Lời nói đầu
T
rong những năm gần đây, chất lượng hàng hoá và việc quản lý chất lượng ở nước ta có nhiều chuyển biến tốt, đáng khích lệ sự cạnh tranh kinh tế gay gắt trên quy mô toàn cầu đã tạo ra những thách thức mới trong kinh doanh khiến các doanh nghiệp ngày càng phải chú trọng đến vấn đề chất lượng hàng hoá và việc quản lý chất lượng trở thành một nhu cầu cấp thiết.
Đặc biệt sau hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội năm 1995 cùng với việc Việt Nam tham gia ASEA
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vấn đề quản lý chất lượng tại Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N và trở thành thành viên chính thức của APEC hoạt động quản lý chất lượng tại các doanh nghiệp Việt Nam cẩn phải chuyển sang một giai đoạn mới trong đó có việc nghiên cứu triển khai áp dụng các mô hình quản lý chất lượng tiên tiến phù hợp với tiêu chuẩn của thế giới. Nền kinh tế của nước ta mới chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường. Do vậy khi tiếp cận với vấn đề chất lượng là một vấn đề khó khăn. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước được sự bao cấp về vốn thì việc áp dụng các mô hình chất lượng trở nên rất khó khăn. Việc áp dụng các nguyên tắc chất lượng và các công cụ quản lý chất lượng cần phải được áp dụng đúng và đầy đủ.
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì vấn đề trước tiên là sản phẩm của họ đưa ra phải đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng và không thể giữ mãi quan niệm sản phẩm là cái mà người ta sử dụng được ngay. Mà nó phải là một khâu trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Khách hàng cũng phải phân ra khách hàng bên trong doanh nghiệp và khách hàng bên ngoài doanh nghiệp. Chính vì điều này em chọn đề tài chuyên đề thực tập tại Công ty Dụng cụ cắt và đo lường cơ khí. Quản lý chất lượng nguyên vật liệu đầu vào" vấn đề nguyên vật liệu được coi là đầu vào của sản xuất tại Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí. Nhưng nó cũng là một sản phẩm thứ cấp vì nó cũng được qua sản xuất thành những sản phẩm như thép giá thép tròn, thép dụng cụ phòng vật tư là bộ phậm chịu trách nhiệm nhập, xuất sản phẩm này cho khâu sản xuất và chế tạo của sản phẩm. Và bộ phận sản xuất chính là khách hàng mà phòng vật tư và KCS phải quan tâm và đáp ứng và đây cũng là tư tưởng xuyên xuốt trong đề tài của em.
Chương I
Những vấn đề lý luận chủ yếu về quản lý chất lượng của doanh nghiệp
I. Khái niệm và đặc điểm của chất lượng
1. Khái niệm về chất lượng.
Chất lượng và quản lý chất lượng là một lĩnh vực còn khá mới đối với nước ta, nhất là khi nước ta chuyển hướng phát triển nền kinh tế thị trường, một số quan niệm, và thói quen về chất lượng cũng như quản lý chất lượng ở thời kỳ bao cấp quan liêu không còn phù hợp với giai đoạn mới hiện nay không còn chế độ bao cấp hoàn toàn từ khâu nguyên vật liệu máy móc sản xuất đến việc bao tiêu sản phẩm, tuy vậy hiện nay vấn đề chất lượng ở nước ta còn khá mới mẻ. Và những thay đổi về cách nhìn về chất lượng của thế giới. Chúng ta cũng chưa có thuật ngữ chuẩn về chất lượng.
Định nghĩa về chất lượng ở nước ta chưa gây ra những cuộc tranh cãi phức tạp. Nhưng trên thế giới đã từng có thời kỳ nhiều quan niệm khác nhau trong cách tiếp cận vấn đề này.
Trước hết xuất phát từ quan niệm mang tính trừu tượng, triết học, chất lượng được định nghĩa là đạt đến mức hoàn hảo, tuyệt đối. Chất lượng là cái gì đó mà làm mọi người mỗi khi, nghe thấy và nhìn thấy ngay một sự hoàn hảo nhất.
Chất lượng mang tính trừu tượng do vậy nó không thể mang ra để cân đong đo đếm được vì vậy nó chỉ mang ý nghĩa nghiên cứu mà không có khả năng áp dụng trong kinh doanh.
Theo quan niệm 2 chất lượng xuất phát từ những đặc tính của sản phẩm. Walte. A.Shewart là nhà quản lý người Mỹ là người đã khởi xướng và đại diện cho quan niệm này. Ông cho rằng chất lượng của sản phẩm trong sản xuất công nghiệp là tập hợp những đặc tính của sản phẩm phản ánh giá trị sử dụng của nó. Theo quan niệm này chất lượng là một vấn đề cụ thể có thể đo đếm được theo quan niệm này thì những nhà kinh doanh sẽ đưa ra nhiều những đặc tính chất lượng của nguyên vật liệu đầu vào khác nhau. Chính vì chất lượng là sản phẩm khác nhau thì nó phải được quy định bởi nguyên vật liệu đầu vào. Vì khi tạo ra mỗi một sản phẩm khác nhau. Thì nó phải được quy định bởi nguyên vật liệu đầu vào khác nhau. Chính vì chất lượng là sản phẩm phản ánh số lượng các thuộc tính tồn tại trong mỗi loại nguyên vật liệu mà tồn tại quy định nhiều nhất trong nguyên vật liệu đã hoàn chế. Do vậy khi nguyên vật liệu đó càng cao.
Tuy vậy quan niệm này vẫn vấp phải hạn chế là những đặc tính sản phẩm nó sẽ bị tách rời nhu cầu của người tiêu dùng, nó không tính đến sự thích nghi khác nhau về sở thích và nhu cầu riêng biệt của từng người. Vì thế néu theo định nghĩa này thì khả năng tiêu thụ sản phẩm trong kinh doanh sẽ thấp.
Quan niệm thứ ba: là quan niệm xuất phát từ người sản xuất. Theo quan niệm này chất lượng sản phẩm là sự đạt được và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn yêu cầu kinh tế kỹ thuật đang được thiết kế kỳ trước. Quan niệm này đã nêu bật lên vấn đề về công nghệ " chất lượng là trình độ cao nhất mà một sản phẩm có được khi sản xuất.
Khi sản xuất hàng loạt những sản phẩm không đảm bảo các đặc tính kỹ thuật cần thiết sẽ được phát hiện bằng phương pháp thống kê, đo lường chất lượng sau đó sẽ phân tích tỷ mỉ để có những biện pháp khắc phục sửa chữa kịp thời.
Qua nhiều thập kỷ, ở các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tư bản đã tin tưởng vào cách tiếp cận này. Nhưng vào những năm gần đây họ đã nhận thấy cách tiếp cận này quá hạn hẹp vì nó chỉ tập chung vào cácyếu tố bên trong, liên quan đến nhiều vấn đề kỹ thuật. Kiểm soát hơn là sự chất nhận của khách hàng. Đồng thời quan niệm này sẽ tạo ra nguy cơ làm chất lượng tụt hậu so với nhu cầu. Vì tiêu chuẩn hoàn toàn xuất phát từ trình độ thiết kế. Tay nghề và ý niệm của nhà sản xuất nhưng rất có thể đối với nhà sản xuất một sản phẩm mà họ tung ra thị trường với chất lượng là rất cao. Nhưng lại không phù hợp với khách hàng. Do vậy nó cũng trở nên vô nghĩa. Hơn thế nữa nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay đổi và đòi hỏi một sự cố gắng cao hơn nữa đối với nhà sản xuất. Do vậy nhà sản xuất không thể duy trì mãi được một tiêu chuẩn đơn nhất.
Quan niệm thứ tư là quan niệm định hướng theo khách hàng.
Những năm 20 của thế kỷ 20 các nhà kinh tế Mỹ đã đưa ra quan điểm chất lượng hướng theo khách hàng. được thể hiện theo sơ đồ sau:
Nhu cầu
Đưa vào
Sản phẩm
Đặc điểm
kỹ thuật
Phản ánh
Thoả mãn
Biểu 1: Mối quan hệ giữa nhu cầu với sản phẩm và đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm.
Theo sơ đồ này, chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu động nó luôn gắn bó chặt chẽ với nhu cầu và xu hướng vận động của nhu cầu trên thị trường. Do đó người sản xuất cần phải thường xuyên cải tiến, đổi mới kịp thời, nhằm đáp ứng đòi hỏi của khách hàng. Khách hàng là người xác định chất lượng chứ không phải là người sản xuất. Theo quan niệm này, sản phẩm có chất lượng không phải là cao nhất, tốt nhất mà phải phù hợp với nhu cầu. Nói cụ thể hơn là phù hợp với sự thích thói quen người tiêu dùng và khả năng thanh toán của từng đối tượng. Điều khó khăn nhất của vấn đề này là xác định mức độ phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Ngoài ra nó còn xuất phát từ mục tiêu chủ yếu của từng doanh nghiệp nhằm đáp ứng sự đòi hỏi của thị trường mà có nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng " chất lượng là những gì khác với sản phẩm của Công ty khác" Mục đích cạnh tranh.
"Chất lượng là cái phù hợp với khả năng thanh toán" của người tiêu dùng.
