A. Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương và được coi là một vị trí chiến lược quan trọng với diện tích là 329600m2 đường biên giới dài 7927km, tiếp giáp với các nước: Lào, Cam PhuChia, Trung Quốc, có nhiều hải cảng, đảo, quần đảo rất thuận lợi cho việc giao lưu quốc tế dân số là 77.685.500 người ( tính đến ngày 1/7/2000) người ở độ tuổi lao động đông. Bên cạnh đó Việt Nam là nước đang phát triển với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trong những năm qua đã thu được rất nhiều thành tựu phấn khởi, nhưng bên cạnh đó thì xã hội nảy sinh ra rất nhiều khó khăn phức tạp về việc làm. Về sự quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề ANTT, tội phạm gia tăng với nhiều thủ đoạn hoạt động tinh vi xảo quyệt hơn. Đặc biệt là sự gia tăng tội phạm ma tuý. Bọn chúng hoạt động ở khắp mọi nơi gây ra hậu quả nặng nền cho xã hội. Ma tuý đã vi phạm nghiêm trọng tới truyền thống đạo đức, ảnh hưởng rất sấu tới sự phát triển kinh tế gây hại cho sức khoẻ của một bộ phân nhân dân ảnh hưởng sấu tới nòi giống dân tốc, để lại hậu quả lớn cho thế hệ mai sau và ma tuý còn là cầu nối lan truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Trước tình hình trên Đảng và Nhà nước đã có rất nhiều nghị quyết chỉ thị kế hoạch để phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Nhưng trong thực tiễn đấu tranh, phòng ngừa ngăn chặn tội phạm ma tuý vẫn còn nhiều hạn chế thiếu sót, tội phạm về ma tuý vẫn còn tồn tại nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật mà không bị xử lý. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do quá trình điều tra, xét xử các vụ án về ma túy vẫn còn kéo dài, không kiểm tra đánh giá được chứng cứ, chứng cứ còn thu thập một cách thiếu chuẩn xác, không đánh giá được hết các thuộc tính của chứng cứ. Tất nhiên vấn đề này cũng đã được các cơ quan pháp luật tổng kết rút kinh nghiệm đối với các vụ án ma tuý oan sau nghĩa trọng, để ngăn ngừa những lệch lạc, vi phạm tương tự tiếp tục diễn ra trong thực tiễn đánh giá chứng cứ. Việc nghiên cứu đề tài "Vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của trình tự đánh giá, sử dụng những chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự về ma tuý.
2. Mục đích, nhiệm vụ, chức năng của đề tài
- Mục đích của đề tài: Nghiên cứu đề tài " Vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý" sẽ làm rõ một cách cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn của trình tự đánh giá sử dụng chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý. Thông qua việc nghiên cứu đề tài này bước đầu nêu ra được thực trạng hiện nay trong việc đánh giá, sử dụng chứng cứ trong vụ án hình sự ma tuý, đưa ra đề suất, một giải pháp thực tiễn, dự báo tình hình nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của việc đánh giá sử dụng chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý, góp phần vào đấu tranh tội phạm và tệ nạn ma tuý, góp phần vào cuộc đấu tranh tội phạm và tệ nạn ma tuý của các cơ quan bảo vệ pháp luật và của toàn xã hội trong thời đại hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài: Đề tài sẽ làm rõ về tội phạm ma tuý và lý luận về chứng cứ và chứng minh các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự về ma tuý ở các văn bản, tài liệu của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài đánh giá đúng thực trạng thu thập đánh giá và sử dụng chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở nước ta hiện nay. Dự báo đánh giá các yếu tố tác động đến hoạt động đó ở Việt Nam trong những năm tới, từ đó nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của những giải pháp nâng cao hiệu quả thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý.
- Chức năng của đề tài: Đề tài có chức năng sau:
Chức năng mô tả: Đề tài đã ghi nhận, phản ánh cho chúng ta thấy được tình hình về tội phạm và tệ nạn ma tuý ở nươc ta thực trạng và vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ma tuý ở giai đoạn hiện nay.
Chức năng giải quyết: Đề tài không chỉ mô tả cho chúng ta thấy bức tranh sinh động về tình hình tội phạm về tội phạm và tệ nạn ma tuý trong xã hội và thực trạng vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ma tuý mà còn giải thích, làm sáng tỏ vì sao lại dẫn đến tình trạng thiêu sót và thế nào là đánh giá chứng cứ trong vụ án ma tuý từ đó tìm ra được những nguyên nhân và điều kiện dẫn đến những thiêu sót đó, các vấn đề xã hội ảnh hưởng tới vấn đề đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự về ma tuý. Chức năng này có vai trò kiểm tra kết quả của chức năng mô tả đúng hay sai.
Chức năng dự báo tình hình: Trên cơ sở của việc nghiên cứu, thực trạng tội phạm và tệ nạn ma tuý, đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự ma tuý, các tài liệu về nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ma tuý. Đề tài dự báo tình hình về vấn đề này trong tương lai, từ đó có những phương hướng, biện pháp khắc phục vấn đề trên.
3. Phạm vi đối tượng và cơ sở lý luận của đề tài
Đề tài nghiên cứu tất cả những vấn đề có liên quan tới vấn đề đánh giá chứng cứ trong quát trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý ở nước ta hiện nay và trong những năm tới.
Theo nội dung nghiên cứu của đề tài thì đối tượng nghiên cứu của đề tài là bao gồm các đối tượng sau:
Thực trạng về hoạt động của bọn tội phạm ma tuý trong thời gian vừa qua.
Vấn đề đánh giá chứng cứ, những thiếu sót trong sử dụng đánh giá chứng cứ về vụ án ma tuý ở nước ta trong thời gian vừa qua, những phương pháp khắc phục góp phần xây dựng biện toàn hệ thống pháp luật ở Việt Nam.
Cơ sở lý luận của đề tài: Trên cơ sở về quan điểm của Mac - Lênin về con đường nhận thức, chân lý trong tố tụng hình sự, quan điểm của Đảng và nhà nước về thực trạng đánh giá chứng cứ hình sự ma tuý, những thành tựu của các khoa học, triết học, luật hình sự, tố tụng hình sự, lô gíc học các văn bản của Đảng và Nhà nước về phòng ngừa ngăn chặn đấu tranh tội phạm ma tuý và các tệ nạn xã hội và các học thuyết, chính trị pháp lý. Để tài trình bày trên cơ sở nghiên cứu hệ thống các văn bản của ban ngành Công An, Kiểm Sát, Toà án đã hướng dẫn về điều tra hình sự nói chung là điều tra hình sự về ma tuý nói riêng bộ luật tố tụng hình sự và tài liệu tư pháp hình sự của một số nước trong khu vực, trên tế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp luận của đề tài
Phương pháp ở đây được hiểu là phương thức giúp chúng ta tìm hiểu sự vật hiện tượng và quá trình nhận thức đối tượng. Cách hiểu này có thể trở thành phương pháp luận, nhưng phương pháp này chỉ trở thành phương pháp luận khi được diễn đạt dưới dạng những nguyên tắc, quy luật, khái niệm, phạm vi nhất định. Nó là hệ thống các phương pháp dùng để nhận thức và cải tạo thực tại, để tổ chức hoạt động của con người và xã hội, cũng không phải bất kỳ một tập hợp các phương pháp nhận thức nào đều có thể coi là phương pháp luận. Chỉ có phương pháp nào cho phép tìm ra được hướng chung nhất, khái quát nhất và đầy đủ nhất của quá trình nhận thức và xuất phát điểm của việc tiếp nhận thực tiễn, đánhgiá kết quả của hoạt động nhận thức thì mới có thể coi là phương pháp luận của hoạt động đó. Phương pháp luận chỉ bao hàm hệ thống các phương pháp có khả năng nói trên, nó cho phép chúng ta dùng để tiếp cận, quan sát, đánh giá các dạng chung nhất, khái quát và đầy đủ nhất các sự vật hiện tượng và qúa trình đó.
Triết học Mác - Lênin - Chủ Nghĩa Duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử hay nói cách khác là các nguyên tắc, quy luật, phạm trù, khái niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cho ta khả năng nhận thức một cách chung nhất, khái quát nhất và đầy đủ nhất của sự vật, hiện tượng, quá trình của tự nhiên, xã hội, tư duy, do vậy nó đã trở thành phương pháp luận chung nhất của các ngành khoa học và đề tài cũng đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận.
- Hệ thống phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận và tư tưởng Hồ Chí Minh đề tài đã chọn các phương pháp của khoa học quản lý xã hội, quản lý nhà nước của tội phạm học, và luật hình sự, phương pháp luật học so sánh, các phương pháp phân tích tổng - kết thực tiễn, thống kê, chọn lọc, so sánh, các phương pháp của khoa học dự báo kết hợp với phương pháp khảo sát thực tế và phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia, phương pháp tâm lý và lô gíc toán học, để chọn lọc trí thức khoa học.
5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài đã bổ sung và hoàn thiện được những vấn đề lý luận cơ bản về những chứng cứ, về thu thập và đánh giá chứng cứ vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và ma tuý.
Đề tài phát hiện được những điểm thiếu sót, vướng mắc trong thực tiễn đánh giá chứng cứ trong qúa trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý làm rõ vai trò của các biện pháp trinh sát trong việc hỗ trợ hoạt động giải quyết vụ án hình sự về ma tuý để thu thập đánh giá và sử dụng chứng cứ.
6. ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa về lý luận về thực tiễn rất lớn đối với về vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý ở nước ta hiện nay.
Về lý luận: Đề tài có ý nghĩa trong việc khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của ngành bảo vệ pháp luận và có thể làm tài liệu tham khảo trong công trình nghiên cứu khoa học. Trong việc xây dựng những quan điểm cho việc sửa đổi bộ luật tố tụng hình sự sắp tới và hoàn thiện hơn phần tội phạm của bộ luật hình sự nhất là " các tội phạm về ma tuý và một số văn bản pháp luật khác về ma tuý.
ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận của thực tiễn đánh giá chứng cứ nói chung và đánh giá chứng cứ về ma tuý nói riêng, các ngành pháp luật, cơ quan điều tra, cơ quan kiểm sát, cơ quan toàn án, đặc biệt là cơ quan điều tra các cấp có thể vận dụng để không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động cuả mình.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài có kết cấu 3 phần: Gồm 3 chương và hệ thống các phụ lục, đề tài đã cố gắng nêu ra được những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm ma tuý, đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý. Thực trạng hoạt động của bọn tội phạm ma tuý cũng như việc đánh giá chứng cứ trong các vụ án về ma tuý hiện nay. Đề xuất hệ thống giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của việc đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự về ma tuý.
- Vụ một số đối tượng móc nối với Nguyễn Văn Hùng là cán bộ Bộ đội Biên Phòng, Đồn Biên Phòng 497 vận chuyển 30kg thuốc phiện từ Lào vào Việt Nam, bị Công ảnh tỉnh Thanh Hoá bắt ngày 10/8/1993. Bọn chúng lại dùng xe của những cán bộ lãnh đạo đi công tác để vận chuyển ma tuý như vụ Đinh Văn Phát và Hoàng Đức Hải dùng xe của cửa hàng vàng bạc điện biện phủ vận chuyển 172kg thuốc phiện, bị công an tỉnh Lào Cai bắt ngày 25 tháng 12 năm 1993. Hoặc vụ Nguyễn Văn Quang dùng xe của Giám đốc Sở giáo dục Tỉnh Lai Châu vận chuyển 227 kg thuốc phiện bị công an tỉnh Sơn La bắt ngày 24 tháng 01 năm 1994.
4.2.3. Tuyến và địa bàn trọng điểm
Việt Nam đưng thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa hợp tác rộng rãi với các nước, vì vậy đã tạo động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên, nó cũng làm cho tình hình tội phạm ở trong nước ngày càng diễn biến phức tạp, nước ta lại nằm ở gần khu vực " tam giác Vàng" (nơi sản xuất 70% lượng thuốc phiện bất hợp pháp trên toàn thế giới) nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình gia tăng tội phạm về ma tuý.
Tội phạm về ma tuý thường hoạt động theo các tuyến và địa bàn nhất định.
Tuyến là hướng vận động chính của tội phạm là đường giao dịch, chuyển trở ma tuý diễn ra các hoạt động liên lạc, thanh toán, cất dấu ma tuý.
