PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG
I. Những vấn đề cơ bản về đĩi nghèo
1. Nghèo tuyệt đối
"Nghèo ở mức độ tuyệt đối.... là sống ở ranh giới ngồi cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 USD/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so để thỏa mãn nhu cầu sống như l
28 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2156 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vấn đề đói nghèo ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đĩ các trị ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 USD/ngày cho châu Mỹ La tinh và Carribean đến 4 USD/ngày cho những nước Đơng Âu cho đến 14,40 USD/ngày cho những nước cơng nghiệp…. (Theo nguồn tin của chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc 1997).
Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Theo Quyết định số 143/2001/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đĩ phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xĩa đĩi và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình cĩ thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nơng thơn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nơng thơn đồng bằng những hộ gia đình cĩ thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/ người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ cĩ thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/ người/ tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nơng thơn những hộ cĩ mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ cĩ thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/ người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
2. Nghèo tương đối
Nghèo tương đối cĩ thể được xem như là việc cung cấp khơng đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đĩ.
Nghèo tương đối cĩ thể là khách quan, tức là sự hiện hữu khơng phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo khơng phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng cĩ tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hĩa - xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
3. Nghèo khổ của con người (Nghèo khổ tổng hợp)
Sự nghèo khổ của con người là khái niệm đã được Liên Hợp Quốc đưa ra trong “Báo cáo về phát triển con người” năm 1997. Theo đĩ, nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự thiệt thịi (khốn cùng) theo cả ba khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người. Chẳng hạn đối với các nước đang phát triển thì sự thiệt thịi đĩ là:
+ Thiệt thịi trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được xác định bởi tỷ lệ người dự kiến cĩ tuổi thọ khơng quá 40 tuổi.
+ Thiệt thịi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
+ Thiệt thịi về đảm bảo kinh tế (nghèo khổ về thu nhập), được xác định bởi tỷ lệ người khơng tiếp cận được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
Để đánh giá “nghèo khổ của con người”, Liên Hợp Quốc đã sử dụng chỉ số nghèo khổ của con người – HPI (Human Poor Index) hay cịn gọi là chỉ số nghèo tổng hợp. Giá trị HPI của một nước nĩi lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần dân số của nước đĩ. So sánh các giá trị HDI và HPI cho thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ con người. Các nước cĩ thể cĩ giá trị HDI như nhau nhưng giá trị HPI sẽ khác nhau.
Ví dụ: Trường hợp của Trung Quốc và Gioĩcđani (1999). Chỉ số phát triển con người HDI của mỗi nước đều là 0,718 và 0,714; chỉ số nghèo khổ con người HPI của Trung Quốc là 15,1% và của Gioĩcđani là 8,5%. ở Việt Nam, HPI năm 1999 là 29,1% xếp hạng theo HPI nước ta đứng thứ 45 trên 90 quốc gia được Liên Hợp Quốc nghiên cứu.
4. Đặc trưng của người nghèo và chiến lược xố đĩi giảm nghèo
Quy mơ và mức độ nghèo đĩi ở mỗi nước phụ thuộc vào hai yếu tố: thu nhập bình quân đầu người và mức độ trong phân phối bất bình đẳng thu nhập. Với bất kỳ mức thu nhập bình quân đầu người nào, việc phân phối càng bất cơng bao nhiêu thì số người nghèo đĩi sẽ càng nhiều hơn bấy nhiêu. Tương tự như vậy thì với bất kỳ sự phân phối nào, mức thu nhập bình quân càng thấp thì mức độ nghèo đĩi càng cao. Như vậy, phạm vi nghèo đĩi tuyệt đối là sự kết hợp của thu nhập bình quân đầu người thấp và phân phối thu nhập khơng đồng đều. Điều này cĩ ý nhĩa quan trọng làm cơ sở để các nước đang phát triển cĩ được những lựa chọn chính sách tồn diện cho giảm nghèo đĩi. Nếu chỉ tập trung vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế với hy vọng tăng thu nhập quốc dân sẽ cải thiện được mức sống cho những người nghèo thì chưa đủ mà cần phải tập trung cho chiến lược chống nghèo đĩi trong cả ngắn hạn và dài hạn, kết hợp giữa yếu tố tăng trưởng kinh tế với đảm bảo cơng bằng trong phân phối thu nhập. Để làm được điều này thì phải biết các nhĩm nghèo là ai và đặc điểm kinh tế của họ là gì?
