Vấn đề giới trong lĩnh vực lao động, việc làm ở vùng nông nghiệp huyện Thái Thụy - Thái Bình

đặt vấn đề Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam có vai trò to lớn trong lịch sử dân tộc. Họ đã đóng góp sức mình trong mọi lĩnh vực : chiến đấu, lao động sản xuất, sáng tạo và phát triển văn hoá. Đặc biệt trong lĩnh vực lao động sản xuất, lịch sử đã chứng minh phụ nữ Việt Nam không những chiến đấu tài giỏi mà còn là lực lượng lao động to lớn của xã hội. Trong điều kiện luôn có giặc ngoại xâm đe doạ và thiên tai khắc nghiệt đã hình thành đức tính cần cù, chịu khó trong l

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề giới trong lĩnh vực lao động, việc làm ở vùng nông nghiệp huyện Thái Thụy - Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao động, sản xuất của phụ nữ Việt Nam. Khi đất nước có chiến tranh, phụ nữ Việt Nam phải lao động để đảm bảo cuộc sống cho toàn gia đình và đóng góp cho xã hội, phụ nữ giữ vai trò trụ cột trong lao động “một nắng hai sương”, trở thành người lao động chủ yếu trong gia đình, đảm đang, tần tảo, chung thuỷ trong cuộc sống gia đình. Phụ nữ Việt Nam còn tham gia công việc xã hội : tổ chức lao động các ngành nghề thủ công, lo việc tiếp tế lương thực, thực phẩm ra mặt trận. Lịch sử thời kỳ phong kiến đã ghi nhận những tài năng tham gia quản lý xã hội tiêu biểu như Thái hậu Dương Vân Nga (thời Đinh) ; Nhiếp chính ỷ Lan (thời Lý) ; Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung (thời Trần)... Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ kéo dài suốt 30 năm của dân tộc đã ghi công hàng nghìn, hàng triệu các bà, các mẹ, các chị. Họ đã vững tay súng, chắc tay cày, trở thành những anh hùng lao động, những phụ nữ tiêu biểu trong phong trào “ba đảm đang”. Luôn đảm bảo “thóc không thiếu một cân” cùng quân dân cả nước chiến thắng kẻ thù. Hoà bình lập lại, phụ nữ Việt Nam sôi nổi trong phong trào “Hai giỏi” cùng cả nước hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng, phát triển đất nước. Trong hơn mười năm đổi mới vừa qua, vai trò và những đóng góp to lớn của phụ nữ trong lao động, sản xuất, phát triển kinh tế đất nước càng được khẳng định. Chiếm 51% dân số cả nước, 48% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ Việt Nam chính là lực lượng lao động hùng hậu, góp phần vào sự tăng trưởng của đất nước. Ngày nay phụ nữ Việt Nam đang phấn đấu khẳng định vị trí của mình, tham gia đóng góp ngày càng nhiều trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên trong khu vực nông nghiệp, phụ nữ so với nam giới gặp rất nhiều khó khăn như thời gian lao động nhiều gấp đôi nhưng lao động của phụ nữ phần lớn là không được trả công ; phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp thường là lao động chính nhưng lại ít được tiếp cận với đào tạo, tập huấn, chuyển giao KHKT hay kiểm soát, tiếp cận nguồn lực chủ yếu. Điều đó đòi hỏi cần tiếp tục cải tiến chính sách việc làm và các chính sách hỗ trợ cần thiết cho lao động nữ nhằm đảm bảo cho lao động nữ có cơ hội có việc làm, tiến tới có việc làm đầy đủ, việc làm có hiệu quả và tự do lựa chọn việc làm. Thực tế lao động nữ vùng nông nghiệp của huyện Thái Thụy – Tỉnh Thái Bình càng chứng minh rõ còn khoảng cách giữa lao động nữ và lao động nam. Thái Thụy là một huyện thuần nông, phụ nữ chiếm 52% dân số, 51% lực lượng lao động nông nghiệp. Vấn đề bất bình đẳng giới trong lao động, việc làm đang nổi lên là một vấn đề bức xúc. Với giới hạn kiến thức của bản thân, trong bài tiểu luận này tôi chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nhỏ về “Vấn đề giới trong lĩnh vực lao động, việc làm ở vùng nông nghiệp huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình”. Thông qua nhận thức lý luận vừa học ở nhà trường kết hợp với thực tiễn công tác địa phương, đặc biệt với sự hướng dẫn trực tiếp của Thạc sĩ Đới Thị Minh Tình tôi xin mạnh dạn đề cập đến lĩnh vực này. Với mong muốn góp một phần nhỏ vào công tác đề xuất, kiến nghị một số giải pháp với Đảng bộ, chính quyền địa phương nhằm giải quyết những bất bình đẳng giới đang tồn tại trong lao động, việc làm ; góp phần nâng cao địa vị, vai trò của người phụ nữ. Với sự hiểu biết có hạn nên trong quá trình thực hiện chắc chắn còn có nhiều hạn chế. Kính mong các thấy cô đóng góp ý kiến cho bài viết có chất lượng hơn. Nội dung I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề 1. Cơ sở lý luận : Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam có vai trò quan trọng và có những cống hiến to lớn tạo nên truyền thống vẻ vang của dân tộc đồng thời tạo nên truyền thống tốt đẹp của mình : anh hùng bất khuất trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cần cù chịu khó trong lao động, sản xuất. Những truyền thống tốt đẹp đó luôn được hun đúc qua các thế hệ, trong nhiều thế kỷ vẫn tiếp tục được kế thừa, phát huy và thể hiện mạnh mẽ từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta coi trọng vai trò và những đóng góp to lớn của phụ nữ. Ngay từ Luận cương chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định "nam nữ bình quyền". Trải qua những giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta vẫn nhất quán quan điểm bình đẳng nam nữ, nhất là trong lĩnh vực lao động, việc làm. Quan điểm này đã được khẳng định khi Việt Nam chính thức phê chuẩn công ước CEDAW của Liên Hiệp Quốc về "Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ" vào ngày 27/11/1981. Công ước gồm có 6 phần 30 điều trong đó có những quy định cơ bản về chống phân biệt đối xử, chống mua bán bóc lột phụ nữ, phụ nữ với vấn đề giáo dục, phúc lợi kinh tế, xã hội và văn hoá …. Đặc biệt trong phần III Công ước có Điều 11 quy định về vấn đề việc làm. “Các nước tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực việt làm nhằm đảm bảo những quyền như nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ, đặc biệt là : Quyền được làm việc – một quyền không thể chối bỏ của con người ; Quyền hưởng các cơ hội có việc làm như nhau, kể cả việc áp dụng những tiêu chuẩn như nhau khi chọn người làm việc; Quyền tự do lựa chọn ngành nghề và việc làm, quyền được thăng chức, bảo đảm việc làm và mọi phúc lợi và điều kiện làm việc và quyền được theo học những chương trình đào tạo và bổ túc nghiệp vụ, kể cả các lớp dạy nghề, các lớp nghiệp vụ cao cấp và lớp đào tạo định kỳ; Quyền được thù lao như nhau, kể cả hưởng các phúc lợi, và được đối xử như nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau, cũng như được đối xử nhau trong trong việc đánh giá chất lượng công việc; Quyền được hưởng bảo hiểm xã hội, đặc biệt trong các trường hợp về hưu, thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các tình trạng mất khả năng lao động khác, cũng như quyền được nghỉ phép có hưởng lương; Quyền được bảo vệ sức khoẻ và bảo đảm an toàn lao động, kể cả bảo vệ chức năng sinh đẻ.” [10 ; tr 21] Ngoài việc tham gia ký Công ước CEDAW Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hoá quan điểm này trong hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam, từ đó tạo cơ sở pháp lý để phụ nữ vươn lên tự khẳng định mình, đóng góp cho công cuộc phát triển đất nước. Hiến pháp 1992 khẳng định “ lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân (Điều 55và “Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau ...” (Điều 63).