Vấn đề tăng trưởng kinh tế & công bằng xã hội nhìn từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

Tài liệu Vấn đề tăng trưởng kinh tế & công bằng xã hội nhìn từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: ... Ebook Vấn đề tăng trưởng kinh tế & công bằng xã hội nhìn từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1539 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề tăng trưởng kinh tế & công bằng xã hội nhìn từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÓI ĐẦU Mùa thu 2-9-1945 đã đánh một dấu mốc quan trọng trong lịch sử :sự ra đời của chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kể từ đó với ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, để rồi đến 30-4-1975 nước ta đã giành được độp lập, hai miền Nam, Bắc thống nhất.Ta vẫn kiên định trên con đường xã hội chủ nghĩa, bắt tay vào công cuộc kiến thiết đất nước, chúng ta quyết tâm làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các dân tộc trên thế giới, đây là vấn đề có tính vĩ mô mà không thực hiện tốt nó thì sẽ không thể đưa đất nước thực sự đi lên. Quan điểm của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từng bước và trong suốt quá trình phát triển Từ sau công cuộc đổi mới, nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá và gần đây là kinh tế thị trường chúng ta đã thực sự đạt được những thành tựu to lớn: nền kinh tế tăng trưởng vào loại khá trong khu vực, lạm phát thấp, giáo dục và y tế có nhiều tiến bộ…nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít những hạn chế như: sự thoái hoá biến chất của một số cán bộ nhà nước, vấn đề an ninh,an toàn xã hội chưa được đảm bảo… Đó chính là những biểu hiện của việc không giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Việc thực hiện cả hai mục tiêu trên quả là không đơn giản chút nào, chúng ta không thể ngồi chờ kinh tế phát triển cao, dân giàu lên, mới thực hiện sự công bằng và tiến bộ xã hội. Chúng ta cũng không thể hi sinh sự tiến bộ, công bằng xã hội để phát triển kinh tế một cách thuần túy. Bài toán giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công băng xã hội quả là một bài toán khó nhưng không phải là không có lời giải. Với cái nhìn từ góc độ triết học, bài tiểu luận triết học này hi vọng sẽ làm sáng rõ phần nào vấn đề vô cùng cấp thiết trên. CHƯƠNG 1 MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN- MỘT TRONG HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT 1.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ thì cái gì quy định mối liên hệ đó? Trong lịch sử triết học, đã có rất nhiều những quan điểm khác nhau để trả lời cho câu hỏi trên. Những người theo quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Chẳng hạn, bão từ diễn ra trên mặt trời sẽ tác động đến từ trường của trái đất và do đó, tác động đến mọi sự vật, trong đó có cả con người; hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá sự khủng hoảng kinh tế của một nước không chỉ làm ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ấy mà còn làm ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước xung quanh, thậm chí là nền kinh tế của toàn thế giới… Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng, mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng với các sự vật hiện tượng khác. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất của một con người cụ thể thông qua mối liên hệ sự tác động qua lại của con người đó với người khác, đối với xã hội, tự nhiên, thông qua những hoạt động của người đó. Ngay tri thức của con người cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận dụng vào hoạt động cải biển tự nhiên, cải biển xã hội và chính con người 1.2 Các tính chất của mối liên hệ 1.2.1 Tính khách quan Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là vốn có của mọi sự vật hiện tượng. Thật vậy, hãy chú ý quan sát những gì đang diễn ra xung quanh mình bạn sẽ thấy điều đó, từ những vật vô tri vô giác cũng đang hằng ngày phải chịu sự tác động của các yếu tố khác( tự nhiên: nước, không khí, ánh sáng…đôi khi cũng chịu sự tác động của con người ) cho đến con người- một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên, dù muốn hay không cũng phải chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân 1.2.2 Tính phổ biến Tính phổ biến thể hiện ở: Thứ nhất, bất kí sự vật hiện tượng nào cùng liên hẹ với sự vật hiên tượng khác và không có một sự vật nào là nằm ngoài mối liên hệ. Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù cho dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biển, chung nhất. Những hình thức liên hệ riêng rẽ, cụ thể được các nhà khoa học cụ thể nghiên cứu. Phép biện chứng chỉ nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất của thế giới, vì thế Ăngghen đã viết: “ phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”. Dựa vào tính đa dạng, nhiều vẻ của thế giới có thể phân chia ra các cặp mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên, mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ riêng bao quát một lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới, mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp…. Trong một sự vật thường có nhiều rất nhiều loại mối liên hệ chứ không chỉ một loại, mỗi loại lại có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển cúa sự vật. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định. sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các thuộc tính, các mặt của sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định đênsự tồn tại vầ phát triển của sự vật, có thể lấy một ví dụ đơn giản như là: sự lĩnh hội tri thức của một người trước hết bị quyết định bởi chính người đó, sự tác động bên ngoài( điều kiện học tập..) dù có đầy đủ bao nhiêu đi chăng nữa mà người học bản thân họ lại không tự cố gắng thì cũng không bao giờ lĩnh hội được tri thức. Đất nước ta có tranh thủ được thời cơ, vượt qua được thử thách do nền kinh tế đem lại hay không, trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào Đảng, của Nhà nước và của nhân dân. Nhưng khó có thể làm cho “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nếu không tận dụng được những thời cơ, khắc phục những hạn chế do nền kinh tế đem lại. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, nói chung không giữ vai trò quyết định đên sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới có thể tác động đến sự vật. Tuy nhiên mối liên hệ bên ngoài cũng có một vai trò nhất định đến sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, trong một số trường hợp nó có thể giữ vai trò quyết định. Các cặp mối liên hệ khác cũng có các quan hệ biện chứng giống như mối quan hệ biện chứng của cặp mối liên hệ đã nêu trên. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tình tương đối, vì mỗi mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến, chúng có thể chuyển hoá lẫn nhau tuỳ theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động của chính sự vật đó. Tuy sự phân chia thành các mối hệ chỉ mang tính tương đối, nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí vai trò xác định trong sự vận động phát triển của sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp nhăm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. CHƯƠNG 2 VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI NHÌN TỪ NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN 2.1 Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội 2.1.1 Tăng trưởng kinh tế a) Khái niệm: Tăng trưởng kinh tế thường được hiểu là sự tăng lên về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng qui mô sản lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Qui mô và tốc độ tăng trưởng luôn là cặp đôi trong nội dung của khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay trên thế giới, người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) b) Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế Theo quan điểm hiện đại, muốn có tăng trưởng kinh tế cao cần phải sử dụng hiệu quả các yếu tố cơ bản sau đây: - Vốn: vốn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra, tích luỹ lại và những yếu tố tự nhiên….được sử dụng vào trong quá trình sản xuất. Một nền kinh tế tăng trưởng cao không chỉ dừng lại ở việc tăng khối lượng vốn đầu tư, mà còn phải đặc biệt chú ý đến hiệu quả sử dụng vốn, quản lý chặt chẽ, đầu tư vốn hợp lý vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. - Con người: trong các yếu tố hợp thành quá trình lao động sản xuất, sức lao động là yếu tố quyết định, mang tính sáng tao và là nguồn lực không cạn kiệt. Có thể nói: “ nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực”, là “ tài nguyên của mọi tài nguyên”. Vì vậy, con người có sức khoẻ, trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình, được tổ chức chặt chẽ sẽ là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. - Khoa học và công nghệ: khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khoa học và công nghệ được con là “ chiếc đũa thần màu nhiệm” để tăng năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ đã làm cho hiệu quả sử dụng của các yếu tố đầu vào tăng lên, cho phép sản xuất theo chiều sâu, làm xuất hiện