+ Điều khái quát cĩ thể nhận thấy là trong số các nhĩm nghèo thì đại bộ phận là sống ở khu vực nơng thơn và chủ yếu tham gia vào các hoạt động nơng nghiệp. Họ là những nơng dân thiếu phương tiện sản xuất, đặc biệt là đất đai.
+ Ở thành thị thì người nghèo thường tập trung ở khu vực phi chính thức, nơi mà họ nhận được thu nhập là do lao động tự tạo việc làm (những người buơn bán nhỏ, bán hàng rong, trẻ đánh giày,….). Họ là những người khơng cĩ vốn hoặc cĩ vốn nhưng ít và trình độ giáo dục thấp.
+ Hầu hết các nước đang phát triển, số phụ nữ cĩ thu nhập thấp nhất thường nhiều hơn nam giới. Các quan sát trong thực tế cho thấy, họ được học hành ít hơn, ít cĩ cơ hội kiếm việc làm hơn và được trả lương thấp hơn so với nam giới.
Để đánh giá thành cơng trong xố đĩi giảm nghèo, người ta thường xem xét mức độ giảm tương ứng với mỗi % tăng trưởng kinh tế. Theo nhận xét của WB, tiêu dùng bình quân đầu người tăng 1% sẽ làm giảm trung bình 2% tỷ lệ nghèo (đối với bộ phận dân cư sống dưới mức 1USD/ngày), tỷ lệ giảm này sẽ là 1,5% nếu hệ số GINI (bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) là 0,6 và tỷ lệ giảm này sẽ tăng lên gấp đơi (3%) nếu như hệ số GINI cĩ giá trị là 0,2. Ở Việt Nam, 1% tăng trưởng GDP/người đã làm giảm 1.3% nghèo (giai đoạn 1993-1998) và giảm 1,2% (giai đoạn 1998-2002).
Nhìn chung nghèo khổ và sự giảm nghèo là khơng đồng đều giữa các nước, giữa các vùng và nhĩm dân cư trong từng nước. Vì vậy, chính sách chống đĩi nghèo khơng chỉ chứa đựng nhiều thách thức mang tính chất vĩ mơ và cả vi mơ. Nĩ khơng địi hỏi là cần phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh mà phải làm thế nào để tất cả các tầng lớp dân cư nghèo khổ trong xã hội cùng được hưởng lợi từ tăng trưởng; đồng thời cĩ chính sách trọng điểm nhằm giảm tình trạng nghèo khổ tuyệt đối. Những nội dung này đã được phản ánh trong “chiến lược xố đĩi giảm nghèo của quốc gia”.
Chiến lược tồn diện về tăng trưởng và xố đĩi giảm nghèo của nước ta đã được Chính phủ phê duyệt ngày 21/5/2002. Chiến lược này được coi là chương trình hành động để thực hiện định hướng tăng trưởng kinh tế và xố đĩi giảm nghèo. Chiến lược cũng đã thể hiện được tính hài hồ giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
PHẦN 2: VẤN ĐỀ ĐĨI NGHÈO Ở VIỆT NAM
I. Xố đĩi giảm nghèo là chương trình trọng điểm của Chính phủ
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương. Khái niệm này đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đĩ cĩ Việt Nam.
Ngay từ khi Việt Nam giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đĩi nghèo như là một thứ "giặc" cũng như giặc dốt, giặc ngoại xâm, nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thốt nạn bần cùng, làm cho mọi người cĩ cơng ăn, việc làm, ấm no và đời sống hạnh phúc. Giảm đĩi nghèo khơng chỉ là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, mà cịn là một bộ phận quan trọng của mục tiêu phát triển.
