyết việc làm trong thời gian tới 18 I. Định hướng và mục tiêu giải quyết việc làm ở Việt Nam 18 II. Thị trường lao động 19 III. Giải pháp 20 IV. Khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế đối với các nước đang phát triển 23 Lời kết 24 Các tài liệu tham khảo 25 Chương I: Cơ sở lý luận I.Khái niệm về thất nghiệp Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định II.Các hình thức thất nghiệp: a.Thất nghiệp tự nhiên: là mức thất nghiệp bình thường mà nền kinh tế phải chịu,bao gồm: Thất nghiệp tạm thời: đây là hình thức thất nghiệp xuất hiện khi một số người thay đổi việc làm và bị thất nghiệp trong thời gian ngắn từ lúc rời công việc làm này đến khi tìm được công việc làm khác. Họ thường kiếm được công việc trong cùng lĩnh vực Nguyên nhân: Trong thị trường lao động luôn có một dòng người lao động có/mất việc làm, gia nhập/thoát ra khỏi lực lượng lao động. Đối tượng: những người tốt nghiệp đại học, người làm việc gia đình, những người rời bỏ/mất công việc. Giải pháp: Cần tìm việc tư nhân, quảng cáo của các doanh nghiệp cũng như người tìm việc, và các trung tâm tìm việc tư nhân, Chính phủ cần mở các trung tâm dịch vụ việc làm, dạy nghề của chính phủ, và cố gắng giảm việc tăng thêm những khoản Bảo hiểm Thất nghiệp. Thất nghiệp cơ cấu: là sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng có sự giảm sút kéo dài về nhu cầu lao động do thay đổi cơ cấu nền kinh tế Nguyên nhân: Khi có sự thay đổi về cơ cấu trong nền kinh tế, chúng ta thường có các ngành phát triển cùng với sự tăng lên về nhu cầu lao động cũng như các ngành có sự suy giảm. Sự dịch chuyển các ngành nghề xuất khẩu và nhập khẩu do thương mại quốc tế tự do hơn - trong 10 năm qua cả xuất khẩu và nhập khẩu của chúng ta đã tăng lên đáng kể trong phần trăm của nền kinh tế, báo hiệu một sự dịch chuyển lớn trong thị trường lao động trong các ngành xuất khẩu và ngành nhập khẩu cạnh tranh. Những vi mạch máy tính rẻ dẫn đến sự nở rộ về tự động hoá và robot hoá Những vấn đề trong các ngành dựa trên nguồn lực như là đánh cá và đốn gỗ. Những thay đổi trong thị trường thế giới đối với các sản phẩm nông nghiệp. Tính cứng nhắc của tiền lương(hay thất bại của tiền lương trong việc điều chỉnh về trạng thái cân bằng cung cầu về lao động. đôi khi tiền lương bị mắc ở mức cao hơn mức làm cân bằng thị trường, vì thế lượng cung về lao động lớn hơn lượng cầu Đối tượng: những lao động ở không đúng khu vực hoặc có kỹ năng không phù hợp Giải pháp: Họ phải tự thân cố gắng đào tạo lại, tự thân thay đổi chỗ ở hoặc nghỉ hưu Chính phủ cần trợ cấp đào tạo lại, trợ giúp việc phân bổ lại theo vùng Thất nghiệp theo mùa: thường do thực tế là một số công việc chỉ thực hiện được theo mùa nhất định Nguyên nhân: do tính chất của công việc hoặc do thời tiết Giải pháp: tìm việc tư nhân, quảng cáo của các doanh nghiệp cũng như người tìm việc, và các trung tâm tìm việc tư nhân,trung tâm dịch vụ việc làm của chính phủ, và cố gắng giảm việc tăng thêm những khoản Bảo hiểm Thất nghiệp b.Thất nghiệp tiềm ẩn: người có khả năng và muốn làm việc ko đi tìm việc làm và ko đăng ký thất nghiệp nên ko nằm trong số liệu thống kê chính thức về thất nghiệp Nguyên nhân: họ không gặp áp lực lớn khi không tìm được việc, việc đăng ký thất nghiệp không có lợi ích gì cho họ Đối tượng: phụ nữ làm nội trợ tại gia đình,… c.Thất nghiệp chu kỳ: xảy ra khi có sự giảm sút của hoạt động kinh doanh trong giai đoạn suy thoái hay đình trệ của chu kỳ kinh tế Nguyên nhân: Sự sụt giảm nhu cầu lao động phát sinh từ việc giảm tổng sản phẩm trong nền kinh tế Thực tế mức lương có xu thế ít thay đổi, và giảm xuống dần dần – mức lương thực tế trở nên quá cao trong thời kỳ suy thoái, từ đó dẫn đến việc doanh nghiệp