Vấn đề lý luận chung về ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế & thực tế áp dụng tại chi nhánh Công ty Thái Bình Dương

Lời nói đầu Bất kỳ một hình thái kinh tế nào, việc phát triển nền kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi thúc đẩy xã hội đi lên, cũng như dảm bảo cho chế độ đó tồn tại và phát triển, do vậy mục tiêu phát triển của nền kinh tế là rất quan trọng Trong văn kiện Đại hội Đảng VI (6/1986) đã đề ra “Giai đoạn này là giai đoạn phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN” và hàng loạt các văn bản pháp luật đặc biệt là

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề lý luận chung về ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế & thực tế áp dụng tại chi nhánh Công ty Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong lĩnh vực kinh tế đã được nhà nước ta ban hành, trong đó pháp luật hợp đồng kinh tế được Hội đồng nhà nước ban hành (nay là UBTVQH) thông qua ngày 25/9/1989, có hiệu lực từ ngày 19/9/1989. Có thể nói với tư cách kiến trúc thượng tầng, Pháp lệnh HĐKT năm 1989 đã có những đóng góp tích cực trong công cuộc xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ thiết lập cơ chế kinh tế mới, là sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta. Em là sinh viên của khoa Kế toán Tài chính, em rất quan tâm về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế đã áp dụng trong nhiều năm qua, nó đã làm cho Việt Nam ta ngày càng phát triển trên thị trường khu vực và thế giới. Đặc biệt là vấn đề ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế. Sau khi kết thúc học chương trình Luật kinh tế của Khoa luật em đã lĩnh hội được nhiều kiến thức về pháp luật nên em xin mạnh dạn được đề cập đến đề tài: Vấn đề lý luận chung về ký kết thực hiện hợp đồng kinh tế và thực tế áp dụng tại chi nhánh công ty Thái Bình Dương. Mặc dù em đã cố gắng học hỏi, nhưng do kiến thức có hạn nên không tránh khỏi còn có nhiều thiếu sót, mong các thầy cô và các bạn góp ý để việc nghiên cứu đề tài này của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Nội dung Chương I: Pháp lý về hợp đồng kinh tế Những vấn đề lý luận về hợp đồng kinh tế. Khái niệm chung về hợp đồng. Khái niệm: Hợp dồng là sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên bình đẳng với nhau làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong quá trình thực hiện một công việc hay một giao dịch nhất định. Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội. Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng của Nhà nước trong xây dựng và phát triển đời sống xã hội , nó làm cho lợi ích của mỗi cá nhân, tập thể phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội. Nó xác lập và gắn chật mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, đơn vị, tạo nên sự bình đẳng về mặt pháp lý trong đời sống xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên ký kết, giúp đỡ các bên xây dựng kế hoạch một cách vững chắc, kế hoạch ấy chỉ trở thành phương án thực hiện khi nó được bảo đảm bằng những cam kết hợp đồng. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cụ thể đó chính là việc thực hiện từng phần kế hoạch. Trong pháp luật nước ta qui định gồm nhiều loại hợp đồng tồn tại thuộc lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau như: Hợp đồng dân sự, Hợp đồng kinh tế, Hợp đồng mua bán ngoại thương, Hợp đồng liên doanh, Hợp đồng hợp tác liên doanh, Hợp đồng lao động. Khái niệm về hợp đồng kinh tế: a. Lịch sử phát triển của hợp đồng kinh tế.: Thời kỳ này kéo dài từ năm 1954 đến năm 1989 là thời kỳ đánh dắu các bước phát triển của pháp luật về hợp đồng kinh tế, đặc biệt là 3 văn bản sau: - Điều lệ tạm thời về Hợp đồng kinh doanh ban hành kèm theo NĐ 735/TTg (10/4/1957) ; - Điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT ban hành kèm theo NĐ04/TTg (4/1/1960) ; - Điều lệ về chế độ HĐKT ban hành kèm theo nghị định 54/CP (10/3/1975). ở nước ta có thể nói : Bản pháp luật đầu tiên đề cập đến HĐKT đó là sắc lệnh 97 - Sắc lệnh ngày 22/05/1950 của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành sửa đổi về dân sự, xoá bỏ tuyệt đối hoá quyền dân sự tư nhân. Điều 12 sắc lệnh này qui định “ khi lập khế ước mà có sự tổn thất do bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế “ của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô luận”. Vào cuối năm 1950 nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế quốc doanh tuy giữ vai trò chủ đạo nhưng chưa lớn mạnh, kinh tế tập thể còn yếu. Kinh tế tư bản còn ở trình độ thấp, kinh tế công - nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn rất rộng lớn. Kinh tế tư bản và tư doanh vẫn còn tồn tại để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Chính phủ đã ban hanh điều lệ tạm thời về HĐKT kinhh doanh số 735TTg 10/4/1957. Theo điều lệ này, HĐKT được ký kết nhằm mục đích phát triển kinh doanh công thương nghiệp góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước trên nguyên tắc tự nguyện hai bên cùng có lợi và có lợi cho phát triển kinh tế quốc dân. Đến hiến pháp năm 1959 đã xác định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Đại hội lần thứ III của Đảng cũng thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965 để xây dựng công nghiệp hoá. Bắt đầu công cuộc cải tạo các thành phần kinh tế TBTN đã cơ bản hoàn thành kinh tế cá thể trong Nhà nước, đã chuyển hoá dần thành kinh tế tập thể thông qua phong trào hệ thống hoá Nhà nước, nền kinh tế chỉ còn lại hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Điều lệ tạm thời về HĐKT với nguyên tắc ký kết hợp đồng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện đó không còn phù hợp nữa. Trong bối cảnh đố, Thủ tướng chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT kèm theo nghị định 04TTg ngày 4/1/1960 HĐKT được xây dung trên cơ sở kế hoạch Nhà nước, nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Chủ thể HĐKT bị hạn chế chỉ trong phạm vi các tổ chức kinh tế quốc doanh và các cơ quan Nhà nước, trong đó đại diện các cơ quan Nhà nước được ký hợp đồng dài hạn mang tính nguyên tắc, đại diện tổ chức kinh tế quốc doanh ký HĐKT ngắn hạn cụ thể. Điều này thể hiện một cơ chế quản lý chủ yếu theo chiến lệnh: chỉ huy trên xuống, báo cáo dưới lên, lãi nộp ngân sách, lỗ xin trên. Lần đầu tiên khái niệm hợp đồng kinh tế được sử dụng trong bản điều lệ này có thể coi là thời điểm ra đời của HĐKT ở nước ta. Mặc dù có tên gọi điều lệ tạm thời, nhưng bản điều lệ này cũng đã được sử dụng trong 15 năm từ 1960 đến 1975, trong suốt thời gian đó chúng ta ở trong điều kiện chiến tranh, không tập trung vào việc xây dựng và hệ thống hoà pháp luật. Điều lệ về chế độ HĐKT ban hành kèm theo Nghị định 54/CP - 10/3/1975. ở giai đoạn này HĐKT đã trở thành công cụ pháp lý chủ yếu của Nhà nước để quản lý nền kinh tế. Việc ký kêt hợp đồng kinh tế đã trở thành bắt buộc, là kỷ luật của Nhà nước, tính bắt buộc này là do tính pháp luật của Nhà nước qui định việc thay đổi chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước. Vì vậy, các phạm vi HĐKT đều bị sử lý hết sức nghiêm khắc. Từ các đặc điểm trên ta thấy HĐKT trong giai đoạn này mang tính kế hoạch, hành chính, tập trung bao cấp rõ nét. Pháp lệnh về HĐKT do Hội đồng Nhà nước (nay là UBTVQH) thông qua ngày 25/9/1989 của Hiệu lực 29/9/1989. Nhà nước đã ban hành pháp lệnh HĐKT ở nước ta, nó đã thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới quản lý kinh tế của Đảng, trả lại giá trị đích thực của HĐKT với tư cách là sự thống nhất ý chí của các bên. Pháp lệnh HĐKT và các văn bản pháp lý cụ thể hoá các pháp lệnh đã tạo thành hệ thống các qui phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ HĐKT trong cơ chế kinh tế mới hiện nay. b. Khái niệm hợp đồng kinh tế : Theo điều 1 pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 thì hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, hay tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản suất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh và thực hiện kế hoạch của mình. 3. Đặc điểm hợp đồng kinh tế: - Về nội dung: Hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh. Đó là nội dung thực hiện các công việc sản suất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác do chủ thể tiến hành trong một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình tái sản suất, từ khi đầu tư vốn đến khi tiêu thụ sản phẩm hoặc hoàn thành dịch vụ nhằm sinh lợi hợp pháp. - Về chủ thể hợp đồng: Theo diều 2 pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, hay pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật và phải ký kết trong phạm vi nghề nghiệp kinh doanh đã đăng ký. Ngoài ra, pháp lệnh còn qui định những người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, các tổ chức và cá nhân nước ngoài ở Việt Nam cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế khi họ ký kết hợp đồng với một pháp nhân. - Về hình thức: Hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản. Đó là bản hợp đồng hay các tài liệu giao dịch mang tính văn bản có chữ ký của các bên xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận như công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận… Hợp đồng kinh tế còn mang tính kế hoạch và phản ánh mối quan hệ giữa kế hoạch với thị trường. Hợp đồng kinh tế được ký kết dựa trên định hướng kế hoạch của Nhà nước, nhằm các việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của các đơn vị kinh tế. Trong đó có những hợp đồng kinh tế mà việc ký kết và thực hiện nó phải hoàn toàn tuân theo các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước. Trong cơ chế quản lý theo phương pháp kế hoạch hoá tâp trung thì tính kế hoạch là đặc tính số một của hợp đồng kinh tế. Những đặc điểm của hợp đồng kinh tế giúp ta phân biệt hợp đồng kinh tế và các loại hợp đồng khác như Hợp đồng dân sự, Hợp đồng ngoại thương, Hợp đồng lao động… II. Ký kết hợp đồng kinh tế: Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế: Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế là những tư tưởng chỉ đạo, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Điều 3 pháp lệnh hợp đồng kinh tế. a. Nguyên tắc tự nguyện: Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn tự do ý chí, tự nguyện trong việc thoả thuận, bày tỏ ý chí và thống nhất ý chí nhằm đạt tới mục đích nhất định. Các bên có quyền tự do lựa chọn bạn hàng, thời điểm ký kết và các nội dung ký kết. Mọi sự tác động làm tính tự nguyện của các bên trong quá trình ký kết như bị cưỡng bức, lừa đảo, nhầm lẫn… đều làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế. Nguyên tắc này thể hiện quyền tự chủ trong tự do ký kết HĐKT của các chủ thể kinh doanh được Nhà nước đảm bảo. Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế, quyền này phải gắn lion với những điều kiện nhất định, đó là: - Không được phép lợi dụng ký kết HĐKT để hoạt động trái pháp luật. - Đối với các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất kinh doanh trong các thành phần kinh tế thuộc độc quyền của Nhà nước thì không được lợi dụng quyền ký kết hợp đồng kinh tế để đòi hỏi những điều kiện bất bình đẳng, ép buộc, cửa quyền, hoặc vì không đạt được những đòi hỏi bất bình đẳng đó. - Quyền ký kết HĐKT của các đơn vị kinh tế còn được thể hiện qua việc các dơn vị kinh tế có quyền từ chối mọi sự áp đặt của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc ký kết HĐKT. Nguyên tắc tự nguyện trong ký kết HĐKT đánh dấu bước đổi mới căn bản trong chế độ HĐKT của Nhà nước ta, được ghi nhận trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi Nguyên tắc này là khi ký kết HĐKT, các chủ thể phải đảm bảo trong nội dung của hợp đồng có sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ nhằm đáp ứng lợi ích kinh tế của mỗi bên. Bất kể các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý, khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, cũng có lợi trên cơ sở thoả thuận và phải chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Không thể có một HĐKT nào chỉ mang lại lợi ích cho một bên hoặc một bên chỉ có quyền còn bên kia chỉ có nghĩa vụ. Một hợp đồng kinh tế đã được ký kết vi phạm nguyên tắc bình đẳng thì sẽ ảnh ưởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế đó. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật: Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản là các bên tham gia quan hệ HĐKT phải dùng chính tài sản của đơn vị mình để đảm bảo việc ký kết và thực hiện HĐKT. Tuy nhiên, một chủ thể có thể ký kết hợp đồng kinh tế trong trường hợp được một chủ thể khác đứng ra bảo lãnh về tài sản. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện HĐKT và việc bảo vệ trật quản lý kinh tế của Nhà nước. Một hợp đồng kinh tế chỉ có thể thực hiện một cách nghiêm chỉnh khi nó không tráI pháp luật và các bên có khả năng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Căn cứ để ký hợp đồng kinh tế. Định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực kinh tế, kỹ thuật hiện hành. Đối với mỗi đơn vị kinh tế, ký kết hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây dựng kế hoạch và là công cụ để thực hiện kế hoạch của mình. Kế hoạch của mỗi đơn vị kinh tế được xây dựng căn cứ vào định hướng kế hoạch của Nhà nước, do đó việc ký kết các HĐKT cũng phải căn cứ vào định hướng kế hoạch của Nhà nước. Ngoài ra, để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong việc xây dựng nội dung của HDDKT, khi ký kết hợp đồng các chủ thể cũng phải căn cứ vào các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng: Hợp đồng kinh tế phản ánh mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, on lôn gắn liền với sự vận động của thị trường, của quan hệ cung cầu. Vì vậy, trong việc ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể luôn luôn căn cứ vào nhu cầu của thị trường bao gồm các khả năng cung cấp hàng háo, dịch vụ và nhu cầu cần đáp ứng về hàng hoá, dịch vụ của mình và của bạn hàng. Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động của các chủ thể ký kết: Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế là những khả năng thực tế về tiền vốn, vật tư, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chức năng hoạt động là phạm vi ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà đơn vị đó được tiến hành hoạt động. Việc ký kết hợp đồng kinh tế không thể bỏ qua được căn cứ này bởi vì nó đảm bảo khả năng thực tế của việc thực hiện hợp đồng, đồng thởi đảm bảo tính cân đối giữa khả năng và nhu cầu, giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa giá trị và hiện vật. Tính hợp pháp của hoạt động sản xuát kinh doanh và khả năng đảm bảo tài sản của các bên ký kết hợp đồng: Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, các đơn vị kinh tếư phảI căn cứ vào những qui định của pháp luật, những yêu cầu khách quan và khả năng chủ quan để xác lập mối quan hệ kinh tế một cách hợp pháp, có đầy đủ điều kiện để thực hiện nhằm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho đơn vị mình và cho xã hội. 3. Thẩm quyền ký kết hợp đồng. Theo điều 2 pháp lệnh HĐKT, hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây: - Pháp nhân với pháp nhân. - Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Pháp nhân là một tổ chức có đầy đủ điều kiện sau đây: - Có tài sản riêng và chịu trách nhiệm độc lập bằng các tài sản đó. - Tự nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật, có thể trở thành nguyên đơn, bị đơn trước toà án. - Tồn tại độc lập và được pháp luật công nhận là một tổ chức độc lập. - Cá nhân có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật, là người đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo đúng thủ tục pháp luật qui định và đã được cấp giấy phép kinh doanh. Ngoài ra, theo qui định tại Điều 42, Điều 43 Pháp lệnh HĐKT, những người làm khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, tổ chức và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam cũng được áp dụng các qui định của pháp lệnh HĐKT. Khi tiến hành ký kết HĐKT, mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng chỉ cần cử một đại diện để ký vào HĐKT. Nếu là pháp nhân thì ngơừi ký kết hợp đồng phải là người được bổ nhiệm hoặc đang giữ chức vụ đó. Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật thì người ký hợp đồng phải là người đứng tên trong giấy phép kinh doanh. Trong tất cả trường hợp, hợp đồng kinh tế không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký vào bản HĐKT, đây là điểm khác biệt so với qui định trong điều lệ về chế độ HĐKT ban hành theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975. Trong trường hợp một bên là người làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký kết hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng. Khi một bên là hộ kinh tế gia đình nông dân, ngư dân cá thể thì đại diện ký HĐKT phải là chủ hộ. Quy định trên đây có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc vì nó vừa giúp cho các đơn vị kinh tế có thể linh hoạt trong việc ký kết và thực hiện HĐKT lại vừa ràng buộc trách nhiệm theo nguyên tắc “chịu trách nhiệm cá nhân”. III. Phân tích những điều khoản của hợp đồng kinh tế. Theo qui định tại điều 12 Pháp lệnh HĐKT thì nội dung của HĐKT bao gồm những điều khoản cụ thể sau: 1. Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh tế. - Tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên. - Họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh. 2. Điều khoản đối tượng của hợp đồng. Tức là các bên trao đổi mua bán, giao dịch về cái gì…? công việc gi…? Đối tượng của hợp đồng tính bằng khối lượng, số lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận. 3. Điều khoản chất lượng. Tức là sự qui định thể hiện những đặc điểm, tính cách, … của đối tượng hợp đồng, các bên phải thoả thuận cụ thể về chủng loại, quy cách, cách tính, tính đồng bộ, mẫu mã, tiêu chuẩn… của sản phẩm, hàng hoá hoặc những yêu cầu ký thuật của công việc giao dịch giữa các bên. 4. Điều khoản giá cả. Các bên có thể thoả thuận xác định đơn giá, hoặc giá trị của toàn bộ công việc, thoả thuận những nguyên tắc xác định rõ giá cả… 5. Điều khoản bảo hành. 6. Điều khoản nghiệm thu, giao nhận. Các bên thoả thuận đặt ra các điều kiện để giao nhận sản phẩm, hàng hoá, điều kiện nghiệm thu đối tượng của hợp đồng. 7. Điều khoản phương thức thanh toán. Các bên được quyền lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, nhưng không trái với qui định của pháp luật hiện hành. 8. Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế. Các bên được thoả thuận trong khung phạt do pháp luật qui định đối với hành vi vi phạm HĐKT, đối với từng chủng loại HĐKT. 9. Điều khoản thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. 10. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng như: Thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài sản theo qui định của pháp luật. 11. Các bên có quyền xây dựng những điều khoản thể hiện sự thoả thuận về các vấn đề khác, không trái qui định của pháp luật. Về phương diện pháp lý, căn cứ vào tính chất, vai trò của các điều khoản, nội dung của HĐKT được xác định thành ba loại với các điều khoản sau: - Điều khoản chủ yếu: là những điều khoản cơ bản, quan trọng nhất của một hợp đồng bắt buộc phải có trong bất cứ một hợp đồng kinh tế nào, nếu không thì hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý. Ngoài ra, hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các bên về việc thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh doanh. Do đó, nội dung của HĐKT trước hết là những điều khoản do các bên thoả thuận. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước vẫn có quyền can thiệp vào nội dung của quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn buộc các bên ký kết hợp đồng phải tuân theo những qui định bắt buộc về chất lượng sản phẩm để đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. - Điều khoản thường lệ: là những điều khoản đã được pháp luật ghi nhận, nếu các bên không ghi vào các văn bản hợp đồng thì coi như các bên đã mặc nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực hiện những qui định đó, nếu các bên thoả thuận ghi vào văn bản hợp đồng thì không được ghi trái với những điều đã qui định đó, nếu thoả thuận trái pháp luật thì những thoả thuận đó không có giá trị. Trong mối quan hệ giữa các điều khoản chủ yếu và điều khoản thường lệ của hợp đồng kinh tế thì sự tồn tại của HĐKT không phụ thuộc vào các điều khoản thường lệ mà chỉ phụ thuộc vào các điều khoản chủ yếu. Hai bên không thoả thuận về những điều khoản thường lệ thì HĐKT vẫn cứ hình thành và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. - Điều khoản tuỳ nghi: là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi pháp luật cho phép. Khi một quy phạm pháp luật qui định các bên có thoả thuận về vấn đề này hay vấn đề khác thì các bên có thể thoả thuận hoặc không thoả thuận, nếu các bên thoả thuận đó là nội dung của hợp đồng các bên phải có trách nhiệm thực hiện. Theo pháp luật về HĐKT của nước ta hiện nay thì những thoả thuận về biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng ( cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh tàI sản…) là những điều khoản tuỳ nghi. Những điều khoản này chỉ trở thành nội dung hợp đồng nếu các bên trực tiếp thoả thuận với nhau. Tóm lai: các điều khoản của hợp đồng là do các bên thoả thuận, pháp luật không hạn chế các điều khoản mà các bên thoả thuận, miễn là những thoả thuận đó không phảI là trái pháp luật. Pháp luật chỉ qui định những điều khoản tối thiểu phải có để chứng tỏ giữa các bên có quan hệ hợp đồng, những điều khoản tối thiểu đó là những điều khoản chủ yếu trong hợp đồng. IV. Thủ tục ký kết hợp đồng. Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký trực tiếp: Là cách ký đơn giản, hợp đồng kinh tế được hình thành một cách nhanh chóng. Khi ký kết bằng cách này, đại diện hợp pháp của các bên trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận, thống nhất ý chí để xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký vào bản hợp đồng. Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký gián tiếp: Là cách ký kết mà trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau các tài liệu giao dịch (công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng…) chứa đựng nội dung cần giao dịch. Việc ký kết HĐKT bằng phương pháp ký gián tiếp đò hỏi phải tuân theo trình tự nhất định: - Một bên lập dự thảo (đề nghị) hợp đồng trong đó đưa ra những yêu cầu về nội dung giao dịch (tên hàng hoặc nội dung công việc, số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận, thời hạn thanh toán… và gửi cho bên kia). - Bên nhận được đề nghị tiến hành trả lời cho bên đề nghị hợp đồng bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung chấp nhận, nội dung không chấp nhận, những đề nghị bổ sung… Dù ký kết bằng phương pháp trực tiếp hay gián tiếp, những hợp đồng kinh tế được hình thành đều có hiệu lực pháp lý như nhau và các bên đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã cam kết. Để cho hợp đồng kinh tế có hiệu lực, việc thoả thuận của các bên phải đảm bảo những điều kiện sau: + Nội dung thoả thuận không vi phạm pháp luật. + Phải đảm bảo điều kiện chủ thể của hợp đồng. + Đại diện ký kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền. Nếu không đảm bảo một trong các điều kiện này, hợp đồng sẽ trở thành vô hiệu. Mỗi cách ký kết đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó, lựa chọn cách nào là quyền của các chủ thể ký kết. Song, việc lựa chọn luôn luôn phải tính đến hiệu quả kinh tế, thời cơ kinh doanh. Các chủ thể cũng có thể kết hợp cả hai phương pháp ký kết để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế. V. Thực hiện hợp đồng kinh tế. 1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng kinh tế. Để cho hợp đồng kinh tế được thực hiện một cách đầy đủ và đúng đòi hỏi, các bên phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: - Nguyên tắc chấp hành hiện thực: là chấp hành đúng đối tượng hợp đồng, không được tự ý thay đổi đối tượng này bằng một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc thực hiện nó. Nguyên tắc này đòi hỏi thoả thuận cái gì thì thực hiện cái đó. - Nguyên tắc chấp hành đúng: là đòi hỏi các bên thực hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ, đúng đắn, chính xác, cam kết không phân biệt điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ hay điều khoản tuỳ nghi. Nếu vi phạm bất cứ cam kết nào trong hợp đồng phải chịu trách nhiệm cho hành vi đó. - Nguyên tắc hợp tác: tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở hai bên cùng có lợi, các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế phải hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi giúp đỡ lẫn nhau để khắc phục khó khăn nhằm thực nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết và ngay cả khi có tranh chấp, các bên cũng phải áp dụng phương pháp này thông qua việc thương thuyết giải quyết hậu quả của việc vi phạm hợp đồng kinh tế. 2. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Pháp lệnh HĐKT ngày 25/9/1989 Nghị định số 17/ HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng bộ trưởng qui định chi tiết thi hành pháp lệnh về HĐKT có nêu ra các biện bảo đảm thực hiện hợp đồng: thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh tài sản. Đây là những biện pháp bảo đảm mang tính chất kinh tế thường được chủ thể áp dụng. Thế chấp tài sản: là dùng số động sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản khác thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo tài sản cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc thế chấp tài sản phải được thành lập văn bản và phải có sự xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (Trường hợp không có cơ quan công chứng). Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không được chuyển dịnh sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong văn bản thế chấp còn hiệu lực. Cầm cố tài sản: là trao đổi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người cùng quan hệ HĐKT để làm tin và bảo đản tài sản trong trường hợp vi phạm HĐKT đã kí kết. Việc cầm cố phải thành lập văn bản riêng có chữ ký của các bên, có sự xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như trường hợp thế chấp tài sản. Bảo lãnh tài sản: là sự bảo đảm bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm HĐKT đã ký kết. Người nhận bảo lãnh phải có tài sản không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản phải được làm thành văn bản, có sự xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh. Việc sử lý các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi có vi phạm HĐKT được thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp HĐKT tại cơ quan có thẩm quyển. Đó là tòa án kinh tế hoặc các trung tâm trọng tài kinh tế phi Chính phủ. 3. Thay đổi đỉnh chỉ thanh lý hợp đồng kinh tế: - Thay đổi hợp đồng kinh tế : là việc sửa đổi, bổ sung một số điểm của nội dung của HĐKT cho phù hợp với nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh của các bên hoặc là sự thay đổi chủ thể hợp đồng. Khi có sự chuyển giao một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh từ một chủ thể hợp đồng kinh tế sang một pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh. - Đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế: là sự chấm dứt nửa