Theo Giáo sư: Kao ru IskiKAWa " chất lượng là khả năng thoả mãn nhu cầu của thị trường với chi phí thấp nhất" ở đây ông đã nhấn mạnh đến chất lượng tối ưu. Chất lượng tối ưu là chất lượng mà tại đó lợi nhuận được nâng cao chất lượng hơn sự tăng lên chi phí cần thiết để đạt mức chất lượng đó.
- Theo quan niệm này, chất lượng được nhìn từ bên ngoài theo quan niệm của khách hàng. Chỉ có những đặc tính của sản phẩm đáp ứng được nhu cầu khách hàng, mới được coi là chất lượng. Chất lượng của một sản phẩm phải thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng cụ thể, trong những điều kiện kinh tế kỹ thuật, văn hoá xã hội của mỗi nước mỗi vùng. Trong kinh doanh, không thể có chất lượng như nhau. Cho tất cả các vùng, các khu vực, các đối tượng mà còn căn cứ vào những hoàn cảnh cụ thể đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp.
2. Chất lượng và đặc điểm của chất lượng:
Tuỳ theo đối tượng sử dụng, từ "chất lượng" có ý nghĩa khác nhau người sản xuất coi chất lượng là điều phải làm để đáp ứng các quy định và yêu cầu do khách hàng đặt ra, để được khách hàng chấp nhận chất lượng được so sánh với chất lượng của đối thủ cạnh tranh và đi kèm theo các chi phí giá cả. Chất lượng là một mục tiêu động. Chất lượng là một khái niệm đẹp để chất lượng sống động chất lượng là mục tiêu, bí ẩn, mang tính cá nhân, nội bộ mỗi con người sáng tạo. Do con người và nền văn hoá trên thế giới khác nhau, nên cách biểu hiện của họ về chất lượng và đảm bảo chất lượng cũng khác nhau.
Theo bộ tiêu chuẩn ISO 8402 " chất lượng là toàn bộ những đặc tính của một thực thể tạo cho thế đó khả năng thoả mãn nhu cầu đã công bố, còn tiềm ẩn từ định nghĩa trên ta rút ra đặc điểm của chất lượng là.
2.1. Chất lượng được đo bởi sự thoả mãn về nhu cầu nếu một sản phẩm vì một lý do nào đó mà không được nhu cầu chấp nhânj thì phải bị coi là có chất lượng kém cho dù trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại đây là một kết luận then chốt và là cơ sở hiện đại. Đây là một kết luận then chốt và là cơ sở để các nhà sản xuất định ra các chính sách, chiến lược kinh doanh của mình.
2.2. Do chất lượng được đo bởi sự thoả mãn nhu cầu và nhu cầu luôn luôn biến động nên chất lượng cũng luôn biến động theo thời gian, không gian, và điều kiện sử dụng.
2.3. Đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phải xem xét và chỉ xét đến đặc tính của đối tượng có liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu cụ thể.
2.4. Nhu cầu có thể công bố dưới dạng các quy định, tiêu chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận chúng hoặc chỉ có thể phát hiện chúng trong quá trình sử dụng.
2.5. Chất lượng không phải chỉ là một thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá, như ta vẫn hiểu hàng ngày chất lượng còn áp dụng cho mọi thực thế, đó có thể là một sản phẩm, hay một hoạt động, một quá trình một doanh nghiệp hay một con người.
Khái niệm về chất lượng ở trên được gọi là chất lượng rõ ràng khái niệm nói đến chất lượng không thể bỏ qua các yếu tố giá cả và dịch vụ sau khi bán, đó là yếu tố mà khách hàng nào cũng quan tâm sau khi thấy sản phẩm mà họ định mua thoả mãn nhu cầu của họ. Người ra vấn đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn cũng là yếu tố vô cùng quan trọng trong sản xuất hiện đại. Nhất là khi các phương pháp sản xuất "vừa đúng lúc" TIT " Fust - in - Time" " Không khó (Nou - stocle - pro ductien) đang được thịnh hành tại các Công ty hàng đầu. Từ những phân tích trên đây người ta hình thành các khái niệm về chất lượng thoả mãn nhu cầu.
Giá cả
Thời gian giao hàng
Dịch vụ
Hình 1.1. Các yếu tố của chất lượng tổng hợp
II. nguyên tắc và nội dung quản lý chất lượng của doanh nghiệp.
1. Sự phát triển của khoa học quản lý chất lượng .
Chất lượng không tự sinh ra. Chất lượng không phải là một kết quả ngẫu nhiên. Nó là kết quả của sự tác động hàng loạt các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được một chất lượng mong muốn thì cần với có một cách quản lý chất lượng đúng đắn. Các yếu tố này hoạt động quản lý, chất lượng trong lĩnh vực chất lượng được gọi là quản lý chất lượng. Phải có hiểu biêt và kinh nghiệm đúng đắn về quản lý chất lượng mới giải quyết tốt bài toán chất lượng.
Quản lý chất lượng được áp dụng trong một ngành công nghiệp không chỉ trong sản xuất chế tạo ra sản phẩm mà trong mọi lính vực và một trong lĩnh vực quan trọng là quản lý, nguyên vật liệu đầu vào. Quản lý chất lượng trong Công ty là đảm bảo những việc làm đúng và làm những việc quan trọng. Nếu Công ty muốn cạnh tranh trên thị trường quốc tế, phải tìm kiếm và áp dụng các khái niệm về quản lý chất lượng có hiệu quả.
Quản lý chất lượng theo định nghĩa của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO là " một hoạt động có chức năng quản lý chung nhằm đề ra chính sách, mục tiêu và trách nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng kiểm soát chất lượng bảo đảm chất lượng cải tiến chất lượng trong khuôn khổ của hệ thống chất lượng.
Marketing và nghiên cứu thị trường
Xử lý chu
kỳ sử dụng
Thiết kế và
phát triển
Hoạch định quá trình và triển khai
Cung ứng
Sản xuất hay chuẩn bị dịch vụ
Kiểm tra xác nhận
Dịch vụ hậu mãi
Trợ giúp kỹ thuật
Lắp đặt, đưa
và sử dụng
Bán, phân phối
Đóng gói, lưu kho
Chu
trình
chất lượng
2. Các nguyên tắc của quản lý chất lượng
Nói chung, để thoả mãn yêu cầu hệ thống và đồng bộ, hoạt động quảnl ý chất lượng phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản được trình bày dưới đây.
Nguyên tắc 1: Định hướng bởi khách hàng
Doanh nghiệp phụ thuộc vào khách hàng của mình và vì thế cần hiểu các nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng, để không chỉ đáp ứng mà còn phấn đấu vượt cao hơn sự mong đợi của họ.
Chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do khách hàng xem xét, quyết định. Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm và dịch vụ mang lại giá trị cho khách hàng và làm cho khách hàng thoả mãn ưu chuộng, phải là trọng tâm của hệ thống quản lý. Giá trị sự thoả mãn và ưa chuộng của khách hàng có thể chiu tác động của nhiều yếu tố trong suốt quá trình mua hàng, sử dụng và dịch vụ sau khi bán. Những yếu tố này bao gồm cả mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng của họ, tạo dựng nên niềm tin tưởng và gắn bó, ưu chuộng của khách hàng đối với doanh nghiệp.
Quan niệm này về chất lượng không chỉ giới hạn ở việc sản xuất sản phẩm và dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của khách hàng mà còn phải nâng cao chất lượng hơn nữa, tạo nên ưu thế so với các sản phẩm và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh bằng các biện pháp khác nhau như đáp ứng kịp thời, cải tiến dịch vụ cung cấp, xây dựng các mối quan hệ đặc biệt....
Chất lượng định hướng bởi khách hàng là một yếu tố chiến lược, dẫn tới khả năng chiếm lĩnh thị trường, duy trì và thu hút khách hàng. Nó đòi hỏi phải luôn nhạy cảm đối với những khách hàng mới, những yêu cầu thị trường và đánh giá những yếu tố dẫn tới sự thoả mãn khách hàng. Nó cũng đòi hỏi ý thức phát triển công nghệ, khả năng đáp ứng mau lẹ và linh hoạt các yêu cầu của thị trường, giảm sai lỗi, khuyết tật và những khiếu nại của khách hàng.
Nguyên tắc 2: Sự lãnh đạo
Lãnh đạo thiết lập sự thống nhất đồng bộ giữa mục đích, đường lối và môi trường nội bộ trong doanh nghiệp. Họ hoàn toàn lôi cuốn mọi người trong việc đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Hoạt động chất lượng sẽ không có kết quả nếu không có sự cam kết triệt để của lãnh đạo.
Lãnh đạo doanh nghiệp phải có tầm nhìn cao, xây dựng những giá trị rõ ràng, cụ thể và định hướng vào khách hàng. Để củng cố những mục tiêu này cần có sự cam kết và tham gia của từng cá nhân lãnh đạo với tư cách một thành viên của doanh nghiệp.
Lãnh đạo phải chỉ đạo và tham gia xây dựng các chiến lược, hệ thống và các biện pháp huy động sự ham gia và tính sáng tạo của mọi nhân viên để xây dựng, nâng cao năng lực của doanh nghiệp và đạt kết quả tốt nhất có thể được. Qua việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động như lập kế hoạch, xem xét đánh giá trực tiếp vào các hoạt động của doanh nghiệp, ghi nhận những kết quả đạt được của nhân viên, người lãnh đạo có vai trò củng cố giá trị và khuyến khích sự sáng tạo, đi đầu ở mọi cấp trong toàn bộ doanh nghiệp.
