Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta, đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn trong 7 thập kỷ qua. Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính trị đã đánh giá: "Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra thế giới" [13, 3]. Một trong những thành tố quan trọng góp phần làm nên t

doc181 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầm cao và chiều sâu, giá trị định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay là tư tưởng nhân văn của Người [61]. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với nội dung cơ bản: giải phóng người lao động đã chi phối tất cả các lĩnh vực trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện nay, với chính sách "mở cửa", xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN (đang trong quá trình vừa thực hiện, vừa tìm tòi, chưa từng có tiền lệ) làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội. Nền kinh tế được "vực dậy", ổn định và tăng trưởng trong nhiều năm kéo theo đời sống văn hóa tinh thần có nhiều thay đổi rõ rệt, tích cực. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng tự phát gây ra nhiều tiêu cực (ở mức độ nghiêm trọng) trong đời sống xã hội, đặc biệt ở lĩnh vực văn hóa tinh thần, đạo đức cả ở phía đảng viên, cán bộ nhân viên nhà nước và cả ở phía những người lao động: tình trạng quan liêu của bộ máy Đảng, Nhà nước; sự sa sút phẩm chất đạo đức, thoái hóa biến chất của một số không ít trong đội ngũ cán bộ; sự thiếu kiến thức dân chủ trong một bộ phận lớn người lao động... dẫn đến tình trạng quyền làm chủ của người lao động bị vi phạm một cách phổ biến, nhiều nơi ở mức độ nghiêm trọng đã cản trở, làm chậm lại tiến trình giải phóng, phát triển con người và gây ra nguy cơ của sự phát triển không bền vững. Người lao động - lực lượng cơ bản nhất của xã hội - phải chịu hậu quả trực tiếp, nặng nề nhất do sự vận động theo xu hướng tiêu cực gây ra. Để hạn chế, khắc phục kịp thời nguy cơ sự phát triển kinh tế xã hội không phục vụ trên thực tế cho sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động, việc nghiên cứu Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là việc làm thiết thực nhằm hạn chế tối đa tình trạng người lao động phải chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống xã hội, thậm chí bị áp bức, điều trái với bản chất xã hội XHCN mà chúng ta đang xây dựng; nhằm tìm ra giải pháp định hướng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự giải phóng, phát triển năng lực và phẩm chất Con Người ở mỗi cá nhân người lao động. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được các nhà lý luận, nhà văn hóa, nhà chính trị... nghiên cứu ngay từ khi bắt đầu hình thành vào những năm 20 của thế kỷ này. Thời kỳ Cách mạng tháng Tám, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đặc biệt nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100, 105 ngày sinh Hồ Chí Minh, nhiều tác phẩm của các học giả nước ngoài và trong nước đã nghiên cứu sâu sắc những đóng góp to lớn của Người đối với phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng con người và với nền văn hóa thế giới. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Hồ Chí Minh ở nhiều cấp độ và giác độ khác nhau như: Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước về Tư tưởng Hồ Chí Minh: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh tập 1, 2, 3; Chương trình khoa học và công nghệ cấp Nhà nước về Tư tưởng Hồ Chí Minh - KX.02 với nhiều đề tài nhánh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức (KX.02.08), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người (KX.02.05), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong điều kiện đã có chính quyền (KX.02.06); Đề tài khoa học cấp Bộ: Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, của khoa Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh... Các tạp chí khoa học xã hội và nhân văn đều mở chuyên mục nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đăng tải những kết quả nghiên cứu của đông đảo các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà lãnh đạo quản lý, ví dụ như: Một số nét cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, của PGS.TS Lê Văn Dương; Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, của GS.TS Trần Hữu Tiến; Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa lớn, của PGS Song Thành; Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân, của PGS.TS Đỗ Long; Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, của PGS.TS Phùng Hữu Phú; Những luận điểm của Hồ Chí Minh về con người và con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, của PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc; Giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho con người - cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, của TS Bùi Đình Phong... Đặc biệt phải kể đến các tác phẩm có giá trị lớn của các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp viết về con người, sự nghiệp, đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có nói nhiều đến tư tưởng nhân văn của Người, ví dụ như các tác phẩm: Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh (Phạm Văn Đồng), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Nguyên Giáp)... Các công trình nêu trên đã đi sâu phân tích nguồn gốc, bản chất, nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Đó là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, về lòng yêu nước thương dân, về sức mạnh của nhân dân, về văn hóa, về đạo đức cách mạng... Tất cả đều chứa đựng những giá trị nhân văn lớn lao, bởi đó là những tư tưởng tiến bộ, chứa chan tình yêu con người, vì mục đích đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân mà tiêu điểm là người lao động bị áp bức. Các công trình nêu trên làm cơ sở cho việc nghiên cứu tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh mà chúng tôi chọn làm đề tài nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án Mục đích: Xác định rõ nội dung cơ bản của tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng vào công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay nhằm thúc đẩy tiến trình giải phóng người lao động lên trình độ mới. Nhiệm vụ: 1- Luận chứng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang bản chất nhân văn cộng sản, mà tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức là nội dung cơ bản nhất. Nó là kết quả tất yếu của đòi hỏi của cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX kết hợp với thiên tài, nhân cách Hồ Chí Minh trên nền tảng truyền thống nhân ái của dân tộc và tư tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. 2- Khái quát đặc trưng cơ bản và nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. 3- Trước những vấn đề đặt ra trong quá trình giải phóng người lao động Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh, đề ra giải pháp định hướng thúc đẩy giải phóng người lao động trong giai đoạn mới. 4. Cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án dựa trên cơ sở lý luận hệ thống các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam, sử dụng nhiều tài liệu trong Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh, tài liệu trong các hội thảo khoa học về tư tưởng Hồ Chí Minh, sách, báo, tạp chí... Cơ sở thực tiễn: Qua các sách, báo, tạp chí; quan sát thực tế. Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp: lịch sử-lôgíc, phân tích-tổng hợp, so sánh... để làm rõ nội dung chủ đạo của đề tài. 5. Đóng góp mới của luận án 1. Chỉ ra nguồn gốc trực tiếp tác động hình thành tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. 2. Bước đầu khái quát nội dung cơ bản tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. 3. Bước đầu khái quát nội dung cơ bản tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. 4. Khẳng định giá trị của tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh trong giai đoạn quá độ lên CNXH của nước ta. Nêu giải pháp định hướng thúc đẩy tiến trình giải phóng người lao động trong công cuộc đổi mới hiện nay. 6. Giá trị và ý nghĩa của luận án Luận án góp phần nghiên cứu di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhiệm vụ lý luận quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước. Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị, các trường cao đẳng và đại học. 7. Kết cấu luận án Luận án có 175 trang, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, được chia thành 3 chương 6 mục. Chương 1 sự hình thành tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh 1.1. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh Nhân văn là một khái niệm để chỉ giá trị văn hóa tinh thần của con người. Nó phản ánh và đề cao những giá trị con người đạt được trong quan niệm về con người và các mối quan hệ của con người với con người trong xã hội cũng như con người với tự nhiên. Nó thuộc về văn hóa của loài người. Văn hóa Người. Nội dung của khái niệm nhân văn phát triển gắn liền với sự phát triển của tiến bộ xã hội qua mỗi thời đại của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng. Trong cuộc sống, con người luôn muốn được tự do và hạnh phúc, luôn có khát vọng vươn tới cái văn hóa, cái đẹp. Song điều đó bị chi phối bởi điều kiện lịch sử, chính trị-xã hội của từng quốc gia dân tộc, của từng thời đại, đặc biệt là quan điểm, tư tưởng của giai cấp thống trị (khi xã hội đã phân chia giai cấp). Điều đó cũng có nghĩa là, quan niệm nhân văn bị chi phối sâu sắc bởi quan điểm giai cấp của giai cấp thống trị trong xã hội. Bên cạnh việc thừa nhận những giá trị văn hóa tinh thần chung của nhân loại, quan niệm nhân văn của mỗi thời đại, mỗi giai cấp mang những nét đặc trưng riêng. Những giai cấp đối lập nhau có quan niệm nhân văn khác nhau về bản chất và chính quan điểm giai cấp ấy ảnh hưởng trở lại đối với những giá trị chung mà nhân loại đã thừa nhận. Sự phát triển của tư tưởng nhân văn trong thời đại ngày nay đạt đỉnh cao ở tư tưởng nhân văn cộng sản. Xuất phát từ quan điểm thương yêu, tôn trọng giá trị nhân phẩm con người, tin vào sức sáng tạo vô biên của con người, coi quyền con người được phát triển tự do, hạnh phúc và lợi ích của con người là tiêu chuẩn đánh giá sự tiến bộ của các quan hệ xã hội, tư tưởng nhân văn cộng sản khắc phục những hạn chế của các tư tưởng nhân văn trước đó, chủ trương phát triển mọi khả năng của con người và xã hội, thừa nhận và thực hiện các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo trong quan hệ giữa con người với nhau trên một cơ sở kinh tế - chính trị - xã hội hiện thực. Tư tưởng nhân văn có quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử xã hội loài người. Khi xã hội dần phát triển, con người ngày càng bị phân hóa thành kẻ giàu người nghèo, đời sống vật chất, tinh thần giữa các tầng lớp dân cư ngày càng cách xa nhau, giai cấp ra đời với hai giai cấp cơ bản: giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị. Cũng từ đó, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn của giai cấp bị trị xuất hiện. Đó là mơ ước về một xã hội không còn nghịch cảnh bất công, bất bình đẳng, áp bức bóc lột trong quan hệ con người; con người được yêu thương, tôn trọng, hòa thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau. Những khát vọng về cuộc sống tự do và hạnh phúc như vậy của con người, khi xã hội loài người đạt đến một trình độ phát triển nhất