những ngành kinh tế có hàm lượng khoa học cao như: công nghệ điện tử, công nghệ thông tin…Như vậy khoa học và công nghệ cũng là một yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng nhanh và bền vững - Cơ cấu kinh tế: là mối quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và quy định lẫn nhau cả về quy mô và trình độ giữa các ngành, các thành phần, các vùng, lĩnh vực của nền kinh tế. Nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng và phát triển khi giữa các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành nó có sự phù hợp với nhau cả về số lượng và chất lượng, cũng có nghĩa là phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. - Thể chế chính trị và vai trò của nhà nước: ổn định về mặt chính trị- xã hội là điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Thể chế chính trị tiến bộ có khả năng định hướng sự tăng trưởng kinh tế vào những mục tiêu mong muốn, khắc phục được những nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường, phân hoá giàu nghèo sâu sắc…Bởi vì trên thực tế đã từng có sự phát triển kinh tế không cùng chiều với tiến bộ xã hội. Hệ thông chính trị mà đại diên là nhà nước có vai trò hoạch định đường lối, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, cùng hệ thống chính sách đúng đăn hạn chế những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh đúng hướng. 2.1.2 Công bằng xã hội Khái niệm Ph.Ănggen viết: “ Công lý của người Hy Lạp và người La Mã cho rằng chế độ nô lệ là công bằng; công lý của những nhà tư sản năm1789 đòi hỏi thủ tiêu chế độ phong kiến, vì chế độ ấy không công bằng”. Trong các thời đại khác nhau của lịch sử xã hội loài người, dù ở phương Đông hay phương Tây, con người đều quan tâm đến công bằng xã hội và đã có biết bao cách hiểu và giải quyết khác nhau vấn đề công bằng xã hội. Có lẽ, người ta chỉ thống nhất với nhau ở một điểm: đó là tầm quan trọng của nó, nhất là trong xã hội hiện đại. Có thể khái quát: Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người thoả mãn nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ phân phối sản phẩm xã hội tương đối hợp lý giữa các cá nhân và với khả năng hiện thực của những điện kinh tế- xã hội nhất định Chúng ta nghiên cứu công bằng xã hội trong những điều kiện lịch sử hiện nay của đất nước. Đăc điểm của tình hình đó là trong khi những biểu hiện của chủ nghĩa bình quân phổ biến, kèm theo đặc quyền, đặc lợi của một số ít người trong cơ chế quan liêu, bao cấp trước đây chưa hoàn toàn mất đi thì lại xuất hiện những bất công mới của kinh tế thị trường. Những tiêu chí để đánh giá công bằng xã hội Trong những năm đổi mới ở nước ta, vấn đề công bằng xã hội trở thành một trong những mục tiêu cơ bản phát triển đất nước. Các tiêu chí về công bằng xã hội được cụ thể hoá trong các văn kiện lớn của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng 8 chỉ rõ: “Công bằng xã hội không chỉ được được thực hiện trong khâu phân phối kết quả sản xuất, mà còn thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều kiệncho mọi người phát huy tốt năng lực của mình”. Như vậy, công bằng xã hội được nhìn nhận ở các khía cạnh cụ thể sau: Thứ nhất, từ góc độ phân phối kết quả sản xuất; đó là sự tương xứng giữa lao động và thu nhập, giữa cống hiến và hưởng thụ. Thứ hai, từ viêc có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp nhận các nguồn tư liệu sản xuất xã hội như các nguồn vốn, tài nguyên, thông tin, khoa học kỹ thuật và các dịch vụ xã hội khác. Thứ ba, từ góc độ cơ hội và điều kiện để các cá nhân, các nhóm xã hội thể hiện, phát huy năng lực của chính mình. Việc phân biệt các góc độ nhìn nhận công bằng xã hội như trên cũng chỉ mang tính tương đối nhằm cụ thể hoá những tiêu chí đánh giá sự công bằng. Trên thực tế, giữa chúng có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau, dù sự công bằng về mặt kinh tế có vị trí quan trọng nhất, nó có khả năng chi phối các mối quan hệ khác. Trên thực tế của của nền kinh tế thị trường, chính các điều kiện xã hội khác nhau lại là cơ hội để người ta phát triển kinh tế và khi có kinh tế, người ta có điều kiện để bước vào các cơ hội khác. Như vậy trong mối quan hệ giữa người với người, không có công bằng về cơ hội thì khó có có thể có công bằng về kinh tế, thu nhập; và khi điều kiện kinh tế chênh lệch quá xa thì khó có được điều kiện hưởng thụ giá trị văn hoá tinh thần như nhau Trên thực tế có rất nhiều tiêu chí cụ thể để đánh giá công bằng xã hội như: thu nhập bình quân đầu người; các chỉ số về giáo dục như tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong độ tuổi, tỷ lệ phổ cập giáo dục các cấp…; các chỉ số về y tế; tỷ lệ đói nghèo và khoảng cách đói nghèo; bình đẳng giới…. 