thuê ít lao động hơn Giải pháp: đàm phán lại mức lương cuối cùng ở một mức thấp hơn Cần tăng chi tiêu của chính phủ nên hiệu ứng số nhân sẽ dẫn đến tăng nhu cầu về lao động Chính phủ cũng cần thực hiện chính sách tài chính ngược chu kỳ và chính sách tiền tệ ngược chu kỳ làm giảm mức lương thực tế bằng cách tăng giá lên d.Thất nghiệp hữu hình: mức lương ko đáp ứng đc nhu cầu hoặc kỳ vọng của người lao động e.Thất nghiệp trá hình: thời gian lao động thực tế ít, thiếu việc làm hoặc năng suất lao động thấp, ko góp phần tạo ra thu nhập cho xã hội. Nguyên nhân: do giới hạn về đất đai nông nghiệp, do khu vực kinh tế phi nông thôn chậm phát triển Đối tượng: chủ yếu xảy ra ở khu vực nông thôn(trình bày nơi cư trú, đặc điểm của mỗi loại đối tượng III.Đối tượng thất nghiệp: Người lao động có trình độ, kỹ năng thấp ko đáp ứng yêu cầu công việc Nông dân thiếu và mất đất sản xuất Công nhân bị thay thế công việc bằng máy móc hoặc công nghệ tiên tiến hơn Lao động nc ngoài về nc nhưng có yêu cầu về thu nhập quá cao Người về hưu nhưng có nhu cầu lao động Học sinh viên viên mới ra trường Người trong thời gian chuyển chỗ làm việc IV.Mối quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát Từ những năm 1960 của thế kỉ trước, người ta đã khám phá ra mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp, kiểm chứng bởi hàng loạt các dữ liệu thống kê ghi nhận từ nhiều nền kinh tế. Điều này có nghĩa, các nhà hoạch định chính sách kinh tế buộc phải đánh đổi thất nghiệp cao để giảm lạm phát hay ngược lại. Tức là họ buộc phải chấp nhận tăng cầu thông qua các chính sách tài khóa và tiền tệ để đổi được khả năng giảm thất nghiệp và điều này đồng nghĩa với việc chấp nhận một mức giá mới cao hơn. Tuy nhiên có một vài vấn đề liên quan tới quan điểm này khi người ta nhìn vào lý thuyết kinh tế vi mô về hành vi từng doanh nghiệp, từng hộ gia đình. Và nếu theo đó thì xem ra theo lý thuyết thất nghiệp chẳng bao giờ giảm tới con số 0. Tuy nhiên trên khía cạnh khác, tỉ lệ thất nghiệp lại được đo bởi mức cân bằng cung cầu của thị trường lao động. Thế nên, bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước Edumnd Phelps đã có cái nhìn khác về lý thuyết mối quan hệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp. Ông cho rằng, lạm phát không chỉ lệ thuộc vào thất nghiệp mà còn phụ thuộc vào dự tính của doanh nghiệp, của người lao động về khả năng tăng lên của giá cả, của mức lương. Từ đó ông xây dựng lý thuyết mà sau lễ trao giải Nobel Kinh tế 2006 này chúng ta được biết tới với cái tên Đường cong Phillips Bổ sung Kỳ vọng (Expectation - augmented Phillips). Khác với trước đây, lý thuyết mới cho thấy, với một tỉ lệ thất nghiệp cho trước, 1% tăng thêm trong dự kiến về lạm phát sẽ dẫn tới việc tăng thêm 1% lạm phát trên thực tế. Lý thuyết mới về lạm phát và thất nghiệp từ đó cũng đưa ra cái nhìn mới trái ngược với quan điểm về sự ổn định của việc mở rộng chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ sẽ giúp tăng công ăn việc làm. Cũng theo Edmund S.Phelps, về dài hạn không có mối quan hệ giữa lạm phát, thất nghiệp và cân bằng trong thất nghiệp chỉ được định đoạt bởi các nhân tố từ thị trường lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, lạm phát cao của hôm nay là nguồn gốc cho khả năng gia tăng lạm phát trong tương lai. Hay nói cách khác, để chặn lạm phát trong tương lai, tốt hơn hết là tìm giải pháp xóa bỏ những lo lắng về tương lai lạm phát ở hiện tại. Từ lý thuyết mới của Edmund S.Phelps cũng cho ta hiểu tại sao có thời điểm như những năm 1970, cả lạm phát và thất nghiệp ở nhiều nền kinh tế đều tăng. Hay lý giải việc nhiều Ngân hàng TƯ chống thất nghiệp bằng con bài tỉ giá song hiệu quả đôi lúc chẳng