Vấn đề sở hữu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Lời mở đầu
k
inh tế thị trường ở Việt Nam được phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. đó là sự định hướng cuả một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có, hạnh phúc của dân cư. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở: “Nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, có điều ki
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vấn đề sở hữu kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện phát triển toàn diện cá nhân”. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã gặt hái không ít thành công, tuy nhiên cũng gặp phải một số sai lầm, đặc biệt là vấn đề sở hữu ở nước ta. Đảng ta đã kịp thời khắc phục sai lầm đó tại đại hội lần thứ VII.
Sở hữu về tư liệu sản xuất là một trong những vấn đề thời sự không những ở nước ta mà còn ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác. Nó cũng là một trong những vấn đề cơ bản của hệ thống quan hệ sản xuất, của các chế độ kinh tế-xã hội. Đối với nước ta, để thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải xác lập được chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất phát triển từ thấp đến cao theo hướng dần dần làm cho sở hữu xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là một trong những nhiệm vụ then chốt và phải được tiến hành thật tốt trong suốt thời kỳ quá độ.
Hiện nay, đang có những nhận xét, đánh giá, phê phán khác nhau về các hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, nước ta đã vấp phải sai lầm và còn nhiều lúng túng trong việc xây dựng chế độ sở hữu mới. Vì vậy nghiên cứu vấn đề sở hữu có ý nghĩa quan trọng và cấp bách cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và đặc biệt đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nội dung
I- phạm trù sở hữu và các khái niệm có liên quan.
1-phạm trù sở hữu.
Sở hữu là phạm trù cơ bản trong hệ thống kinh tế-xã hội, nó là hình thức nhất định được hình thành trong lịch sử về chiếm hữu của cải vật chất của xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, để sinh sống và tồn tại, dể sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của chính mình, con người phải chiếm hữu(chinh phục) tự nhiên. Do vậy, chiếm hữu biểu hiện quan hệ giữa người với tự nhiên, là hành vi gắn liền với sự tồn tại và phát triển của con người, là phạm trù vĩnh viễn trong tất cả các giai đoạn khác nhau của lịch sử nhân loại. Còn sở hữu là hình thức xã hội của chiếm hữu trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, gắn liền với một tổ chức xã hội nhất định. Vì vậy sở hữu là quan hệ giữa người với người trong sự chiếm hữu tự nhiên, là phạm trù lịch sử, thay đổi cùng với sự thay đổi các hình thái xã hội trong lịch sử.
Con người chiếm hữu tự nhiên không phải chỉ đơn thuần tiêu dùng cá nhân, mà quan trọng hơn là tiêu dùng cho sản xuất, tái sản xuất thêm nhiều của cải hơn để chiếm hữu. Như vậy, một mặt, quan hệ giữa người với vật tự nhiên phát sinh do quan hệ giưa người với người trong sản xuất đặt ra, từ đó mới có quan hệ sở hữu. Mạt khác quan hệ giữa người với người bao giờ cũng phải có vật làm trung gian, môi giới. Vật đó là sản phẩm của tự nhiên hoặc là sản phẩm của quá trình lao động. Sở hữu là quan hệ kinh tế chứ không phải quan hệ ý chí của những người trong xã hội. Chỉ trong mối quan hệ giữa người với người độc lập với quan hệ ý chí thì vật sở hữu mới thành sở hữu thực tế, mới đem lại quyền lợi thực tế cho người sở hữu.
Phạm trù sở hữu khi được thể chế hoá thành quyền sở hữu được thể hiện thông qua một cơ chế nhất định được gọi là chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu được xác định bằng các quyền : quyền sở hữu, quền sử dụng quyền quản lý, quyền chi phối v.v.... trong đó đáng chú ý nhất là quyền sở hữu và quyền sử dụng, là hai mặt vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau trong phạm trù sở hữu. Chế độ sở hữu là vấn đề căn bản nhất của chế độ kinh tế xã hội. Chỉ có giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ giải quyết các vấn đề động lực, lợi ích kinh tế, chính trị, pháp quyền và xã hội.
Phạm trù sở hữu cần được xem xét dưới hai góc độ có mối quan hệ với nhai là hình thức pháp lý sở hữu và sở hữu thực hiện về kinh tế.