[11 ; tr 30, 32] Năm 1994, Bộ luật lao động ra đời khẳng định trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc mở rộng các loại hình đào tạo nghề, để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc điểm về cơ thể sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ. Điều 5 Bộ luật khẳng định "Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo". Đặc biệt Bộ luật lao động dành chương X gồm 10 điều quy định riêng về lao động nữ. Nội dung chính : Nhà nước đảm bảo quyền làm việc cho phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách và biện pháp giúp lao động nữ phát huy năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà lao động và cuộc sống gia đình. Sau Bộ luật lao động đã có trên 10 văn bản hướng dẫn việc đảm bảo quyền làm việc của phụ nữ : Nghị định số 23/CP năm 1996 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về những quy định riêng đối với lao động nữ. Nghị định 72/CP năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về việc làm của lao động nữ. Nghị quyết 120/HĐBT ngày 1/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm trong những năm tới. Nghị định 90/CP năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết về hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về học nghề. Thông tư 19/LĐTBXH/TT ngày 12/9/1996 của Bộ lao động - thương binh và xã hội hướng dẫn việc dạy nghề, đạo tạo nghề, bổ túc, bồi dưỡng nghề và dạy thêm nghề dự phòng cho lao động nữ làm việc trong doanh nghiệp. Tất cả những điều đó nói lên quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước về vấn đề đánh giá, nhận định, xem xét lực lượng lao động nữ ở Việt Nam có nhiều tiến bộ. 2. Thực tiễn vấn đề giới trong lao động, việc làm ở Việt Nam. 2 .1 Khoảng cách giới còn tồn tại trong lao động, việc làm của lao động nữ. Có thể nói với hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh và những quy định xuất phát từ quan điểm bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực đã thực sự tạo điều kiện cho phụ nữ vươn lên, tham gia ngày một đông đảo hơn vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy khoảng cách về giới trong lao động và việc làm còn tồn tại rõ nét. Điều đó đang kéo lùi, kìm hãm sự phát triển của phụ nữ và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển đất nước. Mặc dù Hiến pháp 1992 tại Điều 63 đã có quy định "Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau" nhưng trên thực tế cùng một loại công việc, lao động nữ luôn có thu nhập thấp hơn nam. Theo báo cáo thực hiện Công ước CEDAW lần thứ II, tỷ lệ lương bình quân của lao động nữ trong toàn quốc chỉ bằng 70% tiền lương bình quân của lao động nam, bởi phụ nữ thường chỉ đảm nhiệm các phần việc giản đơn với trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hơn nam giới. Nhất là phụ nữ lao động trong khu vực phi chính quy và sản xuất nông nghiệp thì thu nhập còn thấp và thiếu ổn định hơn. Trong lĩnh vực đào tạo nghề, nâng cao trình độ và thăng tiến nghề nghiệp, lao động nữ đã qua đào tạo nghề đạt 18% tổng số lao động (số liệu 1998). Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH, kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật thấp đang là vấn đề bức xúc nhất đối với phụ nữ hiện nay, điều đó là cản trở cơ bản để phụ nữ tiếp cận với việc làm và nâng cao thu nhập. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp người phụ nữ phải làm việc trong điều kiện tiếp xúc với : sự thay đổi thất thường của thời tiết, công cụ lao động thủ công là chủ yếu, tiếp xúc với các loại hoá chất, thuốc trừ sâu gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ và chức năng sinh sản, nuôi con của người phụ nữ. 2 .2 Yêu cầu của phong trào phụ nữ. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ với chức năng chính là" Đại diện quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích chính đáng và hợp pháp của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn kết vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa." Thực hiện đường lối đổi mới và chủ trương giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước, trước thực tế bức xúc về đời sống của phụ nữ, hội LHPN Việt Nam đã phát huy vai trò của mình.Chủ động, sáng tạo trong việc đề ra các chương trình hành động thiết thực ; lãnh đạo, vận động phụ nữ cả nước tham gia tích cực vào các hoạt động sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ. Xuất phát từ thực trạng đời sống việc làm liên quan đến phụ nữ : tỷ lệ đói nghèo còn cao (17,2% năm 2002 tương đương 