Địa bàn trọng điểm là nơi tập trung nhiều đối tượng và diễn ra nhiều hoạt động phạm tội về ma tuý trong một khoảng thời gian nhất định. Việc hình thành các tuyến và địa bàn trọng điểm chính là quá trình hình thành thị trường ma tuý trong cả nước chịu chi phối bởi thị trường ma tuý quốc tế. Nó phụ thuộc vào các nguồn cung cấp ma tuý khu vực tiêu thụ cũng như đặc điểm về giao thông, địa bàn, dân cư và công tác và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý và cơ quan bảo vệ pháp luật. Vì vậy, tuyến và địa bàn làm trọng điểm về tội phạm ma tuý cũng sẽ thay đổi theo từng thời gian nhất định.
Qua tổng kết công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý trong những năm 2001, tội phạm về ma tuý diễn ra trên các tuyến trọng điểm.
- Tuyến biên giới chủ yếu là:
+ Tuyến biên giới Việt - Lào, tập trung chủ yếu vào các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, phát hiện bắt dữ chiếm 12,1% số vụ và 10,9% số đối tượng, song Hêrooin chiếm 55,5%, thuốc phiện chiếm 55,2% so với địa bàn cả nước.
+ Tuyến biên giới Việt - Căm puchia, tập trung chủ yếu là Tỉnh Tây Ninh, Đồng Tháp, Long An, An Giang...., phát hiện bắt giữ chiếm 2% số vụ, 2,7% số đối tượng, song chiếm 65% tổng số thuốc tân dược gây nghiện so với địa bàn cả nước.
+ Tuyến biên giới Việt - Trung, tập chung chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai, công an 5 địa phương trên tuyến phát hiện, bắt dữ, chiếm 12,1% số vụ, 10,2% số đối tượng. 6,2% hêrôin, 10,9% thuốc phiện và 16,4% thuốc tân dược gây nghiện so với địa bàn cả nước.
- Tuyến hàng không nổi lên trong năm phát hiện 8 vụ buôn lâu ma tuý từ Malasia, úc, Thái Lan, Mỹ về Tân Sơn Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh: có bắt gần 500 viên ATS, đồng thời qua đấu tranh chuyên án ta thông tin cho bạn đã bắt 5 vụ.
- Tuyến bưu điện, phát hiện 3 vụ vận chuyển ma tuý từ Việt Nam đi úc và 01 vụ đi NiuDiLand.
- Tuyến đường Thuỷ chủ yếu bọn tội phạm vận chuyển ma tuý từ Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng đi Nhật, úc và từ Hồng Kông, Trung Quốc về Hải Phòng, Quảng Ninh....
- Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 47,9% số vụ, 51,4% số đối tượng thuốc phiện thu chiếm 9,6% hêrôin chiếm 23,3%, Tân dược gây nghiện chiếm 10,4%, song ma tuý tổng hợp chiếm 80% tổng số thu toàn quốc.
5. Những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự về ma tuý.
Trong thực tiễn các vụ án hình sự xảy ra khác nhau. Để giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật thì vấn đề đầu tiên là phải làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự đó. Vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại điều 47 Bộ Luật tố tụng hình sự là nội dung bắt buộc của pháp luật đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Thực chất đó là 4 dấu hiệu của tội phạm và 4 yếu tố cấu thành tội phạm.
Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là hệ thống các tình tiết của vụ án hình sự đúng pháp luật.
Những vấn đề chứng minh trong vụ án hình sự là cơ sở đã đề ra kế hoạch giải quyết vụ án hình sự, giúp cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử có định hướng, xác định được hệ thống chứng cứ cần phải thu thập và từ đó có thể xác định được chứng cứ trong hệ thống trong hệ thống đó chứng minh những vấn đề nào giá trị chứng minh đến đâu.... còn là cơ sở nghiên cứu vấn đề có liên quan đến đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự.
Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự là cơ sở để xác định chính xác những phương hướng của hoạt động tố tụng hình sự, xác định được giới hạn của quá trình chứng minh làm rõ vụ án hình sự. Góp phần quan trọng để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ chức và công dân.
Nội dung những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự ma tuý.
Trên cơ sở những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại điều 47 Bộ luật Tố Tụng hình sự cụ thể:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi tội phạm.
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, mục đích hoặc cơ quan phạm tội.
3. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo và đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo.
4. Tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội xảy ra
(Điều 47 Bộ luật tố Tụng Hình sự nước CHXHCNVN)
Trong quá trình điều tra vụ án ma tuý cơ quan điều tra cần phải quán triệt đầy đủ những vấn đề cần phải chứng minh theo điều 47 Bộ luật Tố Tụng Hình Sự và căn cứ vào những dấu hiệu pháp lý của từng tội, danh cụ thể của bộ Luật Hình Sự. Tội phạm hình sự ma tuý được quy định tại chương XVIII; Các tội phạm về ma tuý, gồm 10 điều tư điều 192 đến điều 201. Quá trình thu thập tài liệu chứng cứ để làm rõ nội dung sau:
- Cơ quan hành vi tội phạm về ma tuý xảy ra không
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội
- Phương thức đoạn thực hiện tội phạm, cung cụ phương tiện được sử dụng để gây án.
- Chất ma tuý, thủ đoạn cất dấu
- Những tài sản, tiền và những giá trị vật chất khác do phạm tội mà có, gửi vào Ngân hàng nào, đầu tư vào hoạt động nào hoặc mua tài sản gì ?
- Những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội và những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội.
5.1. Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự ma tuý nói chung và tội sản xuất, tàn chữ, vận chuyển mua bán trái phép chất ma tuý nói riêng.
Đối với tội sản xuất, tàn chữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý cần phải làm rõ vấn đề sau.
- Thời gian, địa điểm xảy ra hành vi tội phạm.
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội
- Diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội
- Công cụ phương tiện phạm tội
- Chất ma tuý và thủ đoạn cất dấu
- Những tài sản bằng tiền bạc và những giá trị vật chất khác do bị can phạm tội mà có.
Đối với hành vi sản xuất, trái phép chất ma tuý cần chú ý làm rõ; thời gian địa điểm sản xuất, những công cụ, phương tiện sản xuất số lượng các chất ma tuý đã sản xuất, số còn lại là nơi cất dấu; những người tham gia quá trình sản xuất, động cơ, mục đích sản xuất trái phép chất ma tuý.
Đối với hành vi tàn trữ trái phép chất ma tuý cần làm rõ thời gian tàn trữ, loại ma tuý và nguồn gốc của nó, mục đích tàn trữ, những người tham gia tàn trữ, vai trò, vị trí của họ, thủ đoạn cất dấu.
Đối với hành vi vận chuyển trái phép chất ma tuý cần phải làm rõ chất ma tuý là gì, vận chuyển trái phép chất ma tuý bằng phương tiện gì, chuyển từ đâu đến đâu, chủ hàng là ai, vận chuyển hàng giao cho ai nhận, đã chuyển được bao nhiêu lần, số lượng ma tuý vận chuyển và kế hoạch vận chuyển tiếp theo (nếu có)...
Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma tuý cần làm rõ người mua, người bán, loại ma tuý, địa điểm, giá cả, phương thức thanh toán, số lần mua bán trước đó, có hẹn người đến mua tiếp nữa không, nếu có thì bao giờ gặp nhau ở đâu...
Đối với các bị can cần nghiên cứu làm rõ các đặc điểm nhân thân của họ, gồm có nội dung như phân tích trên. Lưu ý nếu là người nước ngoài cần làm rõ quốc tịch, hộ chiếu thật hay giả, mối quan hệ với các đối tượng trong nước.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma tuý có quan điểm cho răng đối tượng với loại tội phạm nàythì cơ quan điều tra phải thu được vật chứng là ma tuý thì mới xét xử được. Điều này làm hạn chế khả năng mở rộng vụ án. Điều 48 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự quy định chứng cứ được xác định bằng.
a. Vật chứng.
b. Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm dữ, bị can, bị cáo.
c. Kết luận giám định
d. Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu khác.
Vì vậy về phương diện lý luận và pháp lý, ma tuý là vật chứng đồng thời là một trong những chứng cứ để chứng minh tội phạm. Việc được chứng minh các hành vi tội phạm về ma tuý có thể dùng chứng cứ từ những nguồn khác nhau. Vấn đề quan trọng là tính khách quan và tính đầu đủ của thệ thống chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được đã đủ cơ sở để buộc tội hay chưa, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án, về ma tuý lớn nhất từ trước đến nay ở nước ta do Siêng Phênh cầm đầu và vụ án do Nguyễn Văn Tám cầm đầu là một kinh nghiệm tốt trong việc bắt giữ các đối tượng khác nhau từ lời khai của các bị can trong vụ án. Điều này mở ra khả năng thuận lợi cho việc khám phá các đường dây và tổ chức tội phạm về ma tuý.
5.2. Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự về ma tuý nói chung và tội phạm liên quan đến tổ chức sử dụng trái phép, chứa chất việc sử dụng trái phép chất ma tuý, cưỡng bức lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý. Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng các chất gây nghiện....
Căn cứ vào điều 192 đến điều 201 của Bộ Luật Hình Sự năm 1999 và điều 47 của Bộ Luật Tố Tụng Hình sự cần làm rõ vấn đề sau.
- Có hay không có hành vi sử dụng chứa chấp việc sử dụng, cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma tuý, có hành vi vi phạm hay không. Thực tiễn cần phải làm rõ có thể xảy ra hành vi tổ chức dùng các chất ma tuý như tập hợp người nghiện và những người chưa nghiện và có những người chưa nghiện vào một chỗ để tổ chức sử dụng chất ma tuý, đang tàn trữ dụng cụ, phương tiện để sử dụng trái phép chất ma tuý qua kiểm tra và giám định máu thành phần nước tiểu.... như vậy những điều kiện cần và đủ để thừa nhận dùng chất ma tuý là: người tổ chức dùng mà tuý, các phương tiện dùng chất ma tuý kim tiêm, giấy bạc để hút, đèn bàn....) những hành vi tổ chức lôi kéo người khác vào dùng chất ma tuý, dấu vết ma tuý để lại hiện trường hoặc cơ thể người sử dụng trái phép chất ma tuý. Những hành vi tổ chức sử dụng chất ma tuý có khi xảy ra không kể một hay nhiều lần. Như vậy khi một người mua các chất ma tuý về nhà tự tiêm, trích.... không phải là người tổ chức sử dụng chất ma tuý. Trong quá trình chứng minh làm rõ vấn đề này cần phát hiện thu dữ những công cụ, phương tiện sử dụng chất ma tuý, các chất ma tuý, làm rõ những hành vi tập hợp lôi kéo người khác vào dùng chất ma tuý, những hình thức sử dụng chất ma tuý như hút, tiêm, trích....
Quá trình tiến hành những hoạt động điều tra cho thấy những hành vi tổ chức dùng chất ma tuý thường đi liền với hành vi tàn trữ vận chuyển mua bán, trái phép các chất ma tuý do đó điều tra viên phải chú ý làm rõ. Để chứng minh vấn đề này có thể tiến hành những biện pháp như khám nghiệm hiện trường là địa điểm dùng các chất ma tuý, khám sát, hỏi cung bị can....
Địa điểm, thời gian chứa chấp sử dụng , tổ chức sử dụng trái phép, cưỡng bức người khác sử dụng .. trái phép chất ma tuý. Làm rõ địa điểm sử dụng (chỉ đúng cho các hành vi nói chung) chất ma tuý không những tạo cơ sở để xác định có tội phạm thời gian xảy ra hay không mà có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động điều tra. Bởi vì tại địa điểm sử dụng chất ma tuý, các công cụ, phương tiện sử dụng chất ma tuý và đồ vật, tài liệu khác; mặt khác cũng phải làm rõ thời gian bắt đầu tổ chức dùng chất ma tuý cho đến thời điểm bị phát hiện hoặc tự kết thúc do những lý do khách quan hoặc chủ quan.
Thực tế cho thấy để chứng minh vấn đề nêu trên có thể tiến hành khám nghiệm hiện trường là nơi tổ chức dùng ma tuý, lấy lời khai của người làm chứng, hỏi cung bị can.
Công cụ phương tiện sử dụng chất ma tuý và các chất ma tuý.
Khi điều tra vụ án liên quan đến hành vi sử dụng chất ma tuý như đã nói trên, bất luận chứa chấp sử dụng tổ chức sử dụng hay cưỡng bức người khác sử dụng điều này làm rõ công cụ, phương tiện sử dụng chất ma tuý. Các chất ma tuý, số lượng, nguồn gốc các chất ma tuý đã dùng; số còn lại, nơi cất dấu....