2.2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội Khi xem xét tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như là những vấn đề riêng rẽ thì mối liên hệ qua lại giữa chúng là mối liên hệ bên ngoài. Nhưng nếu coi tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt cơ bản của sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội thì mối liên hệ qua lại giữa chúng với nhau là mối liên hệ bên trong. Như vậy mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vừa là mối liên hệ bên trong, vừa là mối liên hệ bên ngoài 2.2.1 Sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã hội Có thể nói tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng Tăng trưởng kinh tế làm mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hóa…phát triển và từ đó cũng có tác động tích cực đến công bằng xã hội Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong nhưng nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy tăng trưởng kinh tế nhanh thì tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm Tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam, nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội như mong muốn, đôi khi tăng trưởng kinh tế cũng có tính hai mặt của nó. Chẳng hạn tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế quá nóng, gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng kinh tế cao làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng làm cho sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội tăng lên và do đó công bằng xã hội sẽ không được bảo đảm. 2.2.2 Sự tác động của công bằng xã hội đến tăng trưởng kinh tế Công bằng xã hội là một nguyên tắc phân phối lợi ích. Khác với các nguyên tắc phân phối lợi ích nói chung, thước đo của nguyên tắc phân phối lợi ích công bằng chính là sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ tương ứng giữa cống hiến và hưởng thụ với tiêu chí ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Hơn nữa nếu nguyên tắc phân phối nói chung được thực hiện bằng cách không dựa trên sự thoả thuận tự nguyện chung thì ngược lại, nguyên tác phân phối lợi ích công bằng lại được thực hiện dựa trên sự thoả thuận tự nguyện của mọi cá nhân cùng tham gia vào một quan hệ lợi ích. Vì thế tác động của nguyên tắc phân phối công bằng tới hoạt động của con người không mang tính cưỡng bức, mà có tính tích cực. Điều đó càng kích thích sự cống hiến tự nguyện của mỗi cá nhân vào hoạt động chung của xã hội vì lợi ích của mình và của cả cộng đồng. Nói cách khác nguyên tắc phân phối công bằng mà nội dung của nó là sự bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ đã khiến cho không một cá nhân nào cảm thấy thiệt thòi , tạo ra một xã hội ổn định; hơn thế, còn thúc đẩy mỗi người “ hoạt động hơn nữa”. Chính sự tự nguyện “ hoạt động hơn nữa” ấy của mọi thành viên đã thúcđẩy xã hội tiếp tục vận động và phát triển. Theo nghĩa đó công bằng xã hội là một động lực tích cực tạo nên sự vận động và phát triển mạnh mẽ của xã hội của xã hội nói chung, cũng có nghĩa công bằng xã hội chính là một động lực tích cực cho sự phát triển kinh tế. Còn nếu như công bằng xã hội không được duy trì thì sao? Nếu như vậy thì rất khó có thể đạt được đến sự tăng trưởng cao của một đất nước, bởi vì một đất nước không duy trì được công bằng xã hội thì tất yếu sẽ dẫn đến mất ổn định về xã hội, chính trị, và điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tăng trưởng kinh tế. Từ những luận điểm trên ta có thể khẳng định rắng: tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau, tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để bảo đảm công bằng xã hội, công bằng xã hội lại tạo ra một xã hội ổn định là yếu tố quan trọng bảo đảm cho sự tăng trưởng bền vững; và không có tăng trưởng kinh tế thì cũng không thể có công bằng xã hội, ngược lại không có công bằng xã hội thì cũng không thể có tăng trưởng bền vững. Một quốc gia muốn đạt đến sự tiến bộ xã hội thì không thể thiếu hai yếu tố này. 2.3 Thực trạng của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam 2.3.1 Thời kỳ 1976-1985 Thời kỳ 1976-1985, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở nước ta chỉ đạt 2% trong khi tốc độ tăng dân số binh quân hàng năm là 2,4%; nền kinh tế tăng trưởng thấp, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế(1976-1996) Năm Dân số (1000 người) Tốc độ tăng trưởng(%) Toàn bộ nền kinh tế Nông nghiệp Công nghiệp Xuất khẩu Nhập khẩu 1976 49160 14,3 1977 50413 2,8 -5.2 10,8 44,8 18,9 