mở đầu
1. Tính cấp bách của đề tài
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sự vận động và phát triển của xã hội loài người, xét đến cùng, do sản xuất xã hội quyết định, trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố giữ vai trò tiên quyết. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, mọi con đường, mọi biện pháp đều phải dẫn đến thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng ki
180 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4265 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế - xã hội, đã đạt được những thành tựu "rất to lớn và rất quan trọng", thế và lực của đất nước đã đủ vững mạnh để chuyển sang một giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm mục tiêu đến năm 2020 đưa đất nước về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, từng bước hiện thực hóa lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh như tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã đề ra.
Vào giai đoạn mới, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và kinh tế tri thức, lực lượng sản xuất của đất nước cần phải phát triển nhanh hơn so với trước đây. Việc phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đồng thời từng bước cải tạo quan hệ sản xuất sao cho phù hợp trình độ phát triển mới của nó là một yêu cầu tất yếu khách quan với những khó khăn và thách thức rất lớn. Chúng ta đang chú trọng phát triển các yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất như nguồn nhân lực, khoa học, kỹ thuật và công nghệ... nhằm tạo ra một chất lượng mới cho lực lượng sản xuất, và trên thực tế, những năm gần đây, chúng ta đã thu được những thắng lợi đáng kể. Tuy nhiên, sự phát triển của các vùng, các khu vực trong nước vẫn chưa đồng đều và còn một khoảng cách tương đối lớn. Khu vực miền núi mặc dù chiếm đến 3/4 diện tích tự nhiên cả nước, nhưng lại là vùng có các chỉ số phát triển thấp và rất thấp. Trong giai đoạn cách mạng mới, mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ chỉ thực sự thành công khi chúng ta làm giảm được khoảng cách phát triển giữa khu vực này với khu vực đồng bằng và thành thị.
Như đã biết, miền núi phía Bắc nước ta là khu vực có các địa danh gắn liền với lịch sử vinh quang của dân tộc và của cách mạng, nhưng hiện lại là khu vực chậm phát triển. Nguyên nhân sâu xa của sự chậm phát triển đó nằm ở thực trạng yếu kém của lực lượng sản xuất. Sự lạc hậu về nhiều mặt, trước hết là về lực lượng sản xuất của khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta, đang gây khó khăn cho sự phát triển không chỉ của các địa phương đó mà còn gây khó khăn cho sự phát triển chung của cả nước. Sự đi lên của đất nước đòi hỏi không thể kéo dài mãi tình trạng đó. Vấn đề cấp thiết đặt ra là phải đẩy nhanh sự phát triển của các địa phương này, không những để giảm bớt sự bất bình đẳng mà còn để đẩy nhanh sự phát triển chung của cả nước. Muốn phát triển thì không có cách nào khác hơn là phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất. Cần phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho công việc này, với những con đường, bước đi, khâu đột phá thích hợp để lực lượng sản xuất khu vực này phát triển nhanh hơn. Đây cũng là công việc có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn trong bối cảnh phức tạp của tình hình đất nước và quốc tế, mà liên tục được Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng ta đặc biệt quan tâm [21], [23]. Vì vậy, đây là nhiệm vụ vừa có ý nghĩa bức xúc vừa có ý nghĩa lâu dài đối với hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, trong đó có giới khoa học xã hội.
Nhận thấy triết học cần phải quan tâm giải quyết nhiệm vụ thực tiễn và lý luận quan trọng này, chúng tôi chọn "Vấn đề phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay" làm đề tài luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lực lượng sản xuất và vai trò của nó trong sự phát triển là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của học thuyết C. Mác về hình thái kinh tế - xã hội, nhưng cũng là nội dung chứa đựng nhiều vấn đề còn gây tranh cãi trong hệ thống các tri thức về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Từ nhiều năm nay, lực lượng sản xuất và quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất đã được quan tâm nghiên cứu từ nhiều khía cạnh khác nhau ở cả trong và ngoài nước.
ở Liên xô và một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nhiều nhà khoa học đã có những nghiên cứu khá sâu về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và ứng dụng quy luật này vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều vấn đề lý luận đã được giải quyết. Nhưng cũng còn nhiều vấn đề thực tiễn chưa có câu trả lời, đặc biệt là từ giữa những năm 80 trở lại đây, khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước lâm vào khủng hoảng.
ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lực lượng sản xuất trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta hết sức chú ý. Từ nhiều năm trước đây, những bài học về sự cần thiết phải tôn trọng quy luật khách quan, về những sai lầm do quá nhấn mạnh ý nghĩa mở đường của các quan hệ sản xuất, do sự tuyệt đối hóa vai trò của công nghiệp nặng... đã được phân tích và rút kinh nghiệm. Tuy vậy, với các công trình ở những năm trước đây, vấn đề đặt ra và cách giải quyết cũng có khác so với hiện nay, khi tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi và đất nước ta đã bước vào một giai đoạn mới của sự phát triển.
Khoảng hơn 15 năm gần đây, ở nước ta, đã có nhiều luận án tiến sĩ, trực tiếp bàn đến vấn đề này. Chẳng hạn, luận án của Nguyễn Tĩnh Gia - nghiên cứu biểu hiện đặc thù của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua đó, tác giả đã khái quát những định hướng cơ bản cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đề xuất một số nhiệm vụ cụ thể để các yếu tố của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Luận án của Hồ Anh Dũng - khai thác một yếu tố cụ thể của lực lượng sản xuất là yếu tố con người trong lực lượng sản xuất và việc phát huy yếu tố đó ở nước ta hiện nay. Qua công trình của mình, tác giả đã trình bày vấn đề con người trong nội dung của lực lượng sản xuất, phân tích đặc điểm của người lao động Việt Nam và đề xuất một số giải pháp để phát huy yếu tố này. Luận án của Đoàn Quang Thọ - nghiên cứu về nhận thức và vận dụng quy luật trong thời kỳ đổi mới và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Công trình đã nghiên cứu quá trình nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong trong thời kỳ đổi mới. Luận án của Trương Hữu Hoàn - tác giả đã xuất phát từ việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất ở một số nước xã hội chủ nghĩa, để làm rõ sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và một số tiêu chuẩn để đánh giá sự phù hợp đó. Luận án của Trung Giang Vim - từ những đặc thù của một số tỉnh miền núi Tây Nguyên, tác giả đi tìm con đường cho sự phát triển ở vùng này là vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên. Luận án của Bùi Chí Kiên - nghiên cứu quy luật này để ứng dụng phát triển nền kinh tế hàng hóa ở một tỉnh miền núi Tây Nguyên. Trong luận án, tác giả làm rõ những yêu cầu của một tỉnh có nhiều tiềm năng, nhiều đặc thù "Tây Nguyên" nhất khi bắt đầu đón nhận cơ chế kinh tế mới. Luận án của Đoàn Văn Khái - nghiên cứu nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tác giả đã làm rõ khái niệm nguồn lực con người và vai trò quyết định của nguồn lực con người trong so sánh với các nguồn lực khác của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những năng lực, phẩm chất cần có của người lao động trong quá trình này...
Có thể nhận xét rằng, với các công trình đã viết về lực lượng sản xuất và về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các tác giả đã khai thác những vấn đề theo hai hướng cơ bản. Thứ nhất, sự hoạt động của quy luật này trong từng thời kỳ, ở từng điều kiện, với từng khu vực địa lý cụ thể; thứ hai, đi sâu khai tác các yếu tố của lực lượng sản xuất, đặc biệt là yếu tố con người đã được nhiều công trình nghiên cứu, lý giải vai trò to lớn của nó và tìm cách phát huy vai trò đó.
ở khuynh hướng thứ hai, chúng tôi thấy có nhiều công trình và bài viết phân tích vấn đề lực lượng sản xuất ở khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số với những đặc thù của khu vực này. Cần phải kể đến những tác giả với các bài viết đáng chú ý sau: Lê Xuân Đình, Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, Tạp chí Cộng sản, số 5 (3-1999); Nông Thị Mồng, Phát triển lực lượng sản xuất - yếu tố tạo đà đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa miền núi phía Bắc nước ta, Tạp chí Triết học, số 3 (6-1999); Chu Tuấn Nhạ, Khoa học- công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Cộng sản, số 2 (1-1999); Lê Huy Ngọ, Khoa học- công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới, Tạp chí Cộng sản, số 3 (2-1999); Phan Xuân Dũng, Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản, số 17 (9-1997); Mai Quốc Chánh, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Hoàng Đức Nghi, Thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu để vùng dân tộc miền núi đi lên công nghiệp hóa, hiện đại, Tạp chí Cộng sản, số 18(9-1997); Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Phát triển kinh tế- xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Tiến Mạnh, Dương Ngọc Thí, Phát triển nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở trung du miền núi phía Bắc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996; v.v...
Thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, đã có một số bài báo và công trình bàn về lực lượng sản xuất cũng như về quan hệ sản xuất trong loại hình kinh tế trang trại ở khu vực miền núi và trung du, chẳng hạn như: Nguyễn Điền, Tổ chức quản lý kinh tế trang trại trên thế giới và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 251 (4-1999); Hoàng Minh Ký - Bùi Minh Vũ, Về kinh tế trang trại lâm nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 214 (3-1996); Trần Đức, Nhìn lại kinh tế trang trại những năm gần đây, Tạp chí Cộng sản, số 5 (3-1999); Trương Công Hùng, Kinh tế trang trại nông nghiệp ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, số 6 (3-1999)... Các công trình này tập trung bàn đến vai trò của mô hình kinh tế trang trại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng. Trong đó các công trình chủ yếu đi vào phân tích những ưu, khuyết điểm của mô hình kinh tế này và tiềm năng phát triển nó ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta là chính. Bởi vậy, việc làm rõ và góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển lực lượng sản xuất miền núi, trên thực tế, vẫn còn rất nhiều nội dung cần phải bổ sung và nghiên cứu sâu hơn.
Luận án của chúng tôi cố gắng tiếp thu kết quả đã đạt được của những công trình vừa nêu, nhằm tổng kết, đánh giá sự vận động, phát triển của các yếu tố của lực lượng sản xuất ở khu vực miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; trên cơ sở đó làm rõ những vấn đề đang đặt ra, tìm hướng giải quyết, đồng thời khuyến nghị một số giải pháp có tính định hướng để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất miền núi trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Phân tích thực trạng lực lượng sản xuất của các tỉnh miền núi phía Bắc. Chỉ ra những vấn đề cấp bách đang nảy sinh từ sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất ở các vùng này. Nêu kiến nghị và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất ở miền nhằm đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Để thực hiện mục đích đó, luận án có những nhiệm vụ sau:
- Trình bày những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của lực lượng sản xuất trong sự phát triển xã hội.
- Phân tích tình hình kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc. Làm rõ thực trạng, đặc điểm và những xu hướng biến đổi của lực lượng sản xuất vùng này.
- Chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất miền núi phù hợp với yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và những mặt, những yếu tố còn yếu kém đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất miền phía Bắc nước ta.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi phía Bắc.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu và trình bày của luận án dựa trên các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta, đặc biệt là những quan điểm Mác - Lênin về lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Luận án có kế thừa, tiếp thu những thành quả của các công trình nghiên cứu khoa học đi trước như các bài viết, các luận án và các tư liệu điều tra khảo sát...
Luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, so sánh, thống kê...; luận án chú ý đặc biệt đến quan điểm thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý và quan điểm về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu cũng như trong trình bày.
5. Đóng góp của luận án
- Đề cập đến vấn đề phát triển lực lượng sản xuất, một vấn đề cấp bách ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta - một khu vực đặc thù, có trình độ phát triển thấp, đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Vấn đề được giải quyết trong luận án không chỉ có ý nghĩa khoa học, mà còn có ý nghĩa chính trị trong bối cảnh phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Việc giải quyết vấn đề đặt ra không những nhằm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, miền, mà còn nhằm đẩy nhanh sự phát triển chung của cả nước.
- Thông qua phân tích thực trạng của lực lượng sản xuất ở khu vực miền núi phía Bắc, chỉ ra những vấn đề và những xu hướng vận động của lực lượng sản xuất ở vùng này.
- Nêu một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án góp phần củng cố nhận thức lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, về vai trò của các nhân tố của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển xã hội, nhất là đối với những vùng chậm phát triển. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy lý luận Mác- Lênin ở các trường Đại học, Cao đẳng và các trường Đảng, đặc biệt là các trường khu vực miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc. Luận án có thể sử dụng vào việc nghiên cứu những vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án chia làm ba chương với 7 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về lực lượng sản xuất
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành lao động sản xuất vật chất. Muốn hoạt động đó của con người được tiến hành bình thường, cần phải có một số điều kiện nhất định như: môi trường địa lý, điều kiện dân số, phương thức sản xuất. Các yếu tố kể trên đều có sự tác động qua lại lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất vật chất nói chung; nhưng trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản và có ý nghĩa quyết định nhất.
Phương thức sản xuất là cách thức làm ra của cải vật chất của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong đó bao gồm các yếu tố như: quan hệ sản xuất (là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất) và lực lượng sản xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên và là sự biểu hiện của mối quan hệ phức tạp đó trong quá trình sản xuất). Mặc dù quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn giúp chúng ta phân biệt được những chế độ xã hội khác nhau của lịch sử, phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế - xã hội khác, song xét đến cùng, trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định hơn cả. C.Mác đã từng nói: "Chúng ta không cần phải xét người lao động trong mối quan hệ với người lao động khác. Một bên là con người và lao động của con người, bên kia là tự nhiên và vật liệu của tự nhiên,- thế là đủ" [64, tr. 276]. Vậy, lực lượng sản xuất là gì? Các nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá, xem xét như thế nào?
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất và kết cấu của nó
Trong nghiên cứu sự vận động, phát triển của xã hội loài người, điểm cơ bản làm cho C. Mác thành công và trở thành khác về chất so với các nhà triết học trước C. Mác là ở chỗ, ông đã vận dụng phép biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề của lịch sử. Cụ thể hơn, ông đã xuất phát từ những "sự thật giản đơn" trong đời sống vật chất của con người và xã hội để giải thích các hiện tượng của đời sống xã hội. Ph. Ăngghen đã nhận xét: "Cái sự thật hiển nhiên... là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học..." [62, tr. 166]. Nhờ đó mà C.Mác đã phát hiện hàng loạt các quy luật của lịch sử, đó là các quy luật: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, v.v... Trong đó quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất, nó chi phối mọi quy luật khác của xã hội, bởi vì mỗi con người, mặc dù có những mục đích riêng và đều cố gắng theo đuổi những mục đích đó bằng nhiều cách khác nhau, song những mục đích này không nằm ngoài nhu cầu ăn, mặc, ở và các nhu cầu khác của chính con người. Về cơ bản, các hoạt động của con người đều do những nhu cầu đó thúc đẩy, và con người phụ thuộc vào mức độ đáp ứng những nhu cầu đó, nói cách khác là phụ thuộc vào hoạt động sản xuất vật chất và các quy luật của nó.
Khi bàn về hoạt động sản xuất vật chất, C.Mác, Ph.Ăngghen cũng như V.I.Lênin không dành nhiều công sức cho việc định nghĩa các khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà các ông sử dụng và trình bày các khái niệm này thông qua phân tích nội dung của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và các hình thức biểu hiện của nó trong những chế độ xã hội khác nhau. Tuy nhiên, qua việc các nhà kinh điển sử dụng những khái niệm này, phần nào chúng ta đã có thể hiểu nội dung, cấu trúc của các khái niệm đó. Với khái niệm "lực lượng sản xuất", theo tư tưởng các nhà kinh điển, có thể hiểu những nội dung cơ bản của nó như sau:
Lực lượng sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phản ánh một hiện tượng xã hội tồn tại, tác động, vận động trong mọi giai đoạn lịch sử của xã hội loài người. Khái niệm này dùng để chỉ quan hệ giữa con người với tự nhiên và là sự biểu hiện của mối quan hệ phức tạp đó trong quá trình sản xuất. Thuật ngữ "lực lượng sản xuất" lần đầu tiên được C.Mác và Ph.Ăngghen sử dụng trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức". Mặc dù chưa được trình bày hoàn chỉnh như là một thành tố cơ bản của quy luật về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng tất cả những nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đều đã được nêu một cách khái quát trong tác phẩm này. Sau này nội dung của quy luật trên đã được làm sáng tỏ và phát triển thêm trong các tác phẩm như: "Sự khốn cùng của triết học", "Lao động làm thuê và tư bản", "Tiền công giá cả và lợi nhuận", và đặc biệt là trong bộ "Tư bản". Thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các yếu tố của lực lượng sản xuất, vai trò của lực lượng sản xuất trong hệ thống sản xuất vật chất của xã hội... các nhà kinh điển đã giúp chúng ta có cơ sở khoa học để hiểu đúng nội dung của khái niệm "lực lượng sản xuất".
Qua ý kiến của các nhà kinh điển, chúng ta có thể hiểu rằng: muốn chinh phục được tự nhiên, con người phải sử dụng tổng hợp những sức mạnh vật chất và tinh thần có thể có, trong đó bao gồm cả sức mạnh cơ bắp, trí tuệ và những tác nhân khác tác động lên tự nhiên, làm cho tự nhiên biến đổi ở một mức độ nhất định. Cho nên, "lực lượng sản xuất" trước hết phải là một "lực lượng vật chất". Lực lượng vật chất này nảy sinh và phát triển do con người và xã hội chinh phục tự nhiên, vì những mục đích, nhu cầu của con người. Những sản phẩm mà con người cần có để phục vụ cho nhu cầu của mình, thông thường không sẵn có như là sản phẩm có thể đáp ứng ngay những nhu cầu của con người, mà nó nằm trong tự nhiên; thậm chí một phần đáng kể còn tiềm ẩn trong tự nhiên. Muốn có nó, con người và xã hội loài người phải tác động đến tự nhiên, can thiệp vào tự nhiên, làm biến đổi giới tự nhiên. Vì vậy, lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ qua lại giữa con người với tự nhiên. Nhưng trong mối quan hệ này, chỉ có quan hệ vật chất giữa con người với tự nhiên mới là biểu hiện trực tiếp của lực lượng sản xuất; còn các quan hệ khác của con người với tự nhiên như quan hệ thích nghi, quan hệ nhận thức, quan hệ thẩm mỹ, v.v... không trực tiếp tạo ra của cải vật chất phục vụ cho những nhu cầu của con người, do đó không thể coi đó là biểu hiện trực tiếp của lực lượng sản xuất.
Con người đã tạo ra những yếu tố của lực lượng sản xuất, trong đó có những bộ phận đã sẵn có trong tự nhiên, cũng có những bộ phận con người phải cải tạo nhiều lần, qua nhiều thế hệ, khi đó vật liệu tự nhiên mới trở thành các yếu tố của lực lượng sản xuất. Tức là cùng với vật liệu tự nhiên, trong lực lượng sản xuất còn có sự đóng góp sức lực "vật chất" của con người. Như vậy, lực lượng sản xuất là sản phẩm của các hoạt động vật chất của con người được tổng hợp, gom góp, phát triển có kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như C. Mác đã viết: "Mỗi thế hệ sau có được những lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra, và những lực lượng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau ấy để thực hiện một hoạt động sản xuất mới,- nhờ hiện tượng ấy mà hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người" [65, tr. 657-658].
Qua đó, có thể hiểu khái niệm lực lượng sản xuất được các nhà kinh điển sử dụng với những nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất: Lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, đó là một hệ thống lực lượng vật chất do con người và xã hội loài người tạo ra để cải tạo, chinh phục tự nhiên. Hệ thống lực lượng vật chất này đồng thời biểu hiện luôn cả sức mạnh, năng lực chinh phục tự nhiên của con người.
Thứ hai: Lực lượng sản xuất là một thể thống nhất bao gồm yếu tố người và các yếu tố vật, trong đó con người là yếu tố đặc biệt. Bởi vì, con người là chủ thể sáng tạo, chế tạo ra những công cụ, các phương tiện bổ trợ cho các khí quan của mình, tác động đến khách thể - đối tượng lao động để tạo ra những vật phẩm đáp ứng những nhu cầu của bản thân và của xã hội. Trong quá trình đó, con người đồng thời tự cải tạo bản thân mình cả về sinh thể và trí tuệ. Ngày nay, yếu tố trí tuệ đang ngày càng trở nên chiếm ưu thế và được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp.
Thứ ba: Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong phương thức sản xuất, nó thường xuyên vận động và phát triển; nó quyết định sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Thông qua việc các nhà kinh điển sử dụng khái niệm lực lượng sản xuất, đã có khá nhiều tác giả đưa ra những định nghĩa khác nhau về lực lượng sản xuất. Trong số đó, theo chúng tôi, định nghĩa sau đây phản ánh tương đối đầy đủ nội hàm và ngoại diên của khái niệm lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước hết là công cụ lao động) và những người sử dụng những tư liệu này để sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất chủ yếu là những con người có thói quen, kinh nghiệm, tri thức và trình độ chuyên môn nắm được kỹ thuật, sử dụng được công cụ để tiến hành sản xuất [104, tr. 281-282].
Mặc dù vậy, trong định nghĩa này cũng còn nhiều vấn đề phải tranh luận. Trong nội dung của định nghĩa chưa đặt ra một cách đầy đủ các yếu tố của lực lượng sản xuất và giới hạn nội dung của các yếu tố đó, nhất là trong tình hình hiện nay, khoa học - công nghệ ngày càng có vai trò lớn hơn trong lực lượng sản xuất, hàm lượng trí tuệ ngày càng chiếm ưu thế trong tổng chi phí của một sản phẩm và được coi là một yếu tố trực tiếp của lực lượng sản xuất, định nghĩa chưa đặt nó thành vấn đề cơ bản trong cấu trúc của nó. Mặt khác, trong định nghĩa trên cũng chưa phản ánh được tính kế thừa, tính liên tục, tính cách mạng trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho người đọc khó có thể hình dung ra toàn bộ nội dung sinh động của nó.