2,8 triệu hộ, tỷ lệ thuần nông còn chiếm tới 62,22%, tình trạng thiếu việc làm còn phổ biến ở khu vực nông thôn, sử dụng thời gian lao động mới đạt 74%)[9 ; tr 57]... Vì vậy vấn đề đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho người lao động nói chung, phụ nữ nói riêng là vấn đcần thiết. Trước thực tế đó, Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã nhất trí thông qua việc đề ra 6 chương trình trọng tâm, trong đó chương trình "Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế" trở thành chương trình mũi nhọn thúc đẩy việc thực hiện có kết quả chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm tăng thu nhập cho phụ nữ. Trong những năm qua, hội LHPN Việt Nam đã tác động, tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy tiềm năng, trí tuệ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, lao động sáng tạo, tham gia bình đẳng vào các lĩnh vực phát triển kinh tế. Các cấp Hội đã hỗ trợ nhiều hoạt động tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ đặc biệt là phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, tàn tật, phụ nữ vùng cao, vùng sâu có nhiều khó khăn nhằm xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho phụ nữ. Đồng thời hội LHPN Việt Nam còn tạo nhiều cơ hội và điều kiện cho phụ nữ lao động, nghiên cứu phát huy sáng kiến áp dụng khoa học công nghệ trong sản xuất. Hướng dẫn các lớp dạy nghề, giới thiệu việc làm nhằm góp phần giải quyết việc làm như chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tại hầu hết các tỉnh thành Trung ương Hội đều có kế hoạch giúp đỡ, tạo điều kiện để thành lập các trung tâm dạy nghề, hỗ trợ khuyến khích phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống, vận động chị em phụ nữ địa phương thành lập và phát triển nhóm phụ nữ tín dụng tiết kiệm. Mặt khác Hội còn mở rộng khai thác các nguồn vốn tín dụng cho phụ nữ từ nguồn vốn trong nước và quốc tế. Hội đã kết hợp chặt chẽ với Ngân hàng người nghèo, quỹ quốc gia về giải quyết việc làm và hướng dẫn phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình dưới mọi hình thức. Có thể nói trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của tổ chức Hội LHPN Việt Nam, phong trào phụ nữ trong cả nước đã lớn mạnh không ngừng, đặc biệt là phong trào phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, đóng góp rất lớn vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế đất nước. Trong nửa cuối nhiệm kỳ này và những năm tiếp theo, Trung ương Hội LHPN Việt Nam tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phong trào "Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình". Đồng thời Hội phát động phong trào "Phụ nữ làm kinh tế giỏi", động viên phụ nữ xoá đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Ngoài sự nỗ lực của bản thân người phụ nữ, sự chỉ đạo sát sao của các cấp Hội thì sự bình đẳng thực sự trong lao động và việc làm là nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Trung ương Hội đã đề ra. 2 .3 Yêu cầu của bản thân người phụ nữ. Đối với lao động nữ, việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng : Việc làm đem lại nguồn thu nhập để nuôi sống cho bản thân người phụ nữ và người thân trong gia đình, thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của họ trong cuộc sống. Việc làm là biểu hiện cụ thể về vị trí của người phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… trong một xã hội của một thời kỳ nhất định. Việc làm là cơ sở để người phụ nữ khẳng định vai trò và khả năng của mình, giúp thúc đẩy nhanh sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giảm định kiến giới, khoảng cách giới và tiến tới bình đẳng giới ; giúp thúc đẩy nhanh quá trình giảm nghèo của người phụ nữ ; giúp mỗi cá nhân người phụ nữ nâng cao vai trò, vị trí của mình trong gia đình và ngoài xã hội, là điều kiện để mỗi cá nhân người phụ nữ phát triển một cách toàn diện nhất. Việc làm của phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng trong tổng thu nhập của gia đình, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". ý nghĩa của việc làm đối với phụ nữ được biểu hiện qua sơ đồ sau : Phụ nữ có việc làm Có thu nhập Trí tuệ Thể chất Phát triển phụ nữ Phát triển con người Phát triển kinh tế Tăng trưởng kinh tế quốc gia Có điều kiện phát triển cá nhân Hơn 10 năm trở lại đây, khi nền kinh tế đất nước chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ hoàn toàn chế độ hạch toán tập trung quan liêu bao cấp thì các giai cấp, thành phần kinh tế trong xã hội đều chịu tác động không nhỏ. Phụ nữ là người chịu ảnh hưởng lớn nhất từ sự chuyển đổi này. Sau những năm khủng hoảng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các ban ngành đoàn thể, của các cấp Hội Phụ nữ, với bản tính cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, dễ thích nghi với cái mới, phụ nữ cả nước đã từng bước vượt qua khó khăn, vươn lên hoà mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Họ đã thực sự nỗ lực và gặt hái thành công trong lĩnh vực tạo ra nhiều việc làm mới từ việc khôi phục, củng cố làng nghề truyền thống ; phát triển trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ ; hỗ trợ lẫn nhau xoá đói giảm nghèo ; phát triển kinh tế địa phương. Phụ nữ từng bước tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù có những đóng góp to lớn trong xã hội, song vai trò và vị trí của người phụ nữ Việt Nam dường như chưa được đánh giá đúng mức. Thách thức đầu tiên phải kể đến là tư tưởng "trọng nam khinh nữ" vốn đã tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam. Đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hàng loạt những định kiến khắt khe về việc làm của người phụ nữ, đang cản trở khiến họ ít có cơ hội khi tìm việc làm và hưởng lợi bình đẳng từ việc làm. Thực tế đó đòi hỏi cần phải xoá bỏ khoảng cách về giới trong tất cả các lĩnh vực nhất là trong việc làm để phụ nữ thực sự được tạo điều kiện để vươn lên, khẳng định vị trí của mình trong gia đình, xã hội, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước. II. thực trạng vấn đề giới trong lao động, việc làm ở vùng nông nghiệp của huyện Thái Thụy : 1. Tình hình lao động, việc làm của lao động nữ ở khu vực nông nghiệp Việt Nam : ở nông thôn Việt Nam, tỷ lệ lao động tham gia hoạt động kinh tế đạt 93%, riêng nữ chỉ đạt 92%. Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế ở nông thôn cũng có sự khác nhau giữa các vùng. Vùng có tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế cao là Trung du miền núi phía Bắc đạt 95,87% ; đồng bằng sông Hồng 94,2%, thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ đạt 84,91%. Điều đó cho thấy phụ nữ đã chủ động tham gia lao động tích cực không kém gì nam giới. Về mặt định lượng, số liệu này thể hiện sự tương đối bình đẳng về quyền lao động theo giới tính. Về mặt cơ cấu có 81,98% lao động động nữ ở nông thôn làm việc trong ngành sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, 30,67% lao động nữ tham gia làm nghề phụ (tỷ lệ chung là 37%), 75% công việc nhà nông do phụ nữ đảm nhận. Cùng với sự phát triển của KHKT, hoạt động sản xuất nông nghiệp dần được cơ khí hoá giảm bớt thời gian lao động cho người phụ nữ nông thôn. Tuy nhiên do sự phát triển của các khu công nghiệp, khu dân cư đất canh tác dần bị thu hẹp nên thời gian nông nhàn còn nhiều. Thực tế 1/3 thời gian lao động chưa được sử dụng. Nạn thiếu việc làm của lao động nói chung và lao động nữ nói riêng hiện nay đang là vấn đề bức xúc. Bên cạnh các khu công nghiệp, khu khai thác nguyên liệu và các thành phố mới ra đời là làn sóng lao động nữ nông thôn tràn ra các thành phố ồ ạt để kiếm sống. Họ làm đủ mọi nghề từ giúp việc gia đình, chăm sóc trẻ nhỏ, phục vụ tại các hàng ăn, bán báo, mua ve chai, bán hàng rong… thậm chí cả các nghề mà pháp luật nghiêm cấm như mại dâm, buôn lậu… Số lao động nữ còn lại ở nông thôn có việc làm thì năng suất và hiệu