Về mặt pháp lý, sở hữu thường được trong bniện pháp, nó khẳng định ai là chủ của đối tượng sở hữu., là mối quan hệ giữa người với ngừơi về đối tượng sở hữu .
Về mặt kinh tế, sở hữu biểu hiện thông qua thu nhập của mỗi một chủ thể trong nền kinh tế , khi thu nhập ngày càng cao thì cũng có nghĩa là sở hữu về mặt kinh tế ngày càng được thực hiện. Sở hữu luôn hướng tới lợi ích kinh tế .
Bởi vậy, phạm trù sở hữu có thể được xem như là sự phản ánh thống nhất biện chứng giữa sở hữu với tư cách là hình thức pháp lý, là điều kiện cần thiết của sản xuất với sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, mặt kết quả thực tế trong quá trình sản xuất và tái sản xuất.
2-Đối tượng sở hữu
Sở hữu là quan hệ kinh tế luôn ở trạng thái vận động và biến đổi cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong quá trình đó, đối tượng sở hữu cũng có sự thay đổi thích ứng . Lịch sử cho thấy đối tượng cơ bản của sở hữu đã có sự dịch chuyển từ sở hữu vật tự nhiên, sở hữu đất đai, nô lệ, tiến đến tư liệu sản xuất hiện đại(máy móc) và bao quát nhất là sở hữu vốn (tư bản).
Nếu như trong nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hoá giản đơn, người ta quan tâm chủ yếu đến mặt hiện vật của sở hữu thì trái lại , trong nền kinh tế thị trường hiện đại người ta không chỉ quan tâm đến mặt hiện vật , mà điều quan trọng hơn là quan tâm đến hình thái giá trị-hình thái tiền của nó. Đối tượng sở hữu ngày càng mở rộng, không chỉ sở hữu tư liệu sản xuất ( tuy vẫn là cơ bản), vật phẩm tiêu dùng mà còn sở hữu vốn, thông tin, môi trường, những sản phẩm trí tuệ: các phát minh sáng chế, quy trình công nghệ ...
Tuy nhiên, xét một cách phổ biến, cũng như xét trình độ cụ thể của nước ta, đối tượng chủ yếu của sở hữu vẫn là những tư liệu sản xuất cơ bản của nền sản xuất xã hội.
Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở, là nội dung then chốt của một quan hệ sản xuất nhất định. Nó quyết định bản chất xã hội của quan hệ sản xuất, cơ cấu giai cấp của xã hội, mục đích của sự phát triển kinh tế xã hội và cơ chế điều tiết sản xuất của hình thái kinh tế xã hội. Trong bất cứ xã hội nào, giai cấp nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất tất yếu cũng sẽ là giai cấp nắm quyền thống trị xã hội, nắm quyền chi phối và phân phối sản phẩm xã hội.
3-các hình thức sở hữu
Hình thức đầu tiên là công hữu, sau đó do sự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa có kẻ chiếm làm của riêng xuất hiện tư hữu. Đó là hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu tri phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân; sở hữu tư nhân thể hiện ở tư bản tư hữu lớn, tư hữu nhỏ. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi. Đồng thời, nhằm thoả mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và khắc phục sự bất lực, yếu kém của các chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sở hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua bán cổ phiếu...
Cần thấy rõ rằng, các hình thức sở hữu đều có những ưu diểm và hạn chế vốn có của nó. Và trong mỗi hình thái kinh tế xã hội không phải chỉ có một hình thức sở hữu duy nhất mà luôn bao gồm nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗ trợ nhau phát triển. Trong đó, bên cạnh hình thức sở hữu đặc trưng bao giờ cũng tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác-các hình thức sở hữu tàn dư của xã hội trước và các hình thức mầm mống của xã hội sau.