thấy đâu. Từ việc nhìn nhận về lạm phát và thất nghiệp, Giáo sư Phelps cũng đưa ra cái nhìn mới cho những nhận định về cái gọi là quy tắc vàng trong thông tin vốn. Theo đó sự thay đổi của tỉ lệ tiết kiệm từ cấp độ này lên cấp độ khác có khả năng phát sinh xung đột phân phối. Tuy nhiên, theo Edmund S.Phelps, có khả năng phát sinh cái gọi là Bất hiệu quả năng động - khi việc dự trữ tiền ở một số nền kinh tế là quá lớn và người ta có thể tăng phúc lợi cho nhiều thế hệ trong khi vẫn giảm tỉ lệ tiết kiệm. Nói khác đi, dù lượng tiền dư thừa có thấp, sản xuất có giảm, song trong một nền kinh tế tiết kiệm ít vẫn có tác động kích thích tiêu dùng - để từ đó đẩy nhanh tốc độ phát triển, và nới rộng quy mô kinh tế. Trong các công trình nghiên cứu của mình, Giáo sư Phelps, người từng làm việc nhiều năm với nhà kinh tế nổi tiếng Richard Nelson hồi giữa thập kỉ 60 cũng khẳng định tầm quan trọng của việc đầu tư cho giáo dục. Con người, cùng với công nghệ là chìa khóa để các nước nghèo “bắt kịp” tốc độ phát triển của các nước giàu. Điều này cũng lý giải tại sao tăng trưởng GDP ngày càng bộc lộ rõ sự phụ thuộc vào nguồn vốn nhân lực, thay vì chỉ dựa vào tốc độ tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Không có người thất nghiệp, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế cao là mục đích trọng tâm của chính sách kinh tế. Nhưng những người ra chính sách luôn phải đối mặt với sự xung đột: Làm sao để cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp? Làm sao để cân bằng giữa tiêu phí hiện nay và tích lũy sau này? Edmund S. Phelps đã đưa ra kiến thức về sự cân bằng trong 2 lĩnh vực trên. Ông đã nêu ra không chỉ công thức về tích lũy vốn mà còn cả về cách cân bằng giữa lạm phát thất nghiệp là vấn đề cơ bản để phân phối phúc lợi qua các thời kỳ. Phân tích của Phelps có tầm sâu sắc trong lý thuyết kinh tế cũng như chính sách kinh tế vĩ mô. Theo quan điểm thịnh hành hồi những năm 60, giữa lạm phát và thất nghiệp tồn tại mối liện hệ ổn định ngầm được được thể hiện trong biểu đồ Phillips (Phillips curve). Mối liên hệ đó được xác nhận bằng dữ liệu kinh tế ở vài quốc gia. Ngụ ý của nó là, trong chính sách kinh tế, người ta có thể lựa chọn giữa hoặc là lạm phát thấp, hoặc là thất nghiệp thấp, và thông qua chính sách tài chính và tiền tệ thì có thể giảm thất nghiệp. Theo biểu đồ Phillip, điều đó sẽ phải trả giá bằng lạm phát đột xuất (one-time increase). Nhưng có vài trục trặc với quan điểm trên. Biểu đồ Phillip chỉ thể hiện được mối liên hệ thuần túy giữa các thống kê mà chưa chỉ ra mối liên hệ rõ ràng nào với các thuyết kinh tế vi mô về thói quen của người sản xuất và tiêu dùng. Nó cũng không đưa ra được lý thuyết về giảm thiểu tối đa số thất nghiệp. Nhìn chung người ta chấp nhận rằng tỷ lệ thất nghiệp không thể nào giảm tới “zero”, nhưng chưa có ai chỉ ra được tỷ lệ thất nghiệp nào thì cân bằng với thị trường lao động. Khung lý thuyết mà Phelps dựng nên từ cuối những năm 60 giúp giải thích vì sao cả lạm phát lẫn thất nghệp đều gia tăng trong những năm 70. Cuối những năm 60, Edmund Phelps đã thách thức những quan điểm trước đó về mối liên hệ giữa lạm phát và thất nghiệp. Ông nhận ra, lạm phát không chỉ phụ thuộc vào thất nghiệp mà còn phụ thuộc vào kì vọng của các công ty và người lao động về biến động giá và tăng lương. Ông đưa ra mô hình mà ban đầu được gọi là “Biểu đồ gia tố kỳ vọng Phillips” (expectations-augmented Phillips curve). Nó cho thấy, ở một tỷ lệ thất nghiệp nhất định, tỉ lệ lạm phát kỳ vọng (expected inflation) tăng lên sẽ khiến lạm phát thực sự tăng lên. Khi đặt giá và thương thảo lương, ông chủ và người làm công dựa trên sự kì vọng tăng giá và tăng lương nói chung. Giả thiết đó được chấp