Người thực hiện hành vi đó là ai
Trong quá trình điều tra cần làm rõ tất cả các đối tượng tham gia và quá trình dùng chất ma tuý không kể 1 lần hay tái phạm nhiều lần và vai trò, vị trí của từng đối tượng. Đồng thời cũng cần làm rõ lai lịch, đặc điểm nhân thân, tiền án, tiền sự, năng lực trách nhiệm của từng đối tượng. Ngoài ra, cũng phải chứng minh những tình tiết, tăng nặng giảm nhẹ tội của bị can, tính chất, mức độ thiệt hại mà bị can gây ra. Nếu đối tượng tổ chức tổ chức dùng chất ma tuý không hứa hẹn trước mà chứa chấp những tài sản biết rõ là do người phạm tội mà có thì phải làm rõ:
Trong những trường hợp này đối tượng tổ chức sử dụng ma tuý vi phạm thêm một tội nữa là tội chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Mặc khác cũng cần làm rõ tất cả những tài sản, tiền bạc và những giá trị vật chất khác do những đối tượng phạm tội mà có để tịch thu. Để chứng minh làm rõ vấn đề này có thể tiến hành những biện pháp điều tra, những khám sét, hỏi cung lấy lời khai những người làm chứng, nhận dạng....
Nghiên cứu những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự về ma tuý như phân tích ở trên là nội dung chung nhất, cơ bản nhất. Những vấn đề cần phải chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý, là quá trình từ những vấn đề cơ bản, khái quát đến chi tiết, đầy đủ; từ những vấn đề có tính chất định hướng đến những vấn đề cụ thể.
Thực chất đó là qúa trình thu thập tài liệu chứng cứ để làm rõ các giả thiết nghiệp vụ, các kế hoạch điều tra làm rõ vụ án. Do đó, trong từng vụ án cụ thể, điều tra viên phải vận dụng linh hoạt nội dung những vấn đề, phải chứng minh nhằm làm rõ tội phạm. Chẳng hạn vụ án mà đối tượng có liên quan đến người nước ngoài thì cần phải làm rõ thêm đối tượng mang quốc tịch gì ( thật hay giả) lý do vào Việt Nam và đi cùng với ai ?... Những vụ mà đối tượng là người của cơ quan bảo vệ pháp luật thì cần phải làm rõ nguyên nhân, điều kiện, môi trường dẫn đến hành vi phạm tội... Điều này sẽ tạo điều kiện để giáo dục, quản lý cán bộ, đồng thời phát hiện các đầu mối tội phạm có liên quan sau này hoặc phục vụ cho công tác phòng ngừa ngăn chặn từ xa các đường dây buôn lậu ma tuý vào Việt Nam.
6. Quan điểm của Đảng, các Quy Định của Nhà nước về phòng chống tội phạm ma tuý.
Để đấu tranh, phòng chống ma tuý, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách nhằm triệt phá việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàn trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, giải quyết giúp đỡ cai nghiện và sau cai nghiện.
Những quan điểm chủ trương này đã có từ rất sớm. Trong tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 Hồ Chí minh đã vạch rõ những âm mưu thâm độc của bọn thực dân pháp - Người nói " chúng dùng thuốc phiện, diệu, diệu cần để làm cho nòi giống ta suy nhược" đồng thời Hồ Chí Minh cũng đã đề ra nhiệm vụ cấp bách của nhà nước là chú ý công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân, người nói "chế độ thực dân đã đầu độc dân ta bằng những thói hư tật sấu, lười biếng, gian sảo và những thói sấu khác.
Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta thực hiện chỉ thị của Bác Hồ ngay từ ngày đầu tiên thành lập Chính Phủ Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Ngày 10/10/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 47/52 tạm thời giữ lại một số luật lệ cũ". Mà những luật lệ này không trái với các văn bản pháp luật mới. Chính Phủ cũng đã quan tâm đến việc ngăn chặn thuốc phiện. Ngày 05/03/1952 thủ tướng chính phủ đã ban hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện khoanh vùng trồng cây thuốc phiện. Người trồng cây thuốc phiện có nghĩa vụ nộp thuế bằng hiện vật là 1/3 số thuốc phiện, phần còn lại phải bán toàn bộ cho mậu dịch quốc doanh. Nghiêm cấm việc tàn trữ vận chuyển nhựa thuốc phiện. Ngày 15/9/1965 tại Nghị định số 580/TTG thủ tướng chính phủ đã quy định cụ thể những trường hợp vi phạm về ma tuý có thể đưa ra toà án để xét xử... Sau khi giải phóng đất nước. Chính phủ đã ban hành nghị định số 76/CP ngày 25/3/1977, về chống buôn lậu thuốc phiện. Ngày 1/3/1994 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 33 CT/TW về lãnh đạo phòng, chống các tện nạn xã hội chỉ tiêu nêu rõ " Phòng, chống khắc phục có hiệu quả các tệ nạn xã hội trước hết là tệ nạn mại dâm, nghiện ma tuýlà nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Đảng và Nhà nước ta, phải kiên quyết lãnh đạo và thực hiện..." Ngày 8/4/1991 hội đồng bộ trưởng ra chỉ thị số 99/CT về cận động nhân dân không trồng cây Anh Túc. Ngày 29/1/1993 Chính phủ ra nghị quyết 06/CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, Chống và kiểm sát ma tuý. Ngoài ra các bộ Ngành đã ra nhiều chỉ thị và hướng dẫn về công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý. Tội phạm nói chung và tội phạm ma tuý nói riêng diễn biến ngày càng phức tạp. Để có công cụ sắc bén trong đấu tranh chống tội phạm năm 1985 Bộ Luật Hình Sự của nhà nước ta được ban hành. Thuật ngữ " ma tuý" được quy định trong các tội có liên quan đến ma tuý tại 3 điều.
- Điều 97: Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới.
- Điều 166: Tội buôn bán hàng cấm
- Điều 203: Tội tổ chức dùng chất ma tuý.
Đồng thời nhà nước cũng quy định những hành vi, vi phạm khác về ma tuý mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị sử phạt hành chính theo nghị định 141/HĐBT nay được thay thế bằng Nghị định 49/CP ngày 15/8/1945 của chính phủ. Để đáp ứng nhu cầu cho cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và phòng chống tội phạm về ma tuý nói riêng, ngày 28/12/1989. Quốc hội nước CHXHCNVN đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình Sự song đó tách tội phạm ma tuý thành điều riêng: Điều 96 quy định tội sản xuất tàn trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý có khung hình phạt cao nhất đến tử hình. Điều 203 tội tổ chức dùng chất ma tuý có khung hình phạt cao nhất 10 năm.
Đầu năm 1992 quốc hội thông qua hiến pháp mới lần đầu tiên vấn đề về ma tuý được ghi nhận trong hiến pháp: Điều 61 của hiến pháp 1992 ghi rõ " nghiêm cấm sản xuất vận chuyển buôn bán, tàn trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác nhà nước bắt buộc chế độ cai nghiện và chữa bệnh xã hội nguy hiểm...".
Trong những năm từ 1993 đến nay tình hình tệ nạn xã hội và tội phạm về ma tuý trong cả nước diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng.Trước yêu cầu thực tiễn đó nhằm đấu tranh sử lý nghiêm khắc hơn đối với tội phạm về ma tuý. Ngày 29/1/1993 Chính phủ đã ra nghị quyết số 06/CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm sát ma tuý. Ngày 25 tháng 8 năm 1997 thủ tướng chính phủ ra quyết định 686/TTG thành lập Uỷ Ban Quốc Gia phòng chống ma tuý. Ngày 1/9/1997 chủ tích nước CHXHCNVN ra quyết định số 798/QĐ - CTN tham gia 3 công ước liên hợp quốc về kiểm sát ma tuý. Ngày 31/7/1998 thủ tướng chính phủ ra quyết định số 138/1998 QĐ /TTG phê duyệt chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Ngày 10/5/1997 quốc hội khoá IX đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự đã giành riêng một chương quy định 13 điều về tội phạm ma tuý ( từ điển 185A đến 185 N).
Điều đáng chú ý từ trước năm 1997 hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý trước đây là tệ nạn xã hội và bị xử lý hành chính thì bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung lần này quy định là tội phạm. Luật sửa đổi bổ sung một số điểm của bộ luật hình sự bổ sung một số tôi danh mới, định lượng các chất ma tuý hay từng khung hình phạt, tăng mặng mức hình phạt, nâng cao hình phạt tiền và tịch thu tài sản, thêm một số hình phạt bổ sung khác. Đó là những điểm mới quan trọng trong chính sách hình sự của nhà nước ta đối với tội phạm về ma tuý, luật sửa._. đổi, bổ sung một số điều của bộ luật hình sự lần thứ 4 năm 1997 chỉ là biện pháp tình thế. Vì vậy nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đến manh chống tội phạm ngày 21/12/1999 Quốc hội nước CHXHCNVN khoá X đã thông qua bộ luật hình sự mới vào ngày 01/1/2000 chủ tích nước CHXHCNVN công bố sác lệnh số 01/51/CTN ban hành bộ luật hình sự mới có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2000 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã dành riêng chương XVIII quy định về "ma tuý " gồm 10 điều, từ điều 192 đến 201. Những điểm mới cơ bản đối với các tội phạm ma tuý trong Bộ luật hình sự 1994 là nhập 4 tội trước đây thành 1 tội (Điều 194) một tội có hình phạt cao nhất là tử hình giảm xuống tù trung thân (còn 2 tội có hình phạt tử hình 193/194) điều chỉnh hình phạt trong các khoản phù hợp với hình thức phân loại tội pham mới, hình phạt bổ sung không quy định thành điều riêng và đưa vào từng điều luật tương ứng. Điều chỉnh một số cụm tù cho chặt chẽ và chính xác. Bộ luật hình sự đã có thêm điều 251 " Tội hợp pháp hoá tiền và tài sản do phạm tội ma tuý mà có" đã là cơ sở pháp lý quan trọng để phát hiện về đấu tranh các đầu mối rửa tiền do tội phạm mà có.
II. Nhận thức chung về hệ thống chứng cứ trong hình sự về ma tuý.
1. Khái niệm và ý nghĩa của chứng cứ
Để đưa ra một kết luận hay một quyết định nào đó trong đời sống xã hộ mà có tính thuyết phục cao thì đòi hỏi phải có căn cứ được xác định là đúng đắn. Đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp. Những vấn đề có liên quan đến tính mạng, danh dự, đạo đức con người, để xét xử chính xác một vụ án hình sự thì toàn án phải dựa vào những chứng cứ. Chứng cứ là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và những người tiến hành tố tụng hình sự đưa ra quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời những người tham gia tố tụng hình sự cũng dựa trên cơ sở những chứng cứ được xác định trong vụ án để đưa ra ý kiến của mình, bảo vệ các lợi ích theo quy định của pháp luật. Vì vậy chứng cứ được coi là đối tượng nghiên cứu ở nhiều môn khoa học pháp lý chuyên ngành và cũng là chế định pháp lý được quy định ở nhiều ngành luật khác nhau. Khi nghiên cứu về chứng cứ đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm chứng cứ.
Các luật gia Xô Viết trước đây có khẳng định. " Chứng cứ được xem là phương tiện để xác định chân lý, chứng cứ không tạo ra chân lý, không biến chân lý thành phi lý, bởi vì chân lý hay phi lý là ở chỗ sự việc có phù hợp với thực tế khách quan hay không"
Trong tác phẩm " Bàn về chứng cứ tố tụng" Ben tham, một học giả tư sản đã viết " chứng cứ là một sự kiện giả định là có thật, sự kiện đấy được coi như là một sự kiện đương nhiên có lý do để tin tưởng việc có hay không một sự kiện khác" .
Một luật gia người Bun - gari đã viết " chứng cứ trong tốt tụng hình sự trước hết đó là những sự thật mà dựa vào đó mà người ta có thể kết luận được sự thật khác. Căn cứ vào tính chất đó thì các chứng cứ trong tố tụng " Hình sự nước CH Bun - gari trước hết là những sự thật của vấn đề khách quan .
Một luật gia người Mỹ Webster cho rằng " Chứng cứ là vật hợp pháp được đưa ra trước toà án nhằm chứng minh tính xác thực của các sự kiện đã được điều tra" . Cuối từ điển Luật do trường Đại Học OXFORD ở Niu óc, nhà xuất bản 1996 tại trang 151 đã định nghĩa về chứng cứ như sau " Chứng cứ là cái để chứng minh sự tồn tại hay không tồn tại của một sự việc liên quan đến vụ án.Chứng cứ bao gồm; lời khai người làm chứng, các tài liệu, vật chứng..."