4-Sự phát triển của phạm trù sở hữu
Lần theo chiều dài lịch sử cho thấy các quyền gắn liền với phạm trù sở hữu vốn có, có sự biến đổi đáng kể ở thời kỳ đầu. Thông thường, quyền sở hữu và quyền quản lý sử dụng ... thống nhất trong cùng một chủ sở hữu về mặt pháp lý. Song cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Phát triển kinh tế hàng hoá-thị trường cùng với sự đẩu mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất thì các quyền đó có xu hướng tách rời ra. Sự xuất hiện tư bản cho vay đã làm cho quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng “tư bản sở hữu tách rời tư bản sử dụng”. Sự xuất hiện công ty cổ phần và lao động quản lý trở thành một nghề, làm tách rời quyền sở hữu với quyền quản lý. Tất nhiên sự tách rời này chỉ có ý nghĩa tương đối, vì giám đốc thực hiện chức năng quản lý dụa theo các chiến lược sản xuất kinh doanh kỹ thuật và công nghệ do hội đồng quản trị với tư cách là đại diện cho các chủ sở hữu đưa ra. Do vậy, nguyên lý quyền sở hữu quyết định quyền quản lý và phân phối cũng không vì thế mà không còn giá trị.
Quyền sở hữu ở đây chỉ là việc nắm quyền chi phối giá trị nhằm mục đích tìm kiếm một giá trị lớn hơn. Còn quyền sử dụng, quản lý là việc thực hiện một hoạt động kinh tế cụ thể nhất định để tạo ra giá trị nó là phương tiện để tăng giá trị. Quan hệ giữa chúng là quan hệ giữa mục đích và phưong tiện. Thông qua đó người chủ sở hữu và người sử dụng đều đạt được lợi ích kinh tế của mình. Như vậy quan hệ lợi ích một mặt phải đảm bảo lợi ích cho chủ sở hữu, mặt khác, phải đảm bảo lợi ích của người sử dụng lợi ích ấy. đó chính là động lực mạnh mẽ nhất đối với người sở hữu (dám mạo hiểm bỏ vốn cho người khác sử dụng ) và người sử dụng vốn tìm mọi cách kinh doanh có lãi. Điều này là tất yếu khi nền kinh tế hàng hoá phát triển vì tài sản và vốn chỉ sinh lợi khi đưa vào sử dụng, kinh doanh một cách hợp lý, có nghĩa là phải đi vào vận động của tái sản xuất xã hội.
Quan hệ lợi ích giữa người chủ sở hữu và người sử dụng thường được thiết lập dưới nhiều hình thức, mức độ hết sức đa dạng và phong phú. Chẳng hạn có thể xét ở ba mức độ sau đây:
Một là, chủ sở hữu trao vốn, tài sản cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định và được hưởn lợi ích nhất định, không cần kiểm tra quá trình sản xuất, kinh doanh, không phải chịu rủi ro trong kinh doanh; đồng thời, đòi hỏi người sử dụng phải có tài sản thế chấp.
Hai là; chủ sở hữu trao vốn và tài sản cho người khác sử dụng lợi ích của chủ sở hữu phụ thuộc một phần nào đó theo kết quả sản xuất, kinh doanh , phải chịu rủi ro ở mức độ nhất định; họ vừa đòi hỏi sử dụng có thế chấp ở mức độ nào đó vừa kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh ở múc độ nhất định.
Ba là,người chủ sở hữu giao quyền sử dụng cho người chuyên nghề kinh doanh (thuê giám đốc), lợi ích của chủ sở hữu phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả kinh doanh. Giám đốc làm thuê không đòi hỏi phải thế chấpnhưng chịu sự kiểm soát chặt chẽ theo những cơ chế quản lý và kỷ luật kinh tế phù hợp.
Việc tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng, quyền quản lý đã đem lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn trong nền kinh tế thị trường ngày nay.
5-phương pháp tiếp cận vấn đề sở hữu
Xuất phát từ quan điểm và phương pháp xem xét sở hữu là một mặt căn bản của quan hệ sản xuất, phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cần phải khẳng định rằng : sự thay đổi các hình thức sở hữu trong lịch sử là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chính C.Mác và Ph.ăng-ghen cũng nhiều lần nói rằng “bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa”. Như vậy, các thiết chế chính trị, pháp quyền chẳng qua chỉ là phản ánh và bảo vệ các quan hệ sở hữu tương ứng và nó thay đổi cùng với sự thay đổi quan hệ sở hữu .