nhận rộng rãi và được củng cố bởi kết quả các nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm (empirical research). Phân tích của Phelps trái ngược với quan điểm trước đó cho rằng có thể dùng chính sách tài chính và tiền tệ để khống chế tỷ lệ thất nghiệp. Ông kết luận rằng không có sự cân bằng dài hạn giữa lạm phát và thất nghiệp trong khi lạm phát kì vọng đang trở thành lạm phát thật sự. Về lâu dài, nền kinh tế sẽ tiếp cận tới tỷ lệ thất nghiệp cân bằng (equilibrium unemployment rate), khi mà mức lạm phát thật sự trùng khớp với lạm phát kì vọng. Thị trường lao động sẽ quyết định mức cân thất nghiệp cân bằng như thế nào. Nỗ lực làm giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức cân bằng sẽ chỉ gây lạm phát liên tiếp. Chính sách làm ổn định vẫn có vai trò quan trọng việc kiềm chế dao động tỷ lệ thất nghiệp quanh mức cân bằng. Các nghiên cứu của Phelps nhấn mạnh việc phân tích các chính sách kinh tế hôm nay sẽ ảnh hưởng tới sự ổn định trong tương lai như thế nào: lạm phát cao ngày hôm nay có nghĩa là lạm phát kì vọng sẽ cao hơn trong tương lai, vì thế phác thảo các chính sách cho tương lai càng khó khăn hơn. Chính sách duy trì lạm phát ở mức thấp cũng có thể xem là để giảm mức lạm phát kỳ vọng - một lựa chọn có lợi cho mức lạm phát và thất nghiệp trong tương lai hơn là các phương án khác. Phelps cũng đưa ra mô hình đầu tiên về những yếu tố quyết định tới cân bằng thất nghiệp. Trong mô hình đó, các công ty định ra mức lương để tác động tới số lao động. Càng nhiều công ty muốn tăng lực lượng lao động thì tỷ lệ thất nghiệp càng giảm, mức lương đưa ra phải càng cao. Phelps chỉ ra sự tồn tại của tỷ lệ thất nghiệp cân bằng duy nhất được tính theo mức tăng lương của công ty và mức tăng lương kỳ vọng. Sự sáng tạo của Phelps là đã bắt đầu từ những giả định về hành vi hay các yếu tố cá nhân trong thị trường lao động. Phelps cũng là người đầu tiên tích hợp giả thiết về hiệu lực của lương vào lý thuyết kinh tế vĩ mô. Giả thuyết đó cho rằng đầu tư sinh lời nhất của một công ty là trả lương cao để nâng cao tinh thần người lao động, giảm thiểu số người chuyển việc và thu hút lao động có kĩ năng cao hơn. Cơ chế đó cũng giúp đưa tỷ lệ thất nghiệp về mức cân bằng. Phelps không phải là người duy nhất chỉ trích biểu đồ Phillips hồi cuối thập kỷ 60. Milton Friedman (giải Nobel năm 1976) cũng nhấn mạnh tới vai trò của lạm phát kỳ vọng. Khác với Friedman, Phelps nhấn mạnh tới sự tác động từ thất nghiệp tới lạm phát (không định trước). Đóng góp của Phelps đã thay đổi cơ bản quan điểm của các nhà kinh tế về cách thức điều hành kinh tế vĩ mô. Khung lý thuyết mà ông dựng nên từ cuối những năm 60 giúp giải thích vì sao cả lạm phát lẫn thất nghệp đều gia tăng trong những năm 70. Ông cũng làm sáng tỏ tính hạn chế của các chính sách kinh tế vĩ mô. Một ví dụ là ngày nay các ngân hàng trung ương thường quyết định tỷ lệ lãi suất dựa trên đánh giá tỷ lệ thất nghiệp cân bằng và sự cân bằng giữa tác động của chính sách tới các lĩnh vực khác nhau. V. Các vấn đề khác có liên quan 1.Luật về tiền lương tối thiểu Luật tiền lương tối thiểu tạo ra mức tối thiểu bắt buộc của tiền lương mà các doanh nghiệp phải trả cho người lao động của mình, bất kể thị trường có cân bằng hay không. Với hầu hết người lao động mức lương này không có ý nghĩa ràng buộc nhưng với lao động không lành nghề và không có kinh nghiệm mức lương này cao hơn giá trị sức lao động mà họ bỏ ra và cũng cao hơn mức cân bằng của thị trường. Các công trình nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế đã phát hiện ra rằng: khi tiền lương tối thiểu tăng 10% thì số người có việc làm trong đội ngũ không lành nghề này giảm từ 1 – 3 % 2.Công đoàn và thương lượng