Bộ luật Tố Tụng Hình Sự nước CH Liên Bang Nga tại điều 65 có đưa ra khái niệm về chứng cứ như sau; " Chứng cứ trong vụ án hình sự là những tài liệu (Thông tin) xác thực bất kỳ trên cơ sở đó theo trình tự tố tụng hình sự các cơ quan điều tra ban đầu, dự thẩm Viện điều tra và Toà án xác định có hành vi xảy ra hay không ?. Lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội đó và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án " Đây là một nhận thức chính xác, khái niệm này đã đưa ra được những chứng cứ cụ thể là " những tài liệu (thông tin) xác thực bất kỳ". Nhưng ở khái niệm này chưa rõ ở " tài liệu (thông tin) xác thực bất kỳ" ở vụ án hình sự hay ở vấn đề gì. Trên cơ sở đó để đánh giá chính xác chứng cứ.
Bộ luật Tố Tụng Hình sự năm 1989 của nước CHND Trung Hoa cũng xác định: " mọi sự thuật chứng minh chân lý của vụ án đều được coi là chứng cứ, chứng cứ gồm 6 loại sau đây; vật chứng, tài liệu làm chứng, lời khai của người làm chứng, lời khai của người bị hại, lời khai của bị can, bị cáo, kết luận đánh giá, biên bản các hoạt động điều tra. Những chứng cứ trên phải được xác định thật mới làm chứng cứ trong vụ án".
Chứng cứ trong lý luận khoa học điều tra hình sự của các nước tư bản cũng xác định: " bằng chứng luôn được chấp nhận phải cần thiết và thích hợp nếu sự kiện bằng chứng có thể là một phần của một vấn đề trong vụ thu tang vật là cần thiết".
ở nước ta bộ luật Hồng Đức và Gia Long rất chú trọng đến đơn tố cáo, đơn tố cao được coi là chứng cứ quan trọng để bắt đầu xét xử để đảm bảo tính khách quan trong quá trình điều tra luật xưa cũng đề cập đến người làm chứng. Để tránh sự thiên vị luật cũng quy định: không thể chọn những người thường ngày có thân tình hay thù oán đối với hai bên đương sự ( chứng nhận; hệ bình thân đôi cập thù oán giá, tịnh bất thính). Người làm chứng mà giấu giếm là người có thân tình hay thù oán thì sẽ bị khép vào tội làm chứng gian, không khai rõ sự thực ( điều 714 luật Hồng Đức). Nếu người làm chứng không khai thực tình hay làm thông ngôn (phiên dịch) mà dịch sai hay giả dối khiến vụ án thay đổi mà đương sự bị phạt oan hay tha không đúng tội, thì người làm chứng phải tội kém phạm nhân hai bậc, người thông ngôn cùng bị một tội như phạm nhân (điều 546 luật Hồng Đức) người làm chứng trong những vụ làm chúc thư, văn tự giả mạo tranh chấp tài sản thì phải bồi thường 1/3 tài sản đó (điều 534 Luật Hồng Đức).
Cho đến bây giơì chứng cứ trong tố tụng hình sự của nhà nước ta được xây dựng trên cơ sở của phép biện chứng duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định rằng phản ánh là một trong những thuộc tính cơ bản cuả vật chất. Theo Nênin " hết thảy mọi vật đều có đặc tính về bản chất gồm gần giống như cảm giác - đặc tính, phản ánh".
Vụ án hình sự là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất. Những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra được con người và các vật thể phản ánh lại. Những phản ánh đó thường được gọi là dấu vết của tội phạm. Căn cứ vào đặc điểm phản ánh này người ta có thể chia ra thành 2 loại dấu vết: Dấu vết tâm lý, ý thức ( dấu vết tinh thần), dấu vết trên các vật thể (dấu vết vật chất). Dấu vết của tội phạm là những phản ánh về các mặt riêng lẻ, các bộ phận khác nhau của vụ án hình sự.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn khẳng định rằng; con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan. Khả năng nhận thức được phát triển từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất....( từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của người nhận thức hiện thực khách quan" thực chất của quá trình chứng minh về vụ án hình sự là quá trình nhận thức sự thật của vụ án hình sự đã xảy ra trong quá khứ. Bằng tư duy lô gíc khoa học từ những sự kiện có thật đã biết cho phép kết luận về sự tồn tại trên thực tế sự kiện chưa biết nhưng cần biết. Dựa vào dấu vết của tội phạm, người tiến hành tố tụng có thể nhận thức về sự thật của vụ án hình sự đã xảy ra. Đây chính là cơ sở lý luận của chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Khái niệm về chứng cứ được ghi nhận tại điều 48 luật tố tụng hình sự " chứng cứ là những gì có thật. được thu thập theo trình tự do Bộ luật tố tụng hình sự quyết định mà cơ quan tiến hành tố tụng hình sự dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
2. Các thuộc tính của chứng cứ
2.1. Thính khách quan
Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, để xét xử chính xác đúng người đúng tội cũng đều đảm bảo tính khách quan về mọi khía cạnh của vụ án, kể cả việc đánhgiá chứng cứ cũng phải đảm bảo tính khách quan. Chủ nghĩa Mac - Lênin đã chỉ rõ hiện thực khách quan là cơ sở của nhận thức. " Người Mác xít chỉ có thể sử dụng để làm căn cứ cho chính sách của mình những sự thật được chứng minh rõ dệt mà không thể chối cãi được" nếu dựa vào những gì mà chưa xác định được tính chân thực khách quan để ra các quyết định giải quyết vụ án để đem lại những sai lầm, vì vậy tính khách quan là một trong những thuộc tính cơ bản thứ nhất của chứng cứ.
Chứng cứ là những sự kiện tài liệu có thật chứa đựng những thông tin xác thực, tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Những gì do suy đoán, tưởng tượng, suy diễn.... thì không thể là chứng cứ.
Trong thực tế, chúng ta thường gặp những vụ hiện trường bị làm giả (ví dụ: Hiện trường giả, lời khai, thông tin, giả tạo....) thì có thể xem là những thủ đoạn che dấu tội phạm, gây khó khăn cho việc làm rõ sự thật vụ án hình sự. Đó có thể là chứng cứ chứng minh về tính chất mức độ của hành vi phạm tội. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự người tiến hành tố tụng phải tôn trọng sự thật khách quan phải thẩm tra xác minh những tài liệu thu được phản ánh cái thật kiên quyết chống định kiến chủ quan hoặc làm giả tài liệu phải kịp thời phát hiện những hành vi làm giả tài liệu.
2.2. Tính liên quan
Khi sử dụng một vấn đề gì để làm căn cứ chứng cứ chứng minh cho quan điểm của mình thì vấn đề đó phải liên quan đến việc cần chứng minh và cấn đề đó phải có thật. Nếu vấn đề có thật mà không liên quan đến vấn đề cần chứng minh củamình thì không chính xác, không có sức thuyết phục.
Những gì có thật phải có mối liên hệ khách quan với sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, giúp cho nhận thức về vụ án hình sự, làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Mối liên quan ở đây có thể ở những mức độ khác nhau như liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp, liên quan theo dạng nhân - quả, liên quan theo không gian - thời gian...
Nếu những gì có thật không liên quan đến vụ án hình sự thì không được dùng làm chứng cứ.
2.3. Tính hợp pháp
Chứng cứ phải được xác định từ những nguồn chứng cứ (phương tiện chứng minh) và được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Chứng cứ được xác định bằng những nguồn sau đây
Vật chứng
Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị tạm giam, bị can, bị cáo.
Kết luận giám định
Biên bản hoạt động kiểm tra, xét xử tài liệu khác
Chứng cứ phải được thu thập bằng các hoạt động điều tra (hỏi cung, lấy lời khai, khám xét, thực hiện điều tra...) hoặc cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thể yêu cầu các cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án hình sự những người tham gia tố tụng hình sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có thể cung cấp những tài liệu, đồ vật, trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự ( điều 49 bộ luật tố tụng hình sự).
Việc thu thập phải bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ phải đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền, thủ tục, thời hạn.
Khi sử dụng một vấn đề gì mà được coi là chứng cứ thì phải đảm bảo cả ba thuộc tính trên. Vì 3 thuộc tính trên có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời nhau. Nếu thiếu 1 trong 3 thuộc tính này nó sẽ mất đi giá trị chứng minh của vật được coi là vật chứng trong vụ án hình sự và để đánh giá được chứng cứ này không thể thiếu 3 thuộc tính trên.
3. Đặc điểm của hệ thống chứng cứ trong các vụ án hình sự về ma tuý.
3.1. Vật chứng
Theo điều 56 Bộ luật tố tụng hình sự nước CHXHCNVN thì " vật chứng là những vật dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết của tội phạm; vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội " vật chứng luôn có vai trò đặc biệt vì nó là những vật không thể thay thế được và tồn tại dưới dạng vật chất. Thông thường nó chứa đựng chứng cứ trực tiếp có giá trị chứng minh rất cao, giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng.
Vật chứng trong vụ án hình sự ma tuý được thể hiện như là:
Vật chứng là những vật dùng làm những công cụ, phương tiện dùng để thực hiện hành vi phạm tội ma tuý, các chất ma tuý, xi lanh, bàn đèn, giấy bạc và phương tiện giao thông, thông tin, ô tô, xe máy, xe thồ, bộ đàm..... nhà ở, phòng ( dùng để mua bán tàng chữ, vận chuyển, tổ chức, sử dụng chất ma tuý).
Vật chứng là những vật mang dấu vết của tội phạm ma tuý.
Giấy bạc gói hêrôin, tép hêrôin những vật dụng dùng để cất dấu ma tuý, các xi lanh có chứa hêrôin nơi cất dấu ma tuý....
Vật chứng là những vật được coi là đối tượng của tội phạm ma tuý; tiền bạc... hay một mục đích nào đó.
Vật chứng còn là những vật có giá trị chứng minh tội phạm ma tuý như tiền bạc, các vật dụng mà đối tượng đang dùng đến mua, bán, vận chuyển, tàng chữ, tổ chức, sử dụng chất ma tuý.
Khi xác định được chính xác được đó là vật chứng của vụ án thì phải tiến hành, thu thập vật chứng; bảo quản vật chứng, xử lý vật chứng.
3.2. Lời khai của người làm chứng
Trong vụ án hình sự về ma tuý lời khai của người làm chứng thường phản ánh những tình tiết cụ thể của vụ án mà họ biết, như thủ phạm vận chuyển, thủ phạm mua bán các chất ma tuý và thủ phạm tổ chức dùng trái pháp các chất ma tuý. Đối tượng phạm tội, nơi cất dấu ma tuý, thân nhân của bị can, mối quan hệ giữa họ với bị can.
Không được dùng là những chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu như họ không nói rõ vì sao họ biết tình tiết đó.
Nhưng trong vụ án hình sự về ma tuý thì người làm chứng hầu như rất ít hoặc không có.
3.3. Lời khai của bị can
Trong vụ án hình sự về ma tuý, là chủ thể của tội phạm, hơn ai hết là bị can thường biết nhiều nhất những tình tiết của vụ án thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng cho thấy lời khai của bị can thường phản ánh đối tượng vụ án ma tuý. Vai trò, vị trí của từng đối tượng trong vụ án, về hành vi gây án như thời gian, địa điểm diễn ra hành vi mua bán, vận chuyển cất dấu và tổ chức sử dụng ma tuý. Thủ đoạn gây án bao gồm tất cả các hành vi mua bán, vận chuyển cất dấu và tổ chức sử dụng các chất ma tuý. Tài sản, tiền bạc thu được sẽ được chia.
Lời nhận tội của bị can chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lợi nhuận tội của bị can là chứng cứ duy nhất để kết tội.
3.4. Kết luận giám định
Giám định các chất ma tuý có ý nghĩa rất quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm về ma tuý và là một khâu không thể thiếu được trong công tác phòng chống và kiểm sát chất ma tuý.
Điều 1 nghị định 117/HĐBT ngày 21/7/1998 của hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ): " giám định tư pháp là sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật nghiệp vụ chuyên môn để kết luận về vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình và các tranh chấp lao động theo quyết định từng câu giám định của cơ quan công an, việc kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân".
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý, công tác giám định tư pháp các chất ma tuý bao gồm có:
Xác định sự hiện diện của các chất ma tuý trong mẫu vật, dấu vết nghi vấn.
Xác định thành phần, hàm lượng hoặc chất các chất ma tuý trong mẫu vật, dấu vết nghi vấn.