Chúng tôi hiểu lực lượng sản xuất bao gồm các yếu tố sau đây:
1.1.1. Người lao động
Người lao động là yếu tố quan trọng bậc nhất của lực lượng sản xuất. V.I Lênin đã từng viết: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là người công nhân, là người lao động" [52, tr. 430]. Con người là chủ thể tích cực, sáng tạo và quyết định hoạt động tác động đến tự nhiên. Trong hoạt động sản xuất, con người không tác động một cách đơn giản, chỉ bằng sức mạnh cơ bắp của mình đến tự nhiên, mà con người với trí tuệ là chủ đạo, biết vận dụng tri thức khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, kỹ xảo, v.v... còn biết tạo ra những công cụ bổ trợ cho các khí quan của mình, và sử dụng những công cụ đó làm cho tự nhiên thay đổi theo mục đích, yêu cầu có sẵn hình ảnh trong tư duy từ trước đó. Do đó, trong lực lượng sản xuất, con người phải là một yếu tố đặc biệt và được xem xét ở những mặt cơ bản như sức lao động, bao gồm cả sức cơ bắp và sức thần kinh (trí tuệ) tham gia vào quá trình lao động. Sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học - công nghệ đã và đang đòi hỏi con người sử dụng sức mạnh thần kinh - trí tuệ ngày một nhiều hơn. Sức mạnh thần kinh - trí tuệ của con người là một loại nguồn lực đặc biệt. A.Toffler trong tác phẩm "Thăng trầm quyền lực" đã cho rằng, mọi nguồn lực khác của thiên nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, còn "tri thức có tính lấy không bao giờ hết". Để tiến hành lao động được, đòi hỏi người lao động phải có một mức độ hiểu biết nhất định về thế giới xung quanh, nhất là những hiểu biết về những khách thể mà mình sẽ trực tiếp tác động đến nó. Nếu những hiểu biết đó càng sâu sắc, càng có tính khái quát cao thì càng tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất phát triển, bởi vì nhờ đó quá trình khai thác, tác động đến khách thể sẽ đơn giản nhất, đem lại hiệu quả cao nhất và ít lãng phí nhất. Trên thực tế, trình độ hiểu biết (tri thức) của người lao động đóng vai trò quyết định trong chất lượng của người lao động. Đương nhiên là những hiểu biết - thế giới quan đó phải là đúng đắn và khoa học. Người lao động còn có kỹ năng, kinh nghiệm lao động, dù là lao động đơn giản đến đâu chăng nữa, thì người lao động trước hết phải học những thao tác, rèn luyện những thao tác đó thành thục ở một mức độ nhất định; sau đó mới có thể tiến hành hoạt động lao động được, lao động càng phức tạp thì quá trình rèn luyện các thao tác đó càng đòi hỏi công phu và lâu dài hơn. Ngày nay, công nghệ cao được ứng dụng vào các hoạt động sản xuất, các thao tác của người lao động ngày càng giản đơn hơn, nhưng người lao động lại cần được tăng cường tri thức về khoa học - công nghệ.
1.1.2. Tư liệu sản xuất
Cùng với người lao động, tư liệu sản xuất là một trong những mặt cơ bản của lực lượng sản xuất. Theo C.Mác, tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Ông viết: "Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt sản phẩm mà xét toàn bộ quá trình, thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất" [64, tr. 271]. Trong những yếu tố của tư liệu sản xuất, tư liệu lao động - được hiểu là những công cụ lao động, đó là một trong những yếu tố thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thông qua nó, sức mạnh của con người trước tự nhiên được tăng lên nhiều lần. C.Mác chỉ rõ: "Một vật do bản thân thiên nhiên cung cấp đã trở thành một khí quan của sự hoạt động của con người, khí quan mà con người đem chắp thêm vào những khí quan của cơ thể mình, và do đó mà kéo dài cái tầm thước tự nhiên của cơ thể đó" [64, tr. 268].
Rõ ràng, công cụ lao động là những vật thể hay những phức hợp vật thể do con người và xã hội tạo ra để "đặt" giữa con người và đối tượng lao động. Chúng có vai trò truyền dẫn sức lực và trí tuệ của con người đến đối tượng lao động, cải biến những vật liệu tự nhiên thành những vật phẩm theo mục đích, yêu cầu có trước của một quy trình sản xuất cụ thể nào đó. Tùy thuộc vào loại công cụ và trình độ kỹ thuật của nó mà con người có thể bằng những bộ phận khí quan nào của cơ thể mình để sử dụng nó. Đương nhiên, trong quá trình sử dụng, con người điều khiển công cụ lao động phải có sự tham gia của trí tuệ, của tư duy để đảm bảo cho những thao tác chính xác, phù hợp với công cụ lao động và tác động đến đối tượng lao động theo một nhịp độ, một trình tự khách quan. Có những công cụ lao động có kết cấu đơn giản như: công cụ thô sơ, công cụ thủ công; có những công cụ phức tạp, tinh xảo như máy móc cơ khí, máy móc bán tự động hoặc tự động, v.v... Trình độ phát triển của công cụ lao động chỉ rõ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ tinh xảo của công cụ lao động giúp chúng ta phân biệt được lực lượng sản xuất đó ở nền văn minh nào, ở giai đoạn lịch sử nào. Nếu công cụ lao động càng tinh xảo, nó càng truyền dẫn được nhiều sức lực của con người tác động đến đối tượng lao động thì năng suất lao động càng cao. Vì thế có thể gọi công cụ lao động là "hệ thống xương cốt" của nền sản xuất xã hội. Hiện nay, khoa học - công nghệ đã đặc biệt quan tâm rất sâu và rất rộng vào các yếu tố cụ thể của công cụ lao động, nên nhiều khi người ta đã sử dụng khái niệm công nghệ sản xuất để thay thế cho khái niệm công cụ lao động. Nhưng trong thực tế khái niệm công nghệ sản xuất còn chứa đựng nội dung rộng lớn hơn khái niệm công cụ lao động, bởi khái niệm đó còn được hiểu bao gồm cả các quá trình tổ chức và quản lý sản xuất.
Con người thường xuyên tìm cách làm giảm chi phí sức lao động của mình nhưng lại muốn sản xuất ra ngày càng nhiều những vật phẩm cần thiết, vì vậy, con người đã liên tục cải tiến những công cụ hiện tại đang được sử dụng để nó ngày một tinh xảo và hiện đại, phù hợp với những thao tác, yêu cầu mà con ngư._.ời đặt ra, đó là các quá trình thay đổi công nghệ sản xuất, làm cho công cụ lao động trở nên yếu tố động nhất, cách mạng nhất, và xét đến cùng mọi sự biến đổi của các yếu tố khác trong sản xuất và trong đời sống xã hội đều chịu ảnh hưởng của sự thay đổi này của công cụ lao động.
Cùng với công cụ lao động, trong tư liệu sản xuất còn yếu tố đối tượng lao động là một trong những nội dung của lực lượng sản xuất đang đặt ra nhiều vấn đề trong tình hình hiện nay.
Trong lực lượng sản xuất, nếu yếu tố con người là chủ thể sáng tạo, là yếu tố đặc biệt bởi con người có ý thức, và thông qua ý thức điều khiển mọi hoạt động - là một đặc điểm khác về chất so với mọi yếu tố khác, thì đối tượng lao động là khách thể, là mặt đối lập cũng là yếu tố có vai trò quan trọng. Khi bàn về vai trò của đối tượng lao động, C.Mác nói: "Công nhân không thể sáng tạo ra cái gì hết nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của anh ta được thực hiện, trong đó lao động của anh ta được triển khai, từ đó và nhờ đó, lao động của anh ta sản xuất ra sản phẩm" [67, tr.130].
Đối tượng lao động trước hết là những dạng vật chất có sẵn trong tự nhiên, kể cả trên mặt và trong lòng đất, dưới đại dương và trong khí quyển như đất đai, sông, biển, rừng núi, động thực vật, tài nguyên khoáng sản, v.v... Tuy nhiên, không phải tất cả mọi dạng vật chất trong tự nhiên đều là đối tượng lao động, chỉ có những dạng vật chất nào có khả năng tạo thành những vật phẩm theo những mục đích, yêu cầu và đáp ứng được những nhu cầu nào đó của con người, đã và đang được con người tác động, cải tạo, khai thác chúng thì dạng vật chất tự nhiên đó mới là đối tượng của lao động xã hội. Chẳng hạn, những loại vật liệu, khoáng sản như than đá, dầu mỏ, v.v... khi con người chưa biết sử dụng nó để phục vụ đời sống và sản xuất, thì khi đó bản thân các yếu tố đó chưa trở thành đối tượng lao động của xã hội loài người. Trình độ khoa học - công nghệ càng cao, sản xuất - xã hội càng phát triển, thì khả năng cải tạo tự nhiên của con người ngày càng cao, khi đó càng nhiều những dạng vật chất trong tự nhiên trở thành đối tượng lao động hơn.
Đối tượng lao động rất phong phú, đa dạng và có nhiều cấp độ khác nhau. Trong quá trình sản xuất, có những vật phẩm trong tự nhiên con người chỉ việc khai thác mang về là có thể đáp ứng ngay được những nhu cầu nào đó của mình, cũng có những loại vật phẩm lại phải qua nhiều lần cải tạo, nhiều khâu trung gian, mới trở thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển, khoa học - công nghệ càng cao, thì loại đối tượng phải cải tạo nhiều lần càng được mở rộng, điều này là do nhu cầu ngày càng cao của con người quy định.
Chúng ta đã biết rằng, trong sản xuất con người thường xuyên tự cải tạo mình về mọi mặt, cũng như liên tục cải tiến công cụ lao động, để ngày càng làm ra nhiều sản phẩm nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Ngược lại, nhu cầu của xã hội cũng tác động làm cho sản xuất ngày càng phát triển, kéo theo các lĩnh vực phục vụ cho hoạt động sản xuất cũng phát triển theo. Đặc biệt là sự phát triển của công cụ lao động và việc ứng dụng các thành tựu của khoa học để cải tiến, sáng chế, phát minh những công cụ lao động đó, đã làm cho con người ngày càng có vai trò to lớn, càng có sức mạnh ghê gớm trước tự nhiên. Sức mạnh của con người phát triển ở cả chiều sâu lẫn chiều rộng trong việc tác động, khai thác đối tượng lao động. Vì thế mà hiện nay, vấn đề đối tượng lao động cần phải được xem xét và quan tâm đặc biệt, để tránh những hiểm họa do chính sự phát triển của nó gây ra như tài nguyên cạn kiệt, môi trường suy thoái và ô nhiễm... làm cho sự sống của con người đang bị đe dọa
Hoạt động lao động, nói theo C.Mác, là sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, con người phải kiểm tra và điều tiết một cách hợp lý các hoạt động ấy, nhưng phần lớn con người mới chỉ quan tâm phần nhiều đến việc khai thác tự nhiên, lấy ở tự nhiên là chính, ít khi trả lại cho tự nhiên những gì con người đã lấy. Đó là những những sai lầm nghiêm trọng, phải trả giá đắt của con người, chính các nhà kinh điển sáng lập ra phép biện chứng duy vật đã cảnh báo từ lâu:
Chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác [63, tr. 655].