Sở hữu là một mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, nó vận động cùng với sự vận động của hệ thống quan hệ sản xuất, trước hết gắn với quan hệ lợi ích kinh tế và những hình thức kinh tế nhất định. Vì vậy, nghiên cứu sở hữu không thể tách rời những mặt khác của quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc tìm hiểu phạm trù sở hữu cần phải được nhận thức bao gồm những khâu, nhiều mối quan hệ, tức là đi sâu vào kết cấu bên trong của sở hữu.
II-cơ cấu sở hữu trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Cơ cấu sở hữu ở nước ta hiện nay là một cơ cấu sở hữu đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. đó cũng là điểm cơ bản nhất trong quá trình đổi mới kinh tế là cơ sở, là động lực cho viẹc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng đã đặt ra đó là định hướng xã hội chủ nghĩa.
1-sự cần thiết phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước đây, cơ cấu sở hữu được thiết lập chỉ với hai hình thức cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Những hình thức sở hữu ấy đã không phản ánh được thực chất tính chất và trình độ hiện thờicủa lực lượng sản xuất. Từ đó dẫn tới sự vi phạm lợi ích kinh tế của người lao động đã làm cho nền kinh tế mất đi động lực. Một khi lợi ích kinh tế bị thủ tiêu thì nền kinh tế không phát triển đượcvà là nguyên nhân của tình trạng người lao động thờ ơ với nhà máy, hầm mỏ, đồng ruộng . Do đó về hình thức biểu hiện thì các tư liệu sản xuất là có chủ , là thuộc sở hữu toàn dân và tập thể nhưng thực ra là vô chủ. Vì vậy đã đẩy nền kinh tế nhiều năm lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ.
Tại đại hội VI của đảng đã nghiêm túc kiểm điểm lại thực tiễn qúa trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ trước đó và rút ra kết luận: “lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của của lực lượng sản xuất ”. Cùng với việc phát hiện ra sai lầm đó, Đảng ta đã kiên quyết khắc phục., sửa chữa thông qua đổi mới và việc thừa nhận vai trò và sự tồn tại của hìh thức tư hữu trong tính đa dạng các hình thức sở hữu. Đây là mọt bước ngoặt mang tính tầm vóc chiến lược mới, thể hiện sự đổi mới từ gốc của đảng ta.
Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự tồn tại một cơ cấu sở hữu đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khấc nhau ở nước ta hiện nay là một tất yếubởi các lý do sau đây:
Một là, trong điều kiện lực lượng sản xuất chưa phát triển đến trình độ cao, tất yếu phải có sự tồn tại của một hệ thống quan hệ sản xuất đa dạng, đảm bảo cho sự phù hợp sinh động đối với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Hai là, trong thời kỳ quá độ cần thiế phải sử dụng các hình thức kinh tế quá độ, trung gian, sự đan xen của các kết cấu kinh tế hỗn hợp. đặc iệt trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay thì việc sử dụng nhiều trình độ, nhiều hình thức kinh tế với nhiều cấp độ khác nhau nhằm khai thác triệt để mọi năng lực sản xuất cũng là một đòi hỏi bức thiết.
Ba là, trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu cùng với sự phát triển phân công lao động xã hội sẽ thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường ởp nước ta phát triển để xoá dần tính chất tự túc, tự cấp của nền kinh tế, để đưa nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn.
2-Cơ cấu sở hữu trong quá trình hình thànhvà phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Xuất phát từ tính đa dạng của sở hữu và đa thành phần kinh tế, từ đại hội đảng lần thứ VI đến nay nền kinh tế nước ta đã từng bước hình thành các hình thức sở hữu. Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định các hình thức sở hữu cơ bản trong thời kỳ quá độ. Song nếu xem xét cơ cấu sở hữu và vai trò của mỗi hình thức sở hữu ở trạng thái vận động trong thời kỳ quá độ thì có thể xác định các hình thức sở hữu cơ bản, đó là sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư bản nhà nước; sở hữu cá thể, tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân.
2.1-Hình thức sở hữu nhà nước
2.1.1-Đặc điểm, vai trò của hình thức sở hữu nhà nước.
Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà nhà nước là chủ thể đại diện cho nhân dân sở hữu những tài nguyên, tài sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước .
Sở hữu nhà nước bao gồm toàn bộ các lực lượng kinh tế vật chất trong các doanh nghiệp nhà nước, trong các ngân hàng, kho bạc, ngân sách, dự trữ quốc gia... và toàn bộ đất đai, tài nguyên của đất nứơc mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
Khái niệm sở hữu nhà nước có nội dung và phạm vi rộng lớn trong đó thành phần kinh tế nhà nước với vai trò điều tiết, hướng dẫn toàn bộ nền kinh tế.
Do phạm vi rộng lớn của khái niệm sở hữu nhà nước nên việc tìm hiểu về sở hữu nhà nước ở đây sẽ chủ yếu đi vào phân tích vấn đề sở hữu trong thành phần kinh tế nhà nước và chế độ sở hữu ruộng đất trong nông nghiệp vì đây là những vấn đề phản ánh rõ nét sự đổi mới kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước hiện nay.
2.1.2-Thực trạng của sở hữu nhà nước.
Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã và đang thực hiện một quá trình nhằm củng cố và phát triển vai trò của sở hữu nhà nước trong toàn bộ nền kinh tế với nhiều giải pháp khác nhau để xác định địa bàn , quy mô tồn tại của sở hữu nhà nước . Đồng thời với nó là quá trình rà soát lại thực trạng sở hữu nhà nước và thực hiện đa dạng hoá , đi sâu vào đổi mới nội dung bên trong với các cấp độ, mức độ khác nhau của sở hữu nhà nước.
Đối với khu vực kinh tế nhà nước thông qua quá trình cơ cấu lại đã khắc phục tình trạng “lạm phát ” doanh nghiệp nhà nước như trước đây , hình thành lên ba hệ thống : danh nghiệp , phi doanh nghiệp , kết cấu hạ tầng kinh tế có sự độc lập tương đối để cùng phát huy vai trò , tác dụng nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước . Đặc biệt nhà nước đã tiến hành hai biện pháp chủ yếu là sát nhập và giải thể theo luật định đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ , số vốn ít , thết bị lạc hậu , thô sơ , tình trạng làm việc thua lỗ kéo dài.
Cũng từ quá trình cải cách khu vực kinh tế nhà nước mà hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã dần tách khỏi hệ thống phi doanh nghiệp (thuộc kinh tế nhà nước ) tức là quyền chủ động mở ra cho doanh nghiệp nhà nước đồng nghĩa với việc làm cho doanh nghiệp độc lập với ngân sách nhà nước. Trên cơ sở thực hiện việc tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng và quyền quản lý, đã thiết lập các mối quan hệ phù hợp giữa nhà nước vời tư cách là người chủ sở hữu với giám đốc điều hành và tập thể người lao động. Từ đó đã các bộ, sở từ chỗ làm hai nhiệm vụ ( chủ quản và chức năng ) sang làm một nhiệm vụ – gắn với chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước về chuyên ngành đó với các thành phần kinh tế trong cả nước. Việc thực hiện các nguyên tắc hạch toán kinh tế đã nâng cao tính chủ động, sáng tạo của giám đốc , đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp nhà nước từng bước thích ứng với cơ chế thị trường đồng thời gắn hoạt động của họ với lợi ích và trách nhiệm vật chất với nhà nước . Do vậy đã đảm bảo một sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất đồng thời thông qua đó vai trò của nhà nước với tư cách là chủ sở hữu cũng được nâng cao . Kết quả sau khi sắp xếp và đổi mới là : hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã thực sự khởi sắc, chất lượng hoạt động được cải thiện : từ 30 – 40% số lượng doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ trong các năm 1990 – 1991 đến năm 1993 – 1994 tỷ lệ đó được thu hẹp lại còn 10 – 15% và số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi chiếm 70 – 75%.