tập thể Công đoàn là hội đoàn của những người lao động (“nlđ”) cùng một ngành nghề, hay cùng một công xưởng, để bảo vệ cho quyền lợi của thành viên. Công đoàn không chỉ làm tăng tiền lương mà còn làm tăng sức mạnh của người lao động trong các cuộc thương lượng về nhiều vấn đề khác nữa chẳng hạn số giờ lao động và điều kiện làm việc. Tiền lương của người lao động tham gia công đoàn không phải do trạng thái cung cầu, mà do các cuộc thương lượng tập thể giữa những người lãnh đạo công đoàn và hội đồng quản trị doanh nghiệp quyết định. Kết quả số lượng người lao động được thuê giảm xuống và số người thất nghiệp tăng lên 3.Lý thuyết về tiền lương hiệu quả Những lý thuyết này quả quyết rằng tiền lương cao làm cho năng suất cao hơn. Ảnh hưởng của tiền lương đối với hiệu qủa của lao động dẫn đến thất bại của doanh nghiệp trong việc cắt giảm tiền lương ngay cả khi tồn tại tình trạng dư cung về lao động: Tiền lương ảnh hưởng đến dinh dưỡng và sức khỏe của người lao động từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động Tiền lương cao làm giảm tình trạng bỏ việc qua đó giảm thời gian tuyển mộ và đào tạo người lao động mới Chất lượng bình quân của lực lượng lao động trong doanh nghiệp phụ thuộc vào mức lương mà nó trả cho người lao động của mình. Thông qua việc trả lương trên mức cân bằng, doanh nghiệp có thể giảm bớt sự lựa chọn bất lợi là những lao động giỏi nhất tìm việc ở nơi khác và nâng cao chất lượng bình quân của lực lượng lao động qua đó làm tăng được năng suất lao động của họ Mức lương cao làm tăng nỗ lực của người lao động: tiền lương cao, tổn thất mà người lao động phải chịu khi bị phát hiện trốn việc và đuổi việc càng lớn 4. Các vấn đề xã hội khác Vấn đề trợ cấp thất nghiệp: trợ cấp thất nghiệp giúp người lao động bị thất nghiệp giảm bớt gánh nặng về tài chính nhưng nó cũng khiến cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên do động lực đi tìm việc của họ bị giảm bớt đi. Cùng với đó, khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao thì khoản trợ cấp thất nghiệp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn nền kinh tế Tỉ lệ ăn theo: tỷ lệ này luôn tỷ lệ thuận với tỷ lệ thất nghiệp vì với toàn nền kinh tế khi có một người thất nghiệp thì cũng có nghĩa là có 1 người “ăn theo”. Mặc dù trong những người “ăn theo” không chỉ gồm những người thất nghiệp nhưng nó cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Tỷ lệ ăn theo cũng là một chỉ số quan trọng cùng với tỷ lệ thất nghiệp để đánh giá mức độ lành mạnh của nền kinh tế Bất bình đẳng: khi vấn đề bất bình đẳng được giải quyết thì sẽ có nhiều hơn những người trong độ tuổi lao động tham gia vào thị trường lao động. Nếu nền kinh tế không giải quyết tốt thì cũng làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Tuy nhiên đây là vấn đề tất yếu khách quan khi các quốc gia đang trên con đường phát triển. Các tệ nạn xã hội: một tỷ lệ lớn số tội phạm hiện nay là do thiếu tiền, thất nghiệp. Vì vậy có thể nói thất nghiệp là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc các tệ nạn xã hội gia tăng Chương II: Thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam I.Tổng quan về lao động và việc làm 1. Lực lượng lao động Các chỉ tiêu chủ yếu về xã hội Chỉ tiêu (đến năm 2005) Đơn vị tính Chỉ tiêu kế hoạch 2001-2005 Ước thực hiện 2001-2005 1. tỷ lệ sinh giảm % .05 .04 2. tốc độ tăng dân số % 1.2 1.42 3. Tạo việc làm mới (tổng số 5 năm) Tr. Người 7.5 7.5 4. tỷ lệ lao động qua đào tạo % 30 25 5. tỷ lệ trẻ em đi học THC Strong độ tuổi % 80 80 6. tỷ lệ trẻ em đi học THPT trong độ tuổi % 45 40 7. tỷ lệ hộ đói nghèo % Dưới 10% Dưới 7% 8. tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi % 22-25 24 9. tuổi thọ bình