định, một trình độ tư duy nhất định đủ để nhận thức một cách khái quát về vai trò và giá trị của con người, trở thành những giá trị nhân văn. Và như chúng ta đều biết, các giá trị nhân văn ấy trước hết và cơ bản là của nhân dân lao động, do họ là những người trực tiếp gánh chịu sự bất công nặng nề nhất, cảm nhận sâu sắc nhất về sự bất bình đẳng trong xã hội; và của những giai cấp tiên tiến của mỗi thời đại. Tư tưởng nhân văn ra đời gắn liền với “cuộc đảo lộn tiến bộ lớn nhất mà từ xưa đến nay nhân loại chưa từng thấy” (Ăngghen) - thời kỳ tiền tư bản. (Những nhân tố của chủ nghĩa nhân văn đã từng tồn tại trong văn học dân gian, trong văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc thời cổ, nhưng phải đến thời kỳ Phục Hưng - Tây Âu thì tư tưởng nhân văn mới xuất hiện như một hệ thống quan điểm lý luận). Nó đưa ra những quan điểm triết học, chính trị, đạo đức lấy con người là trung tâm. Tư tưởng nhân văn tư sản ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất trong nhận thức xã hội về con người. Nó đòi hỏi phải trả lại con người cho tự nhiên (đối lập với thế giới quan tôn giáo) để tự do phát triển, coi việc tận hưởng mọi hạnh phúc trần tục là sự phát triển toàn diện của tính người. Tư tưởng nhân văn tư sản khi mới ra đời biểu thị ý muốn hiểu biết và sáng tạo, khát vọng chân lý và tự do công bằng, bình đẳng và bác ái, lòng tin ở con người phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động đã góp phần giải phóng sản xuất, phát triển văn hóa, khoa học, tạo điều kiện cho sự tiến bộ xã hội. Nó giữ vai trò chính chi phối mạnh mẽ đời sống tinh thần xã hội. Tư tưởng nhân văn tư sản có một quan niệm đầy đủ hơn so với chủ nghĩa nhân bản (dù theo nghĩa cũ chủ nghĩa nhân văn được hiểu tương tự chủ nghĩa nhân bản: đều là học thuyết về con người và trong đó con người là trung tâm [77], [78]). Chủ nghĩa nhân bản tách rời con người khỏi những quan hệ xã hội cụ thể về lịch sử. Nó quan niệm về con người một cách siêu hình và trừu tượng. Đáng lẽ phải nghiên cứu con người trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp... thì chủ nghĩa nhân bản lại đưa ra khái niệm trừu tượng “con người nói chung”. Tính chất thiển cận đó biểu hiện ở chỗ nó không có khả năng gắn liền nhận thức luận với thực tiễn xã hội, ở chỗ không thể áp dụng chủ nghĩa duy vật vào việc giải thích lịch sử của xã hội [80]. "Chủ nghĩa nhân bản" với nội dung như vậy, so với quan điểm giáo lý kinh viện, tôn giáo là một tiến bộ, song so với "chủ nghĩa nhân văn" còn nhiều hạn chế, vì không gắn con người với môi trường xã hội của nó. Tổng hợp theo lịch sử và nội dung của khái niệm "chủ nghĩa nhân văn" từ các sách xuất bản ở Việt Nam, từ khi học giả Đào Duy Anh đưa vào Việt Nam lần đầu tiên năm 1932 trong sách "Giản yếu Hán - Việt từ điển" (Nhà xuất bản Trường Thi - 26, Lê Văn Tánh Sài Gòn), cho đến Từ điển Triết học, Từ điển Triết học giản yếu, Từ điển Tiếng Việt (qua các lần tái bản và các soạn giả khác nhau)... tựu trung đều thống nhất giải thích khái niệm " nhân văn" như sau: Nghĩa cũ: Triết lý cho rằng con người là trung tâm của vũ trụ [77], [78]. Nghĩa chung: Văn hóa của loài người (ít dùng) [10], [76], [79]. Với thuật ngữ: “Chủ nghĩa nhân văn”, Từ điển Tiếng Việt (in lần thứ 2 và 3) [77], [78] của Nxb KHXH Việt Nam, giải thích như sau: "a) Chủ trương phục hưng văn học và nghệ thuật cổ đại Hy Lạp và La Mã, phát triển đầu tiên ở ý, sau lan ra khắp châu Âu. b) Vũ trụ quan của giai cấp tư sản đang lên hồi thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI, nhằm phá tan những trói buộc kinh tế phong kiến, mưu giải phóng cho cá nhân, trên cơ sở thừa nhận giá trị của con người, tin tưởng vào sức sáng tạo của con người”. Khái quát lại, theo chúng tôi chủ nghĩa nhân văn có hai nội dung chính: 1. Đề cao những giá trị văn hóa tinh thần của con người. 2. Mưu giải phóng cho cá nhân tiến lên tự do làm mục đích cao nhất, trên cơ sở thừa nhận giá trị của con người, yêu con người và tin vào sức sáng tạo của con người. Về khái niệm “nhân đạo”, theo Từ điển Tiếng Việt: đạo đức thể hiện ở chỗ tôn trọng quyền lợi, giá trị, phẩm chất của con người [77]. Về “chủ nghĩa nhân đạo”, cũng theo từ điển trên: quan niệm nhân sinh chủ trương phải yêu thương tất cả mọi người trong xã hội. ở một số Từ điển Tiếng Việt xuất bản các năm 1977, 1994 [77], [78] và Từ điển Triết học giản yếu [81] quan niệm rằng: chủ nghĩa nhân đạo cộng sản như chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Như vậy, khái niệm nhân văn và khái niệm nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo có một lớp nghĩa nào đó trùng nhau tuy không hoàn toàn đồng nghĩa. Chúng tôi nhất trí với quan điểm của Viện sĩ Hồ Tôn Trinh: “chủ nghĩa nhân văn" có nghĩa rộng hơn "chủ nghĩa nhân đạo" vì nó nói đến con người một cách toàn diện, gắn con người với văn hóa, với vẻ đẹp của văn hóa loài người từ thời cổ đại, qua Phục Hưng và ánh Sáng cho đến ngày nay. Còn "chủ nghĩa nhân đạo" thiên về khía cạnh đạo đức, về tình yêu thương quý trọng con người gắn với khái niệm "nhân ái" (nhân ái: yêu thương con người [76], [10]), và như vậy "chủ nghĩa nhân đạo" là một nội dung rất cơ bản của "chủ nghĩa nhân văn", và "nhân ái" được quan niệm như một yếu tố thuộc về nội dung của "chủ nghĩa nhân văn". ở đây, trong luận án, chúng tôi dùng khái niệm "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh" như một khái niệm bao trùm các khái niệm "chủ nghĩa nhân đạo", "nhân ái" cho phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Giai cấp tư sản ra đời cùng với quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN), đòi hỏi sự giải phóng xã hội và con người để phát triển kinh tế-xã hội, sử dụng tư tưởng nhân văn như một vũ khí tư tưởng phản kháng lại chế độ phong kiến chuyên chế và giáo hội cùng hệ tư tưởng của nó. Tư tưởng nhân văn tư sản góp phần quan trọng giải phóng con người và mang lại tiến bộ xã hội ở thời đó. Do hạn chế của thời đại, của lập trường giai cấp tư sản, tư tưởng nhân văn tư sản thiếu một cơ sở dân chủ vững chắc, dừng lại ở tính duy lý, hình thức đối với đông đảo quần chúng nhân dân. Cuộc cách mạng tư sản không mang lại, cũng không hướng tới sự giải phóng toàn diện người lao động.Nó phá vỡ được xiềng xích áp bức của chế độ phong kiến và giáo hội nhưng thay vào đó vẫn là một chế độ áp bức bóc lột người lao động dưới những hình thức mới. Quá trình phát triển phương thức sản xuất TBCN với những tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật (sau đó là khoa học) đã đem lại sự giải phóng về cơ bắp cho người lao động nhưng sự áp bức bóc lột về kinh tế, chính trị vẫn còn. Sự phát triển xã hội dựa trên quan hệ sản xuất (QHSX) tư hữu tư bản đã ngày càng làm cho con người phát triển phiến diện: trở thành thứ công cụ và hàng hóa cho nhà tư bản kiếm lời (phía người lao động), trở thành nô lệ của vật chất (phía nhà tư bản). Sự lệ thuộc của con người vào những quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản (CNTB) mâu thuẫn với chính lý tưởng của tư tưởng nhân văn tư sản và chứng minh sự trừu tượng, không triệt để của nó, với tư cách là lý luận và phương pháp về con đường giải phóng nhân loại. Nguyên nhân chính của sự hạn chế của tư tưởng nhân văn tư sản là do: Con người mà tư tưởng nhân văn tư sản đặt ở vị trí trung tâm chỉ bó hẹp ở con người tư sản, đông đảo quần chúng nhân dân lao động bị đặt ra ngoài khuôn khổ của sự giải phóng. Họ tiếp tục bị chà đạp, bị áp bức bóc lột, chỉ có sự thay đổi ở chỗ: kẻ áp bức bóc lột họ trước đây là phong kiến, giáo hội, nay thay bằng nhà tư bản. Tư tưởng nhân văn tư sản thực chất là chủ nghĩa cá nhân tư sản. Khác về chất với tư tưởng nhân văn tư sản là tư tưởng nhân văn cộng sản. Từ khi tư tưởng nhân văn cộng sản ra đời những năm 40 của thế kỷ XIX, nhất là từ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại giành thắng lợi đã tạo nên bước ngoặt lịch sử đối với sự nghiệp giải phóng loài người. Tư tưởng nhân văn cộng sản phản ánh quyền lợi và những giá trị văn hóa tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Và mang tính hiện thực khi nó không những thừa nhận và nâng cao giá trị của con người, mà còn chủ trương chiến đấu giải phóng con người khỏi mọi áp bức, đưa con người đến chỗ thắng được tự nhiên, làm chủ vận mệnh của mình [77]. Trên cơ sở quan điểm cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội" [37, 11], do vậy, muốn giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát triển thì phải thay đổi những quan hệ xã hội kìm hãm, trói buộc con người. Nghĩa là xóa bỏ quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị, tạo lập hệ thống những quan hệ xã hội mới tốt đẹp, mối quan hệ bình đẳng, tự do giữa con người với con người. Trong toàn bộ các quan hệ xã hội ấy, QHSX giữ vai trò chi phối. Nó là quan hệ kinh tế cơ bản của hình thái kinh tế xã hội. Muốn xóa bỏ QHSX, quan hệ kinh tế, những điều kiện kinh tế-xã hội của phương thức sản xuất TBCN trói buộc, kìm hãm sự phát triển của con người thì phải làm cách mạng, xây dựng hoàn cảnh thực sự hợp tính người. Trong xã hội tư sản, lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ quan hệ sản xuất TBCN - nguồn gốc của mọi sự đau khổ của người lao động - là giai cấp công nhân. Chỉ có họ mới tiến hành được cuộc cách mạng vì lợi ích của chính mình và cũng vì lợi ích của tất cả mọi người lao động trong xã hội, của toàn nhân loại và xây dựng một xã hội mới, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Việc vạch ra nguồn gốc, bản chất của sự áp bức bóc lột người lao động trong các xã hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân những tư liệu sản xuất chính, từ đó chỉ ra điều kiện vật chất căn bản nhất cho sự giải phóng cũng như lực lượng giải phóng, mục tiêu giải phóng, đối tượng giải phóng đã mang lại cho tư tưởng nhân văn cộng sản tính khoa học, tính cách mạng và tính hiện thực. Vì vậy tư tưởng nhân văn cộng sản là đỉnh cao của tư tưởng nhân văn của xã hội hiện đại. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang bản chất nhân văn cộng sản, theo chúng tôi nó được biểu hiện qua những nội dung cơ bản sau: 1. Yêu con người. Hồ Chí Minh yêu con người với ý thức của người cộng sản chân chính, trước hết là quần chúng lao khổ, không phân biệt chủng tộc, màu da. Người khẳng định: “lòng thương yêu của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi” [59, 47]. Và con người trong quan điểm của Hồ Chí Minh không chung chung mà rất cụ thể, đó là toàn thể nhân loại tiến bộ, là đồng bào, là người công nhân, người nông dân và những người lao động khác, là cụ già, em bé, chị phụ nữ; là mỗi con người của từng nhóm xã hội, giai cấp nhất định - những con người cụ thể với cuộc sống của họ. Đấu tranh mưu cầu cuộc sống tự do, hạnh phúc cho người lao động là mục đích cuối cùng và nhất quán trong mọi suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh. Trong tờ báo Le Paria (số 1) Hồ Chí Minh đã khẳng định mục đích: giải phóng loài người [44, 456], cho đến Di chúc, trước lúc tạ thế vẫn canh cánh nghĩ tới việc chăm lo con người. Người căn dặn khi chiến tranh kết thúc: “đầu tiên là công việc đối với con người” [55, 503]. Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ ý thức thương yêu con người và nhằm một mục đích cuối cùng: đem lại lợi ích cao nhất cho con người. Có thể nói: vấn đề đem lại tự do, hạnh phúc cho người lao động và xây dựng, rèn luyện con người bao giờ cũng là trung tâm của tư duy, mục tiêu của mọi hoạt động của Hồ Chí Minh. 2. Tin vào bản chất tốt đẹp của con người và sức mạnh của con người. Hồ Chí Minh tin tưởng sâu sắc vào bản chất tốt đẹp của con người. Người cho rằng: Người ta sinh ra tính đều tốt cả, nhưng về sau, do ảnh hưởng của gia đình, xã hội mà dần dần mỗi người một khác, ví như trong một bàn tay có ngón ngắn ngón dài và trong mỗi con người đều có thiện, ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi [55, 558]. Chính vì quan niệm đó mà Người trân trọng cái phần thiện, dù nhỏ nhất, ở mỗi con người và có lòng khoan dung rộng lớn. Hồ Chí Minh đặt niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân - đó chính là chủ thể của mọi giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người của dân tộc ta khởi đầu với phương tiện vật chất hết sức thô sơ: gậy tầm vông, mã tấu, bom ba càng... khi bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến, khi bắt tay xây dựng miền Bắc thì chủ yếu từ một nền nông nghiệp manh mún, lạc hậu... nhưng dân tộc ta đã anh dũng chiến đấu, phấn đấu đạt được những thắng lợi to lớn. Có được điều ấy, chính bởi Hồ Chí Minh đã tìm ra sức mạnh của quần chúng nhân dân. Người nói: Con người là vốn quý nhất! Con người được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả. 3. Kính trọng nhân dân. Bình đẳng trong quan hệ người - người trong xã hội. ý thức và sự kính trọng nhân dân ở Hồ Chí Minh được biểu thị sâu sắc qua hoạt động hàng ngày của Người. ở đỉnh cao nhất của quyền lực, lại có uy tín tuyệt đối, Hồ Chí Minh vẫn không bao giờ áp đặt ý kiến của mình buộc cấp dưới phải tuân theo. Người chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, của cán bộ, chắt lọc từ các ý kiến ấy những điểm đúng, Người nghiêm túc trả lời những thư mà Người nhận được, Người rất trân trọng thành tích chiến đấu và lao động của nhân dân, dù là những “việc tốt” nhỏ nhất của những người bình thường nhất. Người tin tưởng tuyệt đối vào trí tuệ nhân dân. Người khẳng định: “Dân rất thông minh. Quần chúng kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều. Chỉ cần mình có biết học hay biết lợi dụng mà thôi” [50, 62]. Người tin rằng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng tận, dù việc khó khăn đến đâu nhân dân cũng có thể lo liệu được. Khéo tổ chức, khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy có thể xoay trời chuyển đất. Chính việc chúng ta đánh giặc và xây dựng xã hội mới bằng những việc làm muôn hình muôn vẻ của hàng chục triệu con người, chứ không phải chỉ bằng một vài việc làm nổi bật và vang dội của một số cá nhân anh hùng là minh chứng lịch sử cho tư tưởng Hồ Chí Minh. Lòng kính trọng nhân dân của Hồ Chí Minh còn được biểu thị ở việc đòi hỏi đảng viên, cán bộ phải thành khẩn tự phê bình trước nhân dân và khuyến khích nhân dân phê bình mình... Nhìn tổng quát, lòng kính trọng ấy biểu hiện sự tin tưởng nhân dân, thực sự coi nhân dân vĩ đại, thực sự khẳng định và thực hiện sự bình đẳng giữa người với người. Hồ Chí Minh coi việc giữ lời hứa với nhân dân là một trong những biểu hiện của thái độ kính trọng nhân dân. Không giữ lời hứa là khinh miệt, coi thường nhân dân và tự làm xói mòn lòng tin yêu của nhân dân đối với bản thân cán bộ, đối với Đảng, Nhà nước. Bệnh hình thức chủ nghĩa, làm qua loa chiếu lệ là một trong những biểu hiện của việc không giữ lời hứa, coi thường nhân dân mà hậu quả của nó không gì khác hơn là làm xói mòn, khủng hoảng lòng tin của nhân dân. Một yêu cầu của kính trọng nhân dân là: mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phải xuất phát từ nhu cầu, quyền lợi, lợi ích của quần chúng. Khi xây dựng chủ trương, chính sách phải trên cơ sở “tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng” [48, 306]. 4. Sử dụng sức mạnh của nhân dân vì lợi ích của nhân dân. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng trong lịch sử, Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp cách mạng chỉ có thể thắng lợi nếu sức mạnh của nhân dân được huy động và biết sử dụng để phát huy sức mạnh tối đa của nó. Sử dụng sức mạnh của nhân dân vì lợi ích của nhân dân theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ đem lại những lợi ích chính trị, kinh tế cho nhân dân, mà còn đem lại cuộc sống tinh thần phong phú lành mạnh - một sự phát triển toàn diện - bởi chỉ trong quá trình nhân dân hoạt động thực tiễn cách mạng, sức mạnh của nhân dân mới được bộc lộ và phát triển. Quan điểm này rất rõ ràng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Trong thư từ biệt các bạn cùng hoạt động, trước khi bí mật rời Pari sang nước Nga Xô viết, tháng 6 năm 1923, Người viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập" [44, 192]. Như vậy, quần chúng nhân dân không chỉ đơn thuần là đối tượng giải phóng mà họ còn phải đồng thời là chủ thể giải phóng. Họ cần được tôi luyện, thử thách, trưởng thành trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi của chính mình. Sử dụng sức mạnh của nhân dân vì lợi ích của nhân dân là biểu hiện tập trung của tư tưởng: “Tất cả vì con người, do con người”, “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng”. 5. Chăm lo bồi dưỡng, phát triển toàn diện con người, đồng thời đòi hỏi sự phấn đấu vươn lên của mỗi người. Hồ Chí Minh chú trọng công tác giáo dục con người, những con người “vừa hồng vừa chuyên”. Người dùng khái niệm: “Con người hoàn toàn” để chỉ con người phát triển toàn diện. “Con người hoàn toàn” ở người lao động chân tay và lao động trí óc được xác định cụ thể: người lao động chân tay mà văn hóa kém, người lao động trí óc mà không liên hệ với lao động chân tay là không hoàn toàn, chỉ được một nửa. Người lao động chân tay cũng phải có văn hóa, phải biết lao động trí óc, người lao động trí óc cũng phải biết lao động chân tay mới là người lao động hoàn toàn, tiến tới “lao động chân tay và trí óc hợp lại trong một người” [51, 395]. Để trở thành con người có ích, “con người hoàn toàn” tùy từng tầng lớp, giai cấp, công việc mà Hồ Chí Minh chỉ ra những tiêu chuẩn cụ thể ở từng giai đoạn cách mạng vừa sâu sắc, vừa cụ thể. Và Người đòi hỏi tự mỗi người phải biết cố gắng phấn đấu. Trên đây là một số nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Qua đó chúng ta thấy con người được Hồ Chí Minh xem xét trong các mối quan hệ xã hội lịch sử cụ thể của nó, tin tưởng sâu sắc vào bản chất tốt đẹp và sức mạnh của con người, yêu thương, bồi dưỡng và đòi hỏi ở mỗi người vì sự tiến bộ, sự phát triển toàn diện của con người do chính sức mạnh và lý tưởng của con người quyết định. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh góp phần quyết định sự phát triển xã hội Việt Nam theo định hướng XHCN; giải quyết toàn diện, sâu sắc, vững chắc vấn đề giải phóng người lao động, nhân dân Việt Nam cũng như giải phóng các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh không nói về chủ nghĩa nhân văn nhưng tư tưởng và cuộc đời Người sâu đậm bản chất nhân văn. Nếu như thực chất của tư tưởng nhân văn là giải quyết vấn đề tự do, hạnh phúc của con người, sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân và tất cả các cá nhân thì Hồ Chí Minh với tư tưởng nhân văn cộng sản của mình đã đưa ra câu trả lời cần phải làm gì và làm như thế nào cho người lao động Việt Nam đạt được mục đích đó [72]. Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức là vấn đề biểu hiện tập trung nhất, sinh động nhất và sâu sắc nhất tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Người lao động Việt Nam bị áp bức ở đây trước hết là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và những người lao động khác. Họ là lực lượng cơ bản nhất của xã hội - sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để xã hội tồn tại và phát triển, chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư nhưng họ đều là những người bị áp bức bóc lột hai lần, với tư cách là dân của một nước thuộc địa và với tư cách là người lao động dưới chế độ phong kiến, thực dân. Trong các giai cấp bị áp bức, Hồ Chí Minh hướng._. tới giai cấp công nhân trước hết, vì đó là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ, giai cấp tiên tiến nhất của thời đại có sứ mệnh giải phóng mình và giải phóng nhân loại khỏi QHSX - quan hệ xã hội TBCN, xây dựng QHSX - quan hệ xã hội mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp với bản tính con người. Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp giải phóng người lao động bị áp bức cũng như tất cả những người bị áp bức khác. Như thế nào là "bị áp bức"? Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, áp bức là dùng quyền lực chính trị, luật pháp, kinh tế... và vũ lực để đè nén và tước đoạt quyền tự do của người khác, giai cấp khác, dân tộc khác, quốc gia khác, bắt họ phải phục tùng, bất chấp đạo lý về quyền con người và quyền cơ bản của dân tộc, quốc gia [82]. Như vậy, giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là đưa họ cùng toàn thể dân tộc ra khỏi tình trạng bị nước ngoài nô dịch, bị phụ thuộc, ra khỏi ách thống trị và bóc lột giai cấp. Tiếp đó, giải phóng họ ra khỏi đói nghèo, từng bước vững chắc đến hạnh phúc, tự do trong Tổ quốc Việt Nam độc lập và XHCN. Và có một nội dung quan trọng khác, theo chúng tôi rất đậm nét trong tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh, đó là: không chỉ có áp bức dân tộc, áp bức giai cấp giữa các dân tộc, các giai cấp đối kháng mà ngay trong đời sống xã hội không có giai cấp đối kháng, không có áp bức giai cấp vẫn tồn tại khả năng "áp bức" và "bị áp bức" giữa những con người khi sự lạm dụng quyền lực (chính trị, kinh tế, văn hóa...) của những người nắm quyền lực không được ngăn chặn, điều chỉnh kịp thời, hiệu quả của pháp luật, của đạo đức... Nếu hiện tượng đó phổ biến và trầm trọng sẽ xảy ra khả năng "tự diễn biến hòa bình" từ hiện tượng áp bức sang chế độ áp bức. Như vậy, tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức không chỉ có ý nghĩa trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà nó vẫn giữ nguyên giá trị thời sự trong cách mạng XHCN - quá trình xây dựng CNXH. 1.2. Nguồn gốc tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh Trên đây chúng tôi đã phác họa một số điểm chính quá trình phát triển tư tưởng nhân văn trong lịch sử mà tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thuộc dòng tư tưởng nhân văn cộng sản nhằm làm sáng tỏ phần nào nguồn gốc tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Người. Vấn đề nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh đã được các nhà khoa học khẳng định. Theo chúng tôi, nguồn gốc tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức không nằm ngoài nguồn gốc chung đó. Song, từ nguồn gốc chung, chúng tôi chú ý tìm hiểu những khía cạnh giữ vai trò trực tiếp tác động hình thành nên tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Người [60, 79]. Tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh chúng tôi chú ý đến những yếu tố với tính chất là cơ sở khách quan góp phần làm nên nội dung và không thể thiếu vai trò chủ thể của tư tưởng. Bởi vì tư tưởng do con người sáng tạo ra trên cơ sở thực tiễn, trên cơ sở kế thừa những tư tưởng đã có, dầu cho đó là một nhân vật lịch sử kiệt xuất thì sự trưởng thành về tư tưởng - nhận thức cũng là một quá trình, và chịu sự tác động có tính quyết định của phẩm chất của chủ thể. Từ những lý