Hiện nay chúng ta đang tiến hành chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước nhằm chuyển một phần sở hữu của nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh . Hình thức công ty cổ phần ở đây bao gồm các chủ sở hữu không đồng nhất cùng góp vốn đó là nhà nước, cán bộ công nhân viên hoặc có thể có cả tư nhân vì vậy đã phát huy được vai trò của các loại chủ sở hữu làm tăng cường hiệu quả hoạt động của công ty mà vai trò của sở hữu nhà nước vãn được củng cố. Các chủ sở hữu đều hợp tác tự nguyện lời ăn, lỗ chịu, và được phân phối kết quả sản xuất ( lợi nhuận ) qua lợi tức cổ phần . Ngoài ra,nhà ước còn có một khoản thu nữa là thuế và người lao động tất yếu còn có cả lương. Mô hình công ty cổ phần tuy còn mới mẻ nhưng đã đem lại một số kết quả đáng khích lệ ở một số doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hoá : ở công ty đại lý liên hiệp vận chuyển (thuộc bộ giao thông vận tải , nhà nước giữ lại 18% sở hữu của công ty, doanh thu của công ty năm 1994 so với năm 1993 tăng 146% và bằng 372% so với măm 1992, lợi nhuận tăng 181% so với năm 1993 và bằng 375% so với năm 1992.
Tuy nhiên, hiện nay sở hữu nhà nước đang đặt ra một số vấn đề tồn tại bức xúc đó là:
Chúng ta đang thiếu một cơ chế quản lý thích hợp nhất để khắc phục tình trạng vô chủ đối với các tài sản của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Quan niệm “cha chung không ai khóc” trong cơ chế cũ vẫn còn tồn tại khá phổ biến dẫn tới sự thiếu quan tâm, thiếu trách nhiệm với tài sản của nhà nước ở một bộ phận rất lớn người lao động. Tình trạng không có ai là chủ sở là chủ sở hữu đích thực trong các doanh nghiệp nhà nước đã là nguyên nhân cơ bản của tình trạng lãng phí, thất thoát nghiêm trọng tài sản của nhà nước.
Việc thiết lập các mối quan hệ giữa nhà nước với giám đốc các doanh nghiệp thiếu những điều kiện ràng buộc cụ thể nên rễ tạo ra một đội ngũ giám đốc nhiều quyền hành mà lại ít trách nhiệm trong việc sử lý và sử dụng tài sản, tiền vốn của nhà nước, lợi dụng chức quyền để tham nhũng tài sản của nhà nước. Về xu hướng muốn thành lập hội đồng quản trị là người đại diện chủ sở hữu, giám đốc là người kinh doanh do hội đồng quản trị bầu ra. Giải pháp này có thể khách quan hơn, nhưng ở đây các thành viên hội đồng quản trị cũng không là chủ sở hữu thực sự nên lợi ích của họ không gắn bó thiết thân với vốn với tài sản của nhà nước nên tiêu cực cũng rất dễ xảy ra.
Bên cạnh đó đôi khi có quá nhiều sự can thiệp của các cơ quan nhà nước vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước với các tài sản bị chia cắt cho nhiều đơn vị, song lại không có nơi nào chịu trách nhiệm đến cùng về các hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp. Đây cũng là một nguyên nhân làm thất thoát tài sản của nhà nước.
Do quan niệm cứng nhắc về hình thức sở hữu nhà nước nên hình thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước trong nhiều năm qua rất đơn điệu, không đáp ứng được sự phát triển của các hình thức kinh doanh, đan xen giữa các loại hình thức sở hữu với nhau. Từ đó dễ dẫn tới sự kém hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh.
Trong nông nghiệp, “ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân , được nhà nước giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài ” (1) . Như vậy đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện sở hữu và quản lý còn quyền sử dụng được giao cho các hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài. Nhà nước quy định bằng pháp luật vấn đề chuyển quyền sử dụng ruộng đất. Không để tư hữu hoá ruộng đất vì làm như vậy rễ dẫn đến phân hoá lớn về giai cấp, cản trở việc quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở vật chất khác, làm căng thẳng thêm vấn đề tranh chấp ruộng đất vốn đã phức tạp .