Trong những đối tượng lao động mà con người tác động, khai thác, có những yếu tố có khả năng phục hồi trở lại, cũng có những yếu tố không thể hồi phục được bởi quá trình sinh thành nó phải trải qua một thời kỳ thiên tạo rất lâu dài so với lịch sử của xã hội con người. Do đó, hiện nay vấn đề cạn kiệt tài nguyên, cạn kiệt năng lượng, ô nhiễm môi trường, bệnh tật, v.v... đã trở thành vấn đề toàn cầu, thách thức toàn nhân loại, bắt buộc mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi khu vực phải xem xét lại những vấn đề thuộc về đối tượng lao động của mình.
Trong tư liệu sản xuất, ngoài các yếu tố công cụ lao động và đối tượng lao động, còn cần phải có rất nhiều các điều kiện, phương tiện khác hỗ trợ cho hoạt động sản xuất như đường sá, các phương tiện vận chuyển, bến bãi, nhà kho, thông tin phối hợp sản xuất, v.v... Mặc dù những yếu tố này không trực tiếp làm ra sản phẩm, nhưng có những ảnh hưởng lớn đến sản xuất, sản xuất càng phát triển đòi hỏi những điều kiện và phương tiện phục vụ sản xuất càng phải phát triển theo. Đặc biệt, trong sản xuất hàng hóa nếu như không chú ý thỏa đáng đến những điều kiện đó, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất xã hội vì những yếu tố này góp phần làm tăng hay giảm các chi phí giao dịch, chi phí cho vận chuyển nguyên vật liệu, bảo quản các sản phẩm, đó là những chi phí cũng được lấy ra từ giá trị của sản phẩm. Đối với những vùng còn lạc hậu, càng cần phát triển các điều kiện và phương tiện này nhiều hơn, bởi vì nó còn góp phần lôi kéo đầu tư, lưu thông các yếu tố phục vụ sản xuất.
1.1.3. Khoa học - công nghệ
Khoa học - công nghệ là tri thức của nhân loại, ở một phạm vi nhất định nào đó nó được xem như một yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, nhưng ngày nay người ta đã thừa nhận khoa học - công nghệ là một nhân tố đặc biệt của lực lượng sản xuất, nhân tố này chỉ thực sự phát huy được vai trò của nó khi được kết hợp với con người và các yếu tố của tư liệu lao động. Do khoa học - công nghệ đang ngày càng có vai trò to lớn trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, cho nên chúng tôi xét riêng nó như một yếu tố tương đối độc lập để một mặt đánh giá đúng vai trò to lớn khoa học - công nghệ, tránh những tư tưởng quá coi thường hoặc quá đề cao vai trò của nó dẫn đến làm lu mờ các yếu tố khác trong cấu trúc của lực lượng sản xuất; mặt khác qua đó có điều kiện để xét đến những yếu tố bên ngoài lực lượng sản xuất đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà sự tác động đó cũng là nhờ có sự xâm nhập của khoa học - công nghệ.
Khoa học - công nghệ được ra đời trên cơ sở nhu cầu và mục đích của đời sống thực tiễn xã hội, chính thực tiễn là động lực thúc đẩy nó phát triển. Khoa học – công nghệ bao gồm toàn bộ các quá trình phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và các quá trình cải tạo thế giới khách quan đó. Về tổng thể, có thể coi khoa học - công nghệ là một hệ thống những tri thức căn bản phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và những tri thức về các giải pháp hành động để cải tạo hiện thực đã được thực tiễn kiểm nghiệm; được ứng dụng nhanh chóng vào quá trình sản xuất vật chất. Như vậy, khoa học - công nghệ có nội dung khá phong phú, trong đó bao hàm các nhân tố thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội và cả các nhân tố vật chất và cải tạo thế giới vật chất. Công nghệ hiện đại là kết quả của sự kết hợp khoa học và kỹ thuật với hoạt động của con người, là tập hợp những công cụ, phương tiện một cách hợp lý, có hiệu quả cao nhằm biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên thành những vật phẩm hay hàng hóa. Công nghệ còn là kỹ năng chế tạo, sử dụng những công cụ lao động, trình độ tổ chức, quản lý sản xuất và mua, bán sản phẩm, v.v... Nhờ những thành tựu của khoa học - công nghệ mà sản xuất xã hội có những thay đổi to lớn, nó không chỉ là sự thay đổi, phát triển trong kỹ thuật sản xuất mà còn đưa đến những công nghệ mới, những ngành sản xuất mới, phát hiện và đề ra nhiều phương pháp mới trong sản xuất; nhất là những phát hiện về nguồn nguyên liệu và nguồn năng lượng mới, nó đã làm cho hoạt động sản xuất của xã hội phát triển với một tốc độ chưa từng có, đáp ứng nhanh chóng tất cả các nhu cầu của con người. Hơn nữa, nhờ có những thành quả của khoa học - công nghệ, chức năng của người sản xuất đã thay đổi, con người ngày càng ít phải tham gia vào các hoạt động sản xuất vật chất mà chủ yếu là điều khiển, nghiên cứu các quá trình sản xuất đó. Trước sức mạnh và hiệu quả kỳ diệu của nó làm cho nhiều người lầm tưởng rằng với khoa học - công nghệ thì có thể thay thế tất cả, nhưng cần hiểu rằng bản thân khoa học - công nghệ không thể tách khỏi con người, chúng chỉ biểu hiện được sức mạnh của nó thông qua công cụ lao động và thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Mọi lý lẽ khác, muốn dựa vào khoa học - công nghệ để giải thích, để lảng tránh một nội dung nào khác, hay muốn thay thế vai trò to lớn của con người trong sản xuất... đều không có cơ sở tồn tại.
Nhân loại đã từng chứng kiến nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất vật chất do những cuộc cách mạng về khoa học - công nghệ đem lại. Càng về sau, khoa học càng đem lại cho con người những đổi thay mạnh mẽ và sâu sắc. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ ngày nay, vừa phát triển mạnh về chiều sâu, vừa mở rộng ra nhiều lĩnh vực và đang được đặc biệt quan tâm ở ba mũi nhọn cơ bản là:
Thứ nhất: Công nghệ điện tử, tin học và viễn thông. Bằng kỹ thuật số và ứng dụng rộng rãi tin học vào đời sống và sản xuất: từ tổ chức, quản lý, điều hành cho đến mua bán các sản phẩm, tạo mẫu mã, v.v... Quá trình sản xuất vật chất và hoạt động của con người đã ngày càng tự động hóa cao, trong đời sống - xã hội đã xuất hiện nhiều thuật ngữ mới như: nền kinh tế ảo, thị trường ảo hoặc kinh tế mạng, kinh tế tri thức... Sự toàn cầu hóa thông tin và thị trường kinh tế làm cho thế giới dường như trở nên nhỏ bé hơn đối với con người. Điều đó cho phép những quốc gia chậm phát triển có cơ hội tránh được các bước phát triển tuần tự không cần thiết trong lịch sử để đi tắt, đón đầu tạo ra sự phát triển mới của mình. Nhưng đó cũng chính là rào cản lớn nhất, làm giãn khoảng cách phát triển giữa các nước phát triển cao với các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển nếu như không có các chiến lược phát triển đúng đắn, không có các chính sách và biện pháp đi tắt đón đầu một cách phù hợp.
Thứ hai: Công nghệ vật liệu, năng lượng mới. Nhờ các thành tựu của khoa học - công nghệ, hàng loạt các loại vật liệu mới ra đời như: vật liệu cách điện cao cấp, vật liệu siêu dẫn, siêu bền, siêu cứng, siêu nhẹ,... và các dạng năng lượng mới như năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng gió,... cũng đã được khai thác theo công nghệ mới, giúp con người làm tăng giá trị các vật liệu tự nhiên lên nhiều lần, thay thế được nhiều vật liệu gây ô nhiễm môi trường và khan hiếm mà trước đây con người quen sử dụng.
Thứ ba: Công nghệ sinh học. Chỉ vài thập kỷ gần đây, công nghệ sinh học đã chứng tỏ sức mạnh kỳ diệu của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đối với lực lượng sản xuất nói riêng. Bằng những phát hiện mới về công nghệ tế bào, công nghệ sinh sản, công nghệ gen và các phương pháp sinh học mới, con người tạo ra những giống cây trồng và vật nuôi mới có nhiều ưu điểm lớn cả về chất lượng cũng như năng suất và giá thành. Đặc biệt nhờ công nghệ sinh học, làm cho con người ngày càng khỏe mạnh, có tuổi thọ cao và ngày càng đẹp hơn. Hiện nay khoa học sinh học đã công bố bản đồ gen con người và đã bắt đầu giải mã một phần bộ gen đó. Với thành tựu này, khoa học còn có thể ứng dụng và chế tạo những người máy sinh học và giải quyết nhiều vấn đề về sự sống nói chung.
Như đã biết, trước đây khoa học muốn tham gia vào quá trình sản xuất thì phải thông qua hệ thống: con người - khoa học - kỹ thuật - sản xuất - con người; trong đó quá trình chuyển từ khoa học đến kỹ thuật rồi đến sản xuất là một thời gian rất dài, thậm chí nó đủ để làm lu mờ vai trò của khoa học. Ngày nay sự phát triển của khoa học vượt trước rất xa so với nhu cầu của sản xuất, điều đó tác động rất mạnh đến mọi mặt của quá trình sản xuất nói chung. Dưới góc độ đó thì có thể nói rằng khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất. Nhưng trong thực tế chỉ khi khoa học đã thẩm thấu vào các yếu tố của lực lượng sản xuất thì chúng ta mới nhận rõ vai trò trực tiếp và to lớn của khoa học đối với lực lượng sản xuất. Những thành tựu của khoa học - công nghệ đem lại sự phát triển vượt bậc cho lực lượng sản xuất, song chính nó cũng có mặt trái đáng phải lưu tâm, nhất là những người sử dụng những thành tựu này một cách phi nhân tính, chạy theo một vài lợi ích các nhân. Tất nhiên ở đây không chỉ nói về khoa học tự nhiên mà ngay cả khoa học xã hội cũng đang dần trong quá trình trở thành như vậy.
Cùng với những thành tựu của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn cũng đang ngày một phát huy vai trò to lớn của mình trong đời sống - sản xuất vật chất xã hội. Một mặt, khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu các quá trình tâm, sinh lý của con người và tìm cách phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của con người trong sản xuất vật chất. Mặt khác, nó còn tìm ra những khuynh hướng vận động của xã hội nói chung và của nền kinh tế nói riêng, nhờ đó có những chính sách, định hướng phát triển kinh tế - xã hội một cách phù hợp.