do trên, chúng tôi xác định những nguồn gốc trực tiếp của tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh là: 1.2.1. Vấn đề giải phóng con người trong truyền thống tư tưởng dân tộc Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, vấn đề con người và cuộc sống của con người đã được đặt ra từ rất sớm. Các triều đại phong kiến (đặc biệt từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX) đều chú trọng giải quyết vấn đề này. Khi dân tộc độc lập, tự chủ, triều đại phong kiến ở vào giai đoạn thịnh trị, có tinh thần dân tộc, gắn liền với nhân dân, thi hành chính sách thân dân, khoan thư sức dân... khi đó đời sống con người tương đối dễ chịu. Nhưng ngay cả ở những giai đoạn ấy, vấn đề làm sao cho con người có được cuộc sống tốt đẹp hơn, được giải thoát khỏi những niềm đau nỗi khổ của cuộc đời (sinh, lão, bệnh tử - theo quan điểm của Phật giáo) đã được đặt ra. Về vấn đề này, cách giải quyết của hai vị vua đời Trần: Trần Thái Tông (1218-1277) và Trần Nhân Tông (1258-1308) là tiêu biểu. Theo hai ông, hạnh phúc của con người không ở quyền uy, phú quý, dù ở ngôi vua và hạnh phúc của con người có thể có được ngay tại trần thế. Theo Trần Thái Tông, con người chỉ có thể vượt ra khỏi nỗi khổ của cuộc đời bằng cách trừ bỏ tham, sân, si, coi tất cả đều là không, giữ cho cái tâm trong sáng, phẳng lặng, không bị ngoại cảnh chi phối ngay tại trần thế [69]. Sau thời kỳ thịnh trị, triều đại phong kiến nào cũng đều bị suy đốn. Nhà cầm quyền dần xa dân, xa vào lối sống hưởng lạc, tranh giành quyền bính, ăn chơi đàng điếm, vơ vét cho bản thân. Họ trở thành đối lập với nhân dân. Do tình trạng rối loạn, suy sụp của xã hội mà sản xuất đình đốn, xã hội loạn ly, khả năng chống cự của con người trước thiên tai dữ dội gần như bị tước mất. ở những thời điểm đó, đời sống của nhân dân cay đắng, bấp bênh. Từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt Nam ở vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc. Nội chiến giữa Trịnh - Nguyễn, phong trào Tây Sơn và phe lũ Nguyễn ánh, nạn đói, nạn dịch, nạn lụt hoành hành. Nông dân oằn lưng dưới sự áp bức bóc lột của vua quan, địa chủ. Không chỉ bị áp bức bóc lột về kinh tế, người dân còn phải chịu đựng mặt bảo thủ, tiêu cực, nghiệt ngã cố hữu của hệ tư tưởng chính thống mà Nho giáo là nòng cốt (từ thế kỷ XV trở đi) đè nặng lên cuộc sống tinh thần con người, càng thôi thúc con người suy nghĩ về các vấn đề của bản thân mình. Và vấn đề thân phận con người, giải phóng con người đã bùng cháy thành các cuộc khởi nghĩa nông dân, được phản ánh trong văn học nghệ thuật và trong tư tưởng. Quan niệm “dân là gốc”, tư tưởng thân dân, dưỡng dân được biểu hiện rõ nét qua lời trình tâu của Nguyễn Trãi đối với vua Lê đồng thời cũng là lời cảnh báo về thực trạng đời sống nhân dân, đời sống xã hội: “Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho trong thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu”. Đó chính là cái gốc cho mọi chính sách của nhà nước độc lập để bảo vệ nền độc lập, cải thiện đời sống cho nhân dân. Ước mơ về giải phóng cá nhân cũng tự phát xuất hiện. Những tài năng, cá tính, số phận ý thức rõ về cá nhân bản thân, khát khao thoát khỏi cảnh bế tắc, sự o ép nghiệt ngã của giáo điều Nho giáo, dồn nén đến độ bật lên thành khát vọng vượt ra khỏi hiện thực đương thời (Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Công Trứ...), nhưng chính bản thân họ vẫn mang nặng hệ tư tưởng Nho giáo nên bế tắc, không tìm thấy con đường giải phóng ngay tại xã hội đương thời mà tìm cách thoát ly xã hội, vì vậy ước mơ giải phóng chỉ có thể mang sắc thái tư tưởng Lão trang nhiều hay ít mà thôi. Đời sống cùng quẫn của người nghèo, sự tương phản giữa giàu và nghèo trong xã hội, tình yêu thương con người, khát vọng của con người muốn thoát khỏi sự nghiệt ngã của đời sống hiện thực, khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, muốn có hòa bình, hạnh phúc, muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột của những tên quan đồi bại... đã được phản ánh trong những tác phẩm văn học ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Đó là các tác phẩm: Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Kim Vân Kiều... Nhưng tất cả chỉ là tiếng thở dài của những số phận con người mà không có cách gì thấy được con đường giải phóng con người. Tóm lại, trong hoàn cảnh đất nước độc lập tự chủ nhưng xã hội phong kiến ở vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, vấn đề thân phận con người và mưu cầu cuộc sống hạnh phúc cho con người, giải phóng con người đã nổi lên bức xúc; vấn đề khẳng định cá nhân và giải phóng cá nhân cũng đã xuất hiện nhưng đều bế tắc, không có câu trả lời đúng đắn bởi lẽ không được soi sáng bởi một hệ tư tưởng cao hơn hệ tư tưởng phong kiến. Nó dừng lại ở tư tưởng đoàn kết nội bộ dân tộc, khoan thư sức dân, xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều sống yên vui, mà chưa thể vạch ra con đường giải phóng triệt để con người vì không đụng chạm đến căn nguyên cơ bản nhất, sâu xa nhất của nỗi khổ của con người là cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ phong kiến. Khi đất nước bị xâm lược, lịch sử giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc đã khẳng định tiền đề: Vấn đề con người, vấn đề cá nhân phụ thuộc, hòa nhập tất yếu vào vấn đề dân tộc. Hiện tượng Nguyễn Công Trứ là một minh chứng điển hình (Nguyễn Công Trứ - thế kỷ XIX - đã từng làm quan to trong triều, đã từng xin cáo quan vì chán nản trước thời cuộc, bi quan cho thân phận con người, muốn tìm sự giải thoát cá nhân bằng cách thoát ly xã hội nhưng khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858) Nguyễn Công Trứ khi đó đã ngoài 80 tuổi, dâng sớ xin theo việc quân chống giặc giữ nước). Nửa cuối thế kỷ XIX và kéo dài sang thế kỷ XX, tư duy Việt Nam chủ yếu hướng vào giải quyết vấn đề dân tộc (trước sự xâm lược của thực dân Pháp 1858) mà không đặt vấn đề con người, vấn đề cá nhân thành những vấn đề riêng cần giải quyết. Tuy nhiên, vấn đề ấy đã xuất hiện một cách bức xúc trong suốt nhiều thế kỷ trước khi đất nước bị xâm lược, bởi vậy, mọi tư tưởng, đường lối về vấn đề dân tộc đều phải đồng thời giải quyết cả vấn đề giải phóng con người, giải phóng cá nhân sau khi đã chiến thắng quân xâm lược. Sức lôi cuốn của mỗi phong trào, mỗi tổ chức giải phóng dân tộc tùy thuộc rất lớn vào đường lối phát triển đất nước, giải phóng con người, giải phóng cá nhân sau khi đã giành được độc lập. Đầu thế kỷ XX, các sĩ phu yêu nước (tiêu biểu là Phan Bội Châu) đã vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản trên cơ sở tiếp thu phần tích cực, tiến bộ của chủ nghĩa yêu nước truyền thống thực hiện một bước tiến về chất trong lịch sử tư tưởng nước ta về vấn đề con người. Phan Bội Châu đã nêu lên một cách cụ thể những quyền hạn và vinh dự mà con người sẽ được hưởng trong xã hội tương lai, trên cơ sở duy tân đất nước và mở mang dân trí, dân khí, dân quyền. Ông nêu lên một tư tưởng đặc sắc về dân quyền, rằng “vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ...”, bao nhiêu “việc chính trị đều do công chúng quyết định” [6, 264]. Quan điểm của ông về một xã hội trong đó tất cả mọi người được no ấm, được học hành, được bình đẳng, được tự do, một xã hội mà trong đó mọi người sẽ thương yêu, đùm bọc nhau (dưới dạng lý tưởng và lý thuyết) thấm đượm tinh thần yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo tích cực, vượt xa thuyết thân dân của Nho giáo [68, 22-23]. Tựu trung, cho đến thế hệ Phan Bội Châu vấn đề con người, giải phóng con người mà lịch sử đã đặt ra chưa được giải quyết một cách khoa học, cách mạng. Sự kiểm nghiệm của thực tiễn đã chứng minh các học thuyết mà thế hệ ấy tiếp thu và vận dụng không đáp ứng được nhu cầu giải phóng con người về mặt hệ tư tưởng. Kinh nghiệm lịch sử đó là một trong những tiền đề khách quan đưa đến việc Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Cần nhấn mạnh rằng, chính vấn đề con người, giải phóng con người, giải phóng cá nhân đã được đặt ra trong tư tưởng truyền thống dân tộc là nền tảng tư tưởng sâu rộng Hồ Chí Minh kế tục và phát triển sau này. 1.2.2. Thực trạng xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình trong và ngoài nước có những thay đổi lớn. Trên phạm vi thế giới, lịch sử loài người đã chuyển sang giai đoạn mới: CNTB chuyển sang giai đoạn CNĐQ, chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân, phong trào giải phóng dân tộc nhất định phải gắn với phong trào cách mạng thế giới. Trong nước, vua quan nhà Nguyễn đồi bại, nhu nhược, đầu hàng trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” của thế lực thực dân và phong kiến. Đời sống người lao động dưới chế độ phong kiến suy tàn vốn đã cơ cực nay càng cơ cực bội phần. Thực dân Pháp thực hiện chính sách cai trị tàn bạo: Về kinh tế: Vơ vét tài nguyên qua các cuộc khai thác thuộc địa lần 1, lần 2. Vơ vét tài sản của đồng bào ta qua chính sách sưu thuế nặng nề, vô lý. Sản xuất nông nghiệp - nguồn thu nhập chính của dân tộc ta bị thu hẹp, tình trạng mất mùa, lao dịch, phu phen liên miên... làm cho dân ta kiệt lực. Về chính trị-xã hội: Thực hiện chính sách ngu dân, bạo lực, rượu cồn, thuốc phiện và nhà thổ để đàn áp và làm tha hóa dân ta; chúng bóp chết mọi quyền tối thiểu của con người: quyền sống, quyền đi lại, quyền tự do báo chí, tự do hội họp... đã gây ra vô vàn tội ác man rợ đối với nhân dân ta. Đại đa số người Việt Nam bị đối xử như nô lệ. Trong đó, giai cấp nông dân phải gánh chịu sự áp bức bóc lột nặng nề nhiều hơn cả. Giai cấp công nhân được hình thành chủ yếu từ đội quân những người nông dân bị cướp hết ruộng đất, tài sản... đổ về các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền... Và ở đây, họ lao động nặng nhọc, bị đánh đập, cắt lương, đuổi việc một cách vô lý. Cuộc sống bần cùng của những người công nhân, nông dân phơi bày bản chất của cái gọi là tự do, bình đẳng, bác ái của chủ nghĩa thực dân (CNTD). Dưới chính sách kinh tế, văn hóa, chính trị thực dân, tính chất xã hội Việt Nam có những thay đổi lớn lao. Thay cho chế độ phong kiến lâu đời, một chế độ thực dân nửa phong kiến được xác lập. Phương thức bóc lột thuộc địa du nhập vào Việt Nam, làm cho cơ cấu kinh tế biến đổi kéo theo biến đổi trong cơ cấu xã hội, những giai cấp, tầng lớp xã hội mới ra đời: công nhân, tư sản, tiểu tư sản thành thị... Sự phân hóa xã hội ngày càng rõ rệt và sâu sắc; ý thức xã hội có những biến động lớn. Phong trào yêu nước diễn ra phức tạp nhưng sôi động. Động lực cách mạng bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tiểu tư sản, địa chủ vừa và nhỏ, tư sản dân tộc và tất cả những người yêu nước khác trên khắp cả nước. Đặc biệt, giai cấp công nhân đang trong quá trình chuyển từ trình độ "tự phát" lên "tự giác", vì vậy phong trào vô sản ngày càng có tổ chức và thống nhất được lực lượng dân tộc. Vấn đề đối với những nhà yêu nước thời kỳ này là phải nhận ra những thay đổi mới của đất nước. Thời đại đã thay đổi đòi hỏi phải có tri thức mới để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, soi sáng con đường cách mạng. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và cũng du nhập luôn tư tưởng của các nhà Khai Sáng Pháp tiến bộ. Tất nhiên khi vào Việt Nam, tư tưởng đó đã bị giản lược và điều quan trọng hơn là Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX không có các điều kiện cơ sở xã hội cần thiết cho tư tưởng tiến bộ, tích cực du nhập vào và phát triển. Mặt khác, thấm nhuần hệ tư tưởng phong kiến và Nho giáo từ trong bụng mẹ, được đào tạo từ "cửa Khổng sân Trình", do hạn chế về mặt giai cấp, mặt ý thức hệ và vai trò lịch sử của họ nên các sĩ phu yêu nước không thể khắc phục tư tưởng cũ một cách triệt để để mở cửa tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Xã hội Việt nam những năm đầu thế kỷ bị khủng hoảng về đường lối cách mạng. Phong trào yêu nước của nhân dân đã chuyển từ phạm trù phong kiến sang phạm trù tư sản. Cơ sở xã hội của cuộc khủng hoảng ấy là tính chất giao thời của xã hội, của nền kinh tế: đang chuyển từ chế độ phong kiến sang tính chất thực dân và nửa phong kiến. Nguyên nhân về mặt nhận thức cũng có ý nghĩa quyết định: không có lý luận đúng thì không có đường lối đúng. Bối cảnh lịch sử xã hội và các sự kiện diễn ra trong thời kỳ này đã hình thành trong Nguyễn Tất Thành lòng căm thù sâu sắc bọn thực dân cướp nước, chí hướng đuổi giặc cứu nước, đưa đến những suy nghĩ, phân tích về nguyên nhân nỗi thống khổ của đồng bào, nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước. Đánh giá xác đáng lập trường yêu nước của những người đương thời, anh quyết định không đi theo con đường của các bậc tiền bối. Nguyễn Tất Thành đi tìm một con đường mới - bằng hành động, không chấp nhận hệ tư tưởng phong kiến và tư sản. Nguyễn ái Quốc tham gia hoạt động trong phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới một lần nữa tận mắt chứng kiến, tận tâm cảm nhận nỗi cơ cực, tủi nhục tận cùng của thân phận người lao động mất nước, ở các nước thuộc địa, thậm chí ngay cả người lao động chính quốc cũng phải chịu đựng cuộc sống cùng khổ dưới chế độ tư bản, đế quốc. Từ những năm 20 (thế kỷ XX), Hồ Chí Minh đã có một loạt bài viết về tình cảnh thống khổ của công nhân và nông dân: “Phong trào công nhân Nhật bản”, “Phong trào công nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ”, “Tình cảnh nông dân Việt Nam”, “Tình cảnh người dân Trung Quốc”, “Phong trào công nhân ở Viễn Đông”, “Nông dân Bắc Phi”... đăng trên các báo Pháp, Nga, trong các bản tham luận đọc tại một số cuộc họp của Đảng cộng sản Pháp và các cuộc hội nghị quốc tế khác, và tập trung nhất trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Người đã tố cáo những tội ác cụ thể đối với những con người cụ thể ở các thuộc địa, qua đó Người đã khắc họa và lên án quyết liệt chế độ thực dân - chế độ đáng nguyền rủa đối với con người. Với vốn truyền thống yêu nước, yêu đồng bào vô hạn, tinh thần kiên cường bất khuất của dân tộc, bằng sự nhạy cảm đối với yêu cầu của dân tộc, bằng sự suy nghĩ độc lập, sáng suốt, với kinh nghiệm của dân tộc và của phong trào cách mạng thế giới mà Nguyễn Tất Thành đã nhận thức được, với đức độ của mình, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào. Người chỉ rõ: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" [52, 314]. Và chính Hồ Chí Minh trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam, tiến hành vận động, xây dựng, lãnh đạo phong trào vô sản trong nước. Trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam vào năm 1930, kết thúc thời kỳ khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc, giải phóng con người của cách mạng Việt Nam, hòa vào dòng thác cách mạng của thời đại. 1.2.3. Tư tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin Không bó mình trong văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh hướng tới nơi chủ nghĩa nhân văn ra đời và phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ. Từ cơ sở truyền thống văn hóa bền vững của quê hương, Hồ Chí Minh tiếp cận tinh hoa văn hóa thế giới với quy mô rộng lớn, toàn diện hơn, vươn tới những ánh sáng mới và đem ánh sáng mới ấy soi sáng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Người đã làm giàu trí tuệ của mình bằng những giá trị cao quý trong kho tàng văn hóa nhân loại. Những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc đã mở rộng tri thức của mình. Người quan tâm tìm hiểu đời sống chính trị-xã hội của các nước, tích cực tham gia các hoạt động chính trị-xã hội, dự các buổi hội thảo, mít tinh của thanh niên, công nhân, trí thức, đi du lịch nhiều nơi tìm hiểu văn hóa Pháp và văn hóa phương Tây. Đặc biệt Người tiếp thu nền văn hóa Pháp với chủ nghĩa nhân bản sâu sắc, tư tưởng dân chủ của thế kỷ ánh Sáng, của cuộc cách mạng Tư sản 1789, của tình nhân ái trong văn học Pháp, Anh, Nga. Hồ Chí Minh đọc nhiều tác phẩm viết về nhân quyền, dân chủ, nhân đạo của các nhà văn lớn [71, 33]. Thông qua những tác phẩm này Nguyễn ái Quốc sớm nhận thấy một chủ nghĩa nhân văn, một khát vọng tự do và một tinh thần chiến đấu không khoan nhượng chống chế độ nô dịch, áp bức bóc lột đang thống trị trên khắp châu Âu - đó là chế độ quân chủ chuyên chế, CNTB đang trong thời kỳ tích lũy tiền tư bản nên sự đối kháng xã hội giữa nông nô, dân tự do với chúa phong kiến, tư sản đang lên rất gay gắt. Đặc biệt Người đã đọc, nghiên cứu, phân tích những tư tưởng mới mẻ của cách mạng tư sản Pháp 1789 được biểu hiện qua bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền", "Tuyên ngôn Độc lập" 1776 của nước Mỹ. Qua tác phẩm, Nguyễn ái Quốc nhận thấy nội dung tư tưởng chủ đạo của thời đại. Rõ ràng tư tưởng dân chủ tư sản, tư tưởng của cuộc Đại cách mạng Tư sản Pháp đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn ái Quốc. Chắc chắn thời gian sống, lao động và hoạt động ở Pháp và nước ngoài đã góp phần rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển các tư tưởng nhân văn, tư tưởng giải phóng con người của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa nhân văn là khía cạnh cơ bản trong đời sống xã hội phương Tây đã bổ sung, bồi đắp thêm tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào của Hồ Chí Minh. Trong khi thừa nhận mặt tích cực của chủ nghĩa nhân văn tư sản, Nguyễn ái Quốc cũng sớm nhận ra mặt hạn chế của nó. Những hạn chế đó thể hiện ở sự đối lập gay gắt giữa tình cảnh nghèo khổ của các tầng lớp nhân dân lao động, trước hết là cuộc sống của những người vô sản với cuộc sống xa hoa của giai cấp tư sản mà Người tận mắt nhìn và mô tả hết sức sinh động trong một số bài báo Người viết khi còn ở Pháp, cũng như ở trong những hành vi phân biệt chủng tộc hết sức tàn bạo của tập tục Linsơ trên đất Mỹ... Những khẩu hiệu tốt đẹp: Tự Do, Bình Đẳng, Bác ái đã không được giai cấp tư sản thực hiện đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Quần chúng lao động bị biến thành phương tiện phục vụ cho mục đích của một số ít người hữu sản. "Cá nhân tự do" trong chủ nghĩa nhân đạo tư sản thực chất chỉ có ở những kẻ thống trị giàu có, còn ở đa số nhân dân thì bị cắt xén, hạn chế. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, qua bài học Cách mạng Mỹ, Cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh phân tích rõ hơn tính hạn chế và giả dối của dân chủ tư sản và chỉ rõ: "Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân", "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa" [45, 274]. Người kết luận: Cách mệnh tư bản là cách mệnh không đến nơi, cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy! [45, 274]. Nguyễn ái Quốc bằng kiến thức và linh khiếu chính trị nhìn rõ sự diệt vong tất yếu của xã hội tư sản đầy rẫy bất công và cũng nhận rõ những nhân tố tích cực của tư tưởng dân chủ tư sản được phát triển, nâng cao ở các nhà triết học tiến bộ. Người tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin nhận thức rõ những hạn chế của các học thuyết nhân đạo tư sản, nó mang đầy tính ích kỷ và hẹp hòi. Theo C.Mác, quan điểm nhân đạo đúng đắn nhất, chân chính chỉ có thể xuất phát từ con người hiện thực với cả bản chất tộc loại, cả bản chất giai cấp của con người, mang đầy đủ tính lịch sử, tính dân tộc, tính nhân loại của nó. Trên quan điểm duy vật và biện chứng Mác đã kế thừa hạt nhân hợp lý của các tư tưởng nhân đạo trước đó và xây dựng một hệ tư tưởng với bản chất và đặc điểm mới. Đó là chủ nghĩa nhân đạo trên lập trường duy vật thực tiễn, khoa học, vừa có tính nhân loại, vừa mang tính giai cấp công nhân sâu sắc. Điểm xuất phát của chủ nghĩa nhân đạo mácxít là con người với tư cách là một thực thể sinh vật-xã hội, dựa trên những nguyên tắc của đời sống con người với những nhu cầu và năng lực đòi hỏi phải thỏa mãn, phát triển ngày càng đầy đủ và toàn diện, là chủ thể và sản phẩm của hoạt động lao động [85, 9]. C.Mác vạch ra con đường tất yếu để chủ nghĩa nhân đạo chân chính trở thành hiện thực (tức con đường giải phóng thực sự cho quần chúng nhân dân lao động) đó là xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, sở hữu tư nhân TBCN và chế độ TBCN, xây dựng CNXH bằng cách mạng, bằng hoạt động thực tiễn của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân. Với luận điểm tổng quát: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội" triết học Mác-Lênin đã vạch ra phương pháp luận khoa học cho việc giải phóng con người, phát triển con người: Thứ nhất: Bản chất con người được xem xét trong quá trình hình thành, phát triển gắn với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội và là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nó không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là cố hữu mà là lịch sử - tự nhiên và không phải tự nhiên mà phải thông qua hoạt động thực tiễn con người mới tạo nên bản chất xã hội của mình, khẳng định mình - với tư cách là một cá nhân. Vì thế, mỗi cá nhân là sự tổng hợp không chỉ của các quan hệ hiện có (quan trọng nhất) mà còn là lịch sử của các quan hệ đó, trước hết là sự đúc kết của toàn bộ quá khứ. Như vậy, giải phóng con người trước hết phải bằng giải phóng môi trường xã hội với các quan hệ cơ bản hiện tồn và phải tính đến các quan hệ trong quá khứ; phải bằng hành động thực tiễn của mỗi cá nhân trong quá trình tham gia trực tiếp vào công cuộc cải tạo và xây dựng xã hội mới. Với cách tiếp cận đó, con người là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh, vấn đề là con người cần chủ động tạo ra hoàn cảnh phù hợp với bản tính Con Người, với nhu cầu, quyền lợi, mục đích và năng lực của chính mình, phát triển những năng lực mang tính tự nhiên - xã hội của con người. Với người lao động, điều đó biểu hiện càng sắc nét hơn. Là nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất (LLSX), người lao động gắn bó trực tiếp và chịu tác động trực tiếp của hoàn cảnh (cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng). Những quan hệ trong QHSX và do đó trong quan hệ xã hội càng nhân văn bao nhiêu thì bản chất con người càng phong phú và tốt đẹp bấy nhiêu, càng gần với bản chất vốn có của con người (con người chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người, "quay trở lại" Con Người - với tính cách là con người xã hội). Thứ hai: Cá nhân con người chỉ tồn tại thực sự khi đặt trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội, nếu tách ra khỏi quan hệ hữu cơ ấy cá nhân không thể có và không thể biểu lộ những phẩm chất của mình. Xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để con người thể hiện những bản tính phong phú, tư duy sáng tạo của mình. Với người lao động phải bằng và chỉ bằng thông qua quá trình sản xuất - sản xuất là quá trình mang tính xã hội - mới phát triển, mới khẳng định bản thân. Bởi vậy giải phóng con người không phải nhằm vào những cá nhân riêng lẻ mà vào lực lượng của toàn xã hội (người lao động là lực lượng đông đảo nhất, cơ bản nhất trong mỗi xã hội) và bằng một phương thức duy nhất đúng: phát triển LLSX trên đó xác lập một QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX hướng đích vì con người. Thứ ba: Các quan hệ xã hội (cái làm nên bản chất con người) là do con người làm ra trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới. Con người làm ra bản chất của mình, không phải do sự tác động từ bên ngoài con người (lực lượng siêu nhiên nào đó) vào sự hình thành những phẩm chất nào đó của con người mà là quá trình tự cải tạo, tự biến đổi của con người. Vì vậy con người cần cải tạo các quan hệ xã hội cho phù hợp với bản tính con người, tự giải phóng mình [73]. Như vậy, triết học Mác-Lênin đã không chỉ giải thích bản chất con người mà quan trọng hơn đã vạch đường cho việc giải phóng con người: giải phóng con người bằng việc cải tạo xã hội để cải tạo bản thân con người, do con người. C.Mác đã chỉ rõ rằng: Sự phát triển xã hội, giải phóng con người, phát triển con người toàn diện là một quá trình hết sức lâu dài, phức tạp, đầy những bước thăng trầm và phải bằng cuộc cách mạng toàn xã hội [43, 159]. Không có chủ nghĩa nhân đạo tự nó, cũng như không có tự do và dân chủ tự nó. Vấn đề đặt ra là thực hiện chủ nghĩa nhân đạo bằng con đường thực tiễn cách mạng: Cách mạng vô sản. Mác-Ăngghen viết: "... trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống lại tính chất hoạt động trước đây, nó xóa bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp" [37, 100]. "Lao động" mà Mác-Ăngghen khẳng định cần phải xóa bỏ là "lao động tha hóa" đè nặng lên con người. Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Mác vạch rõ nguồn gốc của sự tha hóa con người là chế độ tư hữu tư nhân về TLSX. "Sở hữu tư nhân biểu hiện như là cơ sở và nguyên nhân của lao động tự tha hóa" và "là kết quả của lao động tự tha hóa ấy" [42, 99]. Vì vậy chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân TBCN mới thủ tiêu được "lao động tha hóa", mới có thể giải phóng được con người. Cương lĩnh đấu tranh của người cộng sản có thể tóm tắt thành một luận điểm duy nhất: "Xóa bỏ chế độ tư hữu". Xóa bỏ chế độ tư hữu ở đây "không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản", thứ "sở hữu bóc lột lao động làm thuê chỉ tăng thêm với điều kiện là phải sản xuất ra lao động làm thuê mới để lại bóc lột lao động làm thuê đó, thứ sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực: tư bản và lao động" [38, 615-616]. Chính thứ sở hữu này, với kết quả tất yếu dẫn đến lao động tha hóa đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản, ngày càng gay gắt và sự thủ tiêu chế độ tư hữu là không thể tránh khỏi. Chỉ bằng con đường đó mới giải phóng được người lao động, đem lại cuộc sống xứng đáng với con người: một cuộc sống bình đẳng về kinh tế, chính trị, tinh thần trên cơ sở bình đẳng về điều kiện sinh hoạt, về môi trường trong đó con người sống và sáng tạo. Đến chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, vấn đề thực chất của chủ nghĩa nhân đạo mới được giải quyết một cách khoa học và cách mạng: đó là vấn đề tự do và hạnh phúc của con người, sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân và tất cả các cá nhân trên nguyên tắc mọi người phụ thuộc vào nhau, bình đẳng với nhau và tôn trọng lẫn nhau. Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản còn giải quyết mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng này với cộng đồng khác, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên... mà xuyên suốt là tư tưởng nhân đạo: người với người là đồng loại, bạn bè, con người là một bộ phận của giới tự nhiên... mọi cải tạo xã hội hay tự nhiên đều phải hướng tới một mục đích chung: Vì sự phát triển con người. Nguyễn ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác-Lênin vì chủ nghĩa Mác-Lênin vạch rõ con đường giải phóng dân tộc, giải phóng người lao động đi đến thắng lợi, đi tới xã hội tốt đẹp CNXH và CNCS. Hồ Chí Minh kế thừa từ chủ nghĩa Mác-Lênin phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng ấy giúp con người nhận thức đúng đắn quy luật của tự nhiên, của xã hội, của con người. Nó đòi hỏi những người mácxít không bao giờ được dừng lại ở những công thức có sẵn đối với sự vận động của xã hội và sự phát triển của con người. Chính vì lẽ đó mà tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh mang tính sáng tạo cao, phù hợp với điều kiện ._.o vệ quyền lợi cũng như thực hiện nghĩa vụ của mình. Đặc biệt hiện nay cần phổ biến giáo dục, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở để mọi người lao động hiểu thấu, tự giác, chủ động thực hiện trong đời sống. Như vậy sẽ khắc phục tư tưởng an phận, thụ động ỷ lại vào cán bộ ở người lao động, khơi dậy ở họ tinh thần làm chủ. - Giáo dục truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng. Trong sự nghiệp phát triển con người, các giá trị truyền thống có vai trò rất to lớn. Truyền thống là cái bản sắc độc đáo tích lũy và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và chính nó là sức mạnh tư tưởng, tinh thần của con người. Con người thể hiện sức mạnh của mình trong việc tiếp thu và phát huy sức mạnh truyền thống. Ngày nay các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc càng có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới. Đó là tính cộng đồng, tinh thần yêu nước, yêu lao động, cần cù chịu khó, tự lực tự cường, tinh thần nhân nghĩa... biến những giá trị đó thành sức mạnh trong hoạt động lao động sản xuất là một nhiệm vụ quan trọng đồng thời là một giải pháp tích cực, hiệu quả của quá trình nâng cao nhận thức chính trị-xã hội cho giai cấp công nhân và người lao động. Bên cạnh đó, xã hội đang hình thành những chuẩn mực giá trị mới. Giáo dục truyền thống không tách rời hoạt động định hướng giá trị, mà trước hết là định hướng giá trị cho sự phát triển nhân cách của người lao động Việt Nam. Để thực hiện tốt nội dung giáo dục chính trị, nâng cao ý thức giai cấp cho giai cấp công nhân và người lao động, cần thực hiện tốt các yêu cầu sau: - Thường xuyên tổ chức các chương trình giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân, người lao động. Mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho công nhân; đa dạng hình thức tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng kết hợp với giáo dục nghĩa vụ, yêu cầu sản xuất kinh doanh của từng đối tượng để nâng cao nhận thức cho người học, xây dựng niềm tin cho công nhân và người lao động vào sự phát triển của đơn vị mình và của đất nước. - Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục chính trị tư tưởng. Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng phải cụ thể, thiết thực bao gồm những quan điểm căn bản của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội, về dân chủ nhân dân, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng đơn vị, từng cơ sở... trong sự phát triển thực tiễn của đất nước. Nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng phải kịp thời đáp ứng với yêu cầu nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng của công nhân, người lao động. Gắn giáo dục chính trị tư tưởng với nâng cao vai trò trách nhiệm của mỗi người công nhân, mỗi người lao động trong sản xuất, trong xây dựng và thực hiện dân chủ, tạo ra năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và môi trường xã hội lành mạnh. Kết hợp giáo dục ý thức giai cấp với việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học, kỹ thuật công nghệ, tay nghề cho công nhân và người lao động vì trình độ học vấn là một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình thành ý thức giai cấp, trình độ giác ngộ chính trị của công nhân, người lao động. Nhận thức chính trị, giác ngộ giai cấp, giác ngộ XHCN là phẩm chất không thể thiếu của người công nhân, người lao động mới. Tiến hành giáo dục chính trị, giác ngộ giai cấp thông qua các hình thức hoạt động đa dạng, mang tính quần chúng như: diễn đàn công nhân, diễn đàn nông dân, các cuộc thi tìm hiểu truyền thống của dân tộc, giai cấp, của khu vực... Thời gian vừa qua có hình thức sinh hoạt “Giờ thứ 9” của giai cấp công nhân và các viên chức nhà nước thực sự bổ ích, mang lại hiệu quả trên nhiều mặt. Thông qua các phong trào sinh hoạt quần chúng, phong trào thi đua để giáo dục ý thức giai cấp, tinh thần tập thể, tính cộng đồng, tính tổ chức kỷ luật cho đội ngũ công nhân và người lao động. Phát huy sức mạnh của các tổ chức chính trị-xã hội trong các lĩnh vực, ngành... trong việc giáo dục nâng cao ý thức giai cấp, trình độ chính trị-xã hội cho công nhân và người lao động; nâng cao vai trò trách nhiệm của các cấp ủy đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân, người lao động. Tạo ra môi trường dân chủ, công bằng, bình đẳng cho sự phát triển của người công nhân, người lao động. Nâng cao năng lực làm chủ của người lao động. Đối với con người ở mọi thời đại, tri thức là sức mạnh, là vũ khí để chinh phục tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Thực tế cho thấy, trình độ dân trí thấp là một trong những nguyên nhân hạn chế, kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội, kìm hãm tiến trình giải phóng con người. Nâng cao tri thức người lao động chính là quá trình tạo ra và phát huy năng lực nội sinh to lớn, bền vững để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam, giải phóng người lao động Việt Nam. Nâng cao tri thức người lao động: tri thức văn hóa, khoa học kỹ thuật và tay nghề là vấn đề nền tảng tạo cơ sở nhận thức và hành động đúng, nâng cao vị trí của người lao động trong xã hội. Và ở khía cạnh khác, trong giai đoạn quá độ lên CNXH, cái tiên tiến chưa chiến thắng hẳn cái cũ, cái lạc hậu, nhiều vấn đề “tồn tại” trong đời sống xã hội. Ngay bản thân đội ngũ đảng viên, CBNVNN chưa thực sự là “người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Những đảng viên, CBNVNN thoái hóa biến chất luôn tìm khe hở của luật pháp, của các quy định để mưu lợi cá nhân, làm những việc có hại đến đời sống của quần chúng lao động. Khi đứng trước những công dân có trình độ văn hóa và hiểu biết cao thì họ không dễ gì khống chế, “bắt nạt”, sách nhiễu, gây phiền hà. Có câu “Sơn bắt tùy mặt, ma bắt tùy người”, người công dân hiểu biết sẽ tự bảo vệ được mình trong khuôn khổ luật pháp, trong khuôn khổ các quyền tự do dân chủ đã được ban hành. ở nước ta trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vấn đề nâng cao tri thức văn hóa, khoa học kỹ thuật của người lao động càng đặt ra cấp bách. Người lao động không thể “mù chữ”, “mù tri thức” để tiến hành sản xuất một cách chủ động, sáng tạo. Chất lượng hoạt động của con người phụ thuộc chủ yếu vào kiến thức và năng lực chuyên môn của họ. Trong nền sản xuất hiện đại, lao động ngày càng mang tính khoa học thì điều đó càng được thể hiện rõ nét. Do đó, phải đặc biệt chú ý nâng cao hàm lượng “chất xám” trong lao động. Một mặt, nó đảm bảo triển khai có hiệu quả những năng lực sản xuất hiện có, mặt khác, thúc đẩy người lao động quan tâm thực sự đến những tiến bộ khoa học-kỹ thuật, đến đổi mới cách thức lao động để áp dụng nhanh nhất những thành tựu khoa học-kỹ thuật hiện đại vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để giải quyết tốt vấn đề này, theo chúng tôi cần kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác giáo dục, đào tạo lực lượng lao động của ta hiện nay trên cả ba mặt quy mô, chất lượng, hiệu quả và xây dựng cho được cơ chế gắn đào tạo với sử dụng, với làm việc. Về chất lượng: - Trình độ chính trị-xã hội cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động phụ thuộc rất lớn vào trình độ văn hóa của họ. Trình độ văn hóa là nền tảng trên đó con người tiếp thu, hình thành và phát triển các năng lực của bản thân cả trong lĩnh vực xã hội lẫn kỹ thuật. Tri thức của mỗi người không phải một sớm một chiều mà có được mà phải thông qua quá trình hoạt động có hệ thống và liên tục trong một thời gian dài. Song, việc đầu tiên phải làm là thanh toán nạn mù chữ cho đội ngũ lao động dưới 45 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em dưới tuổi 15, tiến tới từng bước nâng mặt bằng văn hóa của người lao động lên. Nếu không thực hiện được khâu đột phá này thì khó mà nói tới việc cải tiến kỹ thuật, tiếp thu và áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Do vậy, cũng không thể nâng cao chất lượng người lao động với tư cách chủ thể sản xuất, chủ thể xã hội. - Nhiệm vụ giáo dục - đào tạo đối với đội ngũ công nhân và người lao động trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vừa nâng cao học vấn, những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học kỹ thuật, vừa đẩy mạnh đào tạo tay nghề, kỹ thuật công nghệ mới. Phải đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động hiện có. Theo kết quả điều tra thực trạng lao động và việc làm năm 1997, cả nước mới có 12% lực lượng lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Trong số những người có việc làm, ngay trong bộ phận ưu tú nhất của LLLĐ nước ta, một số lớn công chức ở trung ương và địa phương chưa đủ năng lực và trình độ đảm đương nhiệm vụ. Hơn nữa kết quả đào tạo công nhân kỹ thuật ở các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Theo Báo cáo của Thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh có đến 51% công nhân kỹ thuật sau khi ra trường phải mất một thời gian tự học khá dài mới tiếp cận được công việc [64, 15]. Thực trạng trên cho thấy, công tác đào tạo trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề cần được đặc biệt chú ý. Nhà trường cần trang bị cho người học những kiến thức tổng quát và cả những kiến thức chuyên sâu. Chú trọng đào tạo những nghề phù hợp với cơ cấu phát triển kinh tế. Quan tâm chú ý đến thực hành, coi trọng giáo dục năng lực vận dụng các nguyên lý, lý thuyết đã học vào sản xuất, khả năng tư duy sáng tạo. - Chú trọng dạy nghề gắn với việc làm. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ lành nghề, kỹ năng sống và hành nghề linh hoạt cho người lao động. Đây chính là đòi hỏi bức xúc nhất đối với lực lượng lao động. Đặc biệt cần đào tạo nghề cho nông dân. Quan niệm của ta lâu nay về đào tạo nghề cho người lao động chỉ tập trung đào tạo công nhân kỹ thuật cho các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông, chế biến thực phẩm... còn đông đảo nông dân đang sản xuất ở làng xã thì chưa nghĩ tới. Người nông dân không được hưởng sự đầu tư đào tạo nghề, vẫn phải sản xuất chủ yếu bằng kinh nghiệm cổ truyền. Cần ưu tiên đẩy mạnh quy mô và tốc độ dạy nghề cho lao động nông thôn, mà trước hết cho số lao động trẻ. Sự ưu tiên này bao gồm ưu tiên về chi ngân sách cho dạy nghề ở nông thôn, ưu đãi giáo viên dạy nghề, người học nghề... Việc dạy nghề cho lao động nông thôn phải vừa theo hướng đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho phát triển nông thôn trên nguyên tắc xuất phát từ chính nhu cầu quy hoạch sản xuất nông nghiệp từng địa phương, từng vùng để có thể phát huy được thế mạnh truyền thống của nơi đó, vừa theo hướng đào tạo lao động có tay nghề cao phục vụ sản xuất công nghiệp, xuất khẩu lao động để giảm sức ép việc làm ở nông thôn. Và sớm thực hiện đề án đào tạo nghề cho nông dân của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để mọi người lao động đều được qua đào tạo nghề. Nhà nước cần đề ra biện pháp khả thi thực hiện, trước hết cần ưu tiên kinh phí đầu tư, hơn nữa đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp cũng phải bảo đảm công bằng như đào tạo nghề cho các ngành khác. Về quy mô và cơ cấu đào tạo: Nhìn chung, quy mô và cơ cấu đào tạo lao động hiện nay chưa hợp lý, bất cập với đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu xã hội, cơ cấu vùng, cơ cấu dân tộc trong sinh viên học sinh chuyên nghiệp, học nghề chưa hợp lý. ở nước ta tỉ lệ cao đẳng, đại học, trên đại học - trung học chuyên nghiệp -công nhân: 1-1,6-3, tỉ lệ hợp lý phải là: 1-4-10; từ năm 1988 đến nay, vẫn còn khoảng 37% tổng số sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm; trong số những người có việc làm chỉ có 45-50% làm đúng nghề [63, 24]. Nếu không tính toán điều chỉnh kịp thời thì dù quy mô có tăng, chất lượng đào tạo có được bảo đảm đến mức nào đó thì hiệu quả của đào tạo đối với phát triển kinh tế-xã hội cũng vẫn rất hạn chế. Vì vậy, theo chúng tôi cần: - Quy hoạch lại, mở rộng các cơ sở dạy nghề và tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các cơ sở này để đảm bảo chất lượng đào tạo nghề lao động. - Phát triển mạnh giáo dục nghề nghiệp. Mở thêm các lớp bổ túc nghiệp vụ, trường dạy nghề cho người lao động với nhiều loại hình, nhiều trình độ đào tạo. Ưu tiên phát triển các trường kỹ thuật, các trường dạy nghề bằng nguồn ngân sách Nhà nước và huy động các nguồn ngoài ngân sách. - Điều chỉnh hợp lý quy mô đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề. Bảo đảm cân đối giữa các ngành nghề, trình độ, giới, dân tộc, khu vực. Cơ cấu đào tạo phải áp sát cơ cấu lao động, cơ cấu phát triển kinh tế-xã hội. Tóm lại, phải đào tạo nhân lực theo cơ cấu, trình độ ngành nghề gắn với thực tiễn phát triển nghề nghiệp trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, khoa học - công nghệ và trên địa bàn lãnh thổ khác nhau. Công tác đào tạo phải giúp cho người lao động có thể thích ứng và cơ động trong thị trường sức lao động. Song song với giáo dục chuyên môn nghiệp vụ, việc giáo dục phẩm chất đạo đức, tác phong, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật cần phải được chú trọng đúng mức. Có như vậy mới đào tạo ra những người lao động vừa giỏi về chuyên môn vừa vững vàng về chính trị. Sự phát triển của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và người lao động khác về mặt trí tuệ là yếu tố quyết định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, năng lực làm chủ của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và người lao động trong cuộc đấu tranh thủ tiêu các hiện tượng áp bức bóc lột trong xã hội. Dân chủ chủ yếu là kết quả của đấu tranh xã hội, của cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức áp bức bóc lột, mọi sự chuyên chế, song dân chủ cũng còn là kết quả của sự phát triển của tư duy, của sự nhận thức các giá trị. Vì vậy, có thể khẳng định: dân trí thấp không thể có nền dân chủ cao; trình độ dân chủ phụ thuộc phần lớn vào trình độ dân trí. Lênin từng nói: Người mù chữ đứng ngoài chính trị. Trình độ dân trí thấp kéo theo sự kém hiểu biết về văn hóa dân chủ, văn hóa pháp lý trong nhân dân. Đó là cơ sở xã hội rộng lớn cho sự quản lý quan liêu, tùy tiện, cho nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác, là bức tường ngăn con người chiếm lĩnh, phát triển những phẩm chất tiềm tàng trong bản thân mình... Người lao động với trình độ tri thức thấp không đủ khả năng đảm nhiệm vai trò người chủ làm chủ (về hình thức đóng vai trò người chủ đi chăng nữa). ở một xã hội dân chủ, những công dân có trình độ tri thức cao, một mặt, tồn tại khả năng thành lập được một cơ quan lập pháp đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của công dân, đủ năng lực xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với quy luật vận động khách quan của xã hội, đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của mọi cá thể trong xã hội; mặt khác, người dân phải ở một trình độ tri thức nhất định, một ý thức pháp luật tương ứng mới hiểu được các điều khoản pháp luật liên quan đến bản thân họ, các quyền và nghĩa vụ của họ, mới có thể điều chỉnh hành vi sao cho hợp pháp luật, theo đúng pháp luật. Trên cơ sở đó mới dần dần mở rộng hành lang pháp luật, giành khuôn khổ ngày càng nhiều cho tự do cá nhân. Tóm lại: Sự phát triển cao về mọi mặt: trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ và trình độ chính trị-xã hội, dân chủ, giác ngộ giai cấp, giác ngộ XHCN của giai cấp công nhân và người lao động chính là sức mạnh nội lực giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội (vấn đề mấu chốt của con người làm chủ), là yếu tố cơ bản để giai cấp công nhân và người lao động vươn lên làm chủ đời sống xã hội, trở thành lực lượng quyết định sự phát triển của xã hội. Đây không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân người lao động. Bên cạnh những chính sách vĩ mô, bản thân mỗi người công nhân, mỗi người lao động phải tự rèn luyện, tự học tập, tự bồi dưỡng, tự đào tạo, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài, tức phải trở thành quá trình tự giác; người lao động phải trở thành chủ thể tự giáo dục. Đây là điều kiện quyết định của việc nâng cao giá trị cá nhân, ý thức và năng lực đấu tranh khắc phục những hiện tượng phản dân chủ, làm tròn vai trò làm chủ, bản thân và xã hội. Nâng cao ý thức làm chủ, bồi dưỡng và nâng cao năng lực làm chủ của người lao động, nâng cao tính tự giác của người lao động, đặc biệt sự giác ngộ giai cấp của giai cấp công nhân - giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, tiên phong, lôi cuốn, hỗ trợ các tầng lớp lao động khác - thực sự là giải pháp cơ bản nhất để nâng cao bản thân người lao động, tạo sức mạnh nội sinh cho quá trình tự giải phóng, chủ động xây dựng môi trường dân chủ XHCN thực sự lành mạnh mà ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Kết luận chương 3 Trên đây là một hệ thống giải pháp đồng bộ, bao gồm những giải pháp kinh tế, những giải pháp chính trị - xã hội và giải pháp về bản thân chủ thể với tư cách là đối tượng của sự giải phóng tạo thành điều kiện cần (giải pháp 3.2.1 đến giải pháp 3.2.5) và điều kiện đủ (giải pháp 3.2.6) mang tính định hướng thúc đẩy quá trình giải phóng người lao động Việt Nam, đồng thời cũng chính là những phương tiện chung nhất, căn bản nhất để người lao động thực hiện giải phóng mình; không thể xem nhẹ điều kiện nào, song cần xác định "cái lõi" của hệ thống giải pháp là: ưu tiên phát triển LLSX gắn với xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN; yếu tố cần quan tâm hàng đầu là bảo đảm việc làm và đời sống của người lao động; yếu tố quy định tính chất, phạm vi, mức độ sự giải phóng là ở mức độ dân chủ hóa, trách nhiệm của hệ thống chính trị, đạo đức và năng lực của đội ngũ cán bộ nhân viên nhà nước - cầu nối Đảng, Nhà nước và Nhân dân lao động; và yếu tố giữ vai trò quyết định toàn bộ tiến trình giải phóng là chăm lo bồi dưỡng, nâng cao năng lực làm chủ và phẩm chất chính trị của giai cấp công nhân và người lao động - lực lượng quan trọng nhất và cũng chính là đối tượng, mục tiêu chính của sự nghiệp giải phóng con người. Người lao động nói riêng, con người nói chung chỉ được giải phóng toàn diện và triệt để khi đạt tới trình độ phát triển rất cao cả về kinh tế và về con người. Kết luận Từ những luận giải của mình, tác giả khẳng định một số kết quả nghiên cứu chủ yếu, những đóng góp mới về khoa học mà luận án đã đạt được như sau: 1. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang bản chất nhân văn cộng sản. Nó là một trong những yếu tố cấu thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh và giữ vai trò quan trọng trong việc làm nên tư tưởng Hồ Chí Minh chí lý chí tình - Nhà Văn hóa lớn thế giới. Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức là nội dung cơ bản nhất trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Nó biểu hiện sâu sắc tư tưởng nhân văn qua đối tượng giải phóng, tính chất triệt để của nội dung giải phóng. 2. Tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức là kết quả tất yếu của đòi hỏi của cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX kết hợp với thiên tài, nhân cách Hồ Chí Minh trên nền tảng vững chắc của truyền thống nhân ái của dân tộc, tư tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. 3. Tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang nét đặc trưng riêng. Điều đó thể hiện ở: Điểm xuất phát để hình thành nên tư tưởng là từ những người lao động bị áp bức, những người cùng khổ trong xã hội; và Hồ Chí Minh đứng trên quan điểm giai cấp khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin đã bắt đầu, tập trung vào giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến nhất của thời đại. Đây chính là điểm cơ bản nhất dẫn tới sự khác nhau về quan điểm giữa Hồ Chí Minh và những nhà yêu nước đương thời, quy định con đường giải phóng: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mà thực chất là "cuộc cách mạng không ngừng" ở một nước thuộc địa nửa phong kiến; lực lượng giải phóng: bằng chính lực lượng của những người lao động Việt Nam bị áp bức với lực lượng nòng cốt là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; và sự nghiệp giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức là một bộ phận của sự nghiệp giải phóng người lao động bị áp bức trên toàn thế giới, sự nghiệp giải phóng con người. 4. Sự nghiệp giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo - phát triển tư tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam, được biểu hiện ở cả hai lĩnh vực: tư tưởng và hoạt động thực tiễn. - Đưa người lao động Việt Nam từ thân phận nô lệ lên vị thế là chủ, từ lao động làm thuê lên làm chủ lao động - làm chủ tư liệu sản xuất và do đó làm chủ các quan hệ xã hội. - Mang lại trong thực tế nội dung "vật chất" cho vị thế "là chủ", "làm chủ" của người lao động Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống con người: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội bằng cách thực hiện các nhiệm vụ cơ bản: giành lại và giữ vững độc lập dân tộc; xây dựng quan hệ sản xuất XHCN trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất; xây dựng nền dân chủ XHCN và bồi dưỡng, nâng cao bản thân người lao động cả về ý thức làm chủ, năng lực làm chủ. 5. Một nét riêng của tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang "bản sắc Việt Nam, bản sắc phương Đông", thể hiện rõ nét ở: bên cạnh việc khẳng định sự phát triển cao của lực lượng sản xuất là điều kiện khách quan cơ bản nhất của sự giải phóng con người còn rất chú ý, nhấn mạnh vai trò của nhân tố chủ quan trong việc chủ động, tích cực kiến lập, thực hiện một cách kiên quyết, linh hoạt những nhiệm vụ cách mạng phục vụ sự nghiệp giải phóng người lao động, giải phóng nhân dân Việt Nam. 6. Khẳng định sự đấu tranh chống hiện tượng áp bức người lao động dưới mọi hình thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, ở nước ta là cần thiết, quan trọng; là nhiệm vụ không chỉ của hệ thống chính trị mà của cả bản thân giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và những người lao động khác. Từ đó khẳng định giá trị lý luận và giá trị thực tiễn của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong quá trình thúc đẩy sự nghiệp giải phóng người lao động Việt Nam lên trình độ mới trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. danh mục tài liệu tham khảo Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển (giản yếu), In lần thứ 3, Trường Thi xuất bản, 26 Võ Văn Tánh, Sài Gòn. Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb Nghệ Tĩnh, 1990. Báo cáo sơ kết việc thi hành Bộ luật lao động 1995-1997, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, tháng 7-1998. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 1999 và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2000, Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X, Hà Nội, 11/1999. Nguyễn Thanh Bình, Nâng cao chất lượng lao động nông thôn, Báo Nhân Dân cuối tuần, 18/4/1999, tr. 2. Phan Bội Châu - Toàn tập, tập 2, Nxb Thuận Hóa - Huế, 1990. Chủ nghĩa nhân đạo của triết học và triết học của chủ nghĩa nhân đạo, ủy ban Khoa học xã hội và Nhân văn, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1989. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguồn nhân lực trong chiến lược kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000, Tạp chí Triết học, số 4, 12/1990, tr. 19-22. Nguyễn Trọng Chuẩn, Vai trò động lực của dân chủ đối với sự hoạt động và sáng tạo của con người, Tạp chí Triết học, số 5, 10/1996, tr. 3-6. Đại từ điển tiếng Việt, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, 1999, tr. 1238 và 1240. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Trung ương 7, khóa VII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995: Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, tr. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam 1930 - 1945, Quyển 3, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999. Thế Gia, Bài học rút ra từ vụ án Tân Trường Sanh, Báo Nhân Dân 9/5/1999, tr. 3. Thế Gia, Bài học rút ra từ vụ án Minh Phụng - EPCO, Báo Nhân Dân, 15/9/1999, tr. 3. Võ Nguyên Giáp, Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, số 23, 12/1996, tr. 3-9. Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997. Võ Nguyên Giáp, Tạp chí Thông tin lý luận 11/1996, tr. 6-10. Việt Hà, Những vụ án "Hậu Tân Trường Sanh", Báo Nhân Dân 2/10/1999, tr. 3. Nguyễn Thị Hằng - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Giải trình trước Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 3, ngày 14/5/1998. Báo Nhân Dân 15/5/1998, tr. 2. Tiến Hải, Góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc ở cơ sở Đảng nông thôn, Báo Nhân Dân 29/3/1999, tr. 3. Vũ Hiền, Về cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý", Tạp chí Cộng sản, số 16, 8/1998, tr. 15-19. Phan Hiền, Những vấn đề bức xúc đặt ra từ mấy vụ án vừa qua, Báo Nhân Dân 4/5/1999, tr. 3. Hoàng Ngọc Hiến, Sức mạnh của văn hóa và sự phát triển của văn minh, Tài liệu khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Lê Mạnh Hùng (chủ biên), Kinh tế-xã hội Việt Nam 3 năm 96-98 và dự báo năm 2000, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999. Nguyễn Văn Huyên, Cội nguồn và bản chất tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Tạp chí Triết học, số 4, 8/1996, tr. 3-5. Phạm Khiêm ích - Hoàng Văn Hảo (Chủ biên), Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Vũ Khiêu (chủ biên), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980. Nguyễn Đình Lộc, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998. Đỗ Long (chủ biên), Hồ Chí Minh những vấn đề tâm lý học, Hà Nội, 1995. Nguyễn Ngọc Long, Mấy vấn đề triết học về con người, Thông tin chuyên đề: Những vấn đề cấp bách của triết học Mác-Lênin, Trung tâm Thông tin tư liệu Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994, tr.113-130 C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994. C.Mác-Ph.Ăngghen, Hệ tư tưởng Đức, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1984. C.Mác-Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1980. C.Mác, Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962. C.Mác, Các học thuyết về giá trị thặng dư, Quyển IV, Bộ Tư bản, phần thứ 2, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1969. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Hồ Chí Minh - Những sự kiện, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 1993. Đỗ Mười, Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 1, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 2, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1993. Bùi Đình Phong, Giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người - cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, 3/1994, tr. 29-31. Phùng Hữu Phú, Chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, Tập Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 127-150. Thanh Quy, Nhân lực bí đầu ra, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Kinh tế 1997-1998 Việt Nam và thế giới, tr. 23-24. Trần Thị Sánh, Lao động Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Tạp chí Lao động và Công đoàn, xuân 1998, tr. 15-16. Lê Hữu Tầng, Kích thích tính tích cực của người lao động thông qua lợi ích cá nhân, Tạp chí Cộng sản, 12/1990, tr. 26-31. Phạm Thành - Nguyễn Khắc Mai, Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991. Trần Đức Thảo, Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không có con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1989. Lê Sĩ Thắng (chủ nhiệm đề tài), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người, KX 02.05, Hà Nội, 1995. Lê Sĩ Thắng, Vấn đề giải phóng và giải thoát con người trong tư tưởng hai vua Trần, Tạp chí Triết học, số 1, 3-1994, tr. 26-27. Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Trung tâm khoa học lao động và xã hội, Nxb Thống kê, 1997. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 1969. Trần Hữu Tiến, Bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 3/1994, tr. 1-3. Trần Hữu Tiến, Vấn đề con người, cá nhân và xã hội trong học thuyết Mác, Tạp chí Cộng sản, 1/1994, tr. 24-28. Đặng Hữu Toàn, Tìm hiểu tư tưởng giải phóng con người của C.Mác, Tạp chí Triết học, số 4/1993, tr. 90-92. Tóm tắt báo cáo khoa học đề tài xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện Công nhân và Công đoàn, Hà Nội, 1997. Từ điển tiếng Việt, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội, 1992, tr. 703 và 705. Từ điển tiếng Việt (in lần thứ 2), Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr. 570-571. Từ điển tiếng Việt, in lần thứ 3, Văn Tân, Nxb KHXH, Hà Nội, 1994, tr. 581-582. Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học, Nxb Đà Nẵng, 1997, tr. 689. Từ điển triết học, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1976, tr. 647. Từ điển Triết học giản yếu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987, tr. 331. Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1 (A-D), Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995, tr. 65. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996. Xóa đói giảm nghèo các xã đặc biệt khó khăn, xã luận, Báo Nhân Dân 28/10/1999, tr. 1. A.G. Xpirkin, Triết học xã hội, tập 2, Nxb Tuyên huấn, 1989. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANAN.DOC
  • docVT-ML.DOC
  • docBAIBAO.DOC
  • docBANG-D.DOC
  • docBCHT.DOC
  • docBIA-TS.DOC
  • docBIA-TT1.DOC
  • docBIENBAN.DOC
  • docBNXET.DOC
  • docCAMDOA~1.DOC
  • docDON-BV.DOC
  • docDSOANH.DOC
  • docDSOANH1.DOC
  • docNX.DOC
  • docNX-BDBAO.DOC
  • docTOMTAT1.DOC
  • docTRYEU.DOC
Tài liệu liên quan