Xác định tính độc hại, mức độ nguy hiểm của chất ma tuý.
Xác định nguồn gốc , xuất xứ của chất ma tuý.
Ngoài các nội dung chính nêu trên, giám định các chất ma tuý còn giải đáp các vấn đề có liên quan các chất ma tuý như:
Các điều chế, chế biến các chất ma tuý để giúp cho công tác kiểm sát chặt chẽ hơn, đặc điểm của từng chất ma tuý và tác hại của chúng.
Xử lý ngộ độc các chất ma tuý
Với các nội dung nêu trên. Giám định tư pháp các chất ma tuý có vai trò quan trọng nhằm.
Giải đáp các yêu cầu phục vụ công tác điều tra, truy tố xét xử và tiêu huỷ các chất ma tuý.
Xác định người nghiện và mức độ nghiện các chất ma tuý để có căn cứ xử lý.
Qua công tác giám định các chất ma tuý phát hiện khuynh hướng mới trong việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán và sử dụng trái phép các chất ma tuý, xu hướng lạm dụng các chất ma tuý các phương thức thủ đoạn hoạt động của các tội phạm có liên quan đến ma tuý. Từ đó giúp các cơ quan có chức năng, các cấp chính quyền có cách thức và biện pháp thích hợp trong công tác phòng chống và kiểm sát ma tuý.
Mặt khác các tội phạm ma tuý thường có đặc thù riêng so với các loại tội phạm khác là:
Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma tuý.
Sự không được phép hoạt động của tội phạm này và cơ quan pháp luật giám sát rất chặt chẽ.
Kết luận giám định về các chất ma tuý trở thành một chứng cứ pháp lý quan trọng giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định đó có phải là vụ án ma tuý hay một vụ án thuộc loại tội phạm khác và được giải quyết, xử lý đối với các vụ án ma tuý cụ thể. Trong khi phân biệt chính xác từng chất ma tuý không phải là việc làm đơn giản đối với tất cả các cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng trực tiếp bắt giữ, xử lý các đối tượng phạm tội và tang vật thu được trong các vụ án về ma tuý. Nhu cầu một kết quả giám định khoa học trước khi phân loại và xử lý các loại tội phạm ma tuý đã trở thành một nhu cầu bức thiết hiện nay.
3.5. Biên bản các hoạt động điều tra
Để xét xử chính xác một vụ án hình sự về ma tuý. Đòi hỏi phải có chứng cứ, khi chứng cứ được đưa ra thì biên bản điều tra cũng được coi là chứng cứ ( đảm bảo tính hợp pháp của biên bản điều tra).
Biên bản hoạt động điều tra là những văn bản nghi nhận những hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, biên bản nghi lại những tình tiết trong hoạt động điều tra như bắt, khám sét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.... trong thực tế quá trình điều tra đã có rất nhiều trường hợp khi tiến hành lập biên bản đã không ghi chép lại đầy đủ chi tiết các trường hợp dẫn tới biên bản sai lệch với thực hiễn thậm trí cũng có những sai lệch nghiêm trọng làm cho quá trình xét xử vụ án hình sự về ma tuý không được chính xác, kéo dài thậm chí dừng xét xử.
VD: Khi bắt được đối tượng đang vận chuyển thuốc phiện và đã tiến hành lập biên bản, thu dữ tang vật. Khi khởi tố vụ án kết quả giám định là không phải thuốc phiện là trong biên bản lại ghi là thuốc phiện, vậy lỗi ở đây là do ai, do trình độ nhận thức của các kiểm tra viên, cảnh sát ma tuý còn yếu kém, thiếu hiểu biết về các chất ma tuý, có thể do sự thiếu quan tâm của lãnh đạo đơn vị.
Do đó biên bản về hoạt động điều tra này thường là nguồn chứng cứ phổ biến trong vụ án ma tuý phải đảm bảo được tính hợp pháp và chính xác.
3.6. Các nguồn tai liệu khác do cá nhân, cơ quan tổ chức cung cấp.
Các tài liệu khác là những văn bản hợp pháp khác có những tình tiết liên quan đến vụ án mà cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp cho các cơ quan tố tụng hình sự. Các tài liệu khác như giấy khai sinh, báo cáo của các cơ quan nhà nước, biên bản xử lý vi phạm hành chính, trích lục tiền án, tiền sự.... Những tình tiết có liên quan đến vụ án được ghi trong các tài liệu do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp có thể coi là chứng cứ. Các tài liệu khác thu được phải chú ý đến nguồn cung cấp ( về thẩm quyền cung cấp, nội dung cung cấp, đảm bảo khách quan)... và tính hợp pháp khi thu. Nếu tài liệu có dấu vết của tội phạm thì được coi là một vật chứng (hoá đơn, chứng từ, thư viết tay...).
4. Phân loại chứng cứ
Dựa và mối quan hệ với đối tượng chứng minh có thể phân chứng cứ thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Chứng cứ trực tiếp là chứng cứ chỉ thẳng để làm rõ ngay được một trong những vấn đề phải chứng minh như lời khai của bị can, lời khai của người làm chứng... Chứng cứ trực tiếp có giá trị chứng minh giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng nên cần được thu thập kịp thời và đầy đủ khi đánh giá chứng cứ trực tiếp thì vấn đề cơ quan là việc đánh giá về tính khách quan và tính hợp pháp. Tuy nhiên vẫn phải kiểm tra tính liên quan.
Chứng cứ gián tiếp là chứng cứ không tự nó làm rõ được ngay tình tiết nào đó của đối tượng chứng minh nhưng khi kết hợp với các chứng cứ khác thì xác định được tình tiết nào đó của đối tượng chứng minh. Chứng cứ gián tiếp thường tản nạn dễ bị coi thường nhưng dễ thu thập cần có nhiều chứng cứ gián tiếp, tất cả các chứng cứ đó phải được phối hợp với nhau tạo thành một hệ thống chặt chẽ trong tổng thể các chứng cứ để đi đến một kết luận thống nhất, loại trừ mọi việc đưa ra kết luận khác.
Dựa vào xuất xứ của chứng cứ (lấy từ nguồn nào, do đâu phản ánh) để phân thành chứng cứ gốc, chứng cứ sao chép lại thuật lại.
Chứng cứ gốc là chứng cứ được rút ra từ nơi phản ánh đầu tiên của nó mà không thông qua một khâu trung gian nào. Nguyên tắc trực tiếp đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải thu thập thông tin về tình tiết vụ án từ nguồn gốc đầu tiên của nó. Vì vậy, chứng cứ gốc có giá trị chứng minh cao hơn. Hiệu lực chứng minh giảm dần khi khâu trung gian tăng lên. Điều này đòi hỏi thu thập chứng cứ càng gần nguồn gốc càng tốt. Ví dụ khi trong trường hợp NguyễnVăn A có hành vi giết người ( giết anh Nguyễn Văn B) lúc đó có mặt anh Lê Văn C, anh C đã theo dõi tất cả các diễn biến của sự việc. Nếu C lúc đó trực tiếp đến trình báo cơ quan công an thì lời khai của C lúc này là chứng cứ gốc. Còn nếu C về kể cho anh Nguyễn Văn D anh D đến cơ quan công an trình báo thì lời khai của D lúc này là chứng cứ thuật lại.
Chứng cứ sao chép lại thuật lại là chứng cứ thu thập không phải là nguồn phản ánh đầu tiên mà thu thập được qua khâu trung gian. Trong một số trường hợp chứng cứ sao chép lại, thuật lại là phương tiện cần thiết cho việc phát hiện các chứng cứ gốc mà thiếu nó rấ khó khăn trong việc làm rõ vụ án. Chứng cứ sao chép lại, thuật lại là phương tiện để kiểm tra chứng cứ gốc. Nếu chứng cứ gốc bị mất thì chứng cứ sao chép lại, thuật lại có thể thay thế được.
Nếu chứng cứ là vật chứng thì không coi chứng cứ sao chép lại hay thuật lại.
Dựa vào mối quan hệ của chứng cứ với đối tượng buộc tội để phân thành chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
Chứng cứ buộc tội là chứng cứ chứng minh trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo hoặc những tình tiết tăng nặng trách nhiệm của họ.
Chứng cứ gỡ tội là chứng cứ xác định không có sự việc phạm tội chứng minh bị can, bị cáo không có tội hoặc xác định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ.
Việc phân thành chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội chỉ mang tính chất tương đối. Về bản chất thì không có chứng cứ buộc tội nào gỡ tội mà tuỳ thuộc vào hướng sử dụng của nó. " Việc phân chia thành chứng cứ buộc tội và gỡ tội là có tính cách giả định cực đoan và nói lên phương hướng sử dụng hay đánh giá chứng cứ đó thì đúng hơn là nói lên bản chất của chúng.
Bản thân một chứng cứ có thể khai thác ở khía cạnh này là buộc tội nhưng nhìn ở góc độ khác là gỡ tội. Trong quá trình chứng minh lúc đầu là chứng cứ buộc tội sau có thể chuyển hoá thành chứng cứ gỡ tội hoặc ngược lại. Cùng một chứng cứ có thể chứng minh buộc tội bị can, bị cáo này nhưng lại gỡ tội cho người khác. Có chứng cứ không thuộc loại buộc tội và cũng không thuộc loại gỡ tội. Trong một vụ án ma tuý khi cơ quan điều tra thu thập chứng cứ và xác định đó là ma tuý xác định là có tội, thì không thể chuyển hoá thành vô tội được. Bởi vậy, khi đánh giá chứng cứ phải đánh giá một cách tổng hợp chứng cứ đã thu thập được trong vụ án.
III. Nhận thức chung về vấn đề đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý.
Muốn chứng minh sự thật khách quan của một vụ án hình sự về ma tuý thì cần phải đánh giá chứng cứ một cách chính xác, khách quan trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý, để đánh giá chứng cứ thì cần phải thực hiện một cách liên tục, kế tiếp, xen kẽ và phải tuân theo các bước sau:
Phát hiện, thu thập chứng cứ trong vụ án về ma tuý.
Kiểm tra chứng cứ trong vụ án về ma tuý
Đánh giá chứng cứ trong vụ án ma tuý
1. Phát hiện và thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự về ma tuý
Phát hiện chứng cứ là tìm những vật hiện tượng, dấu vết, sự kiện, tài liệu... có thể chứng minh những tình tiết của vụ án. Có thể phát hiện thông qua lời tình báo hoặc đơn tố giác của biết việc, tin báo của các cơ quan, các tổ chức xã hội như cơ quan y tế, cơ quan quản lý thuốc tân dược, toà án Viện Kiểm sát và các hồ sơ ban đầu của cơ quan hải quan bộ độ biên phòng, từ cơ sở đặc tính, bí mật hồ sơ lưu trữ, tin báo của cơ quan đơn vị công an như cảnh sát quản lý hành chính, cảnh sát kinh tế, an ninh kinh tế, cảnh sát giao thông....
Đây là một giai đoạn mở đầu có vai trò quan trọng mở ra khả năng giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự ma tuý.
Để phát hiện chứng cứ, điều tra viên cần phải nắm vững quy luật của hình sự, luật tố tụng hình sự và quy định pháp luật có liên quan, nắm vững khoa học điều tra hình sự, sử dụng đồng bộ các biện pháp phù hợp với tình hình vụ án hình sự.
Thu thập chứng cứ là bước đầu tiên quan trọng sau khi phát hiện ra chứng cứ ma tuý. Thu thập chứng cứ phải được tiến hành một cách khách quan toàn diện không bỏ sót chứng cứ không thu dữ tràn lan mà phải đúng thẩm quyền, đúng thời hạn và đúng trình tự thủ tục luật định.
Thu thập chứng cứ là việc người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để ghi nhận và thu giữ chứng cứ làm cho nó có đủ giá trị chứng minh và hiệu lực sử dụng.
Công tác thu thập chứng cứ thường tập trung chủ yếu vào giao đoạn điều tra vụ án. Theo điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự quy định " để thu thập chứng cứ, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình baỳ về những vấn đề có liên quan đến vụ án từng câu giám định, tiến hành khám sét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của bộ luật này; yêu cầu các cơ quan tổ chức và các cá nhân cung cấp tài liệu, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án".
Ngoài ra theo quy định tại điều 57 Bộ Luật Tố Tụng hình Sự quy định: " vật chứng cần được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa hồ sơ vụ án.
Trong trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh để đưa vào hồ sơ và vật chứng được niêm phong và bảo quản".