1.2. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển
Do những đòi hỏi của đời sống thực tiễn và của quá trình sản xuất vật chất, lực lượng sản xuất đã thường xuyên vận động, phát triển một cách liên tục, khách quan. Trong quá trình vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, có những nhân tố tác động tích cực tạo điều kiện cho nó đi lên, nhưng cũng có những nhân tố cản trở sự đi lên đó. Vì vậy, muốn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển buộc chúng ta phải nhận thức, phải tác động đến các nhân tố, các điều kiện và các quá trình có ảnh hưởng đến sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm hạn chế tối đa những cản trở, những "xiềng xích" có thể có từ nhiều góc cạnh khác nhau. Trong đó cần xác định cả những nhân tố bên trong và bên ngoài của lực lượng sản xuất, vai trò của từng nhân tố đó đối với tiến trình vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó cải tạo để nó tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Sản xuất vật chất là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Các nhân tố khác nhau của đời sống xã hội đều có quan hệ mật thiết với hoạt động sản xuất vật chất nói chung và với lực lượng sản xuất nói riêng. Do đó đối với lực lượng sản xuất, có rất nhiều nhân tố trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của nó, có thể tổng hợp lại một số yếu tố cơ bản như sau:
1.2.1. Tác động của chính các nhân tố cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất phát triển được trước hết là do các nhân tố bên trong nó quan hệ biện chứng với nhau và thường xuyên vận động, phát triển không ngừng. Nhưng mỗi nhân tố đó lại có hình thức, cách thức và những động lực thúc đẩy sự phát triển của nó một cách tương đối khác biệt. Trong đó có một số nhân tố nhạy cảm, năng động, có thể thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất một cách nhanh nhất. Đó là các yếu tố:
Thứ nhất là: Con người là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển bền vững.
Con người là một bộ phận hợp thành lực lượng sản xuất, không những thế mà còn là một bộ phận đặc biệt, thiếu nó thì tất cả mọi nhân tố khác đều không thể trở thành lực lượng sản xuất. Con người đang ngày càng chứng tỏ vị trí đặc biệt đó bằng hoạt động trí tuệ của mình, sáng chế ra những thành tựu khoa học - công nghệ dần thay thế cho lao động của chính mình, bổ trợ cho sức lực vật chất và trí tuệ của con người, tác động, chinh phục tự nhiên ngày một hiệu quả hơn. Đồng thời, chính con người lại sử dụng, điều khiển các phương tiện, công cụ lao động đó để nó hoạt động theo một nội dung đã được định trước. Để phát triển một cách ổn định và bền vững mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội nói chung, phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, mọi dân tộc và mọi quốc gia đều phải cố gắng tác động, khai thác nguồn nhân lực của mình. Nhất là trong tình hình khoa học - công nghệ phát triển một cách mạnh mẽ như hiện nay, các nguồn năng lượng và nguyên liệu ngày càng có nguy cơ cạn kiệt, khan hiếm thì việc quan tâm phát triển nguồn nhân lực ngày càng cần thiết hơn cả đối với sự phát triển, điều này được thể hiện ở chỗ:
- Con người là động lực của sự phát triển. Vì nhờ có con người và qua chế tác của con người thì vật liệu tự nhiên mới trở thành những công cụ lao động, mới trở thành những vật phẩm đáp nhu cầu nào đó của con người và xã hội. Do những nhu cầu trong đời sống - xã hội ngày càng tăng, con người đã buộc phải thường xuyên cải tiến những công cụ lao động, làm cho sản xuất vật chất và mọi mặt của đời sống - xã hội ngày càng phát triển. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ như ngày nay, con người ngày càng ít phải tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất, mà chủ yếu là nghiên cứu, điều khiển, giám sát các quá trình đó. Điều này là một bằng chứng về sức lực trí tuệ, một loại sức lực chỉ có ở con người và nhờ đó làm cho xã hội loài người ngày càng phát triển về mọi mặt. Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng thực trạng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt lạc hậu và thấp kém, cho nên, phát huy vai trò động lực của nguồn nhân lực là cần thiết hơn cả. Trong thực tế, mặc dù có nhiều nguồn lực khác nhau cùng tác động đến sự phát triển, nhưng:
Dù có những nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng đủ khả năng khai thác các nguồn lực, đủ trình độ nắm bắt và làm chủ kỹ thuật và công nghệ hiện đại và hiện đại nhất, nếu không có một môi trường kinh tế, chính trị xã hội, tâm lý và dư luận xã hội thuận lợi cho con người hoạt động thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn [8, tr. 130].
- Con người là mục tiêu của sự phát triển. Mọi quá trình cải tạo, biến đổi tự nhiên đều nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người, đều cố gắng làm cho đời sống của con người và xã hội ngày càng được đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi về mặt tự nhiên lẫn mặt xã hội một cách có ý thức. Cho nên có thể nói, con người là mục tiêu của sản xuất vật chất và của mọi sự phát triển. Chính nhu cầu tiêu dùng của con người đã tạo nên một động lực kích thích mạnh mẽ và tạo ra những định hướng cho sự phát triển của hoạt động sản xuất nói chung, của lực lượng sản xuất nói riêng. Trong quá trình đáp ứng các nhu cầu về vật chất và tinh thần của mình, con người đã tự cải tạo mình, đặt mình vào những "điều kiện" và qua các điều kiện này, con người có những thay đổi về thể chất và trí tuệ một cách phù hợp hơn với điều kiện khách quan và với quá trình sản xuất đó. Do đó, có thể nói nhu cầu, mục tiêu của con người là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Để phát huy vai trò nhân tố con người đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, chúng ta cần phải chú ý nâng cao và phát huy một số yếu tố của người lao động như: sức khỏe, trí tuệ, (trong đó bao gồm cả những hiểu biết về tự nhiên, về xã hội và những kinh nghiệm kỹ năng lao động) đạo đức, văn hóa, v.v... Các yếu tố đó phải có mối quan hệ hài hòa, tương đồng và bổ sung cho nhau, bởi vì một người nào đó chỉ có thể lao động tốt khi có sức khỏe, có trí tuệ, có lý tưởng và đạo đức trong sáng, có quan hệ hài hòa với cộng đồng xung quanh. Bên cạnh đó, cần phải có một môi trường chính trị - xã hội thuận lợi và một hệ thống chính sách xã hội kích thích được tính tích cực của người lao động. Đương nhiên, để cho các yếu tố đó hoạt động có hiệu quả, cũng cần phải có hàng loạt các biện pháp thích hợp khác kèm theo, như chiến lược về cơ cấu lao động, chiến lược về giáo dục và đào tạo, chiến lược dân số, v.v... Khi đó, nhân tố con người mới thực sự trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai là: Khoa học - công nghệ là một động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Như đã trình bày ở phần 1.1.3., có thể hiểu một cách khái quát và chung nhất về khoa học - công nghệ là những tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và việc ứng dụng, vận dụng những tri thức đó vào sản xuất vật chất, trong đó bao gồm toàn bộ những gì có liên quan đến việc biến đổi tài nguyên thành sản phẩm vật chất và tinh thần nói chung, hay sản phẩm hàng hóa, nói riêng. Với cách hiểu như vậy, khoa học - công nghệ gồm nhiều yếu tố khác nhau hợp thành một hệ thống liên tiếp không tách rời nhau. Do những đòi hỏi của đời sống và quá trình sản xuất vật chất, con người thường xuyên phản ánh và nhận thức thế giới khách quan, trên cơ sở những hiểu biết đó, con người tiến hành cải tạo tự nhiên, buộc tự nhiên mang lại nhiều lợi ích nhất phục vụ cho những yêu cầu của cá nhân và xã hội. Từ tri thức khoa học, con người ứng dụng nó, vật chất hóa nó vào công cụ, phương tiện của quá trình lao động, tăng cường cho sức mạnh của con người trước tự nhiên. Ngày nay, tri thức khoa học không chỉ được vật chất hóa vào công cụ, phương tiện và người lao động mà còn thâm nhập, thẩm thấu vào mọi quá trình liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến sản xuất và trao đổi sản phẩm, cho nên nó ảnh hưởng đến mọi quan hệ của con người với thế giới xung quanh, cũng như quan hệ của con người với con người.
Mặc dù khoa học - công nghệ không thể tách rời công cụ lao động, càng không thể thay thế sức lao động của con người, nhưng nó làm thay đổi nhanh chóng hiệu quả của công cụ lao động và sức lực vật chất của con người, thậm chí nó còn giúp con người trong một số thao tác tư duy đơn giản. Nhờ có khoa học mà những công cụ lao động đang ngày càng được cải tiến theo hướng gọn, nhẹ, hiệu suất cao; đồng thời những hiểu biết của con người về bản chất, quy luật của đối tượng lao động, về những tính năng, tác dụng của những công cụ lao động ngày một sâu sắc hơn, nên hoạt động cải tạo thế giới khách quan ngày càng có hiệu quả hơn. Trong đó khoa học - công nghệ vừa là nguyên nhân, vừa là động lực nhưng cũng là kết quả của sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho quan hệ giữa chúng ngày một xâm nhập vào nhau nhiều hơn. Trong thời đại toàn cầu hóa, thông tin hóa như hiện nay, vai trò động lực trực tiếp của khoa học - công nghệ đối với việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất càng được thể hiện rõ hơn. Nhiều phát minh, sáng chế có thể được ứng dụng, chuyển giao một cách nhanh chóng, làm cho nhiều quốc gia không chỉ thoát khỏi những khó khăn và khủng hoảng mà còn tạo ra những bước nhảy vọt, bứt phá một cách kinh ngạc về kinh tế như Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai, các nước NICs trong những thập niên gần đây. Cũng nhờ những thành tựu của khoa học - công nghệ, hàng loạt những vấn đề về lực lượng sản xuất và các yếu tố hỗ trợ, tương tác cho sự phát triển của nó được giải quyết, như tìm và tạo ra nguồn năng lượng, nguyên liệu mới; bố trí thích hợp các quá trình tổ chức, quản lý sản xuất; phát huy tối đa tính tích cực và năng động sáng tạo của người lao động, v.v... [90]. Ngoài ra, nhờ sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhiều vấn đề liên quan đến sản xuất hàng hóa được nhận thức và khai thác rất hiệu quả, tạo đà cho sản xuất phát triển, và cũng chính là tác động cho lực lượng sản xuất phát triển, như: thông tin về thị trường, dự báo về cung, cầu các sản phẩm hàng hóa; hiểu biết về thị hiếu thẩm mỹ của từng vùng, từng thời kỳ, từng dân tộc, v.v... mà nhờ đó có các chính sách đúng đắn làm cơ sở cho sự phát triển của các ngành sản xuất và của bản thân lực lượng sản xuất.