1978 51421 2,3 -1,8 8,2 1,4 6,9 1979 52462 -2,0 8,7 -4,7 -0,2 17,1 1980 53722 -1,4 7,5 -10,3 5,5 13,9 1981 54921 2,3 4,4 1,0 18,5 5,2 1982 56170 8,8 11,3 8,7 31,2 6,5 1983 57373 7,2 3,3 13,0 17,1 3,7 1984 58653 8,3 5,3 13,2 5,4 14,3 1985 59872 5,7 2,5 9,9 7,5 6,4 1986 61109 6,5 4,8 6,2 12,9 16,0 1987 62452 3,4 0,4 10,0 3,8 13,9 1988 63727 4,6 4,3 14,3 21,6 12,3 1989 64774 2,7 7,4 -3,3 87,4 -6,9 1990 66233 5,1 1,4 3,1 23,5 7,3 1991 67774 6,0 2,9 10,4 -13,2 -17,1 1992 69405 8,6 8,1 17,1 23,6 8,7 1993 71026 8,1 6,2 12,7 15,7 33,8 1994 72510 8,8 3,9 13,5 20,6 27,4 1995 74000 9,5 4,7 14,0 35,0 33,0 1996 75520 9,4 4,8 14,2 37,5 46,6 1996/1975(%) 153,7 280,5 248,9 389,5 287,5 768,7 Trong thời kỳ này, chế độ phân phối vẫn mang nặng tính chất bình quân do đó làm triệt tiêu động lực của người lao động, công bằng xã hội bị vi phạm nghiêm trọng, kinh tế xã hội bị rơi vào khủng hoảng nặng nề, kéo dài. 2.3.2 Thời kỳ đổi mới( Từ 1986 đến nay) Tại đai hội 6 (năm 1986). Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới. Những nội dung quan trọng của đổi mới kinh tế là thực hành dân chủ hoá đời sống kinh tế, chuyển cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển việc phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể ồ ạt sang phát triển kinh tế nhiều thành phần, chuyển việc cấp phát hiện vật và bao cấp sang sử dụng quy luật giá trị của sản xuất hàng hoá, mở của nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển kinh tế đối ngoại từ đơn phương sang đa phương theo hướng nền kinh tế mở, đa dạng hoá hình thức và đa phương hoá quan hệ Thời kỳ1986-1996, tốc độ tăng trưởng của đất nước đã được nâng lên đáng kể. Từ năm 1992-1996, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế hàng năm đều vượt trên 8%. Nền kinh tế nước ta đang trên đà cất cánh. a)Những thành tựu đã đạt được từ việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và công băng xã hội Từ éại hội VI (12-1986) đến nay, quá trỡnh đổi mới tư duy lý luận của éảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xó hội đó đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện thông qua hệ thống các chủ trương và quan điểm cơ bản. Theo đó, đó hỡnh thành nền kinh tế hàng húa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xó hội chủ nghĩa (éại hội IX khỏi quỏt là nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa), có tác động khơi dậy và nhân lên tính năng động, chủ động và tính tích cực xó hội của tất cả cỏc tầng lớp dõn cư, tạo nên luồng sinh khí mới làm xoay chuyển tỡnh hỡnh mọi mặt đất nước. éồng thời, từng bước khẳng định ngày càng rừ hơn việc thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xó hội. Mặt khỏc, đó thiết lập cơ chế, chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm cho mỡnh và cho người khác, xem mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm; khẳng định chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Chúng ta khẳng định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xó hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xem phát triển giáo dục, khoa học, y tế là sự nghiệp của toàn éảng, của Nhà nước và của toàn dân. Thực hiện công bằng xó hội trong giỏo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Thực hiện công bằng xó hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo. éề xuất quan điểm tổng quát văn hóa là nền tảng tinh thần của xó hội, vừa là mục tiờu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội; Cú quan niệm mới về cỏc tầng lớp xó hội, mà Cương lĩnh 1991 đó nờu lờn quan niệm về việc hỡnh thành một cộng đồng xó hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. éặc biệt coi trọng xõy dựng đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh cú tài, những nhà quản lý giỏi và cỏc nhà khoa học, kỹ thuật cú trỡnh độ cao; khẳng định mạnh mẽ chiến lược kinh tế - xó hội, đặt con người vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người với tư cách từng cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mỡnh. Từ hệ thống những chủ trương, quan điểm trên và từ thực tiễn của quá trỡnh thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đôi và gắn liền với tiến bộ và công bằng xó hội trong 20 năm qua đó cho chỳng ta bài học tổng quan trong vấn đề này là: Phải có sự thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xó hội, xem trỡnh độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xó hội, thực hiện tốt chớnh sỏch xó hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xó hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Về kết quả thực tế, phát triển kinh tế