quả thấp, thu nhập kém. Một bộ phận không nhỏ rơi vào tình trạng đói nghèo mà trong đó 29% chủ hộ đói nghèo là nữ. Theo số liệu điều tra kinh tế - xã hội của Viện kinh tế học năm 1996 trên 4.000 hộ của 25 xã của các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ thì mỗi xã trung bình có từ 170 - 200 lao động chưa có việc làm và khoảng 650 - 700 lao động chưa có việc làm thường xuyên. Yêu cầu đặt ra, để có việc làm ổn định, có thu nhập để đảm bảo cuộc sống, số đông phụ nữ nông thôn có nguyện vọng được đào tạo nghề, tạo thêm nghề mới, vay vốn để sản xuất kinh doanh, xoá đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu. 2 .Tình hình lao động việc làm của lao động nữ ở vùng nông nghiệp huyện Thái Thụy 2 .1 Khái quát chung về tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của huyện Thái Thụy, Thái Bình. . Điều kiện tự nhiên : Thái Thụy là một huyện ven biển của tỉnh Thái Bình với 29 km bờ biển, nằm ở phía Đông, cách thành phố Thái Bình 32 km. Huyện có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nhiều ngành nghề, đặc biệt có cảng thương mại Diêm Điền giao lưu buôn bán với các nước Đông Nam á. Thái Thụy có diện tích tự nhiên là 240 km2 với tổng dân số hơn 28 vạn người phân bổ ở 47 xã và 1 thị trấn, có 6 xã ven biển. Toàn huyện có hơn 120.000 lao động với tiềm năng đất đai, bãi biển, vùng biển thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, vận tải biển. Huyện có nhà máy chế biến hải sản đông lạnh xuất khẩu, xí nghiệp cơ khí đóng tàu, cơ khí nông nghiệp, 3 Hợp tác xã và 28 công ty vận tải biển với hàng trăm tàu biển. . Tình hình phát triển kinh tế : Sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển theo hướng toàn diện, có chuyển biến rõ nét về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Đang dần hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung và cánh đồng đạt giá trị kinh tế trên 50 triệu/ha/năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 8,46%, giá trị thu trên 1 ha canh tác năm 2002 đạt 34 triệu đồng. Năng suất lúa bình quân trên 11 tấn/ha/năm, năm 2002 đạt 11,9 tấn/ha. Bình quân lương thực đầu người đạt 630kg/người. Kinh tế biển phát triển nhanh và khá toàn diện, nhất là vùng nuôi trồng thuỷ sản. Năm 2002 giá trị kinh tế biển đạt 203,3 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 19,18% giá trị sản xuất toàn huyện. Nhịp độ tăng trưởng hàng năm là 16%. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản đạt tốc độ tăng trưởng cao, bình quân hàng năm 15 - 16% góp phần thúc đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của huyện. Năm 2002 giá trị công nghiệp - TTCN và xây dựng cơ bản đạt 255,4 tỷ đồng. Thương mại và dịch vụ phát triển với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Tốc độ tăng trưởng bình quân 15,4% năm. Về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn có tiến bộ nhanh về nhiều mặt. Các công trình điện, đường, trường, trạm, thông tin, nước sạch được triển khai đồng bộ. 100% số xã, 98% số hộ dân đều có điện sinh hoạt. Toàn huyện đã có 300 km đường đá láng nhựa, các tuyến đường liên xã, liên xóm đều được nhựa hoá, bê tông hoá. . Tình hình văn hoá - xã hội : 100% xã có hệ thống truyền thanh, điện thoại về các thôn xóm. Toàn huyện có 4 trường PTTH, 2 Trung tâm giáo dục thường xuyên, 1 Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, 48 trường THCS, 48 trường tiểu học và hệ thống giáo dục mầm non hoàn chỉnh. Công tác dân số, gia đình, trẻ em thường xuyên được chăm lo. Tỷ lệ sinh 2002 1,2%, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng 28,2%. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở phát triển mạnh. Đến nay có 90 làng đăng ký xây dựng làng văn hóa, 37 làng khai trương, 24 làng được công nhận làng văn hoá, 73,3% số hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hoá, có 73,3% số gia đình đăng ký đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá. Việc thực hiện chính sách xã hội được giải quyết kịp thời. Các đối tượng chính sách được quan tâm, chăm sóc. Hoạt động nhân đạo, từ thiện, đền ơn đáp nghĩa được các cấp, các ngành và nhân dân hưởng ứng. Trong 3 năm qua đã xây dựng được trên 100 nhà tình thương cho hộ nghèo (kế hoạch năm 2004 xây dựng 96 nhà tình thương). Đã lập được 8.316 sổ Bảo hiểm y tế cho người nghèo, 32 bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được các cơ quan, đoàn thể phụng dưỡng, những đối tượng nghèo đói được khám chữa bệnh miễn phí. Thái Thụy là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân cần cù sáng tạo trong lao động. Đảng bộ, nhân dân Thái Thụy đã đạt nhiều thành tích to lớn được Đảng, Nhà nước phong tặng là huyện Anh hùng lực lượng vũ trang. Toàn huyện có 4 xã được phong Anh hùng. Song bên cạnh những ưu điểm và thuận lợi trên Thái Thụy cũng còn gặp nhiều khó khăn trong bước đường đi lên, đó là : đất chật, người đông, lao động dư thừa nhiều, thu nhập chính vẫn dựa vào nông nghiệp. 2 .2 Tình hình lao động nữ trong nông nghiệp ở huyện Thái Thụy - Thái Bình . Những đóng góp to lớn của phụ nữ trong phát triển kinh tế địa phương : Sản xuất nông nghiệp những năm qua của huyện liên tục được mùa, năng suất lúa của năm sau cao hơn năm trước. Năm 2002 đạt 119,94 tạ/ha. Việc xây dựng cánh đồng 50 triệu/ha/năm theo nghị quyết 08 của Tỉnh uỷ được triển khai tích cực. Năm 2003 có 44 xã, thị trấn đăng ký với diện tích 1.486 ha. Toàn huyện có 4.962 hội viên phụ nữ có diện tích trên cánh đồng 50 triệu của 44 xã. Qua khảo sát bước 1 năm 2004, đã có 25 xã có 25 xã có cánh đồng đạt giá trị 50 triệu/ha/năm. Những năm qua, lao động nữ tích cực tham gia vào chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Chuyển 1.016 ha diện tích cấy lúa năng suất thấp sang trồng cói, dâu, hoè, nuôi trồng hải sản. Chăn nuôi tiếp tục phát triển về số lượng và chất lượng, hình thành một số vùng chăn nuôi theo hướng gia trại, trang trại. Trong phong trào "Phụ nữ làm kinh tế giỏi" do hội Phụ nữ phát động đã xuất hiện nhiều tấm gương điển hình, nhiều chị đã vươn lên trở thành các nữ chủ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Đến nay, toàn huyện có 58 chị là chủ doanh nghiệp, thu hút từ 1 - 300 lao động. Những kết quả đó càng khẳng định vai trò to lớn của lực lượng lao động nữ nông dân. Không chỉ vì số lượng lao động nữ làm nông nghiệp trên 60% tổng số lao động nông nghiệp mà còn là nhiều khâu công việc do phụ nữ đảm trách : chăm sóc lúa, hoa màu, chăn nuôi, chăm sóc gia đình, sơ chế, bảo quản nông sản và đặc biệt là duy trì, phát triển các nghề thủ công truyền thống của huyện. . Những tồn tại : Về cơ hội tìm kiếm việc làm : Trong vòng 10 năm trở lại đây, trên địa bàn huyện cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt. Hàng loạt đường xá, cầu cống, kênh mương, trường học, trạm xá được nâng cấp, xây mới đã giúp người dân tăng vụ, tăng diện tích cây trồng, làm dịch vụ, mở các ngành nghề phi nông nghiệp và khai thác việc theo mùa vụ. Điều này đã tạo ra rất nhiều việc làm mới cho cả nam giới và phụ nữ. Tuy nhiên, việc làm có thu nhập cao tại các công trường xây dựng chủ yếu dành cho nam giới. Đôi khi các công trình thi công vào giai đoạn nước rút, cần nhiều lao động. Các chủ thầu phải lấy người từ địa phương khác nhưng lao động nữ không được lựa chọn. Các dịch vụ khác như cày bừa, máy xay xát, chuyên chở vật liệu chủ yếu do nam giới đảm nhận. Phụ nữ không được tiếp cận với công việc này trước hết do sức khoẻ không đảm nhận nổi các công việc nặng nhọc. Mặt khác do định kiến ngay từ nhỏ họ đã không được gia đình hướng cho học các nghề thuộc về kỹ thuật như xây dựng, nghề mộc… trong khi 80 % nam giới ở nông thôn đều biết làm các nghề này. Một nguyên nhân không kém phần quan trọng do trình độ học vấn thấp họ cũng rất khó khăn khi tiếp cận với các máy móc, kỹ thuật mới như sử dụng máy cày, bừa, máy tuốt lúa, máy xay xát… Về vấn đề di cư và đi làm thuê : ở nông thôn Thái Thụy hiện nay, bình quân ruộng đất thấp (550 m2/1 người) thời gian nông nhàn nhiều, bình quân 1 năm người lao động nông thôn chỉ sử dụng 5 - 6 tháng cho công việc sản xuất nông nghiệp. Như vậy trong 1 năm ngoài khoảng thời gian sản xuất nông nghiệp, người lao động nông thôn còn rất nhiều thời gian nông nhàn, do đó họ đã lựa chọn di cư và đi làm thuê. Tại địa phương số lao động đi làm ăn nơi xa là 25.587 [3 ; tr 8] người trong đó 80% là nam giới. Họ không đi làm ăn theo mùa vụ mà đi làm cả năm, một năm chỉ về 1 - 2 lần. Hiện nay, tại nông thôn nhiều gia đình chồng đi làm xa có xu hướng tăng lên, nhất là các gia đình vợ chồng ở độ tuổi 30 - 40 nên việc đồng áng, trông nom con cái, chăm sóc người già chủ yếu do người phụ nữ ở nhà đảm nhận. Nam giới đi làm ăn ở tỉnh ngoài bên cạnh việc gửi tiền về cho gia đình nhưng cũng có không ít người mang theo về cả những tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc, bệnh tật. Hậu quả là người phụ nữ trong gia đình phải gánh chịu nặng nề cả về kinh tế, sức khoẻ và tinh thần. Nếu nam giới đi làm ăn xa nhà quanh năm thì người phụ nữ vào lúc nông nhàn cũng di dân ra thành phố tìm việc nhưng theo thời vụ, lúc đến vụ thu hoạch lúa, hoa màu họ lại trở về để sản xuất. Đặc điểm lao động nữ ở nông thôn Thái Thụy là lao động giản đơn, hầu hết không có chuyên môn kỹ thuật nên khi ra Thành phố họ khó kiếm được một việc làm tốt với thu nhập cao. Họ chấp nhận làm tất cả mọi nghề từ giúp việc gia đình, chăm sóc trẻ nhỏ, người già ốm với mức lương từ 200 - 300.000 đ/tháng đến việc bán hàng rong, lượm ve chai với thu nhập từ 10 - 15 ngàn đồng/ngày. Bên cạnh những người phụ nữ có gia đình di cư ra thành phố tìm việc làm theo thời vụ là một bộ phận không nhỏ nữ thanh niên trong độ tuổi từ 17 - 25 di cư đến các khu công nghiệp làm nghề may, da dày xuất khẩu. Tại địa phương có xã có tới trên 200 lao động nữ đi làm may và da dày ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Sau 5 - 7 năm họ thường lại trở về địa phương, họ tiếp tục làm nghề nông do sức khoẻ không đảm bảo để tiếp tục làm việc trong môi trường có cường độ cao, thu nhập lại bấp bênh và chủ yếu là họ khó có thể lập gia đình ở nơi làm việc. Nguyên nhân dẫn đến điều đó là do công nghiệp địa phương chậm phát triển, các khu thương mại, dịch vụ tập trung chủ yếu ở thành phố, thị trấn. Ngoài ra do đất canh tác bị thu hẹp, ngày công lao động ở nông thôn quá thấp. Về thời gian làm việc của phụ nữ lớn hơn nam giới : ở khu vực nông thôn thời gian lao động tạo thu nhập của phụ nữ và nam giới xấp xỉ như nhau. Phụ nữ tham gia vào tất cả các phần việc của nhà nông như cày bừa, chăm sóc, thu hoạch hoa màu, kể cả công việc nặng nhọc, độc hại như bơm thuốc trừ sâu. Tuy nhiên phụ nữ dành thời gian nhiều gấp đôi nam giới cho công việc gia đình : 14h/1 ngày (gồm các công việc sản xuất, nội trợ, nuôi dạy con), trong khi đó nam giới chỉ làm 7h /ngày. Đó là chưa kể vào những ngày thời vụ chị em phải làm quần quật 16 - 17h/ngày. Như vậy về thời gian lao động nữ làm việc gấp đôi so với nam giới. Tuy nhiên thời gian làm việc nhiều hơn của phụ nữ lại là loại công việc không tạo ra thu nhập hoặc thu nhập rất thấp chỉ nhằm duy trì cuộc sống gia đình. Nói tới người phụ nữ là nói đến thiên chức làm mẹ, làm vợ. Từ bao đời nay, định kiến của xã hội luôn gắn chặt họ với chức năng làm các công việc nội trợ, chăm sóc gia đình và cho rằng họ làm công việc này là phù hợp và tốt nhất. Bản thân người phụ nữ tỏ ra hết sức tài giỏi trong công việc này. Chính nhờ sự đảm đang đó mà nam giới có thêm thời gian và điều kiện để lao động, sản xuất tốt hơn tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Nói cách khác, trong giá trị ngày công của nam giới có sự đóng góp đáng kể của phụ nữ, tuy nhiên rất ít người muốn chia sẻ gánh nặng đó với họ. Lao động chăm sóc gia._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0127.doc
Tài liệu liên quan