quân Tuổi 70 71.3 10. cung cấp nước sạch nông thôn % 62 62 Với dân số khoảng 86 triệu người trong đó lực lượng lao động chiếm 54,8% (tương đương 46,61 triệu người), nước ta được coi là 1 nước có cơ cấu dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào. Mặc dù có 45,6 triệu lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế nhưng chúng ta có cơ cấu lao động các ngành chưa hợp lý với đa số lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và ở khu vực nông thôn. Điều này càng khẳng định nước ta vẫn là 1 nước nông nghiệp. Nông nghiệp 52.80% Công nghiệp 18.93% Dịch vụ 28.26% Chất lượng lao động của nước ta là vấn đề đánh lo ngại trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Chất lượng lao động được nghiên cứu dựa trên nhiều tiêu chí như: kỹ năng nghề nghiệp, sức khỏe, ý thức của người lao động,… Chất lượng đào tạo nhân lực nhất là ở bậc đại học nhìn chung còn thấp so với mục tiêu giáo dục, với yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế xã hội và với trình độ các nước trong khu vực có mặt còn non kém. Nội dung, phương pháp dạy đại học chưa đáp ứng tốt yêu cầu chuẩn bị nhân lực cho công nghiệp hóa rút ngắn và trình độ chưa theo kịp phát triển khoa học công nghệ hiện đại. Việc học tập ở mọi cấp học bị chi phối nặng nề bởi tâm lý bằng cấp; phương pháp giáo dục nặng về áp đặt, chưa khuyến khích sự năng động, sáng tạo của người học, chưa coi trọng năng lực tư duy và năng lực thực hành Hiện nay lao động đã qua đào tạo của nước ta mới chỉ có 32% và chỉ có 14,4% lao động thấp.có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn- đây là 1 tỷ lệ rất thấp. Mỗi năm chúng ta đào tạo ra hơn 1 triệu lao động chủ yếu từ các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trường nghề nhưng đội ngũ lao động này chỉ được dạy nhiều về lý thuyết chứ ko được đào tạo nhiều về kỹ năng chuyên môn vì thế khi ra trường họ chưa có đủ trình độ đáp ứng được ngay yêu cầu của công việc. Một nghiên cứu cho thấy việc đào tạo của chúng ta còn mất cân đối trong đào tạo ngành nghề. Hơn 50% sinh viên được hướng vào 3 ngành vàng là quản trị, báo chí và luật nhưng nhu cầu việc làm của những ngành nghề này không cao đặc biệt với lượng kiến thức được trang bị thì 1 cử nhân ko thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì thế rất nhiều trong số những sinh viên này sau khi ra trường đã tìm những công việc ko dính dáng gì đến ngành nghề của mình cả thậm chí là những công việc lao động phổ thông như bưng bê ở các quán cơm bình dân,oshin, tiếp thị. Phần còn lại gần 50% sinh viên các ngành nghề kỹ thuật được đạo tạo thì mới chỉ biết được những kiến thức cơ bản chưa có chuyên môn cao. Ví dụ như ngành công nghệ thông tin, với số lượng lớn các trường từ cấp dạy nghề đến cấp đại học đào tạo với điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên có trình độ khác nhau nhưng sinh viên mới chỉ được trang bị những kiến thức đơn giản về máy tính chứ chưa được đào tạo thành những chuyên gia về lập trình, tài chính, xây dựng,…Việc đào tạo này diễn ra tràn lan từ năm này qua năm khác không cần biết đến nhu cầu của thị trường. Vì thế tình trạng sau khi ra trường của đội ngũ sinh viên này cũng không khả quan hơn.Theo bảng số liệu do PGS.TS Đặng Quốc Bảo cung cấp thì tỉ lệ lao động không có chuyên môn ở Hà Nội hiện là 41,4%, Hải Phòng 64%, Đà Nẵng 54,4%, TP.HCM 55% và Bà Rịa Vũng Tàu là 62,9%.Thậm chí trong 13500 giáo sư tiến sĩ khoa học Việt Nam thì chỉ có 500 người (chiếm 3,7%) có sản phẩm được quốc tế công nhận. Theo nguồn số liệu của Viện chiến lược và chương trình giáo dục công bố năm 2004: Chỉ số tổng hợp về chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực của Việt Nam là 3.79 điểm Chỉ số sự