trong những năm qua là cơ sở thuận lợi để Nhà nước ta có thể huy động các nguồn lực tăng cường đầu tư cho phát triển xó hội trờn nguyờn tắc tiến bộ và cụng bằng xã hội. Với những nền tảng đó, hệ thống chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa... đó cú nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai, củng cố và hoàn thiện trong thực tế. Theo tinh thần các chủ trương và quan điểm trên của éảng, Chớnh phủ đó lần lượt thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trỡnh, dự ỏn cụ thể để đưa vào cuộc sống. Nhờ vậy, thực tiễn đổi mới ở nước ta thời gian qua đó đạt được những thành tựu đáng khích lệ về phát triển văn hóa, xó hội trong sự gắn bú với phỏt triển kinh tế. - Nhỡn chung, sau gần 20 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện cụng bằng xó hội ở nước ta đó được giải quyết một cách khá hiệu quả. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. éời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rừ rệt - Từ năm 1991 đến nay, trung bỡnh hằng năm cả nước đó giải quyết cho khoảng 1,2 triệu người lao động có việc làm. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đó giảm từ 30% năm 1992 xuống 11% năm 2003. Cũn theo chuẩn quốc tế, thỡ tỷ lệ nghốo chung đó giảm từ 58% năm 1993, xuống 28,9% năm 2002. Như vậy, Việt Nam đó hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015 mà Liên hợp quốc đó đề ra. - Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hỡnh trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đó đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến cuối năm 2003, 19 tỉnh, thành phố đó đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đó tăng từ 88% cuối những năm 1980 lên 94% hiện nay. - Tiềm lực khoa học và công nghệ của nước nhà có bước phát triển nhất định. éội ngũ cỏn bộ khoa học và cụng nghệ đó gúp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chính sách đổi mới của éảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trỡnh, dự ỏn phỏt triển kinh tế - xó hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng cú hiệu quả cỏc cụng nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dũ và khai thỏc dầu khớ, phỏt triển thủy điện, xây dựng cầu, đóng tàu biển, sản xuất vắc-xin phũng dịch... - Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bỡnh của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 69 tuổi hiện nay. - Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung bỡnh: 0,498 năm 1991 tăng lên mức trung bỡnh: 0,688 năm 2002. Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bỡnh quõn đầu người thỡ thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2002 vượt lên 19 bậc. éiều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xó hội tốt hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bỡnh quõn đầu người cao hơn nước ta. - Về văn hóa, việc triển khai thực hiện 10 nhiệm vụ do Nghị quyết Hội nghị T.Ư 5 khóa VIII đề ra đó gúp phần củng cố sự thống nhất trong éảng, sự đồng thuận trong xó hội đối với đường lối đổi mới toàn diện của đất nước. Tính chủ động, sáng tạo của nhân dân được phát huy. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa, cả vật thể và phi vật thể, được giữ gỡn tụn tạo. Những giỏ trị và sắc thỏi văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. b)Những hạn chế còn tồn tại Trên lĩnh vực phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xó hội chủ nghĩa tuy đó hỡnh thành, song chậm được thể chế hóa đồng bộ, nền kinh tế của ta còn nhiều hạn chế cụ thể là: Nền kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa theo chiếu sâu, nghĩa là tăng trưởng nước ta vẫn dựa vào tăng số lượng các yếu tố đầu vào như vốn, tài nguyên, lao động: điều này làm cho nền kinh tế phát triển không bền vững Những nền tảng cho tăng trưởng kinh tế như trình độ công nghệ cao, chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn… còn rất thấp Các bảng sau sẽ chứng minh điều trên Mức độ tự động hoá và cơ khí hoá Tỷ lệ doanh nghiệp (%) Tự động hoá (TĐH) Hoàn thành không có TĐH TĐH từ 5%-10% công việc TĐH từ 11%-20% công việc TĐH trên 20% công việc 21,74 4,35 16,00 43,00 Cơ khí hoá (CKH) CKH từ 30%-50% công việc CKH từ 51%- 60% công việc CKH trên 60% công việc 42,00 12,00 26,00 Bảng trên cho biết mức độ thành lập tự động hoá và cơ khí hoá ỏ các doanh nghiệp Việt Nam Tên nước, lãnh thổ Mức độ sẵn có lao đông sản xuất chất lượng cao Mức độ có sẵn các cán bộ hành chính chất lương cao Mức độ có sẵn các cán bộ quản lý chất lượng cao Sự thành thạo ti._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0492.doc
Tài liệu liên quan