Cơ sở pháp lý để xác định những biện pháp, phương tiện để có thể áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ trong vụ án về ma tuý là điều 11, điều 49, điều 57 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự đã nêu trên và điều 21, điều 22, điều 24 pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định về nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan điều tra, thủ tướng, phó thủ tướng, cơ quan điều tra, điều tra viên. Trong đó có quyền áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự trong qua trình điều tra.
Thông thường cơ sở để thu thập chứng cứ được dựa trên những phát hiện điều tra mà về tội phạm ma tuý như phương thức thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm ma tuý ( phương thức thủ đoạn hoạt động của tội phạm hình sự ma tuý được phân tích tại điều 4.2.2 chương I đề tài này).
2. Kiểm tra chứng cứ trong vụ án hình sự về ma tuý.
Kiểm tra chứng cứ là xác định xem chứng cứ thu được có đảm bảo đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ hay không. Việc kiểm tra chứng cứ được tiến hành trong các giai đoạn điều tra và xét xử.
Công tác kiểm tra chứng cứ được xem như là một giai đoạn quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ nói riêng và trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung, tránh sự kiểm tra chứng cứ một cách hời hợt, thiếu khách quan làm cho việc đánh giá chứng cứ sai lầm, không phản ánh đúng hiện thực khách quan, ảnh hưởng tới quá trình giải quyết vụ án một cách thiếu chính xác, làm oan người vô tội và để lọt kẻ phạm tội, bởi vậy không được coi nhẹ công tác này trước khi đi vào đánh giá chứng cứ.
Kiểm tra chứng cứ xoay quanh việc làm rõ các thuộc tính của chứng cứ. Việc kiểm tra chứng cứ, chú ý đến đặc điểm của từng loại: chứng cứ, nguồn chứng cứ, đặc điểm của từng loại biện pháp thu thập....
Tại điều 50 Bộ Luật Tố Tụng hình sự quy định " Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần và trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án"
Như Lê nin đã nói " Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối quan hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn và đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta phạm phải những sai lầm và cứng nhắc.
Trang 218; Lênin toàn tập, tập 29 NXB Tiến Bộ 1981
Vấn đề này cố bộ trưởng Trần Quốc Hoàn đã nhấn mạnh: " Điều tra kỹ càng, tỉ mỉ nhất là tìm ra được những chứng cứ xác thực là cần thiết và quan trọng. Mục đích của chúng ta là làm rõ sự thật. Trong khi tìm hiểu sự thật thì không những phải thu thập tài liệu chứng tỏ có phạm tội mà còn phải thu thập những tài liệu chứng cứ chứng tỏ không có tội phạm nữa".
Trần Quốc Hoàn: Một số vấn đề về điều tra chống phản cách mạng
Việc Nghiên cứu Khoa học Bộ Công An (Hà Nội, 1975 trang 16).
Về phương pháp kiểm tra chứng cứ rất phong phú, nhưng chứng ta chỉ sử dụng các phương pháp kiểm tra chứng cứ như; phương pháp nghiên cứu từng chứng cứ, phương pháp so sánh đối chiếu giữa các chứng cứ đã thu thập, được với nhau phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, tìm chứng cứ mới để làm sáng tỏ những chứng cứ đã thu thập...
3. Đánh giá chứng cứ trong vụ án.
Đánh giá là một khâu vô cùng quan trọng, khi chứng cứ đã được kiểm tra xem xét thì đánh giá chứng cứ có tác dụng xác minh giá trị chứng minh của các chứng cứ đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách khách quan sẽ là cơ sở cho quá trình giải quyết vụ án được thuận lợi, không làm oan người vô tội, không để lọt kẻ phạm tội....
3.1. Khái niệm đánh giá chứng cứ trong vụ án ma tuý.
Khi xem xét về cách đánh giá chứng cứ thì có rất nhiều quan điểm khác nhau. Học thuyết giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét việc đánh giá chứng cứ là một bộ phận của quá trình nhận thức vì nó phụ thuộc vào mối quan hệ của con người với các hiện tượng, sự vật trong thế giới thực hiện những nhu cầu thực tế của con người. Do đó việc đánh giá các sự vật hiện tượng chính là để xác định ý nghĩa của chúng đối với hoạt động của con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Tr._.luật và cơ quan phòng chống ma tuý, hình thành các băng Mafia ở Việt Nam. Đặc biệt là tội phạm về ma tuý luôn phòng bị vũ khí nóng và sẵn sàng chống trả lại cơ quan chức năng khi bị phát hiện. Bởi vậy đây là một cuộc chiến rất quyết liệt trên mặt trận đấu tranh chống ma tuý của cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan phòng chống ma tuý.
Cùng với sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng tài chính ngày càng chặt chẽ. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nơi thuận lợi để bọn tội phạm ma tuý thông qua các hoạt động ngân hàng và đầu tư kinh tế để tẩy rửa tiền thu được từ phạm tội về ma tuý.
- Địa bàn hoạt động của đối tượng
Tội phạm ma tuý diễn ra phức tạp, trọng điểm nhất là thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An và các tỉnh biên giới nhất là Lai Châu, Sơn La, Lạng Sơn, Nghệ An, Tây Ninh vv… Và các khu công nghiệp. Hoạt động vận chuyển, mua bán ma tuý qua đường biển và đường hàng không, đường sắt sẽ tăng lên nhanh chóng. Các đối tượng phạm tội là người nước ngoài ngày càng nhiều.
- Tệ nạn nghiện ma tuý
Trong những năm vừa qua thì tệ nạn nghiện ma tuý vẫn tăng nhưng với mức độ chậm. Nhưng theo tốc độ gia tăng của tội phạm ma tuý ngày càng nhiều thì tronng những năm tới tệ nạn nghiện hút sẽ tăng nhanh, và sẽ xâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống, mọi lứa tuổi từ trẻ tới già, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên và nagày càng xuất hiện tình trạng trẻ em hoá đối tượng nghiện ma tuý
2) Một số yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao hiệu quả thu thập đánh giá chứng cứ trong các vụ án hình sự về ma tuý.
Thu thập, đánh giá chứng cứ là những hoạt động khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý, nhưng nó luôn là một thể thống nhất phải được tiến hành một cách nhanh chóng va kịp thời nhằm phát hiện mọi hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm về ma tuý
Quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ phải đảm bảo khách quan toàn diện, đầy đủ, kịp thời nhằm phát hiện chính xác sự thật của vụ án, tạo cơ sở vững chắc cho việc xử lý tội phạm ma tuý trước pháp luật khônglàm oan người vô tội, không để lọt kẻ tội phạm.
Thu thập, đánh giá chứng cứ trong vụ án ma tuý phải được tiến hành nghiêm chỉnh đúng theo quy định của hiến pháp , pháp luật vì vậy yêu cầu những người tham gia tố tụng phải nắm chắc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước chỉ thị của ngành trong đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý, quán triệt tinh thần nghị quyết trung ương 3 khoá VIII " các cơ quan tư pháp phải mẫu mực của việc tuân thủ hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện tính công lý, tính dân chủ, công khai trong hoạt động."
Do tình hình diễn biến của tội phạm ma tuý trong những năm tới sẽ hết sức phức tạo, việc đánh giá chứng cứ sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Nếu không nắm vững được kiến thức về đánh giá chứng cứ, khả năng nhận biết các chất ma túy, khả năng, năng lực công tác kém thì người tham gia tố tụng sẽ có nhiều thiếu sót , thậm chí là sai lầm trong quá trình đánh gia chứng cứ của vụ án hình sự ma tuý. Bởi vậy khi đánh giá chứng cứ trong giải quyết vụ án hình sự về ma tuý cần giải quyết tốt vấn đề sau.
Tăng cường công tác nghiên cứu để hoàn thiện lý luận về phương pháp, biện pháp và phương tiện mở rộng khả năng thu thập đánh giá chứng cứ
Từng bước hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến chứng cứ, hoạt động thu thập đánh giá chứng cứ trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý.
Về mặt thực tiễn, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý
Nâng cao trình độ pháp lý, nghiệp vụ và rèn luyện kỹ năng kỹ sảo của những người tiến hành tố tụng trong việc đánh giá chứng cứ đồng thời phải tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho họ nhất là đạo đức nghề nghiệp, lương tâm và trách nhiệm về công việc được giao.
Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân, nhất là pháp luật hình sự và sự tố tụng hình sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân trong đấu tanh phòng chống tội phạm.
II) Những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý
1) Những yêu cầu trong đánh giá chứng cứ
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý vấn đề đánh giá chứng cứ luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là cơ sở để xác định sự thật của vụ án hình sự về ma tuý. Bởi vậy trong quá trình đánh giá chứng cứ cần đảm bảo những yêu cầu sau
1.1) Tính liên quan, sự tin cậy và sự đầy đủ của chứng cứ.
Để chứng cứ có giá trị chứng minh thì chứng cứ được thu thập từ vụ án liên quan đến việc xác định một tình tiết nào đó của vụ án hình sự ma túy, khẳng định hay bác bỏ một sự kiện nào đó cần tìm.
Khi xác định được tính liên quan của chứng cứ thì người tiến hành tố tụng phải đưa ra kết luận về sự kiện nào đó được khẳng định hay bác bỏ bởi chứng cứ vừa được đánh giá. Tuy nhiên, đây là vấn đề không đơn giản. Trong trường hợp chứng cứ được đánh giá là chứng cứ trực tiếp thì việc xác định tính liên quan trở nên dễ dàng hơn vì chứng cứ trực tiếp nhìn nhận thẳng ra vấn đề cần chứng minh.Trong trường hợp chứng cứ được đánh giá là chứng cứ gián tiếp thì việc xác định tính liên quan trở nên phức tạp hơn vì nó không chỉ ngay ra được đối tượng cần tìm, mà nó thôngqua một vật trung gian nào đó, đây có khi là cơ sở mọi suy đoán tính liên quan của vụ án.Hơn nữa mối quan hệ của chứng cứ gián tiếp riêng biệt với đối tượng cần tìm đôi khi rất khó nhận ra.Cho nên nó đòi hỏi cần phải có kinh nghiệm nghề nghiệp và khả năng nhận biết để có thể phát hiện và đưa ra suy đoán có cơ sở về tính liên quan của chứng cứ gián tiếp.
Khi xác định tính đúng đắn của một suy đoán nào đó về tính liên quan của chứng cứ đang cần xem xét cần đòi hỏi sự đối chiếu chứng cứ với nhau và đối với các tình tiết cụ thể của vụ án đang giải quyết.Nếu trong quá trình nghiên cứu các tình tiết của vụ án mà một sự kiện nào đó không có cơ sở để chứng tỏ nó có mối liên hệ với đối tượng cần chứng minh thì vấn đề tính liên quan của chứng cứ xác định sự kiện này cũng đương nhiên bị bác bỏ và việc đánh giá chứng cứ đó cũng kết thúc và nếu một sự kiện nào đó có cơ sỏ để khẳng định rằng có mối liên hệ với vụ án thì việc đánh giá chứng cứ có liên quan đến sự kiện này sẽ được tiếp tục.
Bất kỳ một chứng cứ nào có liên quan đến vụ án hình sự về ma tuý đều phải đảm bảo sự tin cậy, bởi lẽ sự tin cậy sẽ là cơ sở của mọi kết luận của vụ án. Khi đánh giá chứng cứ thì sự tin cậy một chứng cứ giúp cho những người tiến hành tố tụng sẽ đánh giá một cách khách quan và chính xác hơn, chứng cứ phải đảm bảo sự tin cậy thì kết luận của toà án sẽ được chính xác, tránh được những thiếu sót trong kết luận của vụ án. Do đó, thực tiễn giải quyết vụ án về ma tuý, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xem xét tính đúng đắn của từng chứng cứ đã thu thập được từ những nguồn khác nhau…và để thực hiện tốt vấn đề này, cơ quan tiến hành tố tụng phải kiểm tra chứng cứ về mặt nội dung thông tin trong từng chứng cứ, kiểm tra một cách chi tiết mỗi sự kiện xảy ra trong từng hiện thực đời sống luôn luôn có mối quan hệ với các hiện tượng, đối tượng khác đã xảy ra trong đó. Mỗi sự kiện hiện tượng có thể là nguyên nhân hay kết quả của một sự kiện hiện tượng khác vì chúng luôn luôn có mối quan hệ về mặt không gian và thời gian. Từ đó đã tạo ra khả năng cho phép người đánh giá chứng cứ có kinh nghiệm có thể thấy ngay sự phù hợp, tính lôgic nào đó mà người ta thường gọi là " sự vật lôgic" hoặc " lôgic các sự kiện".