Càng ngày khoa học - công nghệ càng có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nó là yếu tố nằm bên trong, gắn liền trực tiếp với con người và tư liệu sản xuất, cho nên sự phát triển của nó đi liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất là điều tất yếu. Về nguyên tắc, khoa học - công nghệ có tiềm năng vô tận do hoạt động nhận thức vô cùng tận của con người quy định, song trong việc thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác, như kiến trúc thượng tầng, quan hệ sản xuất thống trị, v.v... Vì vậy, ngoài việc cần phải có chiến lược phát triển khoa học - công nghệ đúng đắn, nhằm vào các lĩnh vực như: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu dự báo... Đối với những nước còn nhiều mặt lạc hậu như nước ta, còn phải nghiên cứu một chiến lược đón đầu, để chuyển giao, tiếp nhận một cách hợp lý những thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới. Để tránh những lệ thuộc quá mức về khoa học - công nghệ, cũng như là tránh trở thành nơi thu nhận những thành tựu khoa học - công nghệ lạc hậu của thế giới và khu vực, chúng ta cần phải có một chính sách mềm dẻo để kích thích, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu tự chủ. Tất nhiên, trong hoạt động nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học, phải tăng đầu tư mạo hiểm thì mới có hy vọng phát triển một cách độc lập các ngành khoa học - công nghệ; nhưng điều đó sẽ rất khó thực hiện bởi các nước nghèo còn đang cần phải giải quyết hàng loạt các vẫn đề khác, với thực tế như vậy sẽ kìm hãm sự phát triển của khoa học - công nghệ và cùng với nó là kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhận thấy vai trò to lớn của khoa học - công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển khoa học - công nghệ của đất nước. Nghị quyết Trung ương hai, khóa VIII về giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ đã đánh dấu một bước tiến mới của khoa học - công nghệ nước nhà. Hiện nay chúng ta đang tìm con đường phù hợp nhất để thúc đẩy khoa học - công nghệ của đất nước phát triển, điều đó sẽ góp phần nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp như đã đặt ra.
Thứ ba là: phát triển các yếu tố của tư liệu sản xuất.
Như đã biết, tư liệu sản xuất là mặt thứ hai cùng với con người tạo nên cấu trúc của lực lượng sản xuất. Trong đó yếu tố công cụ lao động được coi là yếu tố động nhất, là một trong những căn cứ, cơ sở để phân công lao động xã hội, nó cũng có vai trò quyết định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất của một khu vực hay một quốc gia. Mặt khác, yếu tố đối tượng lao động cũng không thể thiếu trong quá trình sản xuất nói chung, trong lực lượng sản xuất nói riêng. Đối tượng lao động không chỉ cung cấp cho con người vật liệu sản xuất mà còn ảnh hưởng lớn đến môi trường sống tự nhiên của con người. Vì vậy quan tâm đầu tư phát triển công cụ lao động chính là trực tiếp phát triển lực lượng sản xuất; đồng thời khai thác hợp lý đối tượng lao động chính là tạo một sự phát triển bền vững cho khu vực và cho quốc gia nói chung. Tuy nhiên, các yếu tố của tư liệu lao động lại phụ thuộc rất lớn vào trình độ của người lao động và sự phát triển, thâm nhập của khoa học - công nghệ vào cá yếu tố đó, cho nên khi phát triển khoa học - công nghệ cũng đã góp phần phát triển các yếu tố của tư liệu sản xuất, và cũng là phát triển lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất còn phụ thuộc vào các yếu tố thuộc về kết cấu hạ tầng và những điều kiện, phương tiện phục vụ cho hoạt động sản xuất. Khi những điều kiện và phương tiện này phát triển hay không phát triển thì nó cũng tạo điều kiện thuận lợi hay cản trở sự phát triển của rất nhiều yếu tố, mà tất cả những yếu tố đó đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhất là ở những vùng chậm phát triển, những yếu tố này được xem là cản trở cơ bản, vì vậy muốn phát triển lực lượng sản xuất, phải đầu tư phát triển các yếu tố này đáp ứng với những yêu cầu cụ thể của nó.
1.2.2. Sự tác động của các nhân tố bên ngoài lực lượng sản xuất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
Mọi yếu tố của đời sống - xã hội xét đến cùng đều chịu sự quy định của lực lượng sản xuất và đều tác động trở lại đến lực lượng sản xuất dưới những hình thức khác nhau. Trong đó, có thể khái quát một số yếu tố cơ bản bên ngoài lực lượng sản xuất đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện nay như sau:
Thứ nhất: tác động của quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất.
Không phải ngẫu nhiên mà C. Mác đã chỉ ra rằng quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ "song trùng" trong sản xuất xã hội. Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ mặt thứ hai của quá trình sản xuất - đó là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, C.Mác đã viết: "Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau" [60, tr. 552].
Theo ý kiến trên của C. Mác, quan hệ sản xuất là quan hệ tất yếu, khách quan của quá trình sản xuất trong đời sống - xã hội. Quan hệ này được thể hiện ở nhiều mặt và nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng tựu trung lại, nó bao gồm ba hình thức quan hệ cơ bản sau đây:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
- Quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba hình thức quan hệ này liên hệ, gắn bó hữu cơ với nhau tạo thành một hệ thống các quan hệ mang tính vật chất trong đời sống xã hội và nó chính là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất. Trong các quan hệ này, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất mang tính chất quyết định các hình thức quan hệ khác. Bởi vì, quan hệ sở hữu là quan hệ cơ bản, là cơ sở, là nội dung của toàn ._.ên nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc đã có truyền thống đoàn kết đùm bọc nhau để cùng tồn tại. Trong cộng đồng, quan hệ ứng xử hết sức vô tư, công bằng và chân thật, điều này được thể hiện trong lúc có các công việc lớn như ma chay, cưới xin, ốm đau... mọi người trong cộng đồng sẵn sàng giúp đỡ nhau cả về vật chất lẫn tinh thần. Các hình thức ứng xử này đang bị xói mòn bởi kinh tế thị trường, nhiều kiểu quan hệ đã bị "tiền tệ hóa"; đó là sự mất mát đáng kể.
Niềm tin và đức tính thật thà là vốn quý song những cái đó khi bị mặt trái của cơ chế thị trường lợi dụng là điều cực kỳ nguy hại. Nhiều yếu tố của quan hệ ứng xử trong cộng đồng đã biểu hiện phù hợp với việc thực hiện chính sách xã hội hiện nay, chẳng hạn như giúp đỡ các gia đình có công với nước, các gia đình hoạn nạn, những gia đình quá khó khăn trong cộng đồng,... Trong đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc, văn hóa tinh thần được biểu hiện ở hò, lượn hoặc ngay cả trong các bài cúng tế làm bụt, làm ma, v.v... phần lớn là ca ngợi tình yêu, tình bạn và quan hệ hòa đồng giữa con người với thiên nhiên. Văn hóa tinh thần dùng trong cúng tế có phần bền chặt hơn, nhưng hiện nay những yếu tố mang tính chất thần bí, duy tâm lại được một số người lợi dụng để kiếm lợi, còn những yếu tố khác nhất là thơ, ca, hò, lượn truyền miệng lại bị lãng quên. Vì vậy, cần có các biện pháp thu thập lưu giữ bằng sách báo, băng hình và phổ biến ngay trong cộng đồng, làng bản để động viên tinh thần của nhân dân, tăng cường niềm tin và không khí phấn khởi hăng hái lao động sản xuất góp phần phát triển lực lượng sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết luận chương 3
Làm thế nào để lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta phát triển nhanh và bền vững là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp. Với tốc độ vận động và phát triển mạnh mẽ của các vùng khác trong nước hiện nay, lực lượng sản xuất miền núi phía Bắc đang đứng trước vận hội lớn nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ. Xuất phát từ những điều kiện cụ thể của miền núi phía Bắc, chúng ta cần phải có các giải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong toàn vùng nói chung, tác động đến lực lượng sản xuất ở đây để có bước phát triển bứt phá nói riêng.
Theo chúng tôi, mọi cố gắng nhằm tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất miền núi phía Bắc phát triển đều phải bắt đầu từ các yếu tố cấu thành nó. Trước hết là phát triển yếu tố con người. Chúng ta chỉ thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi có con người đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp đó. Muốn vậy, cần phải chăm lo phát triển con người về mọi mặt - thể lực, trí tuệ, và nhân cách... Cùng với yếu tố con người, để lực lượng sản xuất sản xuất ở miền núi phía Bắc phát triển, phải tăng cường phát huy vai trò của khoa học - công nghệ; chỉ có sự can thiệp của khoa học - công nghệ mới có thể đưa miền núi phía Bắc bứt phá đi lên cùng với cả nước. Khoa học - công nghệ sẽ là yếu tố khắc phục những khó khăn do điều kiện tự nhiên quy định và những cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở khu vực này. Việc ứng dụng các thành tựu của nó vào việc phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn miền núi, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế... đang là một đòi hỏi cấp bách đặt ra từ thực tiễn. Ngoài ra, trong điều kiện hiện nay, để phát triển lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta còn phải biết khai thác một cách hợp lý các yếu tố của tự nhiên, tiến hành các hoạt động phù hợp với những yêu cầu của một nền kinh tế - sinh thái, sao cho mục tiêu phát triển không tách rời với mục tiêu đảm bảo môi trường sống cho muôn loài, trong đó có con người.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta còn phải có sự tác động hợp lý từ các yếu tố bên ngoài của lực lượng sản xuất. Trước hết, phải tạo điều kiện để cho kinh tế thị trường phát triển, phá vỡ hoàn toàn nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc ở miền núi phía Bắc, đồng thời có các biện pháp nhằm hạn chế những mặt trái do kinh tế thị trường đem lại, tác động để nó vận động định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, phải cải tạo và xây dựng các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, để nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Trong đó đặc biệt chú trọng các hình thức quan hệ kinh tế theo hộ; kinh tế hợp tác, liên doanh; kinh tế Nhà nước, v.v...
Do trình độ hiểu biết về một số mặt của nhân dân trong khu vực này còn nhiều hạn chế, vì vậy cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và tổ chức của Nhà nước cũng như phối hợp hành động của các đoàn thể. Đó cũng là những động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất trong vùng. Trong đời sống - sản xuất của nhân dân, nhiều nét đẹp truyền thống cần được lưu giữ và phát triển, song cũng còn nhiều phong tục, tập quán lạc hậu đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, cho nên cần phải có các biện pháp khai thác những mặt tích cực của đời sống văn hóa, hạn chế, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp để kích thích, tạo đà cho sự phát triển của nó.
kết luận
Phát triển lực lượng sản xuất làm cơ sở để đời sống kinh tế - xã hội ngày một đi lên là mục tiêu chung của mọi quốc gia, nhưng đó là một vấn đề không kém phần khó khăn và phức tạp; với từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, mục tiêu này lại có những yêu cầu riêng và được thực hiện với những khả năng phát triển một cách đặc thù.
ở những nước kém phát triển như Việt Nam, việc phát triển lực lượng sản xuất là một yêu cầu cấp bách, trong đó, vừa phải có chiến lược phát triển chung cho cả đất nước, vừa phải có các chính sách hợp lý để ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội ở những khu vực còn đặc thù. Miền núi phía Bắc nước ta là một trong những khu vực chậm phát triển nhất của đất nước, do đó, muốn giảm khoảng cách phát triển giữa vùng này với miền xuôi và thành thị, để vùng này cùng với cả nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải có chính sách, giải pháp thiết thực nhằm ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất ở đây.