Nguyên tắc 3: Sự tham gia của mọi người
Con người là nguồn lực quan trọng nhất của một doanh nghiệp và sự tham gia đầy đủ với những hiểu biết và kinh nghiệm của họ rất có ích cho doanh nghiệp.
Thành công trong cải tiến chất lượng công việc phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng, nhiệt tình hăng say trong công việc của lực lượng lao động. Doanh nghiệp cần phải tạo điều kiện để nhân viên học hỏi, nâng cao kiến thức và thực hành những kỹ năng mới.
Doanh nghiệp cần có hệ thống khuyến khích sự tham gia của mọi thành viên vào mục tiêu chất lượng của doanh nghiệp. Những yếu tố liên quan đến vấn đề an toàn, phúc lợi xã hội của mọi nhân viên cần phải gắn với mục tiêu cải tiến liên tục và các hoạt động của doanh nghiệp.
Khi được huy động đầy đủ nhân viên trong doanh nghiệp sẽ:
- Dám nhận công việc, nhận trách nhiệm giải quyết các vấn đề.
- Tích cực tìm kiếm các cơ hội để cải tiến, nâng cao hiểu biết và kinh nghiệm và truyền đạt chúng trong đội và nhóm công tác.
- Đổi mới và sáng tạo để nâng cao hơn nữa các mục tiêu của doanh nghiệp.
- Giới thiệu doanh nghiệp tốt hơn cho khách hàng và cộng đồng
- Nhiệt tình trong công việc và cảm thấy tự hào là thành viên của doanh nghiệp .
Nguyên tắc 4: Phương pháp quá trình
Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn và các hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình. Quá trình là một dãy các sự kiện nhờ đó biến đổi đầu vào thành đầu ra. Lẽ dĩ nhiên, để quá trình có ý nghĩa, giá trị của đầu ra phải hơn đầu vào, có nghĩa là quá trình làm gia tăng giá trị. Trong một doanh nghiệp đầu vào của quá trình này là đầu ra của quá trình trước đó, và toàn bộ các quá trình trong một doanh nghiệp lập thành một mạng lưới quá trình. Quản lý các hoạt động của một doanh nghiệp thực chất là quản lý các quá trình và các mối quan hệ giữa chúng. Quản lý tốt mạng lưới quá trình này cùng với sự đảm bảo đầu vào nhận được từ người cung cấp bên ngoài, sẽ đảm bảo chất lượng đầu ra để cung cấp cho khách hàng bên ngoài.
Nguyên tắc 5: Tính hệ thống
Như trên đã trình bày, ta không thể giải quyết bài toán chất lượng theo từng yếu tố tác động đến chất lượng một cách riêng lẻ mà phải xem xét toàn bộ các yếu tố tác động đến chất lượng một cách hệ thống và đồng bộ, phối hợp hài hoà các yếu tố này. Phương pháp hệ thống của quản lý là cách huy động, phối hợp toàn bộ nguồn lực để thực hiện mục tiêu chung của doanh nghiệp. Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên quan lẫn nhau đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 6: Cải tiến liên tục
Cải tiến liên tục là mục tiêu, đồng thời cung là phương pháp của mọi doanh nghiệp. Muốn có được khả năng cạnh tranh và mức độ chất lượng cao nhất, doanh nghiệp phải liên tục cải tiến sự cải tiến có thể là từng bước nhỏ hoặc nhảy vọt. Cách thức cải tiến cần phải "bám chắc" vào công việc của doanh nghiệp.
Nguyên tắc 7: Quyết định dựa trên sự kiện
Mọi quyết định và hành động của hệ thống quản lý hoạt động kinh doanh muốn có hiệu quả phải được xây dựng dựa trên việc phân tích dữ liệu và thông tin. Việc đánh giá phải bắt đầu nguồn từ chiến lượcd của doanh nghiệp, các quá trình quan trọng, các yếu tố đầu vào và kết quả của các quá trình đó.
Nguyên tắc 8: phát triển quan hệ hợp tác
Các doanh nghiệp cần tạo dựng mối quan hệ hơp tác nội bộ và với bên ngoài doanh nghiệp để đạt được mục tiêu chung.
Các mối quan hệ nội bộ có thể bao gồm các quan hệ thúc đẩy sự hợp tác giữa lãnh đạo và người lao động, tạo lập các mối quan hệ mạng lưới giữa các bộ phận trong doanh nghiệp để tăng cường sự linh hoạt, khả năng đáp ứng nhanh.
Các mối quan hệ bên ngoài là những mối quan hệ với bạn hàng, người cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các tổ chức đào tạo... Những mối quan hệ bên ngoài ngày càng quan trọng, nó là những mối quan hệ chiến lược. Hoặc thiết kế những sản phẩm và dịch vụ mới.
Các bên quan hệ cần chú ý đến những yêu cầu quan trọng, đảm bảo sự thành công của quan hệ hợp tác, các cách thức giao lưu thường xuyên, các phương pháp đánh giá sự tiến bộ, thích ứng với điều kiện thay đổi.
Các nguyên tắc trên đây đã được vận dụng để khi xây dựng các hình thức quản lý chất lượng hiện đaị như ISO 9000, TQM.
3. Một số phương pháp quản lý chất lượng
a. Kiểm tra chất lượng
Phương pháp phổ biến nhất để đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với quy định là, kiểm tra các sản phẩm và chi tiết bộ phận nhằm sàng lọc và loại bỏ bất cứ bộ phận nào không đảm bảo tiêu chuẩn hay quy cách kỹ thuật. Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ nhất mở đầu vào những năm cuối thế kỷ18, các chức năng kiểm tra và sản xuất đã được tách riêng, các nhân viên kiểm tra được chỉ định và đào tạo, với mục tiêu là nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm xuất xưởng phù hợp với quy định. Như vậy, kiểm tra chất lượng là hình thức quản lý chất lượng sớm nhất.
Từ thế kỷ 19, cơ khí hoá đã thực hiện từng bước, tiếp theo là các công trình của Taylor, Gilbreth và các nhà khoa học quản lý đã nghiên cứu hàng loạt vấn đề về khoa học lao động. Tiếp đó hệ thống Ford được phát triển khoảng năm 1993 đã có những cải tiến không chỉ ở các thao tác mà cả trong quá trình sản xuất. Hệ thống của sản xuất theo dây chuyền lắp ráp của hãng Ford đã di chuyển sàn xe dọc theo các vị trí đặt các bộ phận, thay cho việc di chuyển các kho chứa bộ phận đến sàn xe.
Sau khi hệ thống Taylor và hệ thống Ford được áp dụng vào việc sản xuất hàng loạt lớn đã trở nên phát triển rộng rãi, càng ngày càng mãnh liệt. Các nhà công nghiệp dần dần nhận ra rằng kiểm tra 100% không phải là cách đảm bảo chất lượng tốt nhất. Theo định nghĩa, kiểm tra chất lượng là hoạt động như do, xem xét, thử nghiệm, định cỡ một hay nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù hợp của mỗi đặc tính. Như vậy kiểm tra chỉ là một sự phân loại sản phẩm đã được chế tạo, một cách xử lý "chuyện đã rồi". Nói theo ngôn ngữ hiện nay thì chất lượng không được tạo dựng nên qua kiểm tra. Ngoài ra, để đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp quy định một cách hiệu quả bằng cách kiểm tra sàng lọc 100% sản phẩm cần phải thoả mãn những điều kiện sau:
- Công việc kiểm tra phải được tiến hành một cách đáng tin cậy và không có sai sót.
- Chi phí cho sự kiểm tra phải ít hơn phí tổn do sản xuất ra sản phẩm khuyết tật và những thiệt hại do ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng.
- Quá trình kiểm tra không được ảnh hưởng đến chất lượng Những điều kiện trên không dễ thực hiện ngay cả với công nghiệp hiện đại. Ngoài ra, sản phẩm phù hợp quy định cũng chưa chắc đã thoả mãn nhu cầu thị trường, nếu như các quy định không phản ánh đúng nhu cầu.
Vì những lý do đó, vào những năm 1920, người ta đã bắt đầu chú trọng đến việc đảm bảo ổn định chất lượng trong những quá trình trước đó, hơn là đội đến khâu cuối cùng mới tiến hành sàng lọc 100% sản phẩm. Theo quan điểm này việc khắc phục những điểm sai sót ngay trong quá trình chế tạo đã được sử dụng một cách rộng rãi. Khái niệm kiểm soát chất lượng ( Quality Comtrol - QG ra đời).
b. Kiểm soát chất lượng
Walter A. Shenhart, một kỹ sư thuộc phòng thí nghiệm Bell Telephome tại Princeton, Newfersey, là người đầu tiên đề xuất việc sử dụng các biểu đồ kiểm soát vào việc quản lý các quá trình sản xuất công nghiệp và được coi là mốc ra đời của hệ thống kiểm soát chất lượng hiện đại.
Theo định nghĩa, kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử dụng để đáp ứng các yêu cầu chất lượng.
Để kiểm soát chất lượng, Công ty phải kiểm soát được mọi yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tạo ra chất lượng. Việc kiểm soát này nhằm ngăn ngừa sản xuất ra sản phẩm khuyết tật. Nói chung, kiểm soát chất lượng là kiểm soát các yếu tố sau đây.