Những biện pháp, phương tiện đảm bảo độ tin cậy khi thu thập, đánh giá chứng cứ.
Vận dụng quan điểm của phép biện chứng vào đánh giá chứng cứ đòi hỏi những người tiến hành tố tụng không chỉ đánh giá chứng cứ với tính cách là kết qủa của các biện pháp tố tụng thu thập, đánh giá chứng cứ. Nếu các biện pháp phương tiện ấy không đảm bảo độ tin cây, thiếu cơ sở khoa học thì những thông tin thu thập được không có giá trị chứng minh. Trong vụ án hình sự về ma tuý nếu phương pháp giám định chất ma tuý không có độ tin cậy thì những tình tiết trong nội dung kết luận giám định bằng phương pháp đó sẽ không tránh khỏi những nghi ngờ và không thể coi là chứng cứ.
Sự đầy đủ của chứng cứ:
Chứng cứ thu thập được từ hiện trường vụ án luôn đảm bảo tính đầy đủ, ngoài những thuộc tính trên thì yêu cầu về sự đầy đủ là rất cần thiết, nếu chứng cứ không đầy đủ thì việc đánh giá chứng cứ và kết luận vụ án sẽ không chính xác dẫn đến việc xét xử sai lệch sẽ để lọt kẻ phạm tôi và nhiều khi xử oan người vô tội. Chứng cứ thu thập được đầy đủ hay không đầy đủ là cơ sở để ra kết luận dứt khoát và đầy đủ tất cả các vấn đề của vụ án và không có lý do để nghi ngờ tính đúng đắn của các kết luận đó. Tuy nhiên, các chứng cứ thu thập được chỉ cho phép kết luận về một vài khía cạnh khác của vụ án như có sự kiện phạm tội xảy ra, hậu quả của hành vi phạm tội. Song để kết luận về lỗi động cơ của bị can thì chúng chưa có thể đáp ứng được. Trong trường hợp này đã phát sinh sự cần thiết phải tiếp tục tiến hành các hoạt động điều tra bổ xung để thu thập các chứng cứ khác cho thấy đầy đủ có cơ sở làm rõ mọi tình tiết của vụ án và làm tan biến tất cả sự nghi ngờ về các kết luận của cơ quan tiến hành tố tụng đối với vụ án.
1.2 ) Tính chính xác, sự tuân thủ các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định trong việc thu thập chứng cứ
Trong bất kỳ một giai đoạn nào của quá trình tố tụng, tính chính xác luôn là yếu tố quan trọng. Quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ luôn,phải đảm bảo tính chính xác, nếu thiếu tính chính xác thì việc đánh giá chứng cứ sẽ không chính xác và kết luận của vụ án sẽ hoàn toàn sai lệch có thể gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Thu thập chứng cứ chính xác thì chứng cứ sẽ có độ tin cậy cao, giá trị chứng minh của chứng cứ sẽ cao. Trong vụ án hình sự về ma tuý vấn đề chính xác rất quan trọng, khi thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ cũng phải chính xác. Vật chứng thu được trong các vụ án buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma tuý phải là chất ma tuý và các công cụ, vật chứng khác có liên quan. Có khi việc phát hiện thu thập chứng cứ rất lôgic, đảm bảo đầy đủ mọi thủ tục và thuộc tính của chứng cứ, nhưng khi giám định lại thì vật chứng thu được không phải là ma tuý mà là các chất khác. Thể hiện khả năng nhận biết, đánh giá trình độ non kém của những người tiến hành tố tụng, thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Bởi vậy đòi hỏi các cơ quan chức năng cần quán triệt chặt chẽ vấn đề thu thập, đánh giá chứng cứ của những người tiến hành tố tụng để tránh những sai lầm không đáng có xảy ra.
Nếu trong quá trình đánh giá chứng cứ phát hiện được rằng việc thu thập chứng cứ không tuân thủ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hoặc vi phạm pháp luật trong khi tiến hành các hoạt động thu thập đánh giá chứng cứ thì đó chính là căn cứ để kết luận tính không hợp pháp của chứng cứ hoặc tạo ra sự nghi ngờ về độ tin cậy của chứng cứ.
2) Những biện pháp mở rộng khả năng đánh giá chứng cứ.
Biện pháp thứ nhất: Chi tiết hoá lời khai. Đây là một trong các biện pháp được sử dụng rộng rãi, được thể hiện là khi lấy lời khai của một người nào đó cần đặt ra các câu hỏi rõ ràng, cụ thể, người khác đưa ra lời khai tỉ mỉ và chi tiết hơn. Kèm theo đó cần làm rõ các mối quan hệ khác nhau của sự kiện cần tìm với các sự kiện phụ mà chúng đã xác định. Nếu lời khai mà gian dối thì khi hỏi càng chi tiết thì lời khai đó càng bộc lộ mâu thuẫn lôgic với thực tế khách quan.
Biện pháp thứ hai: Đối chiếu, so sánh.Khi phát hiện được chứng cứ khác để đối chiếu chứng cứ với nhau, với các tài liệu đã có về vụ án. Việc phát hiện chứng cứ mới không thể khẳng định ngay được tính đúng đắn của các tài liệu đã có, vấn đề là ở chỗ tài liệu thu thập được từ các nguồn khác nhau có thể phù hợp với nhau, không chỉ từ nguyên nhân khách quan của chúng mà còn từ nguyên nhân chủ quan, chẳng hạn người làm chứng và bị can có thể đưa ra lời khai gian dối giống nhau hoặc kết luận giám định không đúng do giám định viên đưa ra có thể phù hợp với lời khai gian dối của bị can và người làm chứng, hoặc điều tra viên khi thu thập chứng cứ có thể làm lệch đi với thực tế, như làm giấy tờ giả mạo, làm sai biên bản vi phạm quả tang để phù hợp với vật chứng giả. Do vậy, khi xác định sự phù hợp giữa các tài liệu của vụ án với tính cách là dấu hiệu và sự tin cậy của chúng thì phải xem xét các nguyên nhân có thể dẫn đến sự phù hợp đó trong sự nghiên cứu tỉ mỉ và toàn diện đối với từng chứng cứ cũng như tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được. Chẳng hạn đối với lời khai người làm chứng phải xem xét tính cụ thể, tính ổn định, tính chính xác, tính không mâu thuẫn với các tình tiết trong lời khai đó và sự phù hợp của chúng với các chứng cứ khác.Ngoài ra còn cần phải chú ý đến vị trí của từng người làm chứng trong vụ án, có hay không có yếu tố ảnh hưởng đến sự khai báo đúng đắn, giả dối hay nhầm lẫn của người làm chứng, đánh giá lời khai của bị can phải chú ý tới có hay không có những mâu thuẫn và mối liên hệ của các mâu thuẫn ấy với các tài liệu khác của các vụ án, động cơ khai báo trên cơ sở này và giả định việc khai báo của bị can là trung thực hay gian dối, các tài liệu khác là đúng hay bị giả mạo, để đánh giá đúng đắn một kết luận giám định cần phải xuất phải từ trình độ học vấn của giám định viên, sự chính xác của phương tiện áp dụng trong nghiên cứu, tính đầy đủ của tài liệu mà giám định viên sử dụng để đưa ra kết luận có tính căn cứ, tính phù hợp với chứng cứ khác, tính lôgic trong lập luận của giám định viên và sự tuân thủ bảo đảm tố tụng của giám định viên trong quá trình tố tụng, để giải quyết vấn đề về độ tin cậy của các tình tiết trong tài liệu viết, cần phải xem xét việc có hay không sự sao chép có phù hợp với bản gốc ( nếu là bản sao) xem xét có hay không có những mâu thuẫn giữa các tình tiết trong chính tài liệu đó và sự phù hợp của chúng với các chứng cứ khác để xác định được về vụ án. Để tránh mắc sai lầm trong đánh giá chứng cứ, cần phải xem xét chứng cứ có còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi hay giả mạo.
Vai trò của lôgic và tâm lý trong đánh giá chứng cứ:
Lôgic học có vai trò rất quan trọng trong đánh giá chứng, đánh giá chứng cứ là một quá trình tư duy lôgic nhằm xác định giá trị chứng minh của các chứng cứ trong hệ thống chứng cứ. Các quy luật, hình thức từ tư duy mà lôgic học nghiên cứu là sự phản ánh khách quan phản ánh vào trong ý thức con người được khẳng định triệu triệu lần qua hoạt động thực tiễn hàng ngày của con người cà chúng trở nên có ý nghĩa như một định lý. Do đó, các quy luật và hình thức của tư duy rất có ý nghĩa với việc xây dựng các giả thiết về vụ án cũng như trong việc lập luận các kết luận của vụ án. Phép biện chứng đã dạy rằng: Nếu như những tiền đề chúng ta sử dụng là tin cậy và nếu như chúng ta áp dụng một cách đúng đắn các quy luật của tư duy đối với các tiền đề đó thì kết quả đạt được sẽ phù hợp với hiện thực.
Các quy luật lôgic như quy luật đồng nhất, mâu thuẫn không có cái thứ ba va quy luật lý do đầy đủ đã cho phép khắc phục tính mâu thuẫn, tính không hợp lý của tư duy mở ra khả năng xác định này hay khác về vụ án là hiện thực. Các quy luật này đóng vai trò như là một chiếc máy lọc để loại trừ tất cả những gì không thể chấp nhận được ra khỏi tư duy hợp lý của con người.
Quy luật đồng nhất là quy luật đòi hỏi mỗi ý nghĩ của con người về một sự vật nào đó, khi được lặp lại trong cùng một quá trình suy luận phải giữ nguyên nội dung mang tính ổn định. Vận dụng quy luật này vào đánh giá chứng cứ có ý nghĩa rằng: Tư duy của con người phải mang tính chính xác định, ổn định trên cơ sở đánh giá chứng cứ bền vững của nó trong suốt thời gian nghiên cứu.
Quy luật mâu thuẫn nói lên rằng, nếu sự vật dng là chính nó thì trong cùng một khoảng thời gian và không gian đang xét trong cùng một mối quan hệ nhất định không được gán cho sự vật đang nghiên cứu 2 thuộc tính phủ định nhau. Vận dụng quy luật này trong đánh giá chứng cứ, trong cùng một điều kiện mà phán đoán này thì khẳng định, phán đoán kia thì phủ định chính điều kiện khẳng định đó thì chúng không đồng thời cùng chúng.
Quy luật không có cái cái thứ ba: Một sự vật A mà không phải là A chứ không phải là một cái thứ ba. Nội dung quy luật này là trong cùng một điều kiện về không gian và thời gian cùng một mối quan hệ nhất định chỉ tồn tại một sự vật A, hoặc không tồn tại sự vật A. Hai phán đoán này không thể cùng đúng cũng không thể cùng sai, mà một trong hai phán đoán đó nhất thiết phải đúng không tuyệt nhiên, không phụ thuộc vào cái thứ ba nào khác. Vận dụng quy luật này trong đánh giá chứng cứ đang được đánh giá chỉ có thể là đúng tức là phù hợp với thực tế hoặc là chỉ có thể là sai, tức là không phù hợp với thực tế cần bác bỏ.
Quy luật lý do đầy đủ, nói lên tính có căn cứ, tính được chứng minh của tư duy. Theo quy luật này thì mọi suy luận và kết luận của con người về những sự vật, hiện tượng nào đó chỉ có thể được coi là đúng khi nó được dựa trên luận đề đã được chứng minh, những luận đề này phải đầy đủ, xác đáng và không mâu thuẫn với những tiêu đề đã được xác lập ban đầu. Quy luật này có ý nghĩa quan trọng đối với việc đánh giá chứng cứ gián tiếp và đánh giá tính đầy đủ của chứng cứ để làm rõ sự thật của vụ án.
Trong quá trình chứng minh thường xuyên xuất hiện sự qua lại phức tạp của các yếu tố tâm lý của những chủ thể khác nhau với chủ thể bên ngoài. Chẳng hạn các yếu tố xã hội, nghề nghiệp và phẩm chất của người đánh giá chứng cứ có ảnh hưởng nhất định đến sự chú ý sâu sắc và lòng kiên trì quyết tâm theo đến cùng mục đích chứng minh của vụ án. Để đánh giá đúng lời khai của bị can, đòi hỏi người đánh giá chứng cứ phải nắm vững các quy luật tâm lý trong việc hình thành lưu giữ và việc đưa ra lời khai của họ.