Để đưa lực lượng sản xuất miền núi phía Bắc phát triển kịp với các khu vực khác trong nước, cần phải tạo ra được một "bước nhảy", một sự "tăng tốc" trên các mặt, các yếu tố của lực lượng sản xuất. Muốn vậy, trước hết phải nhận thức rõ các yếu tố, các mặt cấu thành lực lượng sản xuất, những yếu tố nào có ảnh hưởng ra sao và cần phải tác động đến sự phát triển của nó như thế nào.
Như đã biết, lực lượng sản xuất được cấu thành từ các yếu tố, như người lao động, tư liệu sản xuất và một số điều kiện, phương tiện phục vụ sản xuất khác kèm theo. Trong điều kiện hiện nay, điều đáng lưu ý là ở chỗ, trong lực lượng sản xuất có một yếu tố đặc biệt, đó là khoa học - công nghệ. Yếu tố này đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và đang thay thế nhiều hoạt động truyền thống của con người, có tác dụng đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nói riêng, và của sự phát triển xã hội nói chung. Quá trình thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển chính là quá trình tác động trực tiếp đến các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; đồng thời phải tạo mọi điều kiện từ vật chất đến tinh thần để các yếu tố đó phát triển một cách hợp lý.
Từ khi nước ta thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc đã khắc phục được nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên quy định, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng và đã thu được những thắng lợi to lớn. Bộ mặt của các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta đã khác nhiều so với trước đây. Song lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta, về nhiều mặt, còn rất lạc hậu và còn diễn ra tình trạng phát triển không đều giữa các tiểu vùng trong khu vực. Mặc dù đã được Đảng và Nhà nước rất quan tâm đầu tư, nhưng từng yếu tố cụ thể của lực lượng sản xuất vẫn còn nhiều biểu hiện của một nền sản xuất tự cấp, tự túc, chưa thực sự chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các yếu tố bên trong của lực lượng sản xuất như người lao động, tư liệu sản xuất... chưa phát triển đúng với yêu cầu đặt ra; còn nhiều cản trở chưa được tháo gỡ; việc đầu tư vào các lĩnh vực này vẫn chưa phát huy tối đa tác dụng của nó. Riêng về đối tượng lao động, vẫn còn tình trạng chưa khai thác đúng với tiềm năng vốn có với những yêu cầu của một nền kinh tế - sinh thái và môi trường. Những điều kiện và phương tiện phục vụ cho phát triển lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Đó cũng là một trong những cản trở lớn nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong toàn vùng này nói chung.
Để phát triển lực lượng sản xuất miền núi phía Bắc nước ta theo hướng đáp ứng các yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết phải tác động trực tiếp vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Yếu tố cơ bản nhất và cũng là mục tiêu chung của sự phát triển chính là phát triển con người; cần khắc phục những nhận thức, lề lối, tác phong lạc hậu do nền sản xuất tự cấp, tự túc chi phối người lao động, cố gắng đào tạo ra những con người đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải có những đầu tư lớn vào khoa học - công nghệ để không chỉ đưa khu vực thoát khỏi sự tụt hậu so với các khu vực khác trong nước, mà còn phải đi tắt đón đầu, để vùng này phát triển một cách ổn định và bền vững. Khoa học - công nghệ phải tập trung vào các khâu: xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; cải tiến công cụ lao động; tận dụng, khai thác và phát triển đối tượng lao động theo những tiềm năng thế mạnh của từng tiểu vùng; hạn chế những rào cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất như: điều kiện tự nhiên phức tạp, các yếu tố giao thông - vận tải, thủy lợi, điện sinh hoạt và sản xuất, v.v... còn thấp kém, lạc hậu.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở khu vực miền núi phía Bắc còn phải chịu sự tác động từ các yếu tố bên ngoài của nó. Do đó, muốn phát triển lực lượng sản xuất ở vùng này thì phải thay thế hình thức sản xuất tự cấp tự túc truyền thống bằng nền sản xuất hàng hóa, phải tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển nhanh; bằng mọi hình thức kích thích cho các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, v.v... hoạt động mạnh hơn, đương nhiên, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và cải tạo các hình thức quan hệ sản xuất, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển và phát huy vai trò của nó, nhất là các thành phần kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp tác, kinh tế nhà nước, v.v...
Để lực lượng sản xuất miền núi phía Bắc nước ta phát triển nhanh chóng, về cơ bản, quá trình này phải do nhân dân các dân tộc ở đây thực hiện, nghĩa là, cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, huy động tối đa mọi lực lượng và sức mạnh của các tổ chức xã hội cùng tham gia. Ngoài ra, còn phải tính đến một số lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội đặc thù miền núi để kích thích sự phát triển đó. Việc này cũng chính là nhằm góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc miền núi, thực hiện mục tiêu "hòa nhập mà không hòa tan" như tinh thần Đảng ta đã nêu ra trong khi nhận thức về hội nhập và phát triển.
Đối với nhân dân các dân tộc miền núi phía Bắc hiện nay, nhìn chung, đời sống tinh thần còn nghèo và lạc hậu, nên cần phải bổ sung, phát triển về mặt văn hóa làm cho đời sống tinh thần vùng này phong phú hơn, nhất là cải tạo một số phong tục, hủ tục lạc hậu trong đời sống - sản xuất vật chất và duy trì, phát triển những nét văn hóa truyền thống có giá trị nhân văn sâu sắc để nhân dân các dân tộc ở đây phát huy tối đa nội lực của mình nhằm phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng ta đã đề ra.
các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án
Vi Thái Lang (1996), "Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi", Tạp chí Cộng sản, (23).
Vi Thái Lang (1999), "Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn", Triết học, (1).
Vi Thái Lang (2000), "Tồn tại xã hội và ý thức xã hội dưới ánh sáng của lý luận phản ánh của V.I.Lênin", trong cuốn: Sức sống của một tác phẩm triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vi Thái Lang (2000) "Một số ý kiến về vấn đề bảo vệ và phát triển rừng ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay", Giáo dục lý luận, (8).
Vi Thái Lang (2000), "Để khu vực miền núi tiến kịp với lộ trình phát triển của đất nước", Người đại biểu nhân dân, (125).
Vi Thái Lang (2000), Thực trạng những vấn đề về đối tượng lao động ở miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ (Chủ nhiệm và thực hiện), nghiệm thu tháng 12.
Vi Thái Lang (2001), "Về tác động của quan hệ sở hữu đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay, Triết học, (1).
Vi Thái Lang (2001), "Đào tạo, phát triển cán bộ miền núi và dân tộc", Người đại biểu nhân dân, (137).
danh mục Tài liệu tham khảo
Nguyễn Quốc Anh (2000), "Công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (17), tr. 53-57.
Ban Tổ chức Chính phủ (1998), Báo cáo tình hình đội ngũ cán bộ công chức nhà nước năm 1997.
Hoàng Chí Bảo (1993), "ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con người", Triết học, (1), tr. 13-17.
Hoàng Bình - Nguyễn Kim Lai (1991), "Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, mâu thuẫn hay phù hợp", Triết học, (2), tr. 56-58.
Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (1996), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Mai Quốc Chánh (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đình Chính (24/11/1997), "Đào tạo lao động lành nghề cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Nhân Dân.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1991), Tiến bộ khoa học- kỹ thuật và đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1994), "Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Triết học, (3), tr. 3-5.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1997), "Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Triết học, (1), tr. 3-5.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển", Triết học, (2), tr. 16-19.
Vũ Đình Cự (1996), Khoa học và công nghệ lực lượng sản xuất hàng đầu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Cường (1998), "Phát triển nguồn nhân lực để xóa đói giảm nghèo", Tư liệu Viện Thông tin Khoa học- kỹ thuật.
Phạm Tất Dong (1997), Khoa học xã hội và nhân văn, mười năm đổi mới và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Hồ Anh Dũng (1994), Yếu tố con người trong lực lượng sản xuất và việc phát huy yếu tố đó ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
Phan Xuân Dũng (1997), "Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (17), tr.18-20.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. cpv.org. vn. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
Nguyễn Điền (1999), "Tổ chức quản lý kinh tế trang trại trên thế giới và Việt nam", Nghiên cứu kinh tế, (251), tr. 37-43.
Lê Xuân Đình (1999), "Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 23-27.
Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Văn Đức (1999), "Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực con người", Triết học, (6), tr. 31-33.
Trần Đức (1998), Kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Trần Đức (1999), "Nhìn lại kinh tế trang trại những năm gần đây", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 50-57.
Nguyễn Tĩnh Gia (1988), Biểu hiện đặc thù của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
Paul Hersey (1995), Quản lý nguồn nhân lực, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Vũ Hiền (1997), "Một số vấn đề về nghèo đói và việc xóa đói giảm nghèo", Tạp chí Cộng sản, (1), tr. 24-26; 16.
Lương Khắc Hiếu - Phạm Văn Chúc (1999), "Cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại: một số hiệu quả kinh tế- xã hội", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 53-59.
Nguyễn Đình Hòa (1991), "Tìm hiểu tư tưởng của V.I.Lê nin về hợp tác hóa nông nghiệp", Triết học, (1), tr. 22-25.
Trần Đình Hoan (1996), Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trương Hữu Hoàn (1994), "Tìm hiểu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất", Triết học, (3), tr. 30-34.
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn Khoa học Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác- Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Doãn Huề (1998), "Đại Từ: Phát huy nội lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (24), tr. 55-57.
Trương Công Hùng (1999), "Kinh tế trang trại nông nghiệp ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (6), tr. 40-43.
Nguyễn Văn Huyên (1999), "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc", Triết học, (1), tr. 5-8.
Nguyễn Hoa Thiếu Huyền (2000), "Chương trình 135 - ý Đảng lòng dân", Tạp chí Cộng sản, (2), tr. 39-43.
Đặng Hữu (2000), "Khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (17), tr. 32-37.
Paul Kennedy (1995), Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đoàn Văn Khái (2000), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
Phan Văn Khải (1998), "Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học - công nghệ và các cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế", Nhân Dân.
Nguyễn Đình Kháng - Vũ Văn Phúc (1998), Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Gia Khiêm (1997), "Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn", Tạp chí Cộng sản, (14), tr. 15-17.
Phan Thanh Khôi (1997), "Củng cố và phát triển đội ngũ tri thức các dân tộc thiểu số", Tạp chí Cộng sản, (4), tr. 40-43.
Bùi Chí Kiên (1996), Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong phát triển nền kinh tế hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lâm Đồng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
Hoàng Minh Ký - Bùi Minh Vũ (1996), "Về kinh tế trang trại lâm nghiệp", Nghiên cứu kinh tế, (214), tr. 56-59.
V.I. Lênin (1970), Toàn tập, tập 32, Nxb Sự thật Hà Nội.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Nguyễn Ngọc Long (1996), "Nhận thức thực chất con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 35-38.
Trương Giang Long (1997), "Xem xét nhân tố người lao động trong cấu trúc của lực lượng sản xuất", Tạp chí Cộng sản, (13), tr. 27-30.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lưu Đình Mạc (1995), "Phát triển giáo dục đại học là điều kiện đảm bảo công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, (4), tr. 22-23.