Việc trao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và quy định được quyền thừa kế sẽ khuyến khích nông dân đầu tư thâm canh , ứng dụng công nghệ mới nhằm thu địa tô chênh lệch II, sẽ làm cho người nông dân gắn bó thiết thân hơn với ruộng đất . Khi công nghiệp và dịch vụ phát triển , nông dân dễ dàng chuyển sang ngành nghề khác và tập chung ruộng đất vào những hộ thạo nghề nông phát triển các trang trại sản xuất hàng hoá. Tuy vậy, chế độ sở hữu trên cũng dễ làm nảy sinh mâu thuẫn vì trong điều kiện dân số tăng nhanh bình quân ruộng đất tính theo nhân khẩu thấp thì quyền thừa kế tất yếu dẫn đến sự tăng cường tính phân tán về đất , dễ làm nảy sinh mâu thuẫn giữa việc đảm bảo đủ phần ruộng đất khoán cho tất cả mọi hộ nông dân với việc duy trì quy mô ruộng đất canh tác tối ưu , nhất là quy mô nông trại .
2.1.3-Một số phương hướng và giải pháp nhằm củng cố và phát triển sở hữu nhà nước.
Đối với thành phần kinh tế nhà nước : trước hết cùng với việc đỏi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước thì cần phải đổi mới quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước hướng tới ba mục tiêu sau:
Thứ nhất, khắc phục tình trạng vô chủ hoặc quá nhiều chủ trong các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, phát huy cao nhất nhân tố con người, sử dụng có hiệu quả nhất tiềm lực vật chất và tiềm lực con người.
Thứ ba, tạo ra cơ chế năng động thích ứng với cơ chế thị trường để doanh nghiệp nhà nước hoạt động thực sự có hiệu quả.
Vì vậy, cần phải xác định rõ người đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, tách biệt một cách rõ ràng quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh kèm theo trách nhiệm vật chất và tinh thần rõ ràng. Sở hữu nhà nước chỉ nên tồn tại những ngànhvoà thời điểm mà nó thực sự cần thiết đóng vai trò then chốt, điều tiết toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác cần đẩy mạnh việcthực hiện đa dạng hoá các hình thức, cấp độ sở hữu thông qua chế độ khoán, cho thuê, đấu thầu...đặc biệt là đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực và quy mô, trình độ cụ thể của các doanh nghiệp nhà nước, nhằm thu hút vốn và tạo động lực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đối với ruộng đất nông nghiệp, cần khuyến khích nông dân tham gia vào quá trình khai hoang tăng vụ, thâm canh và tổ chức dịch vụ, phát triển các ngành nghề khác để rút bớt lao động ra khỏi trồng trọt làm tăng diện tích đất nông nghiệp, tạo điều kiện phát triển các trang trại sản xuất hàng hoá.
Nhà nước cần tăng cường kiểm soát về thừa kế sử dụng ruộng đất và tài sản, về chuyển nhượng sử dụng ruộng đất và cần có những quy định chặt chẽ về quyền sử dụng đối với đối tượng đất đai khi xây dựng những công trình có liên quan tới đất đai và ruộng đất canh tác. Có các chính sách thích hợp để hạn chế tính tự phát TBCN diễn ra ở nông thôn khi kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá có kiều kiện phát triển.
2.2-Hình thức sở hữu tập thể.
2.2.1-Đặc điểm, vai trò của hình thức sở hữu tập thể.
Sở hữu tập thể là hình thức sở hữu trong đó tập thể là chủ sở hữu dựa trên sự tự nguyện của những chủ thể trong nền kinh tế đóng góp vốn, sức lao động để kinh doanh.
Hình thức sở hữu tập thể là hình thức cơ sở tồn tại của thành phần kinh tế hợp tác ở nước ta hiện nay ở trong các lĩnh vực : nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, vận tải... Đây được xem như là một hình thức sở hữu rất phù hợp với thực trạng nền kinh tế nước ta-một nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nó đã có vai trò tạo ra một phần lớn giá trị sản lượng vào tổng thu nhập quốc dân. Nó kết hợp được sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Chính vì vậy mà Đảng ta khẳng định rằng: “kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần chở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”
2.2.2- Thực trạng của hình thức sở hữu tập thể
ở nước ta trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa trứơc đây, cùng với quá trình “quốc doanh hoá” thì quá trình “ tập thể hoá” cũng được diễn ra rầm rộvà trở thành phong trào ở khắp nơi dẫn đến sự ra đời của các hợp tác xã trong đocs các hợp tác xã với quy mô liên thôn, liên xã. Sự hình thành sở hữu tập thể đã không tính đến sự phù hợp với trình độ sản xuất và các quan hệ quản lý. Phân phối đồng bộ đã làm cho hợp tác xã hoạt đông kém hiệu quả, bộc lộ nhiều mặt yếu kém.