- Con người
- Phương pháp và qúa trình
- Đầu vào
- Thiết bị
- Môi trường
W. tdnords. Deming đã đưa ra chu trình sau đây, gọi là chu trình Deming, hay vòng tròn PDCA áp dụng cho mọi hoạt động kiểm soát chất lượng.
Lập kế hoạch (Plan)
Hành động khắc phục (Action)
Thực hiện (Do)
Kiểm tra (Check)
Hình 1.3. Chu trình Deming
Kiểm soát chất lượng ra đời tại Mỹ, nhưng rất đáng tiếc là các phương pháp này chỉ được áp dụng mạnh mẽ trong lĩnh vực quân sự và không được các Công ty Mỹ phát huy sau chiến tranh. Trái lại, chính ở Nhật Bản, kiểm soát chất lượng mới được áp dụng và phát triển, đã được hấp thụ vào chính nền văn hoá của họ. Nhật Bản trở thành " quê hương" thứ hai của QC.
c. Đảm bảo chất lượng
Như đã đề cập trong mục a " Các nguyên tắc của quản lý chất lượng", chất lượng phải hướng tới sự thoả mãn của khách hàng, đó là nguyên tắc chiến lược của nhà sản xuất, nhằm thu hút nhiều hợp đồng mua bán của khách hàng. Tuy nhiên, cũng phải đến sau đại chiến thế giới II, trước hết do nhu cầu quân sự, sau đó là tính cạnh tranh ngày càng tăng, vị trí của khách hàng mới được quan tâm. Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa khách hàng và người cung cấp được đẩy mạnh.
Nói chung, khách hàng đến với người cung cấp để xây dựng các hợp đồng mua bán là dựa trên hai yếu tố. Giá cả (bao gồm cả giá mua, chi phí sử dụng, giá bán lại sau khi sử dụng ...) Và sự tín nhiệm với người cung cấp.
Làm thế nào để có được sự tín nhiệm của khách hàng về mặt chất lượng, thậm chí khách hàng chưa nhận được sản phẩm ? Trong mỗi thời kỳ dài trong nửa đầu thế kỷ, người mua hàng sau khi ký kết hợp đồng xong, chỉ còn cách phó mặc cho nhà sản xuất tự lo liệu, cho đến khi nhận hàng. Họ không thể biết được những gì sẽ diễn ra tại cơ sở của người cung cấp. Điều đó diễn ra cho tới đại chiến thế giới hứ hai, khi đòi hỏi có độ tin cậy cao trong cung cấp vũ khí, và sau này, đối với một số sản phẩm khác có độ nguy hiểm cao, thì vấn đề này mới thực sự được quan tâm.
Khách hàng cũng đã có một số giải pháp như cử giám định viên đến cơ sở sản xuất để kiểm tra một số khâu quan trọng trong quá trình sản xuất. Nhưng điều đó vẫn không đủ, vì còn nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm như thấy trong chu trình chất lượng trình bày trong các mục trước. Khái niệm đảm bảo chất lượng ra đời. Đảm bảo chất lượng là mọi hoạt động có kế hoạch và có hệ thống, và được khẳng định nếu cần để đem lại lòng tin thoả đáng rằng sản phẩm thoả mãn các yêu cầu đã định đối với chất lượng.
Để có thể đảm bảo chất lượng theo nghĩa trên, người cung cáp phải xây dựng một hệ thống đảm bảo chất lượng có hiệu lực và hiệu quả, đồng thời làm thế nào để chứng tỏ cho khách hàng hiểu biết điều đó. Đó chính là nội dung cơ bản của hoạt động đảm bảo chất lượng.
Quan điểm đảm bảo chất lượng được áp dụng đầu tiên trong những ngành công nghiệp đòi hỏi độ tin cậy cao, sau đó phát triển rộng sang ngành sản xuất bình thường, và ngày nay bao gồm cả các lĩnh vực cung cấp dịch vụ như tài chính, ngân hàng.
Trong những năm gần đây, để có một chuẩn mực chung, được quốc tế chấp nhận cho hệ thống đảm bảo chất lượng, tổ chức tiêu chuẩn hoá Quốc tế ISO đã xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn ISO 9000, để giúp cho các nhà cung cấp có được một mô hình chung về đảm bảo chất lượng đồng thời cũng là một chuẩn mực chung để dựa vào đó khách hàng hay tổ chức trung gian tiến hành xem xét đánh giá. Có thể nói, chỉ đến khi ra đời bộ tiêu chuẩn này, thì mới có cơ sở tạo ra "niềm tin khách quan đối với chất lượng sản phẩm. Chi tiết về vấn đề này được trình bày trong mục 3.
d. Kiểm soát chất lượng toàn diện
Trong thập kỷ áp dụng đầu tiên vào cuối những năm 1940 tại Nhật Bản, các kỹ thuật kiểm soát chất lượng thống kê (SQC) chỉ được áp dụng rất hạn chế trong một số khu vực sản xuất và kiểm nghiệm. Để đạt được mục đích chính của quản lý chất lượng là thoả mãn người tiêu dùng, thì đó chưa phải là điều kiện đủ, nó đòi hỏi không chỉ áp dụng các phương pháp này vào các quá trình xảy ra trước quá trình sản xuất và kiểm tra, như khảo sát thị trường nghiên cứu, lập kế hoạch, phát triển, thiết kế và mua hàng, mà còn phải áp dụng cho các quá trình xảy ra sau đó, như đóng gói, lưu kho, vận chuyển, phân phối, bán hàng và dịch vụ sau khi bán hàng khái niệm kiểm soát chất lượng toàn diện ra đời.
Thuật ngữ kiểm soát chất lượng toàn diện do Armand. V.Feigenbaum đưa ra trong lần xuất bản cuốn sách Total Quality Contol (TQC) của Ông năm 1951,. Trong lần tái bản lần thứ ba cuốn sách này năm 1983, Feigenbaum định nghĩa TQC như sau:
Kiểm soát chất lượng toàn diện là một hệ thống có hiệu quả để nhất thể hoá các nỗ lực phát triển, duy trì và cải tiến chất lượng của các nhóm khác nhau vào trong một tổ chức sao cho các hoạt động Marketing, kỹ thuật, sản xuất và dịch vụ có thể tiến hành một cách kinh tế nhất, cho phép thoả mãn hoàn toàn khách hàng.
Kiểm soát chất lượng toàn diện huy động nỗ lực của mọi đơn vị trong Công ty vào quá trình có liên quan đến duy trì và cải tiến chất lượng.
Điều này sẽ giúp tiết kiệm tối đa trong sản xuất, dịch vụ đồng thời thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Khái niệm TQC đưa du nhập vào Nhật Bản năm 1958. Tuy nhiên TQC được triển khai ở Nhật Bản khác định nghĩa trên. Sự khác nhau chủ yếu là ở Nhật bàn có sự tham gia của mọi thanh niên trong Công ty. Bởi vậy ở Nhật Bản có tên gọi khác là kiểm soát chất lượng toàn Công ty (Company Wide Quality Contrlo - CWQC)
e. Quản lý chất lượng toàn diện
Trong những năm gần đây, sự ra đời của nhiều kỹ thuật quản lý mới, góp phần nâng cao hoạt động quản lý chất lượng, như hệ thống " Vừa đúng lúc" (Fust - in - time) đã là cơ sở cho lý thuyết quản lý chất lượng toàn diện (TQM). Quản lý chất lượng toàn diện được ra đời từ các nước phương Tây với tên tuổi của Deming, Furan, Crosby. Cũng có thể nói, quản lý chất lượng toàn diện là một sự cải biến và đẩy mạnh hơn hoạt động CWQC của Nhật tại các nước Phương Tây, chủ yếu là Mỹ.
TQM định nghĩa là một phương pháp quản lý của một tổ chức định hướng vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của mọi thành viên và nhằm đem lại sự thành công dài hạn thông qua sự thoả mãn khách hàng và lợi ích của mọi thành viên của Công ty đó và của xã hội.
Mục tiêu của TQM là cải tiến chất lượng sản phẩm và thoả mãn khách hàng ở mức tốt nhất cho phép.
Đặc điêm nổi bật của TQM so với các phương pháp quản lý chất lượng trước đây là nó cung cấp một hệ thống toàn diện cho công tác quản lý và cải tiến mọi khía cạnh có liên quan đến chất lượng và huy động sự tham gia của mọi bộ phận và mọi cá nhân để đạt được mục tiêu chất lượng đã đặt ra.
TQM được áp dụng để cải tiến mọi hoạt động trong mọi cấp của Công ty theo một cách nhất thể. Công ty áp dụng TQM sẽ có thể bao quát được mọi giai đoạn tư duy chất lượng khách hàng.
Sự nhất thể hoá mọi hoạt động trong TQM đã giúp cho Công ty tiến hành các hoạt động phát triển sản xuất tác nghiệp và hỗ trợ để duy trì được chất lượng sản phẩm với tiến độ ngắn nhất chi phí thấp nhất. Điều này không giống với cách triển khai tuần tự, nó đòi hỏi sự triển khai đồng thời của mọi quá trình trong một hệ thống tổng thể.