Xĩa đĩi giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo cơng bằng xã hội và tăng trưởng bền vững
Xĩa đĩi giảm nghèo khơng chỉ là cơng việc trước mắt mà cịn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xĩa hộ đĩi, giảm hộ nghèo; lâu dài là xĩa sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Xĩa đĩi giảm nghèo khơng đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thốt nghèo. Xĩa đĩi giảm nghèo khơng đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng xĩ hội cĩ nhiều khĩ khăn mà cịn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”.
Do đĩ, xĩa đĩi giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên gĩc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện (tiền đề) cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đĩ, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xĩa đĩi giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế cĩ thể bị ảnh hưởng, song xét một cách tồn diện về dài hạn thì kết quả xĩa đĩi giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình cũng giống như việc thực hiện người cày cĩ ruộng ở một số nước đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nơng nghiệp. Nhiều nơng dân nhờ đĩ đã thốt khỏi đĩi nghèo và cĩ điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành nơng nghiệp.
Xố đĩi giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo cơng bằng xã hội và tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ cĩ tăng trưởng cao, bền vững mới cĩ sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thốt khỏi đĩi nghèo. Do đĩ, xố đĩi giảm nghèo được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của cả nước, các ngành và các địa phương.
Đĩi nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nĩng bỏng của các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, đây là vấn đề được các Chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm để tìm các giải pháp hạn chế và tiến tới xố bỏ nạn đĩi nghèo trên phạm vi tồn cầu.
Chính phủ Việt Nam coi vấn đề xố đĩi giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như Việt Nam đã cơng bố cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được nhất trí tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia năm 2000. Cơng cuộc phát triển kinh tế và xố đĩi giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và được quốc tế đánh giá cao.
Xĩa đĩi giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của Chiến lược phát triển dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội từ Trung ương đến cơ sở. Cơng tác xĩa đĩi giảm nghèo phải được quan tâm ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, coi đĩ là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với cơng tác xĩa đĩi giảm nghèo. Thơng qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước chủ động điều tiết hợp lý các nguồn lực của tồn xã hội vào mục tiêu và hoạt động xĩa đĩi giảm nghèo quốc gia. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội,.... để giúp đỡ, bảo vệ người nghèo. Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng khơng loại người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế. Kinh nghiệm thế giới cho thấy sự thiếu vắng vai trị của Nhà nước đặc biệt cĩ hại đối với người nghèo, cộng đồng nghèo, vì người nghèo khơng tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, Nhà nước cĩ vai trị nịng cốt và cĩ trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội.
Xĩa đĩi giảm nghèo khơng chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, tồn xã hội mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thốt nghèo. Trong khi trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào cản ngăn cách xã hội và kinh tế để xĩa đĩi giảm nghèo; thỡ hiệu quả xĩa nghèo đạt thấp nếu bản thân người nghèo khơng tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức sống cao hơn. Xĩa đĩi giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thốt nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành cơng của mục tiêu chống đĩi nghèo ở các nước. Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thốt nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xĩa đĩi giảm nghèo thành cơng nhanh và bền vững.
II. Thực trạng và nguyên nhân đĩi nghèo ở Việt Nam
1. Thực trạng
1.1. Việt Nam được xếp vào nhĩm các nước nghèo của thế giới
Tỷ lệ hộ đĩi nghèo của Việt Nam cịn khá cao. Theo kết quả Điều tra mức sống dân cư (theo chuẩn nghèo chung của quốc tế), tỷ lệ đĩi nghèo năm 1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ lệ này vào khoảng 32% (giảm khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Nếu tính theo chuẩn đĩi nghèo về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính năm 2000 là 13%.
Theo chuẩn nghèo của Chương trình xĩa đĩi giảm nghèo quốc gia mới, đầu năm 2000 cĩ khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước.
1.2. Nghèo đĩi phổ biến trong những hộ cĩ thu nhập thấp và bấp bênh
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành cơng rất lớn trong việc giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn cịn rất mong manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nơng nghiệp. Với điều kiện nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và của cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đĩi nờn khi cĩ những dao động về thu nhập cũng cĩ thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nơng nghiệp cũng tạo nên khĩ khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhĩm cĩ mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa nhĩm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đĩi cĩ cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhĩm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhĩm người cĩ mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nơng thơn cịn rất cao.
1.3. Nghèo đĩi tập trung ở các vùng cĩ điều kiện sống khĩ khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các vùng Đồng bằng sơng Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán....) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khĩ khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khĩ khăn chưa cĩ đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phịng học; 5% số xã chưa cĩ trạm y tế; 55% số xã chưa cĩ nước sạch; 40% số xã chưa cĩ đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ cơng trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa cĩ chợ xã hoặc cụm xã.
Bên cạnh đĩ, do điều kiện thiên nhiên khơng thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm số hộ tái đĩi nghèo trong tổng số hộ vừa thốt khỏi nghèo vẫn cịn lớn.
1.4. Đĩi nghèo tập trung trong khu vực nơng thơn
Nghèo đĩi là một hiện tượng phổ biến ở nơng thơn với trên 90% số người nghèo sinh sống ở nơng thơn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đĩi về lương thực, thực phẩm của thành thị là 4,6%, trong khi đĩ của nơng thơn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nơng dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, cơng nghệ....), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khĩ khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn. Những người nơng dân nghèo thường khơng cĩ điều kiện tiếp cận với hệ thống thơng tin, khĩ cĩ khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nơng nghiệp. Phụ nữ nơng dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhĩm nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu nhập ít hơn, họ ít cĩ quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng do đĩ cĩ ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại.
Biểu 1.2: Ước tính quy mơ và tỷ lệ nghèo đĩi theo chuẩn nghèo mới giữa thành thị và nơng thơn năm 2000
Số hộ nghèo (nghìn hộ)
So với số hộ trong vùng (%)
So với tổng số hộ nghèo cả nước (%)
Tổng số
2.800
17,2
100
Nơng thơn:
2.535
19,7
90,5
Trong đĩ: - Nơng thơn miền núi
785
31,3
28,0
- Nơng thơn đồng bằng
1.750
16,9
62,5
Thành thị
265
7,8
9,5
Nguồn: Chương trình quốc gia xĩa đĩi giảm nghèo
1.5. Nghèo đĩi trong khu vực thành thị
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đĩi thấp hơn và mức sống trung bình cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống khơng đồng đều. Đa số người nghèo đơ thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, cơng việc khơng ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước dẫn đến sự dơi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở khu vực này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khĩ khăn hơn. Số lao động này phải chuyển sang làm các cơng việc khác với mức lương thấp hơn, hoặc khơng tìm được việc làm và trở thành thất nghiệp.
Người nghèo đơ thị phần lớn sống ở những nơi cĩ cơ sở hạ tầng thấp kém, khĩ cĩ điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh mơi trường, thốt nước, ánh sáng và thu gom rác thải....). Họ thường dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền và khơng cĩ hoặc cĩ ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khĩ khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Quá trình cơng nghiệp hĩa và đơ thị hĩa làm tăng số lượng người di cư tự do từ các vùng nơng thơn đến các đơ thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao động. Hiện tại chưa cĩ số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong các báo cáo về nghèo đĩi đơ thị. Những người này gặp rất nhiều khĩ khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đĩ họ khĩ cĩ thể tìm kiếm được cơng ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ cĩ ít cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội và phải chi trả cho các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã cĩ hộ khẩu.
Ngồi ra, đĩi nghèo cịn chiếm tỷ lệ cao trong các nhĩm đối tượng xã hội khác như những người khơng nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ bạc....).
1.6. Tỷ lệ nghèo đĩi khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Đĩi nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, cĩ tỷ lệ đĩi nghèo khá cao. Cĩ tới 64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Đây là những vùng cĩ điều kiện sống khĩ khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ cịn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên.