thành thạo tiếng anh là 2.62 điểm Chỉ số sự thành thạo công nghệ cao là 2.5 điểm Chất lượng đào tạo kém cùng với nền kinh tế quá quan tâm đến bằng cấp khiến cho mục đích học của người học cũng thay đổi, họ học ko phải vì kiến thức mà để có một tấm bằng rồi lại dùng nó để xin những công việc vượt quá khả năng của họ. Sức khỏe của người lao động kém cũng là một vấn đề đáng lưu tâm. Với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chế độ dinh dưỡng thiếu khoa học, chất lượng bữa ăn còn thấp tạo cho người lao động nước ta có sức khỏe chỉ ở mức trung bình. Cùng với đó là điều kiện làm việc chưa được đảm bảo, an toàn lao động chưa được quan tâm đúng mức từ đó dẫn đến nguy cơ xảy ra tai nạn lao động với người lao động cao. Một kết quả khảo sát của Viện khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động cho thấy 40% doanh nghiệp không có cán bộ y tế và 44% doanh nghiệp không tổ chức khám sức khỏe khi tuyển dụng lao động và khám sức định kỳ cho người lao động. Ý thức kỷ luật của người lao động là vấn đề đáng quan tâm nhất. Mặc dù lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển giao từ bên ngoài nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp. Người lao động hay có hiện tượng trốn việc, đi làm muộn, gây gổ đánh nhau, ý thức bảo vệ tài sản chung còn kém. Những điều này dẫn đến năng suất lao động của họ thấp, tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế không được khả quan. Ngoài ra kỹ năng làm việc theo nhóm cũng như khả năng hợp tác để hoàn thành công việc của lao động Việt Nam quá yếu kém. Vì thế nếu một công việc cá nhân thì họ làm tốt nhưng nếu làm việc tập thể thì năng suất lao động giảm xuống rõ rệt và trong nhiều trường hợp công việc đã không được hoàn thành đúng như yêu cầu của cấp trên Sự hiểu biết về luật pháp của họ còn khá nhiều hạn chế. Đa số người lao động chưa từng đọc qua luật lao động vì thế họ ko biết mình có quyền lợi gì. Vì thế họ thường phải gánh chịu thiệt thòi khi tham gia thị trường lao động. Các hợp đồng lao động thường là hợp đồng miệng hoặc không đúng với trình tự và yêu cầu của một hợp đồng lao động nên hệ thống khó có thể bảo vệ họ khi các quyền lợi cá nhân của họ bị xâm phạm. Họ thường không được người sử dụng lao động mua bảo hiểm lao động, làm việc ở điều kiện môi trường không đảm bảo, làm quá số giờ quy định, hưởng lương không đúng, bị trừ lương khi mắc lỗi, gây khó khăn khi muốn chuyển công ty… Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng... nên nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng”. Trong khi đó, nhu cầu lao động đang có xu hướng tăng cả về số lượng và chất lượng, chủ yếu do nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là số doanh nghiệp mới thành lập ngày càng nhiều. Ngoài ra, nhiều người lao động chưa có trình độ ngoại ngữ đủ để làm việc, dù rằng trên thực tế tình trạng này đang được cải thiện nhờ ngày càng có nhiều người nước ngoài đến Việt Nam cũng như một số người Việt được đào tạo ở nước ngoài quay về nước làm việc. Hiện nay, cả nước có hơn 240.000 doanh nghiệp, thu hút khoảng 9 triệu lao động. Dự kiến đến năm 2010, nước ta có khoảng 500.000 doanh nghịêp, góp phần tạo thêm 2,7 triệu chỗ làm việc mới cho người lao động. Nhu cầu đào tạo mới nghề cho lao động là rất lớn, chưa kể nhu cầu đào tạo, đào tạo lại cho số lao động hiện có. Đặc điểm lao động Việt Nam được xuất khẩu lao động ra nước ngoài Lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc nhìn chung có ưu điểm nổi bật là cần cù, chịu khó, khéo tay, tiếp thu nhanh. Tuy nhiên, số người có chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm khoảng 1/3 và người mới chỉ thâm nhập được vào những lĩnh vực không đòi hỏi trình độ tay