chừng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong HĐKT. Khi một bên vi phạm HĐKT và đã thừa nhận sự vi phạm đó hoặc đã được cơ quan, tổ chức, tòa án có thẩm quyền kết luận là có vi phạm, bên bị vị phạm có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng kinh tế đó, nếu việc tiếp tục thực hiện HĐKT không có lợi cho mình. Hợp đồng kinh tế có thể bị hủy bỏ khi các bên thỏa thuận với nhau bằng văn bản. - Thanh lý hợp đồng kinh tế : là hành vi của chủ thể HĐKT nhằm kết thúc quan hệ HĐKT. Để đạt được mục đích đó, trong quá trình thanh lý HĐKT các bên phải gặp nhau giải quyết những tồn đọng, đánh giá những kết quả đạt được hoặc chưa đạt được để xác định quyền và nghĩa vụ các bên, thanh lý hợp đồng vừa là nghĩa vụ vừa là quyền của các bên. 4. Hợp đồng kin tế vô hiệu và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu : a. Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ: - Nội dung của HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật. Ví dụ: Các bên thỏa thuận sản xuất, tiêu thụ hàng giả, mua bán vận chuyện hàng cấm… Không đảm bảo tư cách chủ thể của quan hệ hợp đồng, một trong các bên đã ký kết hợp đồng không có giấy phép đăng ký kinh doanh, theo qui định của pháp luật để thực hiện công việc đó đỏi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh mà một trong các bên không có kinh doanh thì hợp đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Người ký kết thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện hợp pháp, không phải là người được ủy quyền hoặc được ủy quyển nhưng vượt quá phạm vi ủy quyển đó. Khi người ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó được coi là vô hiệu toàn bộ. b. Theo khoản 2 Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định : “Hợp đồng kinh tế coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm điều cấm của luật, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần còn lại của hợp đồng”. - Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng đó ký kết trái với qui định của pháp luật. Đối tác HĐKT vô hiệu toàn bộ, dù các bên chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều bị xử lý theo qui định của pháp luật. - Nếu nội dung của hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện được nữa. - Nếu nội dung của hợp đồng đang thực hiện hoặc đã thực hiện thì bị xử lý tài sản như sau; các bên phải hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng; thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng thì phải nộp vào ngân sách nhà nước, thiệt hại phát sinh thì các bên phải gánh chịu. - Người ký kết HĐKT vô hiệu toàn bộ thì tùy theo mức độ vi phạm và bị xử lý kỷ luật, xử phát hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự qui định của pháp luật. - Trường hợp HĐKT bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi các điều khoản pháp luật, khôi phục các quyền và các lợi ích ban đầu và bị xử lý theo pháp luật đối với phần vô hiệu đó. CHương II: áp dụng hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty tháI bình dương I . Giới thiệu chung về công ty Thái Bình Dương: Công ty Thái Bình Dương được thành lập theo quyết định số 305/QĐ - BVN (H11) ngày 19/7/1993 của Bộ nội vụ (nay là Bộ công an). Chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 10285 cấp ngày 28/7/1993 của trọng tài kinh tế TP Hồ Chí Minh. Công ty Thái Bình Dương là doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản và con dấu riêng để giao dịch, có điều lệ tổ chức và hoạt động, có bộ máy quản ký điều hành. Công ty tuân thủ các chính sách và pháp luật Nhà nước Việt Nam, chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình, chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ nội vụ. phạm vi hoạt động trên cả nước. Công ty có tên giao dịch quốc tế là: PACIFIC COMPANY. Trụ sở chính : 18 Phạm Ngọc Thạch Quận 3- Thành Phố Hồ Chí Minh Chi nhánh : 37 Đường Giảng Võ - Bà Trưng - Hà Nội và chi nhánh tại Đã Nẵng Vốn kinh doanh (1- 8 -1993): 41 417 488 398 đ Trong đó : - Vốn ngân sách: 39 168 146 265 đ - Vốn tự bổ sung: 2 249 342 133 đ Công ty có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, được quyền liên doanh liên kết, ký kết HĐKT trong và ngoài nước. - Hoạt động chủ yếu của công ty là kinh doanh các mặt hàng như bán buôn hàng tư liệu sản xuất (thiết bị điện tử viên thông,văn phòng…). Thiết bị phòng cháy chữa cháy, vật liệu xây dựng. Chi nhánh công ty có khả năng đảm nhận xây dựng các công trình xây dựng và công nghiệp, xây dựng nền mó._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0102.doc
Tài liệu liên quan