Ngoài ra người đánh giá chứng cứ khi tiếp xúc với những mặt trái của xã hội( điều hung ác, tham lam, ích kỷ) của kẻ phạm tội thì không nên bị xúc động mà phải đứng trên cơ sở đánh giá thận trọng, khoa học làm rõ bản chất của sự việc để không phạm phải những sai lầm trong việc đưa ra kết luận.
3) Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng chống tội phạm và các quy định của pháp luật liên quan đến chứng cứ, hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ.
"Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ tổ quốc, thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân"( Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam) do đó hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời gian tới là một nhu cầu rất đúng đắn.
3.1) Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tội phạm ma tuý.
Hiện nay tội phạm ma tuý đang có xu hướng ngày càng phức tạp, với nền khoa học ngày càng phát triển, tình hình chính trị trên thế giới đang có những rối ren. Tội phạm về ma tuý chúng luôn tìm mọi cách để đưa ma tuý vào các thị trường trên thế giới, với việc áp dụng những thành tựu khoa học mới vào trong việc buôn bán, vận chuyển , tàng trữ các chất ma tuý, chúng tìm mọi cách để che dấu các cơ quan chức năng về phòng chống tội phạm ma tuý. Bởi vậy công việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống tội phạm ma tuý là hết sức quan trọng cần thiết trong tình hình hiện nay.
Tội phạm ma tuý hiện nay đang có xu hướng quốc tế hóa, bọn tội phạm ma tuý trong nước có sự móc nối với tội phạm ma tuý nước ngoài. Chúng thành lập những đường dây, tổ chức buôn bán xuyên quốc gia. Trong khi đó đường biên giới ở Việt Nam nhiều nơi chưa phân định được. Vì sự nghiệp bảo vệ An Ninh Quốc Gia cũng như chống tội phạm trong đó có tội phạm về ma tuý. Bởi vậy Đảng và Nhà nước cần sớm ký các hiệp định về bảo vệ đường biên giới đồng thời nên có các quy định, các văn bản dưới luật về phòng chống tội phạm tại các biên giới. Tăng cường củng cố nâng cao trình độ nghiệp vụ trong phòng chống tội phạm về ma tuý cho các cán bộ, chiến sĩ đóng tại các biên giới xa xôi ( Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển ) nên có những chính sách ưu tiên về kinh tế và các vấn đề khác để tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ trực tiếp chiến đấu tại các biên giới để cho họ yên tâm công tác, hoàn thành tôt nhiệm vụ phòng chống ma tuý. Hiện nay do sự thiếu thốn về kinh tế của gia đình cán bộ chiến sĩ tại biên giới, sự thiếu thốn tình cảm đã đi vào con đường vi phạm pháp luật, tha hoá về đạo đức.
Bên cạnh đó nạn rửa tiền của bọn tội phạm ma tuý cũng diễn ra rất phức tạp và ngày càng phổ biến , bởi vậy dưới mắt Đảng và Nhà nước nên có những văn bản dưới luật quy định chặt chẽ về vấn đề tẩy rửa tiền lại các ngân hàng tăng cường khả năng nhận thức cho các cán bộ, công nhân viên chức tại các ngân hàng có trình độ , thấu hiểu pháp luật , để phục vụ cho các hoạt động điều tra - truy tố xét xử các tội phạm về ma tuý và tội phạm mới.
Nghị quyết của bộ chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm, chương trình hành động chống ma tuý của chính phủ là những chủ trương giải pháp của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân đi vào đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm hiến pháp, pháp luật để nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi tập thể và mỗi công dân.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp lệnh cho nhân dân hiểu rõ tác hại của ma tuý. Vận dụng kế hoạch giáo dục tuyên truyền phòng chống ma tuý phù hợp với từng đối tượng, từng địa phương. Cần nghiên cứu soạn thảo tài liệu " Những vấn đề cơ bản về công tác ?????", để phổ biến rộng rãi cho nhân dân.
Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ các lực lượng công an, lực lượng bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, hải quan,toà án trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma tuý.
Đảng và Nhà nước cần có những quy định rõ ràng hơn để tăng cường sự phối kết hợp giữa công an, viện kiểm sát, Toà án. Viện kiểm sát tăng cường giám sát điều tra ngay từ đầu các vụ án về ma tuý để thống nhất việc đánh giá và sử dụng chứng cứ, tài liệu do các tài liệu trinh sát,cơ sở bí mật chưa được luật hoá, nên việc phối hợp giữa các ngành đào tạo sự thống nhất trong đường lối xử lý. Cần áp dụng nhiều hơn việc xét xử theo thủ tục án rút ngắn để răn đe và phòng ngừa chung.
3.2) Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến chứng cứ, thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ.
Như đã trình bày ở phần lý luận chung về chứng cứ. Nhưng trong các vụ án về ma tuý có đặc điểm riêng về khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm. Thủ đoạn che dấu của bọn tội phạm ma tuý có nhiều điều đặc thù . Do vậy mà chứng cứ thu thập được cũng gặp nhiều bất cập, vì vậy cần sớm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến chứng cứ thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ theo một số điểm sau:
3.2.1) Cần tiếp tục nghiên cứu để làm rõ khái niệm về chứng cứ và nguồn gốc chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án về ma tuý.
Như những quy định tại điều 48 - Bộ luật tố tụng hình sự quy định chứng cứ là những gì có thật. Nhưng có quan điểm cho rằng chứng cứ là những tài liẹu xác thực, thông tin xác thực…
Theo quan điểm của chúng tôi thì: Chứng cứ là những thông tin xác thực được thu thập theo trình tự tố tụng hình sự mà cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án chứng cứ thực chất là những thông tin mang tính khách quan,tính liên quan và tính hợp pháp.
Cùng với khái niệm về chứng cứ thì theo điều 8 - Bộ luật tố tụng hình sự còn liệt kê về nguồn chứng cứ là: " Các tài liệu khác" thì quy định này là chưa rõ ràng. Điều này có nghĩa là ngoài nguồn chứng cứ được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự còn nguồn nào khác nữa ?
Do vậy mà cần tiêp tục nghiên cứu hệ thống các nguồn chứng cứ và đặc điểm của từng chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án hình sự về ma tuý nói riêng.
3.2.2) Cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ khái niệm và đặc trưng của hệ thống chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý.
Cần nghiên cứu rõ hệ thống chứng cứ và đặc điểm của hệ thống chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về ma tuý nói chung và việc giải quyết từng vụ án ma tuý cụ thể như: tàng trữ, buôn bán, sản xuất và sử dụng trái phép chất ma tuý…Đặc biệt cần nghiên cứu làm rõ một cách đầy đủ đặc điểm của từng loại chứng cứ và mối liên hệ giữa hệ thống chứng cứ với từng chứng cứ đó.
3.2.3. Tiếp tục tổng kết lý luận và thực tiễn nghiên cứu, hoàn thiện hơn lý luận về thu thập, kiểm tra đánh giá và sử dụng chứng cứ trong các vụ án hình sự về ma tuý.
Trong thực tiễn không thiếu những trường hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng có sự bất đồng với nhau trong qúa trình đánh giá chứng cứ điều này dẫn đến các quan điểm khác nhau đối với việc xử lý vụ án,hoặc cho tội nhẹ, chuyển tội danh. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trong lý luận chưa làm rõ bản chất của quá trình kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án về ma tuý nói riêng.Do vậy mà cần phải làm rõ bản chất của quá trình thu thập kiểm tra và đánh giá chứng cứ trong các vụ án hình sự về ma tuý.
Ngoài ra hoàn thiện hệ thống pháp luật còn phải đảm bảo yêu cầu sau:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm theo hướng đảm bảo tối đa những điều kiện để quần chúng nhân dân tham gia rộng rãi, tích cực và có hiệu quả vào sự nghiệp quản lý nhà nước về an ninh trật tự, đấu tranh khắc phục những nguyên nhân xã hội của tội phạm.
Hoàn thiện các hình thức và nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật nói chung, như chú trọng hình thành tư tưởng tình cảm tích cực đối với cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm thu hút sự quan tâm của xã hội và những vấn đề đấu tranh chống tội phạm. Nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, thông qua việc nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tội phạm, trừng trị nghiêm khắc những hành vi xâm phạm trật tự pháp luật và tuyên truyền giới thiệu quần chúng nhân dân về những hậu quả pháp lý đối với người phạm tội, cần nghiêm chỉnh khắc phục khuynh hướng chạy theo lợi nhuận tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng cả phương thức, thủ đoạn tội phạm, hướng dẫn các giải pháp chống lại cơ quan pháp luật , nhiều lúc còn kích động tâm lý phạm tội mới. Đưa pháp luật hình sự, hành chính, những chế tài nhằm răn đe những hành vi tuyên truyền phản tác dụng, phản giáo dục.
Nghiên cứu xây dựng nhiều phong trào quần chúng và nhiều hình thức sinh động để quần chúng tham gia tích cực vào các hoạt động phòng ngừa tội phạm ở cơ sở. Thông qua đó giáo dục công dân tố giác tội phạm , cảm hoá giáo dục người phạm tội ở cộng đồng dân cư.
Hoàn thiện pháp luật và các hoạt động thực tiễn phối hợp quốc tế trong việc phát hiện, ngăn chặn và điều tra khám phá các loại tội phạm ma tuý hoạt động có tổ chức, xuyên quốc gia…
4) Một số kiến nghị
Để thực hiện tốt các giải pháp trên chúng tôi xin kiến nghị:
4.1) Trước hết để ngăn chặn tội phạm ma tuý có hiệu quả cần:
Nhà nước cần có biện pháp cụ thể đầu tư thích đáng thay đổi cơ cấu cây trồng ở một số vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để nhanh chóng thu hẹp và kiểm soát được diện tích trồng cây thuốc phiện.
Tăng cường quản lý, kiểm soát biên giới thật nghiêm ngặt bằng phương tiện nghiệp vụ hiện đại trên tất cả các tuyến giao thông thuỷ, bộ, hàng không…để chặn đứng nguồn ma tuý( nhất là Hêrôin) đưa từ nước ngoài vào.
Bên cạnh việc mở các trung tâm cai nghiện cần tiếp tục mở các chiến dịch truy quét bọn buôn bán , tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý trên cả nước nhằm triệt tiêu những địa chỉ tiêu thụ ma tuý.
4.2) Đối với việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ cần.
Thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ phải đảm bảo đúng nguyên tắc khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ phải tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật quy định.
4.3) Đối với hệ thống pháp luật
Cần đảm bảo ngày càng chặt chẽ về chứng cứ và nguồn chứng cứ. Ngày càng hoàn thiện và mang tính chính xác hơn trong việc quy định về chứng cứ và nguồn chứng cứ để đảm bảo cho việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ ngày càng được nâng cao và đúng quy định.
C - Phần kết luận
Vấn đề đánh giá chứng cứ là một vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình giải quýêt vụ án hình sự nói chung và vụ án hình sự về ma tuý nói riêng, là hoạt động tư duy của người tiến hành tố tụng nhằm xác định giá trị chứng minh của những chứng cứ đã thu thập được, là trách nhiệm của các điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Đánh giá chứng cứ chính xác là một trong những điều kiện để giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án hình sự ma tuý nói riêng đạt kết quả tốt, không xử oan người vô tội, không để lọt tội phạm. Góp phần trong việc đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm về ma tuý giữ gìn an ninh trật tự.
Song thực tế cho thấy, vấn đề đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự nói chung và trong vụ án hình sự về ma tuý nói riêng là một vấn đề hết sức khó khăn bởi vì đánh giá chứng cứ là một yếu tố để xác định giá trị chứng minh của chứng cứ đã thu thập được, nó là hoạt động tư duy của người tiến hành tố tụng. Trong quá trình đánh giá chứng cứ, muốn đạt hiệu quả cao đòi hỏi người đánh giá phải tinh thông về nghiệp vụ , dày dạn về kinh nghiệm đồng thời phải có phẩm chất đạo đức và tư cách nghề nghiệp .Thường xuyên liên tục nắm chắc tình hình hoạt động, phương thức thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm về ma tuý để có biện pháp phát hiện, thu thập chứng cứ kịp thời, đúng quy định của pháp luật.
Đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự về ma tuý nghiên cứu trên cơ sở dự báo về tình hình tội phạm ma tuý ở nước ta vì chỉ trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng về tội phạm ma tuý và việc đánh giá chứng cứ, xem xét kỹ nguyên nhân và đề ra giải pháp đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện. Do vậy đề tài nghiên cứu với mục đích trên.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo cũng như sự góp ý kiến của bạn đọc để chúng tôi hoàn thiện đề tài.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0110.doc