Các đặc điểm chung của TQM trong quá trình triển khai thực tế hiện nay tại Công ty có thể tóm tắt như sau:
- Chất lượng định hướng bởi khách hàng
- Vai trò lãnh đạo trong Công ty
- Cải tiến, chất lượng liên tục
- Tính nhất thể, hệ thống
- Sự tham gia của mọi cấp, mọi bộ phận, nhân viên
- Sử dụng các phương pháp tư duy khoa học như kỹ thuật thống kê, vừa đúng lúc...
Nhiều tác giả cho rằng, về thực chất TQC, CWQC, TQM chỉ là những tên gọi khác nhau của một hình thái quản lý chất lượng, chỉ mang sắc thái khác nhau._. tuỳ theo đặc điểm từng quốc gia, cách thức triển khai. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, xu thế chung của các nhà quản lý chất lượng trên thế giới là dùng thuật ngữ TQM.
4. Quản lý chất lượng trong các khâu.
4.1. Quản lý chất lượng khâu thiết kế sản phẩm và quá trình.
Đây là hoạt động hết sức quan trọng và ngày nay nó được coi là hành động quan trọng hàng đầu của quản lý chất lượng. Mức độ thoả mãn khách hàng hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng của các thiết kế trong giai đoạn này phải tổ chức quản lý quá trình thiết kế chuẩn từ các bước như:
- Nghiên cứu là việc tìm ra những kỹ thuật, phương pháp, thông tin hoặc hệ thống mới nghiên cứu thị trường rõ ràng là một phần trong công việc nghiên cứu.
- Phát triển là việc cải tiến những kỹ thuật, phương pháp hoặc hệ thống hiện có.
- Thiết kế có thể bao gồm nghiên cứu và phát triển và tất cả đều là những hoạt động sáng tạo.
Mọi ngàng kinh doanh cạnh tranh dựa trên chất lượng đòi hỏi định kỳ đổi mới sản phẩm và dịch vụ cho hợp thời trang những thị trường khác nhau và những sản phẩm khác nhau thì nhịp độ thay đổi về thiết kế sản phẩm và quá trình sản xuất cũng khác nhau. Đứng trước sự đổi mới năng nôt, một tổ chức có uy tín có phương pháp lựa chọn chính.
Bám vào những sản phẩm và dịch vụ cũ của mình, đấu tranh để gạt bỏ những sản phẩm mới.
Tìm những góc độ thị trường chưa được khai thác để giữ được doanh số của mình.
Làm cho sản phẩm và dịch vụ của mình theo kịp các tình hình đổi mới có thể đứng vững trong cạnh tranh và phát triển những sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới và cách lựa chọn những sản phẩm dịch vụ hoàn toàn mới là hấp dẫn khách hàng. Cả vì nó thay đổi luật cạnh tranh nhưng cũng đòi hỏi đủ nguồn lực và trí tuệ, vật chất. Như vậy, đổi mới dẫn tới cả việc phát minh và thiêts kế các sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới, chứa đựng nhiều ý kiến, các phát hiện mới và công nghệ tiên tiến. Kể cả việc không ngừng phát triển và cải tiến những sản phẩm dịch vụ và quá trình công nghệ để nâng cao chất lượng và khả năng phục vụ của chúng. Đổi mới cũng hướng vào việc giảm chi phí sản xuất hoặc vận hành trong suốt chu kỳ tuổi thọ của sản phẩm hoặc hệ thống dịch vụ, việc tiến hành thiết kế chất lượng quan tâm đến mọi khía cạnh nhu cầu của khách hàng bao gồm giá thành, sản xuất, sử dụng, và bảo dưỡng dễ dàng và an toàn các sản phẩm và dịch vụ. Thì công việc thiết kế phải được tiến hành trên mọi khía cạnh của các nhiệm vụ sau:
Xác định nhu cầu bao gồm nhu cầu thay đổi
Triển khai những gì thoả mãn nhu cầu
Kiểm tra sự phù hợp với nhu cầu
Bảo đảm là nhu cầu được thoả mãn.
Tiến hành thiết kế gồm những việc từ nhận dạng vấn đề cần giải quyết, thường đó là nhu cầu của thị trường, triển khai các quan điểm và mẫu hình thiết kế, cho tới việc xây dựng những bản quy cách chi tiết và các bản hướng dẫn cần thiết để sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ. Đó là một quá trình thể hiện nhu cầu dưới một dạng vật chất nào đó, mới đầu nó chỉ như mộtgiải đáp, sau đó dựng lên một cấu hình hoặc một cách sắp sếp đặc thù các loại vật liệu, nguồn lực thiết bị và con người.
4.2. Quản lý chất lượng trong giai đoạn cung ứng.
Mục tiêu cơ bản trong phần hệ này là cần đáp ứng đầy đủ năm yêu cầu cơ bản đó là sự chính xác về mặt thời gian, địa điểm, đúng với số lượng, chất lượng. Chủng loại yêu cầu, vì thế mà quản lý chất lượng trong giai đoạn này cần thiết phải:
- Lựa chọn nhà cung cấp phù hợp để đảm bảo tính ổn định cao của đầu vào trong quá trình sản xuất. Đây chính là việc lựa chọn một số ít trong số các nhà cung ứng, để xác định mối quan hệ ổn định tin tưởng lâu dài và thường xuyên.
- Đánh giá chính xác và đầy đủ các nhà cung ứng đồng thời cùng với họ thiết lập các hệ thống thông tin về chất lượng trong những yêu cầu đặt ra, giữa nhà cung ứng, doanh nghiệp và người tiêu dùng phải luôn luôn có sự trao đổi, thông tin tài liệu, các hệ thống đảm bảo chất lượng để có thể kiểm soát và đánh giá lẫn nhau.
- Những thoả thuận về việc đảm bảo tính chất chất lượng của quản lý chất lượng cung ứng cũng như các phương pháp kiểm tra. Thẩm định và xác minh.
- Xác định rõ ràng đầy đủ các hệ thống thông tin các điều khoản trong việc giải quyết trục và khuyến điẻm khi cung ứng nguyên vật liệu cũng như các phản ánh về việc giao nhận sao cho nhanh chóng và hiệu quả.
- Trong quan hệ cung ứng thì số lần cung ứng nguyên vật liệu không đúng thời hạn tỷ lệ với nguyên vật liệu không đúng tiêu chuẩn và tổng chi phí cho việc kiểm tra các quá trình cung ứng là các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của nhà cung ứng vì vậy để đảm bảo tính thống nhất thì chúng ta cần quản lý phân hệ này một cách thường xuyên.
4.3. Quản lý chất lượng trong quá trình sản xuất.
Mục đích của quan điểm này là huy động và khai thác có hiệu quả các quá trình công nghệ, thiết bị mà con người đã lựa chọn để sản xuất sản phẩm. Có chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn của khách hàng và thiết kế đã đặt ra điều đó có nghĩa chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất phải hoàn toàn phù hợp với các thiết kế để thực hiện ta cần tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Phân công công việc có nghĩa là thông báo điểm các thành viên về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp tiến hành cũng như là đưa ra những chuẩn mực về thao tác những phương pháp như: kiểm tra, nguyên vật liệu đầu vào kiểm tra máy mọc thiết bị trước khi sản xuất kiểm tra các chi tiết bộ phận trong từng giai đoạn kiểm tra tình hình thực hiện các kỷ luật trong lao động, và kiểm tra các phương tiện đo lường chất lượng.
- Các chỉ tiêu đánh giá về chất lượng trong giai đoạn sản xuất đó là những thông số về tiêu chuẩn kỹ thuật của các chi tiết bộ phận sản phẩm hoàn chỉnh phải luôn được cập nhật đổi mới và kiểm soát một cách thường xuyên.
- Các chỉ tiêu đánh giá các tổn thất thiệt hai lãng phí do sản xuất, sản phẩm không đạt tiêu chuẩn cũng như các chỉ tiêu đánh giá tình hình thực hiện kỹ thuật công nghệ và tình hình lao động phải luôn được ghi chép và đánh giá đầy đủ để có thể kiểm soát sự thay đổi biến động của quá trình sản xuất.
4.4. Quản lý chất lượng trong phân phối tiêu dùng.
- Mục đích của giai đoạn này là làm sao cung cấp sản phẩm một cách nhanh nhất kịp thời nhất đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng với chi phí hợp lý. Bên cạnh đó tìm mọi cách tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng có thể khai thác và sử dụng tối đa những tính năng của sản phẩm do vậy cần:
+ Xác định hình thức và phương thức quảng cáo cho phù hợp làm cho khách hàng có ấn tượng tốt về sản phẩm tránh tình trạng quảng cáo phóng đại thiếu tính tệ nhị và lịch sự.
+ Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm trong quá trình vận chuyển bảo quản trên cơ sở đó chúng ta thống kê và lựa chọn phương tiện vận chuyển bỗc dỡ và bảo quản hợp lý.
+ Tổ chức hướng dẫn và đào tạo người sử dụng thuyết minh đầy đủ các đặc tính chất lượng, các đặc tính và quy trình sử dụng giúp cho khách hàng không bị bỡ ngỡ khi sử dụng.