Những yếu kém đó càng bộc lộ rõ hơn khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, khi những ưu đãi của nhà nước trong cơ chế bao cấp(thông qua chính sách giá cả, tài chính, tín dụng...) không còn thì đã có nhiều hợp tác xã không trụ lại được hoặc ít có khả năng thích nghi với cơ chế thị trường. Vào cuối những năm 80 đã có trên 80% các loại hợp tác xã đã ngừng hoạt động, giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu chỉ còn gần 20% hợp tác xã còn trụ lại được và thích nghi với nền kinh tế thị trường.
Trong thời kỳ đởi mới, kinh tế hợp tác xã khác với mô hình tập thể hóa trước đây vì nó bao gồm hai bộ phận cấu thành: kinh tế hộ xã viên và kinh tế tập thể; các hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng gốp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung. Như vậy, kết cầu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn nước ta hiện nay. Hai bộ phận cấu thành của kinh tế hợp tác xã có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau mà ở đó có sự phát triển của bộ phận này là điều kiện cho sự phát triển của bộ phận kia và ngược lại. Trong mỗi quan hệ đó thì kinh tế hộ là cái có trước, là cái quyết định cho sự ra đời của kinh tế tập thể. Những đặc điểm, trình độ phát triển của kinh tế hộ quyết định đặc điểm, trình độ phát triển của kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể. Thực tế phát triển của kinh tế hợp tác trong thời gian qua cho thấy, kinh tế tập thể đã không đứng vững được khi tổ chức nó ở trình độ cao hơn khi trình độ phát triển của kinh tế hộ. Ngược lại, khi các hộ có nhu cầu hợp tác, thì dù chưa có sự giúp đỡ từ bên ngoài nhưng các hộ đã tự tổ chức kinh tế hợp tác giữa họ với nhau.
Trong nghị quyết TW5, khóa VII,Đảng ta đã khẳng định “ việc thừa nhận hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lưc phát triển mạnh mẽ, năng động trong nông thôn cả nước”, người nông dân đang chuyển dần sang sản xuất hàng hoá và một số mô hình kinh tế trang trại trong nông nghiệp đã xuất hiện. Điều đó đã đảm bảo vức chắc an ninh lương thực trong toàn quốc và đã xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông-lâm-ngư nghiệp đúng hướng, phát triển đời sống nông dân,số lượng nông sản hàng hoá cung cấp ra thị trường ngày càng nhiều. Một số vùng đã có lượng hàng hoá tập chung, với khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, chè... xong nhìn chung, năng lực nội tại của nông hộ nước ta còn rất thấp: tính đến năm 1994, bình quân đất nông nghiệp trên một hộ(4,77 khẩu; 2,29 lao động) chỉ có 4143 m2 ; nguồn lao động ở nông thôn mới được sử dụng ở mức 30-50%; vốn tự có trong các nông hộ rất thấp có khoảng hơn 50% nông hộ chưa có tích luỹ số còn lại mức tích luỹ mới chỉ đạt chưa đến 700 nghìn đồng/hộ mỗi năm; công cụ sản xuất phổ biến vẫn là công cụ thủ công, thô sơ lạc hậu nhưng vẫn thiếu nghiêm trọng. Do quy mô manh mún, phân tán và trình độ lạc hậu như vậy nên lượng nông sản hàng hoá cung ứng ra thị trường thường không ổn định, khó tập chung, bảo quản, chất lượng không đồng đều... nên tình trạng mất giá nông sản xảy ra phổ biến.
Như vậy, chuyển sang sản xuất hàng hoá thì yêu cầu hỗ trợ về điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được đặt ra bức thiết đối với các hộ. Do vậy bên cạnh sự giúp đỡ cuả nhà nước đẻ giải quyết các nhu cầu này thì tất yếu còn có sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhu giữa các h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35273.doc