Biểu 1.3: Ước tính quy mơ và tỷ lệ nghèo đĩi theo chuẩn nghèo mới (2001-2005) của Chương trình xĩa đĩi giảm nghèo theo vùng đầu năm 2001
Số hộ nghèo, (nghìn hộ)
So với tổng số hộ trong vùng (%)
So với tổng số hộ nghèo cả nước (%)
Tổng số
2.800
17,2
100
Vùng Tây Bắc
146
33,9
5,2
Vùng Đơng Bắc
511
22,3
18,2
Vùng Đồng bằng sơng Hồng
337
9,8
12,0
Vùng Bắc Trung Bộ
554
25,6
19,8
Vùng duyên hải miền Trung
389
22,4
13,9
Vùng Tây Nguyên
190
24,9
6,8
Vùng Đơng Nam Bộ
183
8,9
6,6
Vùng Đồng bằng sơng Cửu Long
490
14,4
17,5
Nguồn: Chương trình quốc gia xĩa đĩi giảm nghèo
1.7. Tỷ lệ hộ nghèo đĩi đặc biệt cao trong các nhĩm dân tộc ít người
Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng cuộc sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khĩ khăn và bất cập. Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo.
Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị cơ lập về mặt địa lý, văn hố, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản.
2. Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam
Cĩ nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đĩi ở Việt Nam nhưng nĩi chung nghèo đĩi ở Việt Nam cĩ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:
2.1 Nguyên nhân khách quan
* Việt Nam là một nước nơng nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài.
* Chính sách nhà nước thất bại: Sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính sách tập thể hĩa nơng nghiệp, cải tạo cơng thương nghiệp và chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt tồn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nơng thơn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao cĩ lúc lên đến hơn 700% năm.
* Hình thức sở hữu: Việc áp dụng chế độ sở hữu tồn dân, sở hữu nhà nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất.
* Việc huy động nguồn lực nơng dân quá mức, ngăn sơng cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nơng nghiệp đơn điệu, cơng nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hĩa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao.
* Lao động dư thừa ở nơng thơn khơng được khuyến khích ra thành thị lao động, khơng được đào tạo để chuyển sang khu vực cơng nghiệp, chính sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nơng dân di cư, nhập cư vào thành phố.
* Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các cơng trình thâm dụng vốn của Nhà nước.
2.2 Nguyªn nh©n chđ quan
Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành tựu nhưng số lượng người nghèo vẫn cịn đơng, cĩ thể lên đến 26% (4,6 triệu hộ) do các nguyên nhân khác như sau:
* Sai lệch thống kê: Do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) làm cho tỷ lệ nghèo tăng lên.
* Việt Nam là nước nơng nghiệp lạc hậu, năm 2004 vẫn cịn 74,1% dân sống ở nơng thơn trong khi tỷ lệ đĩng gĩp của nơng nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp. Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong khi thu nhập bình quân trên đầu người cịn thấp.
* Người dân cịn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa cĩ các thiết chế phịng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thơng, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi khơng lường trước được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng....
* Nền kinh tế phát triển khơng bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước cịn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn cịn ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước cĩ hiệu quả thấp, khơng thế chấp, mơi trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả cịn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường cịn thấp, nơng dân khĩ tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nước,
* Ở Việt Nam, sự nghèo đĩi và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu của tuổi thơ. Các em khơng được thừa hưởng quyền cĩ một tuổi thơ được thương yêu, chăm sĩc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ phát triển hết khả năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em cĩ nguy cơ bị tước đoạt các quyền đĩ vì các hiểm họa đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
* Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nơng thơn, giữa các dân tộc cao.
* Mơi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào nơng nghiệp.
* Hiệu năng quản lý chính phủ thấp.
III. Xố đĩi giảm nghèo – Thành tựu, thách thức và giải pháp
Ở Việt Nam, đĩi, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xĩa đĩi, giảm nghèo tồn diện, bền vững luơn luơn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng gĩp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn nước ta, cơng cuộc xĩa đĩi, giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng kể, cĩ ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phịng, phát huy được bản chất tốt đẹp của dân tộc ta và gĩp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong khoảng thời gian 5 năm từ 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống cịn 8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ, đến cuối năm 2005 cịn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. "Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành cơng nhất trong phát triển kinh tế". Đĩ là đánh giá trong "Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân hàng thế giới.
Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với định hướng chung là từng bước tiếp cận với trình độ của các nước đang phát triển trong khu vực, nên chuẩn nghèo đã được điều chỉnh lại, trong đĩ cĩ tính đến các nhân tố ảnh hưởng. Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 quy định: Hộ nghèo là những hộ ở khu vực nơng thơn cĩ thu nhập bình quân 200.000 đồng/người/tháng trở xuống, đối với những hộ ở khu vực thành thị cĩ thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống. Theo quy định này, ước tính năm 2005 cả nước ta cĩ khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ trong tồn quốc; Các vùng cĩ tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (44%) và Tây Nguyên (40%); vùng cĩ tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đơng Nam Bộ (9%).
Với sự phấn đấu khơng mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong nhiều năm qua, cơng cuộc xĩa đĩi, giảm nghèo đã đạt được một số thành tựu quan trọng, nhưng phía trước vẫn cịn khơng ít khĩ khăn và thách thức:
Thứ nhất là về nhận thức, một bộ phận khơng nhỏ người nghèo và địa phương nghèo vẫn cịn tư tưởng ỷ lại, trơng chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nên chưa chủ động vượt lên để thốt nghèo.
Thứ hai là sự đánh giá tỷ lệ nghèo cịn thấp hơn thực tế ở một vài địa phương, nên một bộ phận người thực sự nghèo chưa được tiếp cận với các chương trình xĩa đĩi, giảm nghèo.
Thứ ba là nguồn lực huy động cho chương trình xĩa đĩi, giảm nghèo cịn khiêm tốn. Hằng năm, ngân sách nhà nước hỗ trợ cho chương trình xĩa đĩi, giảm nghèo mới chỉ được bình quân khoảng 60.000 đồng/người. Trong khi đĩ, một số địa phương chưa chủ động huy động hoặc huy động chưa tương xứng với tiềm năng của nguồn lực tại chỗ; chưa lồng ghép hài hịa các loại nguồn lực trên cùng địa bàn và chưa huy động được sự tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các tổ chức, các cộng đồng và các cá nhân cĩ điều kiện vào cơng cuộc xĩa đĩi, giảm nghèo. Vì vậy, chưa đáp ứng được nhu cầu cần hỗ trợ của người nghèo để đủ điều kiện thốt nghèo bền vững, dẫn đến mục tiêu thốt nghèo khĩ thực hiện được.
Thứ tư là một số cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ xĩa đĩi giảm nghèo chưa thật phù hợp, việc tổ chức thực hiện cịn bất cập, cịn mang tính bao cấp, nên khơng tạo được động lực để người nghèo chủ động vượt nghèo. Biện pháp hỗ trợ làm nhà ở cho đồng bào nghèo chưa thật phù hợp với nhu cầu và tập quán của từng dân tộc, từng địa phương; cĩ địa phương chưa chú ý đầy đủ đến quy hoạch sản xuất lâu dài và mơi trường sống của nhân dân trong khi xây dựng các khu dân cư vượt lũ; mức chi phí cho khám, chữa bệnh cịn thấp; chính sách trợ cước, trợ giá cũng cịn bất hợp lý; mức vốn vay tín dụng ưu đãi cịn thấp và chưa thật phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh; cơ chế phân bổ vốn cịn mang tính bình quân, v.v.... Ở một số nơi, nhất là vùng cao, vùng sâu thơng tin đến với người dân chưa đầy đủ nên nhận thức về các chính sách của Nhà nước đối với người nghèo cịn hạn chế. Những khiếm khuyết nĩi trên đã làm cho hiệu quả của chương trình xĩa đĩi, giảm nghèo bị giảm bớt một phần.
Thứ năm là việc tổ chức thực hiện chương trình xĩa đĩi, giảm nghèo khơng đồng đều ở một số địa phương. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực. Phần lớn cán bộ thực thi chương trình ở cấp xã đều kiêm nhiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Việc theo dõi, giám sát chương trình chưa cĩ hệ thống và đồng bộ. Cơng tác sơ kết, tổng kết, đánh giá chương trình chủ yếu dựa trên các báo cáo với lượng thơng tin chưa đầy đủ.
Do nhiều yếu tố tác động khách quan trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tình trạng nghèo đĩi hiện nay đang vận động theo hướng:
+ Tốc độ giảm nghèo khơng đồng đều giữa các vùng và cĩ xu hướng chậm lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những năm 1992 - 1998, gi._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4834.doc