+ Tổ chức các mạng bảo hành, các điều kiện bảo hành và các vấn đề tổ chức mạng lưới bảo hành giống như một chính sách chất lượng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, bên cạnh đó cần tổ chức các dịch vụ kỹ thuật ngay khi đưa các sản phẩm ra thị trường vì do các đặc điểm của sản phẩm hao mòn lợi ích đem lại cho người sản xuất, người tiêu dùng và tuổi thọ của sản phẩm có ảnh hưởng tới chất lượng từ đó sẽ nâng cao uy tín, danh tiếng cho người sản xuất và biến thành cơ hội kinh doanh.
- Quản lý chất lượng trong quyết định phân phối tiêu dùng thường sử dụng một số các chỉ tiêu khách hàng quan tâm đó là các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng dịch vụ kỹ thuật sau khi bán, số lần giao hàng nhanh hay không, độ tin cậy sản phẩm có cao không, tuổi thọ của sản phẩm dài hay ngắn, hệ số chất lượng so với yêu cầu thực tế chênh lệch nhiều hay ít, thái độ phục vụ của các nhân viên tốt hay chưa tốt.
5 Vai trò và chức năng của hệ thống quản lý chất lượng
51. Vai trò của hệ thống quản lý chất lượng
Là một hệ thống quản lý chất lượng có vai trò quan trọng trong quản trị kinh doanh của doanh nghiệp, nó có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác phải hoạt động theo yêu cầu đó.
Hệ thống chất lượng là một phương tiện cần thiết để thực hiện chức năng quản lý là công cụ để tạo ra sản phẩm bảo đảm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Hệ thống chất lượng giúp cho các doanh nghiệp duy trì các yêu cầu của doanh nghiệp tạo ra. Và tạo ra sự ổn định góp phần giảm thiểu biến động của quá trình đặc biệt là quá trình sản xuất và quản lý (tiêu chuẩn nó không phải là sự bất di bất dịch).
Hệ thống quản lý chất lượng đảm bảo sự kết hợp hài hoà thống nhất giữ chính sách của chất lượng với chính sách của các bộ phận.
Đảm bảo cung cấp các hàng hoá dịch vụ đúng lúc kịp thời làm giảm đi được chu kỳ của sản xuất kinh doanh và giảm được chi phí nhờ các hoạt động có chất lượng.
- Phân loại hệ thống chất lượng.
Căn cứ vào nội dung và hệ thống quản lý chất lượng ISO9000/2000 đây là hệ thống có ý nghĩa về mặt pháp lý các hệ thống quốc tế, chứng nhận về đảm bảo chất lượng.
Hệ thống TQM, đây là một hệ thống quản lý chất lượng được xây dựng ở Nhật Bản, hệ thống này không có một tổ chức nào cấp giấy chứng nhận và phạm vi của nó rộng hơn hệ thống ISO9000.
Hệ thống này phát huy được tính sáng tạo của các thành viên trong tổ chức nhưng việc áp dụng khó hơn nhiều. Do vậy người ta thường áp dụng các phân hệ của TQM đặc biệt là hệ thống SS.
Seiri (sàng lọc)
Seitar (sắp sếp)
Seison (sạch sẽ)
Seiteeisn (săn sóc)
Sitsitke (sẵn sàng)
+ GMP (good mamfactering pratice) Thực hành sản xuất tốt.
+ Hệ thống HACCP (Hazard anelysis critical control points). Hệ thống kiểm soát điểm tới hạn. Đây là hệ thống phân tích kiểm tra các điểm trọng yếu trong quá trình chế biến hải sản, hệ thống này được thế giới thừa nhận và bắt buộc phải thực hiện trước khi xuất vào nước nào (Châu Âu).
Hệ thống quản lý Nhà nước, là hệ thống được xây dựng trên cơ sở thành tựu của tiêu chuẩn quốc tế, một trong những hệ thống đó giải thưởng chất lượng quốc gia Việt Nam.
Hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp, là hệ thống do doanh nghiệp tự xây dựng dựa trên tiêu chuẩn của quốc gia hay quốc tế để áp dụng cho chính bản thân của doanh nghiệp.
Hệ thống chất lượng trong một tổ chức là hệ thống do họ tự xây dựng chủ yếu là dựa vào tiêu chuẩn của quốc gia và doanh nghiệp.
- Căn cứ vào giai đoạn của chế biến sản phẩm.
Hệ thống chất lượng trong thiêts kế, sản xuất và phân phối tiêu dùng.
- Cấu trúc của hệ thống chất lượng: Một hệ thống chất lượng được hình thành bởi 6 hệ thống chính.
- Cơ cấu tổ chức: Nó bao gồm hàng loạt các yếu tố, vai trò và hàng loạt các yêu cầu, tức nó đòi hỏi phải sắp xếp toàn bộ các bộ phận và xác định rõ quyền hạn mỗi bộ phận cũng như mỗi liên hệ đó, bên cạnh đó xác định quy trình sử dụng và các chức năng nhiệm vụ của bộ phận đảm bảo chỉ tiêu chất lượng cùng với hoạt động Marketing và thiết kế.
- Hồ sơ chất lượng là cơ sở cung cấp những bằng chứng khách quan về mức độ đáp ứng nhu cầu tinh hiệu quả tác nghiệp của các hệ thống chất lượng, hồ sơ chất lượng được lưu trữ đảm bảo nguồn gốc của sản phẩm và hỗ trợ các sản phẩm phòng ngừa.
- Các công cụ và kỹ thuật hỗ trợ hệ thống chất lượng để hệ thống chất lượng triển khai thực tiễn một cách có hiệu quả và có tự giáp của công cụ thống kê và vòng tròn chất lượng.
- Nhóm chất lượng (QC: Quality circle).
Là hoạt động của người công nhân mang tính tự nguyện. Đây là tổ chức mang tính đặc thù riêng của người Nhật và chỉ xuất hiện trong TQM, là nhóm người tự nguyện tham gia không đòi hỏi lợi ích cùng nhau cải tiến giải quyết vấn đề gặp trong quá trình sản xuất (thường 7 người 1 nhóm, 1 nhóm trưởng); nhóm nào người ta cũng họp và một ngày làm việc, mọi người có năm phút để dọn vệ sinh từ chi tiết nhỏ mới dẫn đến hiệu quả lớn.
4.2.2. Chức năng của hệ thống quản lý chất lượng.
- Chức năng thiết kết là chức năng đầu tiên tạo điều kiện địa lý cho sự phát triển của các hệ thống cho sự phát triển của hệ thống sau này. Căn cứ để thiết kế và thực hiện chức năng này để thực hiện chức năng này để thực hiện chức năng này là dựa vào quy mô của doanh nghiệp.
- Chức năng triển khai thực hiện; khi xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng thông qua việc xây dựng các tiêu chuẩn hồ sơ chất lượng và tổ chức phân công công việc, phân công cho từng người chúng ta tiến hành để thực hiện mục tiêu mà hệ thống đã đề ra cho hệ thống hoạt động.
+ Chức năng thẩm định sau khi hệ thống chất lượng được thiết kế và hoạt động nó sẽ làm cho hệ thống khác hoạt động theo thoong qua đó nó sẽ bộc lộ các yếu điểm và từ đó, chúng ta mới có sự điều chỉnh chính xác.
+ Chức năng đảm bảo và duy trì: Hệ thống chất lượng sẽ là cơ sở cho hoạt động của hệ thống khác cũng như các tiêu chuẩn yêu cầu đã đặt ra của doanh nghiệp sẽ luôn luôn được quan tâm và theo dõi sát sao.
- Sự cần thiết phải xây dựng hệ thống quản lý chất lượng. Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng mới tạo ra được những sản phẩm cao đáp ứng và thoả mãn được các nhu cầu với chi phí hợp lý.
+ Có hệ thống chất lượng mới chỉ là biện pháp phòng ngừa trong nghiên cứu và sản xuất. Tạo ra được sự tham gia tích cực mọi thành viên, mọi bộ phận của doanh nghiệp, từ đó mới phát huy mọi hoạt động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Khi xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng thì nó sẽ hình thành hệ thống rõ ràng, phân định rõ chức năng nhiệm vụ của mọi thành viên, bộ phận nhưng vẫn đảm bảo sự hợp tác thành viên giữa các bộ phận. Đảm bảo tính đồng bộ và toàn diện trong tổ chức tạo ra được hệ thống ổn định thống nhất.
III. Sự cần thiết tăng cường quản lý chất lượng tại các Công ty cơ khí Việt Nam.
1. Thực trạng về vấn đẹan xuất quản lý chất lượng tại các công ty cơ khí Việt Nam.
Ngành cơ khí là ngành công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất thiết bị tiêu dùng có chức năng trang bị và hiện đại hoá cho ngành kinh tế quốc dân bằng thiết bị và công nghệ của mình. Ngành cơ khí là một tập hợp phức tạp và đa dạng của nhiều ngành nghề khác nhau; liên kết theo sản phẩm công nghệ, vật liệu và thị trường.
Ngành cơ khí là ngành công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất thiết bị tiêu dùng có chức năng trang bị lại và hiện đại hoá cho các ngành kinh tế quốc dân bằng tổ chức công nghệ của mình. Ngành cơ khí là một tập hợp phức tạp và đa dạng của nhiều ngành nghề khác nhau, liên kết theo sản phẩm, công nghệ, vật liệu và thị trường.