Nguyễn Tiến Mạnh (1995), Hiệu quả kinh tế ứng dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất cây lương thực và thực phẩm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đ.Mốt-xcô-vin-Ph.Bin-xtốc (1997), (Nguyễn Việt Nga lược dịch), "Cách thức sở hữu tư liệu sản xuất", Nghiên cứu lý luận, (12), tr. 42- 47.
Đỗ Mười (1997), "Tập trung mọi cố gắng giành ưu tiên cao nhất cho phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ", Tạp chí Cộng sản, (1), tr. 4-8.
Hoàng Đức Nghi (1997), "Thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu để vùng dân tộc và miền núi đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (18), tr. 26-30; 37.
Lê Huy Ngọ (1999), "Khoa học - công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới", Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 14-16
Hà Quang Ngọc (1997), "Thu hút và sử dụng trí thức trẻ ở nông thôn, miền núi", Tạp chí Cộng sản, (13), tr. 44- 46.
Nguyễn Xuân Nguyên (1996), "Một số quan hệ tác động đến diện tích đất trống đồi trọc tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (221), tr. 19-26.
Chu Tuấn Nhạ (1999), "Khoa học - công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (2), tr.21-24, 38.
Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1998), Phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1999), Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía bắc nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Du Phong - Nguyễn Thành Độ (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phan Thanh Phố (1998), "Xây dựng quan hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản, (4), tr. 13- 27.
Đỗ Nguyên Phương (1998), "Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng dân số", Tạp chí Cộng sản, (19), tr. 29-32.
Đỗ Nguyên Phương (2000), "Y tế miền núi- những thách thức cần vượt qua", Tạp chí Cộng sản, (22), tr. 41-44.
Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm hiểu về văn hóa và văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Duy Quý (1998), "Phát triển con người tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (19), tr. 10-13; 19.
Bùi Xuân Sơn (1999), "Một số vấn đề về quản lý và sử dụng đất hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (4), tr. 45- 48.
Trần Hữu Sơn (1997), "Nguyên nhân du canh du cư và những vấn đề đặt ra", Dân tộc học, (1), tr. 3-8.
Lê Hữu Tầng (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Thanh (2000), "Mô hình kinh tế sinh thái", Nghiên cứu kinh tế, (267), tr. 57-63.
Đoàn Quang Thọ (1995), Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
Nguyễn Duy Thông (Chủ biên) - Nguyễn Trọng Chuẩn - Đỗ Long (1982), Cách mạng khoa học- kỹ thuật trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Đăng Thông (1997), "Những vấn đề xã hội và việc xóa đói giảm nghèo ở nước ta", Giáo dục lý luận, (1), tr. 32-34.
Nguyễn Hữu Tiến (1997), "Di cư tự do: Thực trạng và kiến nghị", Tạp chí Cộng sản, (7), tr. 55-59.
Đặng Hữu Toàn (1997), "Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở nước ta", Triết học, (1), tr. 6-10.
A. Toffler (P.1- 1991; P.2 - 1992), Thăng trầm quyền lực, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (1998), Niên giám thống kê 1997, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (1999), Niên giám thống kê 1998, Nxb Thống kê Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2000), Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê Hà Nội.
Phạm Thị Ngọc Trầm (1993), "Trí tuệ - Nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội", Triết học, (1), tr. 22-25.
Lê Xuân Tùng (1999), Chế độ kinh tế hợp tác xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva.
Từ điển triết học giản yếu (1987), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
Viện Thông tin khoa học xã hội (1998), "Nghiên cứu về phát triển nguồn nhân lực và xóa nghèo của các vùng nghèo Trung Quốc", (Tài liệu dịch phục vụ nghiên cứu).
Trung Giang Vim (1998), Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
Lê Anh Vũ (2000), "Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp Tây Bắc từ 1989 đến 1999: Thực trạng và triển vọng", Nghiên cứu kinh tế, (271), tr. 41-48.
phụ lục
Bảng 1: Số học sinh các cấp qua các năm học theo tỉnh
Đơn vị tính: nghìn người
Tỉnh
Cấp 1 (Tiểu học)
Cấp 2 (Trung học cơ sở)
Cấp 3 (Trung học phổ thông)
96-97
97-98
98-99
96-97
97-98
98-99
96-97
97-98
98-99
Hà Giang
88
99
107
17
20
26
3
4
5.02
Cao Bằng
96
84
87
26
26
31
6
7
8.25
Lào Cai
83
94
102
22
24
28
4
5
6.42
Bắc Cạn
43
45
43
18
19
22
4
4
6.00
Lạng Sơn
126
126
122
37
45
52
8
9
10.59
Tuyên Quang
119
117
111
45
53
59
10
13
16.19
Yên Bái
102
104
105
40
45
47
9
11
14.69
Thái Nguyên
138
146
136
76
85
90
20
23
25.03
Phú Thọ
176
173
165
96
101
104
25
30
35.62
Bắc Giang
218
217
209
105
114
123
18
23
28.92
Quảng Ninh
124
126
123
70
73
76
22
26
30.46
Lai Châu
73
81
86
15
18
21
3
4
4.47
Sơn La
146
153
153
30
37
44
5
7
8.47
Hòa Bình
127
122
117
53
60
68
12
14
16.80
Nguồn: Niên giám thống kê 1997, 1998, 1999.
Bảng 2: Diện tích rừng trồng tập trung theo địa phương
Đơn vị tính: nghìn ha
Năm
Tỉnh
1995
1996
1997
1998
Sơ bộ 1999
Hà Giang
3,4
4,7
4,0
4,0
5,0
Cao Bằng
0,6
0,8
1,6
5,7
3,8
Lào Cai
4,1
4,1
4,6
3,3
2,9
Bắc Kạn
1,4
2,5
2,8
4,8
6,0
Lạng Sơn
2,5
6,4
8,9
8,6
16,3
Tuyên Quang
5,6
6,5
8,4
7,4
6,4
Yên Bái
8,6
9,5
10,6
11,3
5,6
Thái Nguyên
2,0
2,8
2,0
2,4
3,0
Phú Thọ
3,8
3,8
5,3
3,6
3,5
Bắc Giang
5,6
4,6
5,8
1,6
1,9
Quảng Ninh
7,3
4,5
5,6
6,8
7,6
Lai Châu
2,2
1,1
2,3
0,2
0,1
Sơn La
3,4
5,5
8,6
5,9
5,4
Hòa Bình
2,4
3,0
3,8
5,1
7,1
Nguồn: Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000.
Bảng 3: Diện tích rừng bị cháy và bị phá
Đơn vị tính: ha
Năm
Tỉnh
1995
1996
1997
1998
1999*
Hà Giang
163,0
148,0
129,0
249,0
250,0
Cao Bằng
14,0
168,0
29,6
1977,0
1977,0
Lào Cai
77,0
648,0
1194,8*
Bắc Kạn
122,0
82,9
75,0
Lạng Sơn &
58,1
21,3
78,4
Tuyên quang@
24,0
67,4
1,6
Yên Bái
302,0
440,0
85,6
298,0
44,2
Thái nguyên
400,0
273,0
9,1
7,1
4,0
Phú Thọ &
9,0
38,9
Bắc Giang @
46,0
49,5
6,4
3,8
59,4
Quảng Ninh
17,5
179,0
Lai Châu
1784,0
1200,0
201,0
404,1
344,8
Sơn La
54,0
112,6
3865,0
Hòa Bình &
14,0
310,0
20,0
259,0
127,4
* - Số liệu sơ bộ
& - Riêng diện tích cháy
@ - Riêng diện tích phá
Nguồn: Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000.
Bảng 4: Giá trị sản xuất thủy sản phân theo địa phương
(giá so sánh 1994)
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Tỉnh
1996
1997
1998
Sơ bộ 1999
Ghi chú
Hà Giang
5,6
6,0
6,6
7,0
Cao Bằng
0,9
0,7
1,4
1,6
Lào Cai
3,6
3,8
3,9
3,9
Bắc Kạn
2,3
2,0
2,1
2,3
Lạng Sơn
0,8
1,1
2,7
2,6
Tuyên quang
9,8
9,3
9,7
9,9
Yên Bái
4,5
4,6
5,1
5,5
Thái Nguyên
10,5
10,1
22,8
22,9
Phú Thọ
54,4
48,4
52,8
50,5
Bắc Giang
46,0
48,1
49,1
48,2
Quảng Ninh
103,8
135,0
140,4
132,7
có hải sản biển
Lai Châu
3,5
3,6
3,7
3,7
Sơn la
25,6
26,6
14,7
16,7
Hòa Bình
9,0
9,8
10,3
9,6
Nguồn: Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000.
Bảng 5: Số lượng trâu hằng năm phân theo các tỉnh
Đơn vị tính: nghìn con
Năm
Tỉnh
1995
1996
1997
1998
Sơ bộ 1999
Hà Giang
110,5
113,7
117,0
120,5
126,2
Cao Bằng
140,5
111,9
113,9
115,3
115,9
Lào Cai
90,9
92,9
94,5
98,2
100,4
Bắc Kạn
82,5
85,1
87,3
91,5
92,3
Lạng Sơn
198,6
198,7
204,4
211,0
218,2
Tuyên Quang
122,9
126,3
129,3
132,5
134,6
Yên Bái
75,5
77,6
79,1
81,1
82,2
Thái Nguyên
103,0
136,0
134,7
135,9
137,3
Phú Thọ
84,8
85,8
84,9
86,2
87,6
Bắc Giang
138,8
136,1
134,6
131,1
131,0
Quảng Ninh
62,1
63,9
64,4
66,1
68,0
Lai Châu
102,9
105,8
109,5
118,2
122,6
Sơn La
107,3
111,3
114,6
115,3
116,1
Hòa Bình
109,6
113,0
117,6
122,9
126,7
Nguồn: Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000.
Bảng 6: Số lượng bò hằng năm phân theo các tỉnh
Đơn vị tính: nghìn con
Năm
Tỉnh
1995
1996
1997
1998
Sơ bộ 1999
Hà Giang
42,7
44,2
45,8
48,0
52,0
Cao Bằng
106,7
96,0
99,9
102,5
106,3
Lào Cai
8,7
9,9
10,6
11,3
15,9
Bắc Kạn
12,3
20,2
21,3
28,2
30,0
Lạng Sơn
33,0
34,1
36,2
39,4
43,0
Tuyên Quang
19,1
20,1
20,4
19,4
19,1
Yên Bái
26,1
27,5
28,6
29,7
29,8
Thái Nguyên
12,0
18,7
19,1
20,9
22,0
Phú Thọ
92,0
94,1
98,5
99,6
101,0
Bắc Giang
55,3
57,6
60,1
63,2
64,4
Quảng Ninh
10,8
11,6
12,3
13,7
14,3
Lai Châu
15,0
16,4
17,9
22,3
21,8
Sơn La
72,6
78,0
79,2
81,8
83,6
Hòa Bình
41,3
42,9
44,3
46,0
47,4
Nguồn: Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2594.DOC