nghề cao và thông thạo về ngoại ngữ. Đây cũng là tình trạng chung của các nước đang phát triển. Vì vậy sự cạnh tranh trên thị trường lao động đối với Việt Nam càng lớn hơn. Ngoài ra lao động Việt Nam còn bộc lộ những nhược điểm làm giảm tính cạnh tranh của chính mình, đó là thể lực yếu, kỷ luật lao động yếu, ngoại ngữ kém, tính cộng đồng không cao và chưa có tác phong công nghiệp trong làm việc và lối sống. Về trình độ tay nghề, phần lớn lao động Việt Nam không qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, trung bình chiếm khoảng ¾ tổng số lao động xuất khẩu Về loại hình ngành nghề, lao động xuất khẩu của Việt Nam tập trung vào một số ngành sau: nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 60%; xây dựng, công nghiệp: 16% và dịch vụ:24% Về lứa tuổi, do phía đối tác nước ngoài yêu cầu lứa tuổi người lao động từ 18-35 tuổi nên lao động Việt Nam cũng chỉ tập trung và lứa tuổi này, trong đó 18-25 tuổi chiếm khoảng 27% còn lại là 25-35 tuổi 2. Việc làm Thu nhập sụt giảm đang là vấn đề trầm trọng tại Nam Á, nơi có 4 trong số 10 thanh niên kiếm chưa tới 1USD/ngày và chỉ có 1 trong số 10 người là có khả năng nuôi sống gia đình với mức thu nhập trên mức đói nghèo 2USD/ngày. Theo báo cáo của 6 tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn, nhu cầu của các doanh nghiệp này trong giai đoạn 2008-2012 lên tới 80.000-90.000 người, trong đó số lao động có trình độ cao đẳng là 24.000 người. Về cơ cấu, qua khảo sát ở 40 doanh nghiệp, trong thời gian tới, số lao động cần tuyển, lao động qua đào tạo nghề chiếm trên 40%, lao động có trình độ cao đẳng, đại học chiếm khoảng 18%, còn lại là lao động phổ thông. Theo báo cáo của VINASHIN, trong số nhu cầu nhân lực đến năm 2010 và 2015 của tập đoàn, số lao động qua đào tạo nghề chiếm từ 60-70%, tỷ lệ cao đẳng, đại học từ 22-26%. Ở đồng bằng sông Cửu Long, khi mất đi 1ha đất nông nghiệp trồng cây lâu năm thì mất đi 3,5 việc làm và 0,3 việc làm dịch vụ nông nghiệp Theo ông Nguyễn Hữu Hoài Phú - chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn TP.HCM, cuộc điều tra (năm 2006) trên nhóm người bị thu hồi đất cho thấy “số lao động nông nghiệp chuyển sang lao động công nghiệp có tăng nhưng không nhiều, từ 3,1 lên 6,6%”, trong khi sau khi bị thu hồi đất số lao động nông nghiệp thất nghiệp tăng từ 28,1 lên 38,8%. Kết quả điều tra còn cho thấy sau khi bị thu hồi đất, thu nhập bình quân của hộ gia đình khoảng 25,3 triệu đồng/năm, giảm khoảng 13% so với trước đó Số lao động có việc làm năm 2007 tăng 2,3% so với năm 2006, trong khi con số này của năm 2006 là 2,7% so với năm 2005. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm, song tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên lại tăng. Mặt khác khi lạm phát cao đã làm giảm thu nhập thực tế của nhiều nhóm xã hội. Từ chỗ chỉ có 15 nước tiếp nhận lao động Việt Nam vào năm 1995 với trên 10 ngàn lao động, đến nay lao động Việt Nam đã có mặt trên 40 nước và vùng lãnh thổ, với khoảng 400 ngàn lao động. Các thị trường trọng điểm là Malayxia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản Nhưng dù là nước xuất khẩu lao động, hiện Việt Nam cũng đang phải “nhập khẩu lao động có chuyên môn kỹ thuật cao vào làm việc trong các doanh nghiệp vốn FDI, các dự án công ty nước ngoài trúng thầu và văn phòng đại diện nước ngoài. Những ngành nghề mở nhiều việc làm mới và bị thu hẹp. Nhìn chung, bốn khu vực sẽ tạo ra nhiều việc làm mới bao gồm những ngành nghề liên quan đến vốn đầu tư nước ngoài, xuất nhập khẩu, năng lực cạnh tranh cao và doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh bao gồm: cơ khí, thép, đóng tàu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21491.doc
Tài liệu liên quan