Ngành cơ khí có trách nhiệm trang bị lại và trang bị mới cho Kinh tế Quốc dân, có nghĩa là phải chịu trách nhiệm về quy hoạch trang bị, về mua bán thiết bị kể cả xuất nhập khẩu. Việc ngành cơ khí quản lý về trang thiết bị cũng tương tự như ngày năng lượng quản lý cung cấp điện năng, ngành dầu khí quản lý khai thác và xuất khẩu khí...
Những vấn đề tồn tại của ngành cơ khí là: đầu tư và tài sản quá nhỏ, phân tán, công nghệ và thiết bị lạc hậu khoảng 50 - 100 năm so với thế giới. Thiếu chuyên môn hoát, sản phẩm nói chung chất lượng thấp, không có sức cạnh tranh. Đội ngũ không đồng bộ, thiếu thợ giỏi tay nghề cao. Mạng lưới nghiên cứu và ứng dụng về cơ khí còn mỏng và thiếu hiệu quả.
Một số vấn đề cần được quan tâm để có thể xây dựng ngành cơ khí Việt Nam trở thành ngành công nghiệp hạ tầng cơ sở cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1. Cần giao cho ngành cơ khí, hay nói đúng hơn cần trả lại cho ngành cơ khí sự độc tôi về cưức năng, trang bị mới cho các ngành Kinh tế Quốc dân.
chịu trách nhiệm về quản lý, cung cấp, về xuất nhập khẩu đối với máy móc trang thiết bị, tương tự như ngành nông nghiệp đối với lương thực, ngành năng lượng đối với điện năng, ngành dầu khí với dầu khí.
2. Vai trò của Nhà nước đối với ngành cơ khí mang tính chất quyết định về chính sách vốn, về chính sách thuế và bảo hộ.
3. Cần nhấn mạnh và cụ thể hoá quan điểm công nghiệp cơ khí đồng thời cũng là công nghiệp quốc phòng.
4. Cần xác định những sản phẩm cơ khí mang tính chất tiêu biểu để ngành cơ khí có thể tập hợp và xây dựng lực lượng.
Ví dụ: Ô tô, tàu biển, giàn khoan, đầu máy xe lửa...
5. Cần nhấn mạnh vao trò con người được đào tạo tốt và cần cù lao động là yếu tố cơ bản, quyết định sự phát triển của công nghiệp cơ khí. Cần đào tạo một đội ngũ đồng bộ bao gồm từ công nhân có tay nghề, kỹ thuật viên, kỹ sư và cá nghiên cứu viên với số lương thích hợp.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua cải tiến năng suất chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây.
1 - Trình độ công nghệ, thiết bị, máy móc của chúng ta quá cũ và lạc hậu. Theo số liệu thống kê thì có tới 76% thiết bị máy móc ở Việt Nam thuộc thế hệ những năm 60 - 70, trong số đó có trên 70% đã khấu hao hết gần 50% là máy móc cũ đã được tân trang lại thậm trí có những chiếc máy từ những năm 20 - 30 của thế kỷ. Xét về trình độ công nghệ thì chúng ta lạc hậu so với các nước phát triển khoảng gần 1 thế kỷ. Với tình trạng máy móc, thiết bị lạc hậu như vậy chúng ta khó lòng tạo ra được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh và năng suất cao hay tại thị trường nội địa chứ chưa nói đến thị trường quốc tế.
2 - Vấn đề có ý nghĩa quan trọng không kém đối với việc nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm là nhân tố người lao động. Mặc dù là một nước có nguồn lao động trẻ dồi dào với khoảng 38 triệu người nhưng nước ta chỉ có 17,8% lao động đã qua đào tạo. Riêng đội ngũ công nhân lao động có khoảng 2,5 triệu người nhưng chỉ có 4000 công nhân bậc cao, 36% công nhân kỹ thuật được đào tạo theo hệ chuẩn quốc gia; 398,37% được qua đào tạo ngắn hạn; 24,63% chưa qua đào tạo. Những công nhân có khả năng điều hành, đứng máy trong những dây chuyền tự động hoá là cực kỳ khan hiếm.
3 - Chất lượng của hoạt động quản lý cũng là một điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Chính do tư duy quản lý từ thời bao cấp còn rơi rớt lại hay những định hướng quản lý theo kiểu tiểu thương chỉ nhằm vào lợi ích trước mắt đã làm cho vấn đề năng suất chất lượng sản phẩm không được chú trọng. Số cán bộ có năng lực và trình độ quản lý còn rất thiếu. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động quản lý đối với quá trình sản xuất kinh doanh, gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng quản lý mà biểu hiện rõ nét nhất đó là việc áp dụnh Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO. Mặc dù vậy, không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng áp dụng ISO 9000 để kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Một mặt do vấn đề nhận thức, mặt khác do chi phí để áp dụng hệ thống tiêu chuẩn này là khá tốn kém, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm tới gần 90% trong tổng số các doanh nghiệp Việt Nam.
4 - Một vấn đề tồn tại nữa đối với việc nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam là do tỷ lệ phần trăm của nguồn doanh thu dành cho tái đầu tư, nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới của các doanh nghiệp Việt Nam là rất ít nếu không muốn nói là hầu như không có. Trong khi đó tỷ lệ dành cho nghiên cứu và phát triển ở các Công ty lớn của nước ngoài là 30% doanh thu.
2. Giải pháp nâng cao công tác quản lý chất lượng.
Một là tập trung đổi mới hệ thống thiết bị máy móc, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, nguồn vốn cần thiết cho việc đổi mới công nghệ và máy móc có thể lấy từ nguồn tích luỹ của doanh nghiệp hoặc có thể dùng vốn đi vay từ quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, từ nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, hay kêu gọi liên doanh liên kết. Khi nhập khẩu máy móc, công nghệ cần hết sức chú ý nhập được thiết bị và công nghệ nguồn từ các nước phát triển, tránh tình trạng do lợi ích trước mắt, buông lỏng quản lý để tiêu phí tiền vào việc nhập thiết bị lạc hậu cũ nát biến nước ta thành "bãi rác công nghệ".
Hai là, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, như đã nêu ở trên. Cơ cấu lao động của chúng ta hiện nay rất bất lớp lý, trình độ của đội ngũ lao động thấp kém ảnh hưởng lớn đến năng suất chất lượng sản phẩm. Vì vậy ngay trong các doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo lực lượng lao động phù hợp với yêu cầu, tính chất công việc, nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân phát triển kỹ năng một cách thống nhất, phát huy hết khả năng của mỗi cá nhân. Đổi mới máy móc thiết bị phải tương thích với lực lượng lao động đủ khả năng sử dụng và vận hành khai thác những dây chuyền sản xuất hiện đại. Đào tạo, nâng cao trình độ ngynf nhân lực là công việc chung của cả doanh nghiệp và toàn thể xây dựng để đạt tới sự phát triển bền vững.
Ba là, đổi mới nhận thức về vai trò của hệ thống quản lý đối với việc nâng cáo chất lượng sản phẩm và sự tồn tại, phát triển lâu bền của doanh nghiệp nói chung, quản lý chính là nhân tố kết dính phối hợp và phát huy tác dụng của tất cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất. Hiện nay do các doanh nghiệp có nhu cầu tiềm tàng rất lớn đối với việc áp dụng. Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 nên số lượng tổ chức tư vấn và chứng nhận ISO tăng nhanh, hiện tại ở mức trên 30 tổ chức. Nhưng chất lượng của chính những tổ chức này chưa được kiểm soát và quản lý chặt chẽ cộng với chi phí cấp chứng chỉ ISO9000 cho doanh nghiệp là từ một đến vài trăm triệu đồng Việt Nam là con số tương đối lớn đối với các doanh nghiệp trong nước.
Để giải quyết vấn đề này, trên quan điểm quản lý vĩ mô, Nhà nước cần phải có quy chế và hỗ trợ các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần phải trích tỷ lệ thích hợp dành cho đầu tư và phát triển nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như có các chính sách khuyến khích sáng tạo, nghiên cứu đổi mới và cải tiến chất lượng sản phẩm trong nội bộ doanh nghiệp, áp dụng những kỹ thuật tiên tiến từ bên ngoài.
Bốn là, đối với Việt Nam trước mắt và trong những năm tới đẩy mạnh việc xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng mũi nhọn như gạo, chè, cà phê, hải sản có ý nghĩa vô cùng quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển nền kinh tế, gia tăng tốc độ tăng trưởng. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn tiến hành xuất khẩu nông sản theo kiểu còn thừa thì đem bán nên chất lượng của sản phẩm xuất khẩu không cao và phải chịu thiệt thòi so với các nước khác. Do đó, muốn đẩy mạnh xuất khẩu không còn cách nào khác là phải nâng cao, ổn định chất lượng sản phẩm hàng nông sản bằng cách quy hoạch lại toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nước, đầu tư phát triển, đổi mới toàn bộ giống cây, con phù hợp với yêu cầu của thị trường, đầu tư cho khâu sấy, hệ thống kho có thể bảo quản và lưu trữ hàng hoá,cảng chuyên dùng, đội tàu và xe đông lạnh.
Năm là, cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong điều kiện hội nhập đang đến gần không chỉ cần vai trò chủ động của các doanh nghiệp mà vai trò hỗ trợ và đảm bảo điều kiện phát triển năng suất, chất lượng của Nhà nước còn mang ý nghĩa quan trọng không kém. Đứng ở góc độ vĩ mô, Nhà nước ở cần thiết lập những cơ chế, chính sách thích hợp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế như hỗ trợ về vốn thông qua ngân sách, quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển để các doanh nghiệp có thể đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Cải cách chính sách giáo dục và đào tạo cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn của đất nước, trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng và phát triển hệ thống trường trung cấp kỹ thuật và cao đẳng dạy nghề.
Nhà nước cũng cần phải tổ chức quản lý lại đối với các tổ chức tư vấn và cấp chứng chẻ ISO để đưa hoạt động này vào khuôn khổ, đồng thời giảm giá thành cung cấp dịch vụ ISO cho phù hợp với thực tiễn kinh doanh của đa số doanh nghiệp.
Nói tóm lại, năng suất và chất lượng sản phẩm là sự tối đa hoá giá trị của sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Nó tạo ra giá trị đích thực để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp - vấn đề quyết định đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập ngày càng đến gần./.
Chương II
Thực trạng và các vấn đề quản lý
chất lượng nguyên vật liệu của Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí.
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty dụng cụ và đo lường cơ khí.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Công ty dụng cụ và đo lường cơ khí là doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng Công ty máy và thiết bị công nghiệp. Tiền thân của Công ty là một phân xưởng dụng cụ của Công ty cơ khí Hà Nội. Công ty được thành lập ngày 25/3/1968 theo quyết định số 74/QĐ/KB2 do Bộ trưởng Bộ công nghiệp nặng (nay là Bộ công nghiệp) ký. Lúc này Công ty mang tên Nhà máy Dụng cụ cắt gọt, có trụ sở tại 26-đường Nguyễn Trãi-Đống Đa-Hà Nội (nay là 108 – Quận Thanh Xuân Hà Nội). Cho đến nay trải qua hơn 30 năm phát triển, để phù hợp với điều kiện tình hình sản xuất kinh doanh của từng thời kỳ Công ty đã có 3 lần đổi tên:
- Nhà máy dụng cụ cắt gọt: 1968 - 1970.
- Nhà máy dụng cụ số I: 1970 - 1995.
- Công ty dụng cụ và đo lường cơ khí: 1995 - nay.
Theo quyết dịnh số 702 QĐ/TCCBĐT ngày 12/7/1995 Nhà máy dụng cụ số I được đổi tên thành Công ty dụng cụ cắt gọt và đo lường cơ khí thuộc Tổng Công ty máy và thiết bị công nghiệp Bộ công nghiệp với tên giao dịch quốc tế là Cutting and Measuring tools Company, tạo lạc trên khu đất có diện tích mặt bằng là 18.000 m2 trong đó diện tích phân xưởng chính là 4.536 m2, phân xưởng phụ là 1.200 m2. Công ty có chi nhánh giao dịch phía Nam là số 15 Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Thành phố Vũng Tàu. Công ty có nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh, bao gồm từ khâu nghiên cứu, chế tạo,. gia công, sửa chữa, dịch vụ, xuất nhập khẩu, cung ứng dụng cụ cắt gọt kim loại và phi kim loại, dụng cụ phụ tùng cơ khí, dụng cụ do lường, dụng cụ cầm tay vật tư, thiết bị công nghiệp, ngoài ra còn tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ khác theo Pháp luật.hơn 30 năm, quãng ngắn của lịch sử nhưng là một chặng dường dài của Công ty DCC và ĐLCK đã trải qua quá trình phát triển thăng trầm đầy bién động. Bảng sau đây thể hiện một số chỉ tiêu cơ bản qua các thời kỳ phát triển của Công ty:
Bảng số 2: các chỉ tiêu cơ bản qua các thời kỳ phát triển của Công ty.
Chỉ tiêu
68-70
71-75
76-87
88-92
93-96
97-2001
Số LĐBQ (người)
ằ600
ằ1000
430
452
443
TNBQ/người/tháng (đồng)
53
93
112
316.000
435.500
685.300
GTTSL (theo giá CĐ 94) (triệu đồng)
5.944,5
7.421
10.230
Doanh thu bình quân (triệu đồng)
3.491,6
9.950
14.494
Vốn kinh doanh BQ (triệu đồng)
17,842
18,563
20,289
6.843
11.654
15.762
Nguồn: Báo cáo tổng kết kỷ niệm 30 năm thành lập Công ty DCC và ĐLCK.
- Giai đoạn 1968-1970: là giai đoạn đưa các dây chuyền công nghệ vào sản xuất thử. Khối lượng sản phẩm đạt dưới 23 tấn/năm, lúc đó Công ty có khoảng gần 300 máy móc thiết bị các loại, thu nhập bình quân công nhân viên là 53 đồng, thu hút khoản 600 lao động.
- Giai đoạn 1971-1975: Giai đoạn này Công ty cũng đã đi vào ổn định sản xuất, khối lượng sản phẩm đạt dưới 25 tấn/năm, thu nhập bình quân đầu người cũng đã tăng lên 93 đồng/người/tháng.
- Giai đoạn 1976-1987: Đây là thời kỳ thời kỳ nhà máy sản xuất mũi khoan, ta rô, dao phay cácloại,… Khối lượng sản phẩm tăng nhanh qua các năm từ 143 tấn (năm 1976) đạt đến 246 tấn năm 1982. Trong đó có nhiều dây chuyền sản xuất vượt quá công suất thiết kế từ 1,5-3 lần như: bán ren, ta rô, mũi khoan. Số lượngld cũng đông nhất (1000 người), thu nhập bình quân đạt 112 đồng/người/tháng cao hơn so với các thời kỳ trước.
- Giai đoạn từ năm 1989 – 1992: là thời kỳ chuyển tiếp giữa hai cơ chế quản lý, nền chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thời điểm nà, hàngloạt các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biẹt là các doanh nghiệp cơ khí đều gặp khó khăn, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, thiếu việc làm, kinh doanh thua lỗ, đời sống cán bộ nhân viên gặp khó khăn. Công ty DCCvà ĐLCK cũng nẳmtong thực cảnh đó. Sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm và giảm sút, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp,chất lượng sản phẩm không cao, sức cạnh tranh kém, đội ngũ quản lý chưa cókinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường. Sản lượng dụng cụ cắt đã giảm dần từ 161 tấn/năm 1988 xướng còn 77 tấn/năm1992. Vì nhu cầu của thị trường về sản phẩm dụng cụ cắt của Công ty đã giảm, sản xuất với khối lượng thấp như vậy nhưng sản phẩm vẫn khôngtiêu thụ hết,phải đểlưu trong kho thành phẩm, Công ty tìm kiếm thị trường các sản phẩm khác và phải đa dạng hoá sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm theo nhu cầu thị trường. Đây cũnglà giai đoạn khó khăn nhất của Nhà máy, giá trị sản lượng giảm nhiều, dụng cụ cắt chỉ còn chiếm 44% trong tổng giá trị tổng sản lượng, lao động giảm xuống còn 430 người, thu nhập bình quân 316.000 đồng/người/tháng. Công ty là một trong 5 doanh nghiệp được xếp hạng khó khăn nhất của Bộ công nghiệp nặng và dã có những dự định sáp nhập hoặc giải thể.
- Giai đoạn 1993-1996: Giá trị tổng sản lượng sản xuất công nghiệp đã được phục hồi và bước đầu có phát triển, song vẫn còn thiếu yếu tố ổn định. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, tỷ trọng sản phẩm dụng cụ cắt truyền thống giảm dần trong tổng giá trị sản lượng, thay vào đó là các sản phẩm mới như thiết bị phụ tùng cho thăm dò, khai thácdầu khí và chế biến thực phẩm và phục vụ các ngành kinh doanh khác như: giao thông vận tải, chế biến đồ hộp, chế biến gỗ, bánh kẹo, dệt, thuôc lá, giấy… đãa tăng dần từ 35% lên 78% trong giá trị sản xuất công nghiệp. Giai đoạn này thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên nhưng không đáng kể.
- Giai đoạn 1997-2000: sản xuất kinh doanh của Công ty đã từng bước đi vào ổn định nhưng lợi nhuận thu được không cao, doanh thu và tổng vốn kinh doanh đã đạt được con số hai chữ số hàng tỷ, thu nhập bình quân đầu người từng bước và dần được cải thiện nhưng so với mức chung của toàn ngành kinh tế vẫn còn thấp.
Cho đến nay trải qua hơn 30 năm phát triển, Công ty dụng cụ cắt và đo lường cơ khí là một doanh nghiệp quy mô vừa (theo cách tiếp cận của Việt Nam) thể hiện ở bảng chỉ tiêu sau:
Bảng số 3: Một số chỉ tiêu thể hiện quy mô của Công ty DCCvà ĐLCK.
Chỉ tiêu
đơn vị
1997
1998
1999
2000
2001
GTTSL
* Giá cố định 1994
Triệu đồng
8.009
10.670
10.982
9.300
9.970,9
* giá bán
9.048
12.163
12.708
10.680
12.000
Vốn KD
1000 đ
12.174.4
14.270,4
17.326.9
15.641.0
15.813.2
DT SXCN
Triệu đồng
9.243
11.806
11.519
8.230,5
9.698
Lao động BQ
Người
468
456
448
432
436
Nộp thuế
Triệu đồng
92,43
118,06
115,19
283,57
178,7
Thu nhậpbình quân._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29782.doc